Đất Phật

Trao đổi về y học, võ thuật, văn hóa, phong tục, tín ngưỡng
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
hey
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 255
Tham gia: 16:15, 24/02/11

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi hey »

:) :) :) :) :)
Tập tin đính kèm
4a6442d8_7c4610b8_490512_enlightenment.jpg
4a6442d8_7c4610b8_490512_enlightenment.jpg (91.19 KiB) Đã xem 1055 lần
Được cảm ơn bởi: cloudstrife
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
cloudstrife
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 4206
Tham gia: 20:34, 24/11/10

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi cloudstrife »

Phật Thuyết Tứ Thập Nhị Chương Kinh
Việt dịch: Ban Phiên Dịch Việt Ngữ, Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới, Vạn Phật Thánh Thành


Kinh Tựa
Sau khi Đức Thế-Tôn thành Đạo, Ngài suy nghĩ rằng: "Xa lìa dục vọng, được sự tịch tịnh, là thù-thắng nhất!" Rồi Ngài trụ trong Đại Thiền-định mà hàng phục ma đạo. Tại vườn Lộc-dã, Ngài chuyển Pháp-luân Tứ Đế, độ nhóm năm người của Tôn giả Kiều-Trần-Như đều chứng được Đạo quả. Lại có thầy Tỳ-khưu bày tỏ các chỗ còn nghi ngờ, cầu Phật dạy bảo sự tiến chỉ. Đức Thế-Tôn ban giáo sắc khiến ai nấy đều được khai ngộ. Họ cung kính chắp tay vâng lời, tuân thuận sự chỉ dạy của Đức Thế-Tôn.

Chương 1
Xuất Gia Chứng Quả


Đức Phật dạy: "Những vị từ giả người thân để xuất gia, biết tường tận tâm tánh, thấu hiểu pháp Vô-vi, được gọi là Sa-Môn. Họ thường xuyên hành trì 250 giới, tiến chỉ thanh tịnh, tu hành bốn đạo hạnh chân chánh, nên được thành bậc A-la-hán.

"Các bậc A-la-hán đều có thể phi hành, biến hóa, có thọ mạng lâu dài tới cả khoáng kiếp và làm động trời đất nơi họ an trụ."

"Thứ đến là A-na-hàm. Khi bậc A-na-hàm mạng chung, linh-thần sẽ lên trên cõi thứ mười chín, và chứng được quả-vị A-la-hán."

"Thấp hơn Tư-đà-hàm. Bậc Tư-đà-hàm còn một lần lên và một lần trở lại nữa là đắc quả A-la-hán. Thấp nữa là Tu-đà-hoàn. Bậc Tu-đà-hoàn còn bảy lần sanh và bảy lần tử nữa mới chứng được quả vị A-la-hán. Đoạn trừ ái dục thì cũng như chặt đứt tứ chi, không còn dùng lại nữa."

Chương 2
Trừ Dục Vọng, Dứt Mong Cầu

Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi. Họ trong không sở đắc, ngoài không sở cầu; tâm không ràng buộc nơi Đạo, và cũng chẳng kết nên nghiệp. Họ không nghĩ họ làm, chẳng tu chẳng chứng, không trải qua các quả-vị mà tự nhiên lại cao tột bực. Đó gọi là Đạo!"


Chương 3
Cắt Đứt Ái Dục, Xả Bỏ Lòng Tham


Đức Phật dạy: "Những vị cạo bỏ râu tóc làm bậc Sa-môn, thọ nhận Đạo Pháp, từ bỏ của cải thế gian, khất thực chỉ nhận đủ dùng, giữa ngày ăn một bữa, dưới cội cây nghỉ một đêm, và thận trọng, không cầu mong nhiều hơn. Chính ái dục làm cho con người bị ngu tế vậy!"

Chương 4
Thiện, Ác Phân Minh


Đức Phật dạy: "Chúng sanh lấy mười việc làm điều thiện, cũng lấy mười việc làm điều ác. Những gì là mười? Thân có ba, miệng có bốn, ý có ba. Thân có ba là sát, đạo, dâm. Miệng có bốn là nói hai lưỡi, nói lời ác, nói dối và nói thêu dệt. Ý có ba là đố kî, sân hận và ngu si. Mười việc này không thuận với Thánh Đạo, gọi là Thập Ác Hạnh. Nếu dứt được những việc ấy thì gọi là Thập Thiện Hạnh vậy."


Chương 5
Chuyển Nặng Thành Nhẹ


Đức Phật dạy: "Người có nhiều điều lỗi mà không tự hối, lại khiến tâm kia chợt dứt, thì tội lại dấn vào thân, như nước đổ về biển, lâu dần thành sâu rộng. Nếu người có lỗi tự biết nhận lỗi, đổi ác làm lành, thì tội sẽ tự nhiên tiêu diệt, như bệnh mà được ra mồ hôi, bệnh dần dần thuyên giảm vậy!"


Chương 6
Nhịn Kẻ Ác Và Không Oán Hận


Đức Phật dạy: "Khi kẻ ác nghe các ông làm việc thiện và cố ý đến nhiễu loạn, các ông hãy tự ngăn dứt chứ không nên giận trách. Kẻ mang điều ác đến sẽ phải tự nhận lấy điều ác."

Chương 7
Ở Ác Gặp Ác


Đức Phật dạy: Có người nghe tiếng Phật giữ Đạo và thực hành hạnh đại nhân từ, bèn cố ý đến mắng Phật. Phật làm thinh, chẳng đáp.

Khi người kia mắng xong, Phật hỏi: "Ông lấy lễ đãi người, người kia không nhận; lễ ấy có về lại ông chăng?"

Đáp rằng: "Về lại!"

Phật bảo: "Nay ông mắng Ta nhưng Ta không nhận, ông tự đem họa về thân ông vậy; như vang ứng theo tiếng, như bóng hiện theo hình, cuối cùng vẫn chẳng tránh được. Hãy thận trọng, chớ làm điều ác!'"


Chương 8
Gieo Gió Gặp Bão


Đức Phật dạy: "Kẻ ác hại người hiền, như người ngước lên trời phun nước miếng, nước miếng không tới trời mà trở lại rơi nhằm mình; hoặc như người ngược gió tung bụi, bụi chẳng đến nơi khác mà trở lại làm dơ mình; người hiền không hại được, mà họa tất diệt mình."

Chương 9
Về Nguồn Gặp Đạo


Đức Phật dạy: "Học rộng, mến Đạo, thì Đạo ắt khó gặp. Giữ chí, thờ Đạo, thì Đạo kia rất lớn."

Chương 10
Hoan Hỷ Bố Thí Tất Được Phước

Đức Phật dạy: "Thấy người tu đạo bố thí mà hoan hỷ trợ giúp thì sẽ được phước rất lớn."

Có thầy Sa-môn hỏi rằng: "Phước ấy hết chăng?"

Đức Phật đáp: "Ví như lửa của một cây đuốc, dù có vài trăm ngàn người ai nấy đều mang đuốc đến chia nhau mồi lấy lửa để về nấu ăn và xua tan bóng tối, thì ngọn đuốc kia vẫn y như cũ. Phước báo cũng như thế!"


Chương 11
Sự Gia Tăng Của Công Đức

Trong Việc Bố Thí Thức Ăn


Đức Phật dạy:

"Đãi một trăm người ác ăn, không bằng đãi một người thiện ăn. Đãi một ngàn người thiện ăn, không bằng đãi một người trì Ngũ-giới ăn. Đãi một vạn người trì Ngũ-giới ăn, không bằng cúng dường cho một vị Tu-đà-hoàn ăn. Cúng dường một trăm vạn vị Tu-đà-hoàn, không bằng cúng dường cho một vị Tư-đà-hàm ăn. Cúng dường một ngàn vạn vị Tư-đà hàm, không bằng cúng dường cho một vị A-na-hàm ăn. Cúng dường một ức vị A-na-hàm, không bằng cúng dường cho một vị A-la-hán ăn. Cúng dường ức vị A-la-hán, không bằng cúng dường cho một bậc Bích-Chi-Phật ăn. Cúng dường một trăm ức bậc Bích-Chi-Phật, không bằng cúng dường cho một đức Tam Thế Chư Phật ăn. Cúng dường một ngàn ức đức Tam Thế Chư Phật, không bằng cúng dường cho một đấng Vô Niệm, Vô Trụ, Vô Tu, Vô Chứng ăn."

Chương 12
Nêu Ra Sự Khó Để Khuyên Tu

Đức Phật dạy: "Người ta có hai mươi sự khó:

1) Bần cùng mà bố thí là khó;

2) Hào quý mà học Đạo là khó;

3) Bỏ thân mạng ắt chết là khó;

4) Được thấy kinh Phật là khó;

5) Sanh gặp đời có Phật là khó;

6) Nhịn sắc, nhịn dục là khó;

7) Thấy tốt mà chẳng mong cầu là khó;

8) Bị sỉ nhục mà chẳng tức giận là khó;

9) Có thế lực mà không lạm dụng là khó;

10) Gặp việc mà vô tâm là khó;

11) Học rộng, nghiên cứu nhiều là khó;

12) Dẹp trừ tánh ngã mạn là khó;

13) Chẳng khinh người chưa học là khó;

14) Thực hành tâm bình đẳng là khó;

15) Chẳng nói thị phi là khó;

16) Gặp được Thiện-tri-thức là khó;

17) Học Đạo, thấy được tánh là khó;

18) Tùy duyên hóa độ người là khó;

19) Thấy cảnh mà không động là khó;

20) Khéo biết phương tiện là khó."

Chương 13
Hỏi Về Đạo & Túc Mạng


Một vị Sa-môn hỏi Phật: "Do nhân duyên gì mà được Tri-túc-mạng và hiểu thấu Đạo cao tột?"

Đức Phật dạy: "Tịnh tâm, thủ chí, thì có thể hiểu thấu Đạo cao tột. Ví như lau gương, chùi hết cấu bẩn thì còn lại vẻ sáng; dứt lòng tham dục, không còn mong cầu, tất sẽ đắc Túc-mạng."

Chương 14
Hỏi Về Tánh Thiện Và Đại

Một vị Sa-môn hỏi Phật: "Điều gì là thiện? Điều gì là tối đại?"

Đức Phật dạy: "Thực hành Đạo và giữ bề chân thật, là thiện. Chí và Đạo hợp nhau, là đại."

Chương 15
Hỏi Về Sức Mạnh & Sáng

Sa-môn hỏi Phật: "Cái gì mạnh nhất? Cái gì sáng nhất?"

Đức Phật dạy: "Nhẫn nhục mạnh nhất, vì chẳng mang lòng ác, lại được thêm an kiện. Kẻ nhẫn nhục không ác, tất được người đời tôn kính. Cấu bẩn trong tâm diệt hết, sạch không còn vết dơ, đó là sáng nhất. Từ khi chưa có trời đất cho đến ngày nay, bao nhiêu sự vật trong mười phương, không có gì là chẳng thấy, không có gì là chẳng biết, không có gì là chẳng nghe. Được Nhất-thiết Trí có thể gọi là sáng vậy."

Chương 16
Bỏ ái Dục Tất Đắc Đạo


Đức Phật dạy: "Người ôm giữ lòng ái dục chẳng thấy được Đạo, ví như nước đã lóng trong lại lấy tay khuấy lên, khiến những người đến xem đều không thấy được bóng của họ. Người đời vì bị ái dục xáo trộn, làm cho cấu trược trong tâm nổi dậy, nên chẳng thấy được Đạo. Sa-môn các ông phải xả bỏ ái dục, cấu bẩn ái dục hết sạch thì có thể thấy được Đạo!"

Chương 17
Ánh Sáng Đến, Bóng Tối Tan


Đức Phật dạy: "Người thấy được Đạo ví như kẻ cầm đuốc đi vào phòng tối, bóng tối lập tức tan biến, chỉ còn lại ánh sáng. Học Đạo mà thấy được chân lý thì vô minh liền dứt, ánh sáng sẽ thường còn."


