Đất Phật

Trao đổi về y học, võ thuật, văn hóa, phong tục, tín ngưỡng
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
taijiquan
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 784
Tham gia: 17:22, 12/12/10
Đến từ: Hà Nội

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi taijiquan »

bài của cloudstrife rất hay... tiếp tục nữa đi bạn...
Được cảm ơn bởi: cloudstrife, hey
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
cloudstrife
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 4206
Tham gia: 20:34, 24/11/10

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi cloudstrife »

SÁM THẬP PHƯƠNG (nghĩa)

Mười phương chư Phật ba đời,

Di Ðà bực nhứt chẳng rời quần sanh,

Sen vàng chín phẩm sẵn dành,

Oai linh đức cả đã thành vô biên.

Nay con dưng tấm lòng thiềng

Quy y với Phật sám liền tội căn,

Phước lành con có chi chăng,

Ít nhiều quyết cũng nguyện rằng về Tây!

Nguyện cùng với bạn tu đây,

Tùy thời cảm ứng hiện nay điềm lành,

Biết giờ biết khắc rõ rành.

Lâm chung tạn mặt cảnh lành Tây phương.

Thấy nghe chánh niệm hơn thường,

Vãng sanh Lạc quốc đồng nương hoa vàng,

Hoa nở thấy Phật rõ ràng,

Thoát vòng sanh tử, độ an muôn loài.

Phiền não vô biên, thệ dứt trừ,

Pháp môn tu học, chẳng còn dư,

Chúng sinh nguyện độ, bờ kia đến

Phật đạo cùng nhau chứng trí như.

Hư không cõi nọ dầu cùng,

Nguyện trên còn mãi chẳng cùng chẳng thiên.

Không tình cùng có đồng nguyền,

Trí mầu của Phật đồng viên đồng thành.







Trong khoảng không gian vô tận, chẳng phải chỉ có nội một cõi Ta bà của đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật mà chúng ta hiện ở đây thôi, kỳ thật ngoài Ta bà ra còn có vô biên thế giới khác. Phàm hễ có một thế giới thời có một đức Phật làm giáo chủ, thế giới đã vô biên thời là có vô lượng chư Phật. Chẳng những hiện tại đây vô biên thế giới ở mười phương (Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, trên và dưới) có vô lượng chư Phật, và về thời kỳ quá khứ đã có vô lượng chư Phật và đến thời kỳ vị lai cũng sẽ có vô lượng chư Phật. Nên trong văn nói: Mười phương chư Phật ba đời.

Trong vô lượng chư Phật ở mười phương ba đời đó, suy ra thời đức Phật A Di Đà là bậc nhất.

Về Phật quả thời Phật đồng chứng như nhau, đồng trí viên, đồng hạnh mãn, đồng đức đủ, đồng nguyện toàn, công đức của chư Phật đã đồng sao lại nói Phật A Di Đà là bậc nhất? –Đây nói bậc nhất là cứ nơi ứng hóa thân của Phật mà so sánh thôi, chớ không phải nói đến pháp thân và báo thân, về pháp thân và báo thân của chư Phật quyết hẳn là đồng, vì hai thân đó là thật thân quả chứng của chư Phật vậy. Còn ứng hóa thân là những chiếc thân vì chúng sinh cảm cách đến Phật mà ứng hóa ra, chúng sinh cơ cảm có sai khác nên thân ứng hóa của chư Phật cùng tùy đó mà sai khác, lại sự sai khác đó cũng do vì bổn nguyện của chư Phật lúc còn tu hạnh Bồ tát không đồng nhau vậy.

Về sự thù thắng nơi ứng thân của đức Phật A Di Đà lược kể về phần đại khái thời có 4 điều nói:

A.

Quang minh thường chiếu suốt các cõi nước ở mười phương không bị che ngăn, như Trong kinh Tiểu bổn A Di Đà nói Quang minh của đức Phật đó vô lượng chiếu các cõi nước ở mười phương không bị chướng ngại, nên hiệu A Di Đà”.