Chương 18
Ý Niệm Và Mọi Thứ Vốn Là Không


Đức Phật dạy: " Pháp của Ta là nghĩ, nghĩ mà không nghĩ; là làm, làm mà không làm; là nói, nói mà không nói; là tu, tu mà không tu. Kẻ biết thì gần, người mê thì xa; đường ngôn ngữ đứt hết, chẳng bị vật gì ràng buộc; sai đi một ly ắt mất trong khoảnh khắc."

Chương 19
Quán Xét Cả Thật Lẫn Giả

Đức Phật dạy: "Quán trời đất, nghĩ là chẳng phải thường; quán thế giới, nghĩ là chẳng phải thường; quán linh-giác tức là Bồ-đề; hiểu được như thế thời đắc Đạo rất chóng vậy."


Chương 20
Suy Ra Cái "Ta" Vốn Là Không


Đức Phật dạy: "Nên nghĩ đến tứ đại trong thân, mỗi thứ tự nó có tên, không có cái nào là 'ta' cả. Cái 'ta' đã không có thì nó chỉ như huyễn như hóa mà thôi."


Chương 21
Danh Vọng Hại Người

Đức Phật dạy: "Người theo tình dục mà truy cầu thanh danh, khi thanh danh rỡ ràng thì thân đã chết rồi! Tham thứ thường danh ở đời mà chẳng học Đạo, thì chỉ uổng công mệt xác. Ví như đốt hương, tuy người được ngửi mùi hương nhưng khi hương kia cháy hết, thì thứ lửa hại thân liền theo sau."


Chương 22
Tiền Của Và Sắc Dục Mang Lại Đau Khổ


Đức Phật dạy: "Đối với tiền của và sắc dục, người ta không bỏ được; ví như có chút mật dính trên lưỡi dao, chẳng đủ cho một bửa ăn ngon, đứa bé liếm lấy ắt mắc cái họa đứt lưỡi."



Chương 23
Gia Đình Còn Tệ Hơn Lao Ngục


Đức Phật dạy: "Người ta bị vợ con và nhà cửa ràng buộc còn hơn cả lao ngục. Lao ngục còn có thời kỳ phóng thích, vợ con không một ý nghĩ xa lìa; há chẳng sợ tình ái cùng sắc dục lôi cuốn? Dẫu có cái họa sa nơi miệng hùm, lòng cũng cam chịu. Vì tự đắm mình nơi lầy lội nên gọi là phàm phu; vượt qua được cửa ải này là bậc La-hán xuất trần."

Chương 24
Sắc Dục Chướng Ngại Đường Đạo


Đức Phật dạy: "Trong các thứ ái dục, không gì đáng ngại bằng sắc dục. Lòng ham thích sắc đẹp to lớn không gì sánh bằng. May thay, chỉ có một mình nó mà thôi. Nếu có hai thứ như thế thì khắp thiên hạ không ai có thể tu Đạo được cả!"




Chương 25
Lửa Dục Đốt Người

Đức Phật dạy: "Người ham mê ái dục ví như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, tất sẽ mắc phải nạn cháy tay."


Chương 26
Thiên Ma Quấy Nhiễu Phật


Thiên-thần hiến ngọc-nữ cho Phật, toan phá hoại ý chí của Ngài. Đức Phật nói: "Những túi da chứa đồ ô uế, các ngươi đến đây làm gì? Đi ngay! Ta chẳng dùng đâu."

Thiên-thần càng thêm kính nể và nhân đó hỏi Phật về ý Đạo. Phật giảng nói xong, Thiên-thần liền đắc được quả Tu-đà-hoàn.


Chương 27
Không Chấp Trước Tất Đắc Đạo

Đức Phật dạy: "Người hành Đạo ví như khúc gỗ dưới nước, theo dòng mà trôi. Nếu nó chẳng tấp vào hai bên bờ, chẳng bị người ta vớt lấy, chẳng bị quỷ thần ngăn trở, chẳng bị nước xoáy giữ lại, cũng chẳng bị mục nát, Ta cam đoan rằng khúc gỗ này nhất định sẽ ra đến biển. Người học Đạo nếu chẳng bị tình dục làm mê hoặc, chẳng bị các thứ tà vạy quấy nhiễu, lại tinh tấn tu pháp Vô-vi; Ta cam đoan rằng người này tất sẽ đắc Đạo."



Chương 28
Đừng Theo "Con Ngựa" Ý Niệm


Đức Phật dạy: "Phải thận trọng, chớ tin ý ông; ý của ông không thể tin được. Phải thận trọng, chớ gần gũi sắc dục; gần gũi sắc dục tất sanh họa. Chứng được A-la-hán rồi mới có thể tin được ý ông."


Chương 29
Quán Tưởng Chân Chánh Thắng Được Sắc Dục


Đức Phật dạy: "Hãy thận trọng, đừng nhìn ngó nữ sắc, cũng đừng nói năng với họ. Nếu phải nói chuyện với họ, hãy chánh tâm nhớ nghĩ: 'Ta là bậc Sa-môn sống ở đời ô trược, phải như hoa sen chẳng bị bùn làm ô uế.' Tưởng người già như mẹ, người lớn như chị, kẻ nhỏ như em, đứa bé như con; rồi sanh lòng độ thoát thì mới diệt được niệm xấu."



Chương 30
Lánh Xa Lửa Dục


Đức Phật dạy: "Người hành Đạo cũng giống như cỏ khô, lửa đến phải tránh. Người tu Đạo thấy sự dục lạc tất phải tránh xa."


Chương 31
Tâm Vắng Lặng, Dục Vọng Dứt


Đức Phật dạy: "Có người lo lòng dâm dục chẳng dứt được, muốn tự đoạn âm. Phật bèn bảo rằng: 'Đoạn âm không bằng đoạn tâm. Tâm như vị công-tào; nếu công-tào nghỉ, thì kẻ tòng sự đều nghỉ. Tà tâm chẳng dứt, đoạn âm ích gì?'"

Đức Phật vì đó mới nói bài kệ:

"Dục sanh từ ý ông,

ý do tư tưởng sanh.

Cả hai tâm vắng lặng,

Phi sắc cũng phi hành."

Đức Phật dạy: "Bài kệ này là do Đức Phật Ca-Diếp nói."


Chương 32
Không Còn Cái "Ngã" Thì Hết Sợ Hãi


Đức Phật dạy: "Người ta vì ái dục mà sanh lo, vì lo mà sanh sợ. Nếu xa lìa được ái dục thì còn gì để lo, còn gì để sợ?"


Chương 33
Trí Huệ Và Sự Sáng Suốt Phá Tan Chúng Ma


Đức Phật dạy: "Người hành Đạo ví như một người chiến đấu với muôn người; mang giáp ra cửa, hoặc có ý khiếp nhược, hoặc nửa đường rồi lui, hoặc chống cự đến chết, hoặc đắc thắng mà về.

Bậc Sa-môn học Đạo phải giữ lòng bền vững và tinh tấn lướt tới, chẳng sợ cảnh trước, phá diệt bọn ma, chứng được Đạo-quả."


Chương 34
Giữ Trung Dung Tất Đắc Đạo


Có thầy Sa-môn ban đêm tụng kinh Di-Giáo của Phật Ca-Diếp, giọng nghe có vẻ buồn thảm, hối hận muốn thụt lùi.

Đức Phật hỏi thầy: "Trước kia, ông ở nhà từng làm nghề gì?"

Đáp rằng: "Thưa, con thích gảy đàn cầm."

Phật hỏi: "Dây đàn chùng thì sao?" Đáp rằng: "Thưa, thì không rền vang được."

"Dây đàn căng thì sao"?" Đáp rằng: "Thưa, thì âm thanh đứt đoạn."

"Chùng, căng vừa chừng thì sao?" Đáp rằng: "Thưa, thì âm thanh phổ khắp."

Đức Phật dạy: "Bậc Sa-môn học Đạo cũng thế. Tâm, nếu giữ chừng mực thì Đạo có thể chứng được. Đối với Đạo, nếu hấp tấp thì thân mỏi mệt; thân nếu mỏi mệt thì ý liền sanh phiền não; ý nếu sanh phiền não thì hành liền thụt lùi; hành đã thụt lùi thì tội tất thêm lên. Chỉ có thanh tịnh, an lạc thì Đạo mới không mất vậy!"

Chương 35
Tẩy Sạch Cấu Bẩn, Chỉ Còn Vẻ Sáng


Đức Phật dạy: "Như người luyện sắt loại bỏ chất cặn rồi làm thành đồ dùng thì đồ dùng được tinh hảo; người học Đạo từ bỏ tâm cấu nhiễm thì hạnh liền thanh tịnh vậy."



Chương 36
Sự Chuyển Đổi Thù Thắng


Đức Phật dạy: 1) "Người ra khỏi ác đạo, được làm người là khó; 2) đã được làm người, bỏ thân nữ được thân nam là khó; 3) đã được thân nam, sáu căn đầy đủ là khó; 4) sáu căn đã đủ, được sanh ra ở vùng trung tâm đất nước là khó; 5) đã sanh ra ở vùng trung tâm đất nước, gặp Phật ra đời là khó; 6) đã gặp Phật ra đời, lại được gặp bậc tu Đạo là khó; 7) đã được gặp Đạo, lại sanh lòng tin là khó; 8) đã sanh lòng tin, lại phát tâm Bồ-đề là khó; 9) đã phát tâm Bồ-đề, mà đạt đến chỗ vô tu, vô chứng là khó."


Chương 37
Nhớ Nghĩ Đến Giới Là Gần Với Đạo


Đức Phật dạy: "Phật tử ở cách Ta vài ngàn dặm mà nhớ nghĩ đến Giới của Ta, tất sẽ chứng được Đạo quả; còn ở ngay bên phải bên trái Ta, tuy thường trông thấy Ta, nhưng chẳng y theo Giới của Ta, thì rốt cuộc sẽ không đắc được Đạo."


Chương 38
Có Sanh Tất Có Diệt


Đức Phật hỏi một vị Sa-môn: "Mạng người được bao lâu?"

Đáp rằng: "Thưa, trong khoảng vài ngày."

Đức Phật dạy: "Ông chưa hiểu Đạo!"

Lại hỏi một vị Sa-môn khác: "Mạng người được bao lâu?"

Đáp rằng: "Thưa, trong khoảng một bữa ăn."

Đức Phật dạy: "Ông chưa hiểu Đạo."

Lại hỏi một vị Sa-môn khác: "Mạng người được bao lâu?"

Đáp rằng: "Thưa, trong khoảng một hơi thở."

Đức Phật dạy: "Lành thay! Ông đã hiểu Đạo rồi vậy!"



Chương 39
Sự Dạy Bảo Vốn Không Phân Biệt


Đức Phật dạy: "Người học Đạo Phật, đối với những lời Phật nói đều phải nên tín thuận. Ví như ăn mật, trong ngoài đều ngọt; kinh điển của Ta cũng vậy."

Chương 40
Tâm Phải Thực Hành Theo Đạo


Đức Phật dạy: "Bậc Sa-môn hành Đạo đừng như con trâu kéo xay, tuy thân hành Đạo nhưng tâm lại chẳng theo Đạo. Nếu tâm theo Đạo thì cần gì hành Đạo?"

Chương 41
Ngay Thẳng Dứt Trừ Dục Vọng


Đức Phật dạy: "Người hành Đạo ví như con trâu chở nặng đi trong bùn sâu. Trâu hết sức mỏi mệt, chẳng dám nhìn phải ngó trái; ra khỏi chỗ bùn lầy rồi mới được thư thả. Bậc Sa-môn phải quán tưởng tình dục còn hơn cả bùn lầy. Phải trực tâm niệm Đạo thì mới có thể thoát được sự khổ."


Chương 42
Hiểu Được Cõi Đời Là Hư Huyễn

Đức Phật dạy: "Ta xem ngôi vị Vương, Hầu như bụi qua kẽ hở; xem vàng ngọc quý báu như ngói gạch vỡ; xem y phục bằng tơ lụa như vải thô; xem đại thiên thế giới như một hạt ha; xem nước hồ A-nậu như dầu thoa chân.

"Xem môn phương tiện như đống châu báu hóa hiện; xem Vô-thượng Thừa như giấc mộng vàng lụa; xem Phật Đạo như hoa trước mắt; xem Thiền Định như trụ Tu-di; xem Niết-bàn như ngày đêm đều thức; xem sự đảo và chánh như sáu con rồng múa lượng; xem sự bình đẳng như một chân-địa; xem sự hưng hóa như cây cối bốn mùa."

Hết chương 42 trọn bộ.
Được cảm ơn bởi: hey
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
cloudstrife
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 4206
Tham gia: 20:34, 24/11/10

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi cloudstrife »

Kinh A Nan hỏi Phật việc tốt xấu


Thời hậu Hán, Sa môn An Thế Cao dịch

- A Nan bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn, có người ở đời phụng thờ Phật được giàu sang, gia đình đầm ấm, cũng có người phụng thờ Phật mà bị nghèo nàn, gia đình ly tán, vì sao có những việc không đồng như thế? Phật bảo: - Này A Nan! Có người phụng thờ Phật theo bậc Minh sư thọ giới, chuyên tin không phạm, tinh tấn vâng làm, không mất giới đã thọ, cúng dường hình tượng, ngày đêm lễ bái, cung kính đốt đèn dâng hương, không trái lời dạy của Phật, trai giới nghiêm minh, trong tâm vui vẻ, thường được chư thiên, thiên thần ủng hộ; làm cho gia đình đầm ấm tăng lên gấp bội, vì thiên long, quỷ thần, nhân dân đều cung kính, sau này sẽ đắc đạo, những thiện nam và thiện nữ chân thật này là đệ tử Phật.

Có người phụng thờ Phật, không gặp thầy tốt, không gặp kinh điển, thọ giới qua loa, chỉ có tên giới, chẳng tin giới luật, làm điều phạm giới, có lúc tin, có lúc chẳng tin, tâm ý do dự, đã không đốt hương, đốt đèn lễ bái, thường có lòng hồ nghi, lòng sân hận chưởi mắng, ác khẩu chê mắng người hiền, không ăn sáu ngày Trai, sát sanh hại mạng, không kính kinh Phật để chỗ hòm rương đựng y phục dơ bẩn, hoặc để trên giường vợ con, chỗ nơi bất tịnh, hoặc treo trên vách, trên cửa không có chỗ có nơi, chẳng có lòng cung kính, giống như sách thô tục không khác. Nếu khi có tật bịnh, hồ nghi không tin Phật lại mời thầy pháp, thầy bùa hỏi han, cúng kiến, thờ cúng tà thần; vì thế, chư thiên thần lánh xa, không có thiện thần ủng hộ, yêu nữ mỗi ngày thêm nhiều, ác quỷ vào nhà làm cho gia đình xào xáo; vì chỗ hướng đến bất thiện, đều từ đời trước tạo ác nghiệp mà đến, hiện đời là người có tội, không phải là đệ tử của Phật, khi chết bị rơi vào trong địa ngục chịu khổ do tạo tội mà ra, hiện đời chịu những sầu khổ, đời sau phải chịu tai ương, chết rồi vào trong đường ác, luân hồi chịu khổ, không thể nói hết. Đều do chứa nhóm những hạnh chẳng lành. Người ngu mờ mịt không biết nhân duyên đã tạo đời trước, nguồn gốc từ đâu, nói lời than oán, ghét cả trời đất, trách cả Thánh nhân.

Người đời bị mê hoặc, không thông nhân quả ba đời, tâm không định chắc, tới lui không hợp lý, cô phụ ân Phật, sanh tâm phản phúc, lần vào ba đường ác, chỗ kiến giải luôn bị trói buộc tự tạo họa phước, Nếu người biết rõ nhân duyên, gieo trồng giống thiện, phải biết thập ác là oan gia, thập thiện là thân hữu, thần an được đạo đều từ việc lành mà sanh ra. Người làm lành như có giáp sắt không sợ đao binh, việc lành như thuyền to có thể qua sông, gây được niềm tin, cả nhà an vui, phước báo tự nhiên từ việc thiện mà đến không có vị thần nào cho ta. Phật bảo A Nan Thiện Ác theo người như bóng theo hình mà không bao giờ xa lìa, những việc tội phước cũng đều như vậy, đừng có hồ nghi. Tội phước rõ ràng tin chắc đừng mê trọn đời an ổn, Phật không dối người. Phật trong đời khó gặp, kinh pháp khó nghe, ông đời trước có phước, gần Phật nghe pháp nên đem lời nói của ta truyền lại đời sau. A Nan nghe lời dạy quyết tâm vâng làm.
- A Nan lại bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn: Ở đời có người không tự tay mình giết, nếu không tự tay mình giết là không có tội phải không? Phật dạy: Này A Nan, bảo người ta sát sanh còn nặng hơn tự tay mình giết. Vì sao? Vì mình bảo người dưới tay như Nô tì, kẻ ngu khờ không biết thế nào là tội phước. Hoặc có kẻ bị huyện quan, ép buộc phải giết, không phải ý mình muốn giết. Tuy mắc tội giết nhưng sự và ý chẳng đồng, nặng nhẹ có sai khác. bảo người giết là người biết mà cố phạm, tâm thường ôm ấp việc ác, mượn tay người giết kẻ khác, không có lòng từ, dối trá Tam Bảo, cô phụ với thầy, hại mạng thương tổn chúng sanh, tội đó rất lớn, oan gia vay trả, đời đời chịu tai ương, không có ngày chấm dứt. Hiện đời chẳng yên, luôn gặp hung hiểm, chết vào địa ngục không còn hình người, phải đọa vào súc sanh, để người làm thịt, ba đường tám nạn trải qua muôn ức kiếp, đem thịt mình cho người ăn, chưa từng thôi dứt, đều do đời trước khi được làm người, sống vô đạo, ám hại chúng sanh, đời oan gia theo đuổi phải chịu trả báo, tội nặng vô cùng.

A Nan lại bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn, người đời và các đệ tử có ác ý thường hướng về các thầy và những người có đạo đức nói xấu, tội ấy thế nào? Phật bảo này A Nan, phàm là con người, phải ưa thích những người làm việc thiện, không được có tâm ganh ghét. Người có ác ý nói xấu người đạo đức và bậc chơn sư, cũng như hướng về Phật nói xấu không khác. Thà lấy vạn mũi tên tự bắn vào mình không nên có lời ác chê Phật. Phật bảo này A Nan, người bị tên bắn vào mình có đau không? A Nan thưa: Bạch Thế Tôn, rất đau! Phật dạy: Người có ác ý nói xấu người có đạo đức, là bậc thầy chân chính, cũng như người tự bắn hàng vạn mũi tên vào mình. Phải xem các bậc ấy như Phật không được khinh mạn ghen ghét. Thấy người làm lành sanh lòng vui mừng, cung kính người, có giới đức thì cảm động đến chư thiên, thiên long quỷ thần đều kính trọng. Thà gieo mình vào lửa, dùng dao bén cắt thịt mình, cẩn thận đừng ganh ghét với người thiện và bậc chân sư!

- A Nan lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn, người làm thầy có thể quở trách đệ tử không theo ý mình, lấy tội nhỏ biến thành tội lớn, không có tội gì phải không? Phật dạy: Không nên, không nên, nghĩa cảm của thầy và trò là nghĩa cảm tự nhiên, phải hỏi han lẫn nhau, xem người kia như mình, bỏ đi phải dùng lý, dạy đó phải dùng đạo, mình đã không muốn, chớ đưa cho người, tôn trọng luật lệ, không gây oan gia kiện tụng. Đệ tử đối với thầy cũng vậy, hai nghĩa chân thành, thầy phải giữ đúng bổn phận ông thầy, đệ tử phải đúng là đệ tử, không nên bài bác, ngậm oán nuốt hờn, xé nhỏ thành to, lại tự đốt mình. Phàm là đệ tử phải hết lòng hiếu thuận với chân sư, không được có ác ý hướng về chân sư. Nếu có ác ý hướng về thầy như ác ý hướng về Phật Pháp Tăng và cha mẹ không khác, đất không thể chở, trời không thể che.

Quán sát vào thời mạt pháp, nhiều người làm ác, không trung không hiếu, không có nhân nghĩa, không thuận theo đạo làm người. Ở đời ma, trong bốn số Tỳ kheo chỉ nhớ cái xấu của người, không dừng cái xấu của mình, ganh tị người hiền, ghen ghét kẻ hiền, đã tự mình không làm việc tốt lại theo phá hoại người, dứt hết ý đạo, làm cho việc thiện họ không thành công. Dù là xuất gia họ tham dục việc đời, cầu nhiều nghiệp lợi, chứa của Tam bảo tự tiêu xài, nhiều tiền ít đạo, chết bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Người ở trong thời Ma cần phải nhớ ơn Phật, phải trì kinh giới, đạo đức phải học, kinh phải đọc tụng, việc thiện phải làm, thi ân bố đức, cứu giúp người nghèo khổ, làm cho mọi người thoát khỏi sanh tử. Thấy người hiền đừng kiêu mạn, thấy việc lành chớ chê, trái pháp, trái lý tội đó rất lớn. Tội phước báo ứng nhân quã rõ ràng cần phải cẩn thận!

A Nan lại bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn, đệ tử trong thời Mạt pháp, chạy theo nhân duyên không tròn đạo nhân, luận tội báo đó như thế nào? Phật dạy: Thời Mạt pháp có người thọ giới cấm của Phật, thật tin vâng làm, hiếu thuận cha mẹ, kính Quy tam bảo, dưỡng nuôi cha mẹ, làm tôi tận trung, trong ngoài đều thiện, tâm miên tương ưng, gọi là được việc thế gian mà chưa được ý của thế gian.

A Nan thưa: Bạch thế Tôn! Thế nào là việc thế gian mà chưa được ý của thế gian. Phật dạy: Phàm là đệ tử Phật có thể buôn bán, kinh doanh sự nghiệp nhưng làm ăn phải thật thà, cân bằng đo đủ, không dối gạt người, thi hành hợp lý, không trái với lý tự nhiên của Thần Minh. Cái việc tang tế hôn nhơn, dời chỗ là việc thế gian; còn ý thế gian, là đệ tử Phật không được bói toán, không tôn sùng bùa chú, ếm đối, cầu con cúng tế, không được chọn ngày tốt, giờ tốt. Phàm người đệ tử thọ ngũ giới của Phật được gọi là người phước đức, có làm việc gì phải kính cáo Tam Bảo. Phật là đấng huyền thông, không có một việc nhỏ nào mà không biết. Người có giới đức chư thiện thần ủng hộ rất mạnh, thiên long quỷ thần không có loài nào mà không kính phục. Người thọ giới Phật, mọi loài đều tôn quý không có chỗ nào người ấy đến mà không tốt, đâu vì bị húy kỵ không tốt mà cho bất thiện ư!

Đạo bao hàm cả trời đất, người không hiểu đạo tự mình gây việc ngăn ngại, họ đâu biết rằng việc thiện ác tốt, xấu, đều do tâm mình tạo họa phước, bởi người làm, như bóng theo hình, như vang hợp tiếng. Công đức cùng giới hạnh hợp với tự nhiên, chư thiên ủng hộ, nguyện không trái ý, cảm động 10 phương, đức cao vời vợi, chư Thánh đều ngợi khen, không thể nghĩ bàn. Kẻ trí sĩ hiểu rõ số mạng mình, trọn đời không theo việc tà, giữ đúng lời Phật dạy, có thể được đạo, độ đời.