Trong kinh Đại bổn A Di Đà nói: “Giả sử khi ta đặng thành Phật mà quang minh có hạn lượng, ít nhất là chẳng soi suốt trăm nghìn ức na do tha cõi nước của chư Phật, thời ta nguyện không chứng quả chính giác” (điều nguyện thứ 12 trong 48 điều nguyện).

Còn quang minh nơi ứng thân của chư Phật, phần nhiều có hạn lượng, hoặc chiếu một do tuần, 10 do tuần, 100, 1.000... do tuần, hoặc chiếu 1 thế giới, 10, 100, 1.000... thế giới. Như quang minh nơi ứng thân của đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ chiếu có 1 tầm!

Vì quang minh vô lượng nên đức Phật A Di Đà có 12 biệt hiệu như trong Đại bổn kinh:

1. Vô Lượng Quang,

2. Vô Biên Quang,

3. Vô Ngại Quang,

4. Vô Đối Quang,

5. Viêm Vương Quang (có chỗ để Diệm Vương Quang),

6. Thanh Tịnh Quang,

7. Hoan Hỷ Quang,

8. Trí Huệ Quang,

9. Nan Tư Quang,

10. Bất Đoạn Quang,

11. Vô Xứng Quang,

12. Siêu Nhật Quang.

Do đây nên về quang minh thường nơi ứng thân, thời đức A Di Đà được phần thù thắng trong hàng chư Phật vậy.

B.

Thọ mạng ứng hiện ra đời của chư Phật phần nhiều đều có hạn lượng; hoặc 100 tuổi, 1.000 tuổi... hoặc 1 kiếp, 10 kiếp, 100 kiếp, 1.000 kiếp, v.v... như đức Phật Thích Ca ở đời chỉ có 80 năm.

Còn về ứng thân của đức Phật A Di Đà, thọ mạng vô lượng. Trong Tiểu bổn kinh nói: “Đức Phật đó sống lâu vô lượng vô biên vô số kiếp, nên hiệu là A Di Đà”. Điều nguyện thứ 13 trong Đại bổn kinh nói: “Giả sử khi ta đặng thành Phật mà thọ mạng có hạn lượng, ít nhất không được trăm nghìn ức na do tha kiếp đó, thời ta nguyện không chứng quả chính giác”. Nên đức Phật A Di Đà cùng hiệu là Vô Lượng Thọ Phật.

Đây là thọ mạng của đức Phật A Di Đà có phần thù thắng trong hàng chư Phật vậy.

C.

Về phần đồng cư nơi Cực Lạc, là cõi nước của đức Phật A Di Đà cực kỳ trang nghiêm, thuần vui thanh tịnh, tuyệt không có mảy may khổ não, như trong Đại bổn kinh, Tiểu bổn kinh và Quán kinh đã rộng thuật.

Lại trong bộ Yếu giải nói: “Cực Lạc đồng cư, tứ độ viên dung, thọ lạc viên dung Ở nơi đồng cư độ (cõi phàm) mà viên kiến cả ba bộ trên (3 cõi thánh: Phương tiện độ, Thật báo độ, Thường tịch quang độ cõi trước là cõi của Nhị thừa thánh nhân, kế là cõi của đại Bồ tát, sau rốt là cõi của đức Phật).

Chứ so với các cõi khác, như Ta bà chẳng hạn, nơi chúng ta đồng sống đây chính là đồng cư độ của cõi Ta bà vậy, thời lại đủ thứ uế nhơ, nào tam khổ, bát khổ, vô lượng điều khổ sở ngũ trược v.v... lại hạng phàm phu không thể dự phần nơi cảnh Thánh.

Đây là cõi đức Phật A Di Đà, về phần đồng cư độ có phần đặc biệt trong các cõi nước ở mười phương vậy.