A Nan nghe Phật nói rồi, sửa áo Cà sa đầu mặt đảnh lễ: Bạch Đức Thế Tôn, chúng con có phước lành, được gặp Thế Tôn, lòng từ rộng lớn, thương xót tất cả, vì họ làm phước điền đó, cho thoát khổ. Phật nói: Đúng vậy A Nan, trong thời mạt pháp, người tin thì ít, làm nhiều việc ác, chúng sanh gian trá, thật là đau xót, nếu có người tin thì cõi đời đâu có tệ ác như vậy.

A Nan thưa: Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Phật diệt độ, kinh pháp tuy còn mà không có người tin, lần hồi bị suy diệt thật là đau xót! Chúng sanh biết nương cậy vào đâu? Cúi xin Đức Thế Tôn vì chúng sanh phàm phu ngu tối mà chưa vội nhập Niết Bàn. A Nan muốn xin Phật ở lại thế gian nên có bài

Tụng:

Phật vì cứu ba cõi,
Ân rộng tạo thuyền từ,
Nguyện độ tất cả chúng,
Xin đừng vội Niết Bàn.

Người gặp Pháp cũng khó,
Mù mờ chẳng biết chơn,
Đau buồn vì không biết,
Tội cao tợ núi non.

Người có phước gặp Pháp,
Có một vài người tin,
Kinh Pháp được lưu truyền,
Mới có chỗ cậy nhờ.
Ân Phật rất cao thâm,
Tội vì chúng sanh tạo,
Trống Pháp vang Đại thiên,
Vì sao chẳng chịu nghe.

Đời trược nhiều người ác,
Tự mình đọa điên đảo,
Chê bai các bậc Thánh,
Tà mị phá chánh chơn.

Chẳng tin đời có Phật,
Cho Phật không chánh đạo,
Người ấy tự mê lầm,
Tự tạo các gốc tội.

Mạng chung vào địa ngục,
Đao kiếm đâm chém thân,
Quỷ dữ ưa giết hại,
Vạc than khổ chẳng cùng.

Dâm dật ôm cột đồng,
Lửa lớn đốt nát thây,
Chê bai hàng cao sĩ,
Kềm sắt nhổ lưỡi người.

Rượu say mất lễ tiết,
Mê hoặc phạm nhân luân,
Chết rơi vào địa ngục,
Đồng sôi rót vào mồm.

Thường gặp các nguy ách,
Đau khổ khó hết lời,
Nếu sanh lại làm người,
Hàng bần cùng hạ tiện.

Không sát được trường thọ,
Không bịnh luôn khỏe mạnh,
Không trộm sau giàu to,
Tiền của thường dư dả.

Không dâm, hương thanh tịnh,
Thân thể hằng thơm tho,
Thân quang luôn hiển lộ,
Cao là bậc Đại vương.

Chí thành chẳng dối trá,
Vì người nên vâng làm,
Rõ ràng không nhầm lẫn,
Đức Huệ đáng tôn kính.

Ngũ phước vượt tất cả,
Người Trời đồng cậy nhờ,
Sanh ra muôn ức bội,
Chơn lý thật rõ ràng.

Mạt thế những người ác,
Chẳng tin nhiều hồ nghi,
Ngu si chẳng biết Đạo,
Tội nặng vào U minh.

Trai Thánh phá chánh giác,
Chết đọa vào thành sắt,
Thần thức nhốt trong ấy,
Trên đầu đội bánh xe.

Cầu chết không chết được,
Giây lát lại biến hình,
Mâu giáo luôn cắt xé,
Thân thể nát tan tành.

Vì sao bị như vậy,
Trái Chánh, tin quỷ thần,
Ưa bùa chú bói toán,
Giết hại không lòng nhân.

Chết đọa mười tám chỗ,
Trải qua ngục tối tăm,
Tám nạn cứ vây quanh,
Được thân người rất khó.

Nếu khi được làm người,
Ngu khờ không nghĩa lý,
Đui điếc chẳng thấy nghe,
Câm ngọng không lời nói.

Mù mờ không hiểu việc,
Tội ác cứ bao vây,
Lần lượt phải gánh chịu,
Cầm thú lục súc hình.

Bị người lóc xương thịt,
Lột da và chặt đầu,
Để trả oan gia trước,
Lấy thịt cho người dùng.

Không đạo đọa ác đạo,
Cầu thoát khó vô cùng,
Thân người rất khó được,
Kinh Phật khó được nghe.

Thế Tôn vì cứu giúp,
Ba cõi đều nhờ ơn,
Rưới khắp Pháp Cam Lồ,
Cho mọi người phụng hành.

Phật đã được trí huệ,
Thương nhớ chúng lầm mê,
Mở bày đạo thẳng tắt,
Người gặp sẽ dứt khổ.

Người phước tâm hướng thượng,
Thấy chắc học vô sanh,
Tự về ruộng lúa tốt,
Gieo giống dứt tử sanh.

Ân lớn chẳng qua Phật,
Giúp đời chuyển pháp luân,
Nguyện cho tất cả người,
Được hưởng nước Cam Lồ.

Thuyền Huệ đến bờ kia,
Khánh Pháp dẫn Đại thiên,
Người, ta không sai khác,
Phật chơn nguyện vô thượng.

A Nan tụng bài ấy rồi, đại chúng trong Hội đồng thời tin hiểu, đều phát khởi Đạo vô thượng chánh chơn. Chư Tăng phát khởi ý cam lồ rộng lớn, hương xông ba ngàn thế giới từ đây mà được độ, khai mở con đường đạo, vì chúng sanh mà làm cầu bè, Quốc vương thần dân, thiên long quỷ thần nghe kinh đều hoan hỷ đầu lễ chân Phật và lễ A Nan, thọ giáo pháp rồi lui ra.

Thích Hồng Nhơn - Dịch
Được cảm ơn bởi: taijiquan, hey
Đầu trang

taijiquan
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 784
Tham gia: 17:22, 12/12/10
Đến từ: Hà Nội

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi taijiquan »

Hình ảnh


Mười nghiệp lành:

Không sát sinh: từ bi, không sát hại sẽ được khỏe mạnh trường thọ.
Không trộm cắp: Ngay thẳng, không lấy của người, sẽ được giàu sang, an ổn.
Không tà dâm: Trong sạch, không quan hệ bất chính, sẽ được xinh đẹp, hạnh phúc…
Không nói dối: Chân thật, không dối gạt, sẽ được uy thế, tiếng tăm.
Không thêu dệt: Trung thực, không xảo ngôn, sẽ được mọi người quý mến.
Không đâm thọc: Hòa hợp, không nói lời ly gián, sẽ được nhiều người ủng hộ.
Không nói thô ác: Hòa nhã, không cay nghiệt, không thô tục sẽ được cao sang.
Không san tham: Rộng rãi thí xả, sẽ được vô lượng phước báo.
Không sân hận: Từ hòa nhẫn nại sẽ được vô lượng duyên lành.
Không si mê: Sáng suốt, tỉnh giác sẽ được vô lượng trí tuệ.

Mười pháp giới:

1- Phật : Tâm ngộ thật tướng, duyên khơi tánh không, tự giác, giác tha, từ bi, hỷ xả.

2- Duyên giác : Mười hai duyên khởi, không thầy tự ngộ, thanh tịnh tâm-nguyện, gương mẩu giữa đời.

3- Bồ Tát : Phát tâm bồ-đề, trên cầu thành phật, dưới độ chúng sanh, trải mình hành đạo.

4- Trời : Khéo tu thập thiện, tạo-phước, cúng-dường, sắc, vô, sắc-thiền, là cỏi chư thiên.

5- Thanh Văn : Biết đời đau khổ, tâm cầu diệu-pháp, theo phật học pháp, ruộng phước thế gian.

6- A Tu La : Phước báo như trời, đức lại kém vơi, sân-hận, tật-đố, tranh đấu mọi nơi.

7- Người : Giử gìn ngũ-giới, hoặc ít, hoặc nhiều, sang-hèn, thọ-yểu, theo nghiệp cảm-chiêu.

8- Ngạ Quỉ : Tham-lam, bỏn-xẻn, ích-kỷ, ghét-ganh, thấy lợi giành tranh, đói khổ hoành hành.

9- Súc Sanh : Ngu-si, biếng-lười, dối-gạt, móc-bươi, làm thân súc-vật, đền trả cho người.

10- Địa Ngục : Không tin nhân-quả, độc-ác hại nhau, chẳng kính tam-bảo, địa-ngục khổ đau.
Được cảm ơn bởi: cloudstrife, hey, sunspacevn
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
cloudstrife
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 4206
Tham gia: 20:34, 24/11/10

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi cloudstrife »

Phật Thuyết Bát Đại Nhân Giác Kinh

Điều giác ngộ thứ nhất:
Thế gian là vô thường
Đất nước chẳng vững bền
Bốn đại đều khổ không
Năm uẩn vốn vô ngã
Sinh diệt luôn đổi khác
Hư ngụy không có chủ
Tâm là nguồn tạo ác
Thân xác gom chứa tội
Khéo quán sát như vậy
Dần dần xa sinh tử.

Điều giác ngộ thứ hai:
Nhiều tham dục mới khổ
Sống chết với nhọc nhằn
Đều khởi từ tham dục
Ít dục thích vô vi
Thân tâm được tự tại.

Điều giác ngộ thứ ba:
Tâm không hề biết chán
Chỉ ôm ấp tham cầu
Tăng trưởng nhiều tội ác
Bồ tát không như thế
Luôn ghi nhớ biết đủ
Sống nghèo gìn giữ đạo
Dùng trí tuệ làm nghiệp.

Điều giác ngộ thứ tư:

Lười biếng sẽ trụy lạc
Nếu luôn hành tinh tiến
Phá nát phiền não ác
Tồi phục bốn loại ma
Sẽ rời xa địa ngục.

Điều giác ngộ thứ năm:
Ngu si lụy sinh tử
Bồ Tát hằng ghi nhớ
Nghe nhiều và học rộng
Tăng trưởng căn trí tuệ
Thành tựu mọi biện tài
Giáo hóa cho tất cả
Hết thảy được an vui.

Điều giác ngộ thứ sáu:
Nghèo khổ nhiều hờn oán
Kết chặt với duyên ác
Bồ Tát thường bố thí
Xem oán thân bình đẳng
Chẳng nhớ điều ác cũ
Cũng chẳng ghét người ác.

Điều giác ngộ thứ bảy:

Năm dục muôn lỗi nạn
Vây bủa người thế tục
Chẳng nhiễm vui của đời
Thường giữ nhớ ba áo
Bình bát là pháp khí
Chí nguyện quyết xuất gia
Giữ gìn Đạo trong sáng
Theo Phạm Hạnh cao vời
Từ bi cứu muôn loài.

Điều giác ngộ thứ tám:
Cõi sinh tử rực lửa
Vô lượng khổ vây quanh
Nếu phát tâm Đại Thừa
Cứu độ cho khắp cả
Nguyện thay thế chúng sinh
Chịu vô lượng khổ đau
Khiến cho các chúng sinh
Hết thảy được an vui.
Được cảm ơn bởi: taijiquan, hey
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
cloudstrife
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 4206
Tham gia: 20:34, 24/11/10

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi cloudstrife »

Thâm Ý Qua Hình Tượng Phật và Bồ Tát

TƯỢNG PHẬT A DI ĐÀ
(Buddha Amita)





DANH HIỆU.



Đức Phật A Di Đà là vị giáo chủ ở cõi Cực-lạc phương tây A Di Đà có nghĩa vô lượng quang, vô lượng thọ. Nghĩa là hào quang và tuổi thọ của Ngài không thể lường được.


TIỀN THÂN.


Thời đức Phật Thế Tự Tại Vương, có vị quốc vương tên Kiều Thi Ca nghe Phật thuyết pháp liền bỏ ngôi vua xuất gia làm Tỳ-kheo hiệu là Pháp Tạng. Một hôm, Ngài đảnh lễ Phật cầu xin chứng minh cho Ngài phát 48 lời nguyện. Do nguyện lực ấy, sau này Ngài thành Phật hiệu A Di Đà ở cõi Cực-lạc. (Kinh Đại A Di Đà) Lại, một thuở xa xưa ở cõi San Đề Lam có ông vua tên Vô Tránh Niệm. Do đại thần Bảo Hải khuyến tiến, nhà vua gặp đức Phật Bảo Tạng, thành tâm cúng dường, quy y thọ giáo. Nhà vua phát nguyện sau này thành Phật sẽ làm giáo chủ một cõi cực kỳ trang nghiêm thanh tịnh để giáo hóa chúng sanh. Đức Phật Bảo Tạng thọ ký cho Ngài sau này sẽ thành Phật hiệu A Di Đà, cõi nước tên Cực-lạc ở phương Tây. Hiện giờ Ngài đã thành Phật và đang thuyết pháp tại đó. (Kinh Bi Hoa)


HẠNH NGUYỆN.


Đức Phật A Di Đà xưa phát 48 lời nguyện lớn, trong đó có lời nguyện sẵn sàng tiếp dẫn chúng sanh nào niệm danh hiệu của Ngài. Dù người ấy chỉ niệm mười câu danh hiệu Ngài, Ngài cũng tiếp dẫn vãng sanh về cõi Cực-lạc.


BIỂU TƯỚNG.


Đức Phật A Di Đà thường thờ có hai tượng: Tượng ngồi kiết già trên tòa sen, tay kiết định ấn, tương tự tượng Thích Ca. Tượng đứng trên hoa sen lơ lửng trong hư không, bên dưới là bể cả sóng dậy chập chồng, mắt Ngài nhìn xuống, tay mặt đưa lên ngang vai, tay trái duỗi xuống như sẵn sàng chờ đợi tiếp cứu những người đang trầm mịch. Tượng ấy gọi là tượng Di Đà phóng quang.


THÂM Ý.


Chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa tượng phóng quang này. Theo trong mật giáo giải thích: tay mặt Phật đưa lên biểu thị tứ thánh (Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, Phật), tay trái duỗi xuống biểu thị lục phàm (Thiên, nhơn, A-tu-la, súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục). Nghĩa là Ngài sẵn sàng tiếp độ lục phàm đưa lên quả vị tứ thánh. Ý nghĩa hình tượng này, chúng ta thấy rõ hơn, qua bốn câu kệ tán dương Ngài:
Ái hà thiên xích lãng,
Khổ hải vạn trùng ba;
Dục thoát luân hồi lộ,
Tảo cấp niệm Di Đà.
Tạm dịch:
Sông ái sóng ngàn thước,
Bể khổ dậy muôn trùng;
Kiếp luân hồi muốn thoát,
Sớm gấp niệm Di Đà.
Chúng ta là những chúng sanh đang đắm chìm trong sông ái, nước mắt đau thương thống khổ tràn trề như bể cả. Đức Phật Di Đà đang đứng chực trong hư không, đã duỗi cánh tay vàng chờ đợi cứu vớt chúng ta. Nhưng chúng ta có chịu ngoi đầu lên khỏi dòng sông ái, đưa tay cho Ngài cứu vớt hay không? Hay cứ mãi lặn hụp trong sông mê bể ái, để đức Phật mãi đợi chờ mà không có một sự đáp ứng nào? Cánh tay vàng kia cứ duỗi thẳng đợi chờ, mà đàn con dại này mãi say mê lội đuổi bắt những hòn bọt, lặn mò bóng trăng. Để rồi bị sóng cuốn nước trôi càng ngày càng ra khơi, khiến người mẹ hiền kia đã lạc giọng kêu gọi.
Kinh chép:
Các đức Như Lai trong mười phương nhớ thương chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu con trốn mẹ thì cái nhớ ấy cũng không ích gì. Nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con thì mẹ và con trong đời này, trong các đời sau quyết không xa nhau. Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật niệm Phật thì trong hiện tại và ở tương lai nhất định thấy Phật, cách Phật không xa... (Kinh Lăng Nghiêm, chương Đại Thế Chí niệm Phật).
Hai người cùng hướng mặt về nhau mà đi, dù điểm phát xuất cách xa thế mấy, nhưng cũng được gặp nhau. Nếu hai người trở lưng mà đi, dù khi khởi hành họ ở bên cạnh nhau, song càng đi họ càng xa nhau. Đức Phật luôn luôn hướng về chúng ta, nếu chúng ta cứ né trốn Ngài thì làm sao gặp được Phật. Đáng lý chúng ta có cảm thì Phật mới ứng song ở đây đức Phật sẵn sàng ứng, mà chúng ta không chịu cảm, thật đúng câu Phật quở: "các ông là người mê muội đáng thương".
Người phát tâm tu Tịnh độ tin chắc đức Phật đang chờ đợi tiếp đón chúng ta về cõi Cực-lạc (tín), gắng công niệm Phật (hạnh), mong mỏi được sanh về cõi Phật (nguyện). Có đủ ba yếu tố này nhất định sẽ vãng sanh về Cực-lạc.
Hình ảnh đức Phật A Di Đà là hình ảnh mong chờ đón tiếp. Chúng ta phải sớm thức tỉnh nhận chân sự khổ đau, trong khi đang đắm chìm trong bể ái, để quay về với đức Từ bi. Phật là hiện thân cứu khổ, chúng ta là thực thể khổ đau. Một ngày nào chúng ta không còn đau khổ, ngày ấy đức Phật sẽ không còn duỗi tay chờ đợi cứu vớt chúng sanh.
Được cảm ơn bởi: taijiquan, hey
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
cloudstrife
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 4206
Tham gia: 20:34, 24/11/10

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi cloudstrife »

TƯỢNG PHẬT THÍCH CA MÂU NI
(Buddha Sàkyamuni)



DANH HIỆU.


Thích Ca, Trung Hoa dịch là Năng nhân. Mâu Ni dịch là Tịch Mặc. Nghĩa là người hay phát khởi lòng nhân mà tâm hồn luôn luôn yên tĩnh.


LƯỢC SỬ.


Trước đây trên 25 thế kỷ, ở Ấn Độ có vị Thánh xuất thế, đó là đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Khi ấy, xã hội Ấn Độ chia làm bốn đẳng cấp: Bà-la- môn (Brahmanes), Sát-đế-lỵ (Kastryas), Phệ-xá (Vaisyas) và Thủ-đà (Soudas) đức Phật Thích Ca sanh trong dòng quý tộc thuộc đẳng cấp thứ hai. Thân sinh Ngài là vua Tịnh Phạn (Suddodhana) và thân mẫu là hoàng hậu Ma-gia (Maya), ở thành Ca- tỳ-la (Kapilavatsu). Ngài giáng sanh vào ngày trăng tròn, tháng hai Ấn Độ, nhằm ngày rằm tháng tư âm lịch Trung Hoa. Tên Ngài là Sĩ-đạt-ta (Sidhartha).
Ra đời chưa đầy một tháng, Ngài đã mồ côi mẹ, nhờ Di mẫu nuôi dưỡng cho đến trưởng thành. Năm 19 tuổi, Ngài trốn vua cha vượt thành xuất gia tầm thầy học đạo. Tương truyền trước khi xuất gia, Ngài đã dạo chơi bốn cửa thành thấy cảnh sanh, già, bệnh, chết. Từ đó, Ngài ôm lòng thương cảm vô hạn, quyết tìm con đường giải thoát cho mình và tất cả chúng sanh. Vì thế, Ngài cương quyết ruồng bỏ ngai vàng và mọi lạc thú ở đời, xuất gia tầm đạo, mặc dầu có lắm người hết lời khuyên nhủ ngăn can.
Sau khi xuất gia, Ngài lê bước khắp nơi tìm thầy học đạo. Ngài đã từng tham học với hai vị sư trứ danh đương thời là A-la-lã-ca-lan (Aralah-Kalama) và Uất-đà-già-la- ma (Udraka-Kamapu-tar). Nhưng xét đến kết quả đạo lý của họ đều không làm cho Ngài thỏa mãn.
Sau đó, Ngài từ giã họ vào rừng sâu tu khổ hạnh sáu năm, mỗi ngày chỉ ăn uống chút ít đủ duy trì mạng sống, nhưng rốt cuộc cũng chẳng đem lại kết quả gì. Cuối cùng nhận thấy phương pháp khổ hạnh không phải là con đường chân chánh, Ngài liền từ bỏ nó, trở lại lối sống bình thường, vận dụng tâm trí quán sát tướng chân thật của vũ trụ. Một hôm ngày thứ 49 ở dưới cội Bồ-đề, Ngài bừng ngộ thấy rõ chân lý của cuộc đời, biết được mọi người đều có đủ khả năng giác ngộ và giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.
Sau khi đã chứng đạo, Ngài không ấp ủ tư lợi riêng mình, liền nhập thế phổ độ chúng sanh. Từ đó, Ngài du hành thuyết pháp suốt 49 năm, chu du đến một phần ba xứ Ấn Độ. Những môn đồ được Ngài giáo hóa đông vô kể. Nơi Ngài thường đến và thường lưu trú là thành Vương Xá (Rajagrha) nước Ma-kiệt-đà (Magadha), thành Phệ-xá-ly (Vésali), thành Xá-vệ (Shavasti) nước Câu-tát-la (Kosala).
Năm 80 tuổi, nơi rừng Ta-la song thọ (Sala) ngoài thành Câu-thi (Kusin-agara), sau buổi thuyết pháp cuối cùng, Ngài vào Niết-bàn (Nibbana).


BIỂU TƯỚNG.



Vào trong các chùa Phật giáo Bắc tông, ngay giữa chánh điện hoặc thờ một tượng Phật Thích Ca, hoặc thờ ba tượng ngồi ngang, đức Thích Ca ngự giữa, bên phải đức Phật Thích Ca là Phật A Di Đà, bên trái là Phật Di Lặc (Phật tương lai). Lối thờ này tượng trưng tam thế Phật, Phật Thích Ca là Phật hiện tại, Phật Di Đà là Phật quá khứ, Phật Di Lặc là Phật tương lai. Bất cứ lối thờ nào, đức Thích Ca đều ngự ở giữa, nên cũng gọi Ngài là đức Trung Tôn. Tượng Phật Thích Ca không giống người Ấn Độ, mà tùy ở nước nào tạo tượng Ngài giống người nước ấy. Ngài ngự trên đài sen, hai tay để ấn tam muội, đôi mắt khép lại ba phần tư.



THÂM Ý.




Nhìn sơ qua hình tượng đức Phật Thích Ca, chúng ta đã thấy những điểm cách xa thực tế. Tại sao người ta không tạo tượng Ngài thật giống người Ấn Độ, ngồi trên toà cỏ dưới cội cây Bồ-đề?
Bởi vì Bắc tông Phật giáo quan niệm đức Phật không phải căn cứ vào con người xác thịt tầm thường, mà thấy Phật là Pháp thân thường trụ. Hiện thân Thái tử Sĩ-đạt-ta tu hành thành Phật, chỉ là một giai đoạn, một hóa thân tùy cơ cảm của chúng sanh thị hiện đấy thôi. Đã là hóa thân tùy cơ cảm thì ở đâu có cảm đức Phật đều ứng hiện như nguyện để độ họ. Vì thế, ở Việt Nam cảm mộ Phật, Phật sẽ thị hiện người Việt Nam, ở Trung Hoa cảm mộ Phật, Phật sẽ hiện người Trung Hoa để hóa độ...
Đó là tư tưởng siêu thực, không còn thấy Phật ở trong một hình thức cố định nào. Đức Phật đã đồng hóa theo từng dân tộc, từng chủng loại. Do tư tưởng này, Bắc tông Phật giáo đối với đức Phật không thấy xa lạ, mà rất gần gủi thân mật và phát sanh tín ngưỡng "Phật tùy tâm hiện". Ta hãy nghe vị Quốc Sư núi Yên Tử nói với vua Trần Thái Tông, khi ông này lên núi cầu đạo:
"Núi vốn không có Phật, chỉ có ở tâm. Lắng tâm mà thấy, đấy gọi là chân Phật. Nay bệ hạ muốn giác ngộ tâm ấy thì đứng ở trần gian mà thành Phật, không phải khốn khổ cầu Phật ở ngoài". (Khóa Hư Lục)
Đã tin Phật tùy tâm hiện, nếu tâm mình tưởng Phật tức là có Phật hiện đến. Do đó phát sanh tín ngưỡng “Phật hiện cứu khổ mọi người”. Cho nên, những khi lâm tai, mắc họa, người ta hay thành kính, lễ mễ cầu Phật hiện mách bảo cho phương cách thoát khỏi tai họa.
Phật ngự trên đài sen cũng là một ý nghĩa tượng trưng siêu thực. Bởi vì hoa sen được biểu thị cho đức tánh thanh tịnh và giải thoát. Hoa sen phát xuất trong vũng bùn nhơ nhớp, mà vẫn tỏa ra mùi hương thanh khiết. Đó là đặc tính không thể tìm được trong các loài hoa khác. Nằm giữa vũng bùn nhơ nhớp, mà không bị lây nhiễm mùi hôi hám, trái lại còn đầy đủ hương vị thơm tho, đó mới thật là thanh tịnh. Vì cái thanh tịnh ngay giữa chỗ ô uế, mới chân thật thanh tịnh. Nếu hoa sen mọc giữa bãi cát trắng phau, hay trên gò đất khô sạch sẽ, dầu có hương sắc gấp mấy lần hơn vẫn không được quý trọng. Bởi nó chui từ vũng bùn hôi hám mà lên, lại giữ được tánh cách thanh khiết, nên mới được mọi người hâm mộ. Đức Phật cũng thế, trước kia Ngài cũng là một con người như chúng ta, cũng có gia đình, cũng hưởng giàu sang sung sướng, nhưng con người ấy không bị dục lạc làm ô nhiễm, không bị sợi dây gia đình trói buộc. Ở trong cảnh nhiễm ô dục lạc mà tâm hồn Ngài trinh bạch, ngồi trong tù ngục gia đình mà chí Ngài đã vượt ra ngoài vũ trụ mênh mông. Đức tánh trinh bạch và siêu việt ấy, chỉ có hoa sen mới đủ sức tượng trưng.
Bắc tông Phật giáo đặt trọng ý nghĩa “thanh tịnh trong ô nhiễm" nên chủ trương "phiền não tức Bồ-đề”, “sanh tử tức Niết-bàn". Không thể tìm Bồ-đề ngoài phiền não, không thể có Niết-bàn ngoài sanh tử. Cứ ngay trong phiền não chúng ta khéo chuyển sẽ thành Bồ-đề, trong sanh tử khéo chuyển sẽ thành Niết-bàn. Không chán sợ trốn tránh, không mơ ước mong cầu nơi nào khác. Vì thế, đi đến chủ trương “tích cực nhập thế”. Bởi vì không thể có đức Phật ngoài chúng sanh, không thể có cõi Cực-lạc thanh tịnh ngoài cõi Ta-bà uế trược.
Đôi mắt đức Phât đâm chiêu nhìn xuống là biểu thị quán sát nội tâm. Giáo lý Phật dạy là giáo lý nội quan luôn luôn phản chiếu nội tâm để tự giác tự ngộ. Tâm mình là chủ nhân ông của mọi hành động, mọi nghiệp quả. Ngộ được tự tâm là thấy được nguồn gốc vũ trụ và nhân sanh. Vì thế, Phật giáo chủ trương con người làm chủ mọi quả báo an lạc hay đau khổ của mình. Muốn tránh quả khổ đau, cầu quả an lạc, con người phải tự sửa đổi hành vi trong tâm niệm mà hành động nơi tự thân mình. Một tâm niệm lành, một hành động tốt sẽ đến cho ta kết quả an vui hạnh phúc. Ngược lại, một tâm niệm ác, một hành động xấu sẽ chuốc lấy kết quả khổ đau về nơi mình. Chỉ có ta mới đủ thẩm quyền ban phúc giáng họa cho ta. Sự cầu cạnh, sự van xin nơi tha nhân hay thần linh, nếu có chỉ là phần phụ thuộc không đáng kể. Cho nên, ta phải quán sát lại ta, để luyện lọc tâm tánh và sửa đổi hành động của mình. Ách yếu của sự tu hành là phản quán tự tâm. Vua Trần Nhân Tông hỏi về bổn phận, tông chỉ Thiền, Tuệ Trung Thượng Sĩ đáp:
"Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc". (Tam Tổ Thực Lục) (soi lại nơi mình là việc bổn phận, không từ nơi người mà được).
Những phút sống lại nội tâm đương nhiên đôi mắt đâm chiêu nhìn xuống như khi chúng ta muốn kiểm soát lại tâm tư hay hành động của mình, dù đi, đứng, ngồi đôi mắt chúng ta nhất định phải nhìn xuống. Khi chúng ta muốn van xin điều gì với những người đáng kính bên ngoài dĩ nhiên đôi mắt phải trông lên vị ấy. Vì thế, khi nhìn lên đôi mắt đức Phật, đôi mắt các vị Thánh của tôn giáo khác, chúng ta có thể nhận biết tôn giáo nào chủ trương nội quan, tôn giáo nào chủ trương ngoại quan.
Trên đảnh đức Thích Ca có cục thịt nổi cao gọi là nhục kế (cục thịt đỏ), để biểu thị cho trí tuệ tuyệt vời. Theo các kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm... Trên đảnh đức Phật có tướng không thể thấy, tướng ấy bậc Bồ-tát từ sơ địa trở lên chỉ thấy được đôi phần, trừ Phật với Phật mới thấy trọn vẹn. Tướng ấy biểu thị cho Pháp thân vì chúng sanh không thể thấy nên gọi là "vô kiến đảnh tướng".
Chung quanh tượng Phật có những tia hào quang sáng chiếu để tiêu biểu ánh sáng trí tuệ của Phật lúc nào cũng soi sáng thế gian. Theo trong kinh nói chung quanh đức Phật luôn luôn có hào quang soi sáng một tầm. Bởi vì con người luôn luôn có một lớp nghiệp bao quanh, nếu nghiệp ác thì hiện lên vầng hắc ám, chúng sanh trông thấy kinh sợ, nếu nghiệp thiện thì hiện ra ánh sáng trong lành, chúng sanh trông thấy sanh tâm kính mến. Vì mắt thịt chúng ta quá thô thiển nên không thể trông thấy rõ ràng, song nếu tinh tế nhận xét cũng có thể nhận biết phần nào. Như người hiền lành đến trước chúng ta nhìn thoáng gương mặt là ta có cảm tình ngay. Nếu người dữ đến trước chúng ta, nhìn sơ qua ta tự nhiên nảy sanh ác cảm liền. Cái linh cảm ấy không phải căn cứ vào hình thức, mà nó siêu hình thức. Thiết thực nhất là các anh đồ tể khi vào xóm làng bị chó theo đuổi sủa không thôi, dù họ chỉ đi tay không cũng thế. Cho nên ngày xưa các vị tu hành đắc đạo, có ai đến tham học, một phen nhìn qua là các Ngài biết phước duyên kẻ ấy mỏng hay dày, rồi tùy căn cơ giáo hóa. Đức Phật là con người thuần thiện tâm thanh tịnh, trí sáng suốt thì ánh hào quang bao bọc chung quanh là lẽ đương nhiên.
Phật giáo Bắc tông thường thờ tượng Phật Thích Ca sơ sanh. Tượng này hình một hài nhi đứng trên hoa sen, tay mặt chỉ lên, tay trái chỉ xuống. Đó là biểu thị một bậc Thánh nhân xuất thế, vừa lọt lòng mẹ đã có những hành động siêu phàm. Và câu Ngài thốt ra lúc ấy là:
Trên trời dưới trời,
Chỉ ta hơn hết,
Tất cả thế gian
Sanh, già, bệnh, chết.
Nghĩa là từ nhân gian đến các cõi trời, đối với vấn đề sanh, già, bệnh, chết chỉ có Ngài là người vượt ra và cứu thoát tất cả. Song Bắc tông Phật giáo thường thường dẫn hai câu đầu thôi, để nhấn mạnh vào chữ "ta" ám chỉ Pháp thân tuyệt đối, trên trời dưới đất không gì bì kịp.
Đây chỉ lược giải thích vài đặc điểm trong hình tượng đức Phật Thích Ca. Mong rằng những khi đến lễ dưới chân tượng Ngài, mỗi người đều ý thức được mình phải làm gì đối với hình ảnh biểu thị ấy. Sự hữu ích của việc lễ Phật gốc ở chỗ nhận được thâm ý rồi thể theo đó sống một cuộc đời cao đẹp như Ngài.
__________________
Được cảm ơn bởi: taijiquan, hey
Đầu trang

mysterious
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1578
Tham gia: 10:51, 10/05/10

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi mysterious »

- Mỗi lần Trì Danh Hiệu là có , ai cũng có sẵn rồi , chỉ là chưa kích hoạt cảnh thanh tịnh viên mãn thôi , Ôi nhìn Chúng Sanh mà thương .

Hai Dòng Lệ Tràn Trên Má
Biển Khổ Chẳng Nói Thành Lời
Đừng Vì Vật Thể Mà Tham
Sanh Diệt Quy Về Một Mối
Sinh Linh Đầu Tháng Lầm Than
Ôi ! Tâm con người chỉ thế ư ?
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
cloudstrife
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 4206
Tham gia: 20:34, 24/11/10

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi cloudstrife »

BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM
(Bodhisatva Avalokitesvara)



DANH HIỆU.


Quán Thế Âm, nghĩa là quán sát tiếng kêu than của chúng sanh trong thế gian để độ cho họ thoát khổ.


TIỀN THÂN.


Thuở đức Phật Bảo Tạng, Ngài là thái tử con vua Vô Tránh Niệm. Ngài theo vua cha đến nghe Phật thuyết pháp và thỉnh Phật cùng Tăng chúng về cung cúng dường. Do công đức ấy, được Phật thọ ký sau này làm Bồ- tát hiệu là Quán Thế Âm, phụ tá đức Phật A Di Đà giáo hóa chúng sanh và sau nữa sẽ thành Phật hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương (kinh Bi Hoa quyển ba, phẩm Chư Bồ-tát bổn thọ ký).


HẠNH NGUYỆN.


Bồ-tát Quán Thế Âm không có trong lịch sử thế giới này. Ngài là vị Bồ-tát hầu cạnh đức Phật A Di Đà ở thế giới Cực-lạc phương tây. Có chỗ nói Ngài không cố định ở thế giới nào, tùy chúng sanh ở đâu đau khổ thì Ngài thị hiện đến cứu độ. Quán Thế Âm là xem xét tiếng kêu đau khổ của chúng sanh ở đời. Vì thế, Ngài là hiện thân của từ bi. Chỗ nào có chúng sanh khổ đau là có Ngài hiện thân đến đấy. Ngài hằng tùy loại chúng sanh hóa thân độ họ. Có nhiều lần Ngài hóa thân người nữ độ đời, nên người ta thường gọi Ngài là Phật Bà.


BIỂU TƯỚNG.


Nghiên cứu về hình tượng Ngài, chúng ta thấy có lắm tượng. Những tượng y cứ theo giả sử, như: Quán Âm Hài Nhi (thể theo cốt truyện Quán Âm Thị Kính), Quán Âm Nam Hải, Quán Âm Tử Trúc... Những tượng y cứ theo các kinh phái Mật tông, như: Quán Âm Mã Đầu, Quán Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn, Quán Âm Cữu Diện...
Có một pho tượng phổ thông nhất là Quán Âm thanh tịnh bình thùy dương liễu. Tượng này Ngài Trí Khải hằng tán dương, chúng ta cố gắng tìm hiểu. Tượng Ngài hình người nữ đứng trên hoa sen, tay mặt cầm cành dương, tay trái cầm bình thanh tịnh, trong bình đựng nước cam lồ. Chúng ta hằng lạy mười hai câu nguyện sau khi tụng phẩm Phổ Môn, có câu "Nam mô thanh tịnh bình thùy dương liễu, Quán Âm Như Lai cam lồ sái tâm nguyện". Câu nguyện này đã diễn tả đúng hình tượng Ngài. Giờ đây, chúng ta tìm hiểu chi tiết qua hình tượng đó.


THÂM Ý.


Tại sao Bồ-tát Quán Thế Âm lại là người nữ? Theo kinh Di Đà nói: người sanh về cõi Cực-lạc tuy chưa chứng quả Thánh vẫn không có tướng nam, tướng nữ. Kinh A-hàm nói: người nữ có năm chướng không thể thành Phật... Thế mà, Bồ-tát Quán Thế Âm lại hiện thân người nữ?
- Bồ-tát Quán Thế Âm hiện thân của đức Từ Bi. Muốn nói lên tình thương chân thành tha thiết nhất trong con người, không tình thương nào qua tình mẹ thương con. Mẹ đối với con là tình thương chân thành thâm thúy bao la, khó lấy cái gì có thể hình dung được. Cho nên, đức Quán Thế Âm hiện thân là một người mẹ hiền của nhân loại, hay của tất cả chúng sanh. Người mẹ dầu bận công ăn việc làm gì, một khi nghe tiếng con kêu khóc, mẹ buông bỏ tất cả vội vàng chạy lại vỗ về con. Đức Quán Thế Âm cũng thế, dù bận việc giáo hóa ở đâu, một khi nghe tiếng kêu thương của chúng sanh, Ngài liền hiện thân đến an ủi. Vì thế, gọi Ngài là Bồ-tát Quán Thế Âm. Người mẹ hiền của tất cả chúng sanh, người mẹ lúc nào cũng lắng nghe tiếng nấc nở từ cõi lòng của đàn con dại đang đắm chìm trong bể khổ mênh mông, để đến xoa diệu, cứu thoát khiến mọi khổ não đều được tiêu tan.
Tay mặt Ngài cầm cành dương liễu là tượng trưng cho đức nhẫn nhục. Tay trái cầm bình thanh tịnh đựng nước cam lồ là tượng trưng cho tâm từ bi. Chỉ có cành dương liễu mới có khả năng mang nước cam lồ rưới mát chúng sanh. Dương liễu là loại cây vừa dẻo vừa mềm, gặp gió mạnh thì uốn mình theo chiều gió, gió dừng là trở về vị trí cũ. Nếu cứng như cành cây lim, cây gõ thì gió không thể lay, một khi bị gió lay là phải gãy. Nếu yếu như cành liễu thì chỉ buông rũ theo chiều gió. Cứng quá, mếm quá đều không có sức chịu đựng lâu dài. Cành dương nhờ sức mềm dẻo nên khéo tùy duyên mà không mất vị trí. Tức là tuy chìu theo cảnh mà không bị cảnh chi phối. Vì thế, cành dương được tượng trưng cho đức nhẫn nhục. Nhẫn nhục không có nghĩa ai làm sao cũng được, ai bảo gì cũng nghe. Chính bản chất của nó là khéo tùy thuận người, để hướng dẫn họ, theo đường lối hay lập trường của mình. Tùy thuận mà không bị họ chi phối, ngược lại chi phối được h?. Người nhẫn nhục mới trông qua như rất yếu hèn, kỳ thật họ có sức mạnh phi thường, đã tự chiến thắng được tình cảm, được phản ứng của bản năng. Họ đã vượt ra ngoài phạm trù con người phàm tục, nếu lấy con mắt phàm tục nhìn họ thì không thể nào hiểu nổi. Người chửi ta giận, người đánh ta đở, đó là bản năng tự vệ của tất cả mọi người. Bị chửi mà không giận, bị đánh mà không đở, ấy mới là việc khó làm, phi bậc thánh giả khó thể làm được. Hằng ngày chúng ta sống theo tình cảm, theo bản năng, thấy những phản ứng như vậy cho là phải lẽ, hợp lý. Nếu thấy người bị chửi mà không giận..., chúng ta liền đâm ra bực tức, khi dể họ, cho là kẻ hèn yếu nhát nhúa. Đâu ngờ, những kẻ ấy đã đứng trên đỉnh chúng ta, mà ở dưới này chúng ta vẫn tự cao tự đại.
Nước cam lồ là thứ nước rất trong, mát và thơm ngọt, do hứng ngoài sương mà được. Chữ cam là ngọt. Chữ lồ đọc trại chữ lộ, tức là sương hay móc. Khi người ta bị nóng bức khô khan, nếu được một giọt nước cam lồ thấm vào cổ sẽ nghe ngọt ngào mát rượi. Nước cam lồ tượng trưng cho lòng từ bi của Bồ-tát. Khi chúng sanh bị lửa phiền não thiêu đốt, thiết tha cầu cứu nơi Bồ-tát, Ngài sẽ mang nước từ bi đến dập tắt và đem lại cho người sự mát mẻ an lành. Chúng ta đang sống trong nhà lửa tam giới, ngọn lửa phiền não của chúng ta nổi cháy rần rần, nếu không có giọt nước từ bi của Bồ-tát, chắc hẳn tất cả chúng ta đều phải chết thiêu trong lò phiền não. Từ bi là lòng thương không vụ lợi, không phân biệt thân sơ, không thấy có quý tiện, lòng thương chân thật bình đẳng. Sự quý báu cao cả của nó, chỉ có nước cam lồ mới đủ tính cách tượng trưng. Nước cam lồ chẳng những cứu người qua cơn khát cháy cổ, mà còn đem lại cho người mùi thơm ngon ngọt dịu. Từ bi chẳng những cứu người trong cơn nguy khốn, mà còn đem lại cho người nguồn an lạc vô biên.
Bởi tính chất quý báu vô thượng của nước cam lồ như vậy, nên phải đựng nó trong một cái bình thanh tịnh. Vì của quý bao giờ cũng đựng trong món đồ quý. Bình thanh tịnh là tượng trưng ba nghiệp trong sạch. Chúng ta ôm ấp lòng từ bi muốn ra cứu độ chúng sanh, nếu thân, miệng, ý chưa trong sạch thì khó mong thực hiện lòng từ bi. Nếu cố gắng thực hiện, một thời gian cũng lạc về danh hay vì lợi. Ví như người có khoa y dược, sẵn sàng chữa trị bệnh khổ cho người, khi những con bệnh được lành, đương nhiên phải có sự đền đáp hay khen ngợi trên báo chí, nếu người ấy ý chưa trong sạch dễ nóng lòng danh lợi. Do đó, dần dần làm hoen ố lòng từ bi. Cho nên, muốn thực hiện lòng từ bi, điều kiện tiên quyết là ba nghiệp phải thanh tịnh.
Muốn mang nước cam lồ ra rưới mát chúng sanh, phải dùng cành dương làm phương tiện. Bởi vì chúng sanh trong đời này nghiệp chướng quá sâu dày, ít khi thấy lẽ phải. Họ chỉ sống theo bản ngã, sống vì dục vọng của họ, khó ai làm cho họ hài lòng. Dù người ấy sẵn sàng tiếp giúp họ trong khi khốn đ?n, mà họ vẫn không biết ơn, đôi khi còn phản bội. Người sẵn lòng từ bi ra tế độ chúng sanh, nếu thiếu đức tánh nhẫn nhục thì sự tế độ khó được viên mãn. Không phải ai ai cũng sẵn sàng đưa tay cho ta dìu ra khỏi con đường nguy hiểm hết đâu, dù họ là những kẻ mù. Có kẻ tin đưa tay cho ta dìu đi, song giữa đường vấp phải những hòn đá nhỏ, hay chạm những gốc cây, là họ sừng sộ với ta. Có kẻ dìu đi được một đoạn, họ cho là nhọc nhằn khổ sở, không muốn đi nữa, rồi kiếm chuyện làm khó dễ ta. Có kẻ không ưng đưa tay cho ta dìu, lại còn mắng nhiếc ta thậm tệ. Ở những trường hợp đó, dù ta có thiện chí muốn cứu giúp họ thế mấy, nếu thiếu đức nhẫn nhục, thử hỏi ta có thể làm được việc gì? Bởi thế, người học đạo từ bi trước phải tập đức nhẫn nhục khi nhẫn nhục được thuần rồi mới ra thực hiện từ bi. Chưa tập được đức nhẫn nhục đã vội ra thực hành từ bi, chẳng những không làm được hạnh từ bi, mà lại phát sanh sân hận là khác. Cho nên, phải có cành dương rồi, sau mới nhúng nước cam lồ rưới mát chúng sanh.
Để thấy rõ công hạnh từ bi, chúng ta hãy nghe đoạn văn tán dương năng lực nhành dương của ngài Thiên Thai:
"Thùy dương liễu biến sái cam lồ, trừ nhiệt não dĩ giai đắc thanh lương, tầm thinh cứu khổ ư tứ sanh, thuyết pháp độ thoát ư lục đạo, bẩm từ bi kiên cố chi tâm, cụ tự tại đoan nghiêm chi tướng, hữu cầu giai ứng, vô nguyện bất tùng, cố ngã tri lưu, đoan thừa tịnh quán, thành tụng mật ngôn, gia trì pháp thủy. Thị thủy giả, phương viên tùy khí, dinh hư nhậm thời, xuân dương đông ngưng, khẩm lưu lương chỉ, hạo hạo hồ, diệu nguyên mạc trắc, thao thao hồ, linh phái nan cùng, bích giáng tàng long, hàn đàm tẩm nguyệt, hoặc tại quân vương long bút hạ, tán tác ân ba, hoặc cư Bồ- tát liễu chi đầu sái vi cam lồ, nhất đích tài triêm, thập phương câu tịnh".
Dịch:
"Cầm nhành dương (Ngài) rưới nước cam lồ lên khắp cả, trừ nhiệt não (Ngài) làm cho mọi người đều được tắm trong dòng suối thanh lương. Nghe tiếng kêu mà cứu khổ cho tứ sanh, Ngài thuyết pháp để độ thoát cho lục đạo. Sẵn tâm niệm từ bi kiên cố, đủ dáng vẻ tự tại trang nghiêm, không ai cầu mà chẳng ứng, không nguyện nào mà chẳng thành. Cho nên, chúng con là kẻ xuất gia, an trụ trong tịnh quán, chí thành đọc lại mật ngôn và gia trì pháp thủy. Tịnh thủy này vuông tròn tùy theo bình chứa đựng, có hay không cũng tùy tiết tùy thời. Mùa xuân là loãng, mùa đông thì đặc, khi chảy khi đọng thật là mênh mông; nguồn sâu khó lường, chảy mãi thao thao, thật là dòng linh khôn tuyệt. Ở trong khe đá, nước ngâm bóng loài rồng, ở dưới ao thu, nước tẩm lấy bóng nguyệt. Tịnh thủy này hoặc đọng duới ngòi bút của đấng quân vương để rồi làm tràn ngập sóng ân, hoặc nằm trên đầu nhành dương liễu của vị giác hữu tình để rưới thành cam lồ linh diệu. Chỉ cần một giọt nước rưới lên là mười phương đều được sạch trong". -- (N. H.)
Muốn diễn tả lòng từ bi cao cả của Bồ-tát Quán Thế Âm, tác giả dùng giọt nước nhành dương, thật là linh động biến ảo. Nước không cố định ở một hình thức nào, tùy duyên biến chuyển, có khi là thể lỏng, có khi là thể cứng, có lúc lại biến thành hơi. Nếu chúng ta chấp nước chỉ có ở thể lỏng, tức không hiểu được nước. Không phải chỉ ở một hình thức cố định, mà linh động tùy duyên. Đủ duyên cơ cảm thì Bồ-tát ứng hiện.
Nước khi đọng dưới hồ thu trong xanh in hiện bóng trăng, khi lóng trong khe đá làm nhà cửa loài rồng, lúc chảy ầm ầm thành suối gào thác đổ, thật không thể lường được diệu dụng của nước. Lòng từ bi của Bồ-tát cũng thế, mênh mông như bể cả bao hàm tất cả chúng sanh, tràn trề như ngọn triều lên mang hạnh phúc cho mọi loài thọ hưởng. Bất cứ nơi nào, chốn nào có cảm thì Bồ-tát đều ứng hiện. Sự ứng hiện tùy theo căn tánh chúng sanh, kẻ thấy Bồ-tát ở hình thức này, người cảm Bồ-tát nơi tướng trạng khác. Tựu trong có cảm thông nhất định có linh ứng.
Chỉ một giọt nước (nhỏ mực) đọng dưới ngòi bút của hàng vua chúa cũng đủ làm cho muôn dân thấm nhuần ơn vũ lộ. Hoặc một giọt nước (giọt cam lồ) nằm trên đầu nhành dương liễu của bậc Bồ-tát cũng đủ giải thoát mọi loài chúng sanh. Lòng từ bi không phải chỉ có ở trong tâm Bồ-tát, trong tâm những kẻ tu hành, mà còn có ở trong lòng bậc đế vưong, trong lòng kẻ có quyền thế. Cho nên, ai cũng có thể là bậc cứu khổ chúng sanh, miễn họ phát tâm từ bi. Từ bi không phải là gia bảo dành riêng cho các bậc tu hành, mà nó là của chung tất cả nhân loại. Dù ở hoàn cảnh nào, trường hợp nào, cũng có thể thực hiện từ bi được, nếu trong lòng chứa sẵn từ bi.
Qua những lời tán dương trên, chúng ta thấy lòng từ bi cao cả khôn lường. Chúng ta lễ tượng đức Quán Thế Âm luôn luôn phải ghi nhớ hai đức tánh căn bản của Ngài: nhẫn nhục và từ bi, để đem áp dụng vào bản thân chúng ta. Có thế, sự lễ bái mới thật là hữu ích và cần thiết vô cùng.
Được cảm ơn bởi: taijiquan, hey
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
cloudstrife
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 4206
Tham gia: 20:34, 24/11/10

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi cloudstrife »

BỒ TÁT ĐỊA TẠNG
(Bodhisatva Ksitigarbha)



DANH HIỆU.


Địa Tạng có nghĩa an nhẫn, bất động như đại địa; tư duy sâu xa kín đáo như kho tàng bí mật.


TIỀN THÂN.


Thời tượng pháp của đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương, có người con gái dòng Bà-la-môn đầy đủ phước đức, mọi người đều cung kính. Mẹ cô không tin Tam bảo lại khi dể, tuy cô cố gắng giáo hóa mà không thể được. Sau khi mẹ chết, vì lòng hiếu thảo cô cúng dường tượng đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương cầu xin biết được mẹ đang sanh về đâu. Vì lòng chí hiếu cảm thông đến Phật, đức Phật dạy cô về nhà đêm đến ngồi nhớ danh hiệu Ngài sẽ biết chỗ mẹ sanh. Làm đúng như lời Phật dạy, cô được thấy cảnh địa ngục và sau rốt biết mẹ cô nhờ phước đức của cô đã được sanh về cõi trời.
Sau khi thấy cảnh khổ đau ở địa ngục, cô phát nguyện:
"Bao giờ địa ngục trống không, chúng sanh độ hết, tôi mới thành Phật quả".
Cô gái ấy là tiền thân Bồ-tát Địa Tạng. (Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện Công Đức)


HẠNH NGUYỆN.


Đức Phật ở trên cung trời Đao Lợi thọ ký Ngài rằng:
"Địa Tạng ghi nhớ: ngày nay tôi ở cõi trời Đao Lợi trong đại hội có tất cả chư Phật, trời, rồng, bát bộ nhiều đến trăm ngàn muôn ức không thể nói, đem người, trời, các chúng sanh... chưa ra khỏi tam giới, còn ở trong nhà lửa giao phó cho ông. Ông chớ để các chúng sanh ấy rơi vào đường ác trong một ngày một đêm..." (Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện công đức, phẩm Chúc Lụy nhơn thiên).
Lại, kinh Địa Tạng Thập Luận có đoạn:
"Người thiện nam này Bồ-tát Địa Tạng, mỗi ngày vào buổi sáng, vì muốn làm thành thục các hữu tình, nhập các thiền định nhiều như số cát sông Hằng, từ định xuất rồi, đi khắp mười phương các cõi Phật làm thành thục tất cả hữu tình đã được giáo hóa, tùy cơ cảm của hữu tình khiến được lợi ích an lạc". (Địa Tạng Thập Luận kinh)
Theo kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, đức Phật Thích Ca phó chúc cho Ngài cứu độ chúng sanh sau khi Phật nhập Niết-bàn cho đến lúc đức Di Lặc ra đời. Căn cứ các tiền thân của Ngài, Ngài thường nguyện làm cho địa ngục trống không và độ hết chúng sanh. Nói về hạnh nguyện của Ngài, chúng ta có thể thấy rõ trong bài tán sau đây:
Khể thủ từ bi đại Giáo chủ
Địa ngôn: kiên, hậu, quảng hàm tàng.
Nam phương thế giới võng hương vân,
Hương võ, hoa vân, cập hoa võ
Bảo võ, bao vân, vô số chủng
Vi tường, vi thụy, biến trang nghiêm.
Thiên, nhơn vấn Phật thì hà nhân?
Phật ngôn: Địa Tạng Bồ-tát chí!
Tam thế Như Lai đồng tán ngưỡng,
Thập phương Bồ-tát cộng quy y,
Ngã kim túc thực thiện nhơn duyên,
Tán dương Địa Tạng chân công đức:
Từ nhân, tích thiện, Thệ cứu chúng sanh.
Thủ trung kim tích, chấn khai địa ngục chi môn,
Chưởng thượng minh châu, quang nhiếp đại thiên thế giới.
Diêm Vương điện thượng,
Nghiệp kính đài tiền,
Vị Nam Diêm Phù Đề chúng sanh
Tác đại chứng minh công đức chủ
Đại bi, đại nguyện,
Đại thánh, đại từ,
Bổn tôn, Địa Tạng Bồ-tát ma ha tát!
Dịch:
Dập đầu kính lễ đức giáo chủ Đại từ bi:
đức độ của Ngài, Như đất dày bao hàm rộng khắp
Thế giới phương nam tỏa mây hương
Mưa hương, mây hoa cùng mưa hoa,
Mây báu, mưa báu vô số lớp,
Biến hiện điềm lành khắp trang nghiêm.
Trời, người hỏi Phật nhân gì vậy?
Phật rằng: Địa Tạng Bồ-tát hiện,
Chư Phật ba đời đều tán ngưỡng.
Mười phương Bồ-tát thảy quy y.
Nhân xưa bồi đắp chút duyên lành,
Nay con tán dương chân công đức:
Địa Tạng Bồ-tát đại từ bi
Góp tập thân lành độ chúng sanh:
Rung tích trượng mở toang địa ngục,
Nâng minh châu soi khắp đại thiên.
Trước đài "nghiệp kính", điện Diêm Vương,
Vì chúng sanh ở cõi Nam Diêm,
Làm giáo chủ chứng minh công đức.
Nam mô đại bi, đại nguyện, đại thánh, đại từ
Bổn Tôn Địa Tạng Bồ-tát ma ha tát.
(Ban Hộ Niệm Hội Việt Nam Phật Giáo dịch)


BIỂU TƯỚNG.


Tượng Ngài đúng là người xuất gia, đầu tròn, mặc áo ca sa, tay mặt cầm tích trượng có mười hai khoen, tay trái nắm hạt minh châu.


THÂM Ý.



Các vị Bồ-tát khác phần nhiều hiện thân cư sĩ, đặc biệt Bồ-tát Địa Tạng hiện thân vị Tỳ-kheo. Bởi vì bản nguyện của Ngài là cứu thoát chúng sanh ra khỏi địa ngục (cũng có nghĩa ngục tam giới), nên hình ảnh của Ngài là con người giải thoát (xuất gia). Mình có giải thoát mới mong độ thoát chúng sanh được. Qua hình ảnh giải thoát của Ngài, khiến chúng sanh hâm mộ cầu mong Ngài độ thoát.
Song muốn giải thoát chúng sanh phải có phương tiện gì? Trong tay sẵn có tích trượng và minh châu. Tích trượng là một pháp khí do Phật chế ra. Những vị Tỳ-kheo thời xưa đi khất thực, vai mang bình bát, tay cầm tích trượng. Tích trượng có hai công dụng:
1- Đến trước cổng nhà người rung tích trượng reng reng, khiến người hay ra cúng dường.
2- Lúc đi đường gặp rắn rết đuổi chúng đi, tránh khỏi tai họa.
Trên đầu tích trượng có mười hai khoen tượng trưng mười hai nhân duyên. Đức Phật giác ngộ lý nhân duyên sanh thành bậc chánh giác. Ngài cũng đem lý nhân duyên giáo hóa chúng sanh ngót bốn mươi chín năm. Muốn được giải thoát trước phải ngộ lý mười hai nhân duyên. Đức Địa Tạng tay mặt cầm tích trượng có mười hai khoen để nói lên ý nghĩa: Ngài luôn luôn dùng pháp thập nhị nhân duyên cảnh tỉnh chúng sanh. Nhờ sự cảnh tỉnh ấy, chúng sanh nhận chân được chân lý, giải thoát vòng sanh tử mê lầm.
Tuy nhiên, muốn thấu rõ lý nhân duyên phải nhờ ánh sáng trí tuệ. Chúng sanh trầm luân mãi mãi bởi vô minh che đậy, không trông thấy pháp duyên sanh như huyễn, chấp thật ngã, thật pháp nên cứ lẩn quẩn trong vòng luân hồi. Muốn phá được vô minh phải phát huy trí tuệ. Trí tuệ tăng trưởng thì vô minh sẽ lùi xa. Biểu thị trí tuệ là viên minh châu trong lòng bàn tay đức Địa Tạng. Viên minh châu ấy soi sáng tất cả chốn u minh làm cho mọi chúng sanh bị giam cầm trong ngục tối trông thấy ánh sáng đều được thoát khỏi ngục hình. Cũng vậy, chúng sanh bị giam cầm trong ngục vô minh, một phen phát sanh ánh sáng trí tuệ, ngục thất vô minh liền tan vỡ, mọi người đều được thong dong tự tại.
Chúng ta thờ tượng đức Địa Tạng để nói lên lòng khao khát giải thoát. Sự giải thoát của chúng ta được thành tựu hay không là do trí tuệ nhận chân được lý thập nhị nhân duyên hay không. Nếu chúng ta hằng ngày vận dụng hết tâm tư của mình suy nghiệm pháp thập nhị nhân duyên, một ngày nào đó, thời tiết nhân duyên đến, bỗng nhiên bừng sáng. Đó là chúng ta đã nhờ đức Địa Tạng cứu thoát trong thời không có đức Phật ở đời. Ngược lại, chúng ta cứ đảnh lễ Ngài với ý niệm ỷ lại, dù Ngài có muốn cứu độ chúng ta thế mấy cũng khó bề cứu được.
Đức Địa Tạng sẵn sàng cứu độ chúng ta ra khỏi địa ngục, song chúng ta phải có đủ hai yếu tố: phát huy trí tuệ và soi thấu pháp thập nhị nhân duyên. Có thế, công dụng độ sanh của Bồ-tát Địa Tạng mới thực hữu.
__________________
Được cảm ơn bởi: taijiquan, hey
Đầu trang

Trả lời bài viết