D.

Nhân dân trong nước của đức Phật A Di Đà dầu là phàm, nhưng cũng đều trụ bậc “bất thối chuyển”, nghĩa là ở vào địa vị thẳng mãi đến thành Phật, không còn ngưng trệ lui sụt. Nói chi các bậc Thánh! Trong hàng Thánh của nước Cực Lạc, cứ về bậc “Nhất sinh bổ xứ Bồ tát” như ngài Quán Âm Thế Chí, hay là như Di Lặc v.v... số nhiều vô hạn, huống là bậc Thập địa, Địa tiền, cùng Thanh văn Duyên giác! Trong tiểu bổn kinh nói: “Nơi nước Cực Lạc, chúng sinh nào sinh về đó đều là bậc bất thối chuyển. A la hán và Bồ tát đều đồng vô lượng vô biên, không thể tính đếm mà biết được, chỉ có thể gượng nói là vô lượng vô biên vô số thôi”.
Được cảm ơn bởi: taijiquan, hey
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
cloudstrife
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 4206
Tham gia: 20:34, 24/11/10

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi cloudstrife »

" Của tuy đất cát, lòng con kính thành "



Một thuở nọ, Đức Phật đi ngang qua vùng đất kia để khất thực,như thường lệ trong làng có mấy đứa trẻ hay chơi đùa với nhau bằng những trò đóng giả nấu bếp nội trợ với những thức ăn thừa trong làng còn xót lại.Lũ trẻ gom hết tất cả những thứ đất cát mà chúng cho là thức ăn lên bát đĩa , thức ăn thì không cần nấu, chúng ngắt vụn lá và cứa nhỏ cho vào bát đĩa là xong. Nói bát đĩa cho oai chứ toàn là những miếng mảnh sành, nắp hộp. Còn đũa thì rất sẵn ở bờ dậu chúng tự bẻ lấy. Bữa tiệc chưa được bắt đầu bao lâu thì đã bị gián đoạn vì bởi những bước đi lặng lẽ,trang nghiêm của một ai đó khiến bọn trẻ ko sao rời mắt.Chúng chưa bao giờ thấy người nào ngay giữa cái nắng gay gắt như thế mà đầu đội trời chân đạp đất tay thì cầm bình bát đi khất thực vào giờ này.Thấy dáng vẻ ngài hiền từ, 1 đứa trẻ đó có tên Lệ Xa liền đã rời khỏi bàn ăn và chạy lại chắp tay vái chào. Ngoan lắm! Phật đáp: Thôi cho con trở vào chơi với bạn. Ngần ngừ không chịu lui bước, Lệ Xa tỏ vẻ buồn vì không có gì để cúng dường. Đoán biết em bé có điều gì đó muốn thưa nên Ngài chưa đi vội.
Bỗng Lệ Xa chạy nhanh về phía bạn, nhanh tay bưng ngay bát cơm trên bàn đem dâng cúng Phật với đôi tay tín thành kính cẩn. Lũ trẻ, bạn của Lệ Xa khi ấy cũng không hiểu Lệ Xa đang làm gì và rất lo ngại cho nó.
Đỡ lấy bát, Đức Phật từ tốn nói với giọng trong thanh, hiền dịu:
"Của tuy đất cát, lòng con kính thành, Như Lai nhận cho con".
Nói xong Đức Phật bước đi lặng lẽ trong cái nắng gay gắt,còn riêng về phần lũ trẻ ko hiểu sao chúng lại bật khóc như có 1 cái gì đó khó tả.
Được cảm ơn bởi: teamoon, taijiquan, hey
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
cloudstrife
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 4206
Tham gia: 20:34, 24/11/10

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi cloudstrife »

Năm thời kiên-cố

Chánh-pháp: Thời-gian trong vòng 500 năm sau khi Phật nhập Niết-bàn. Chữ CHÁNH đây có nghĩa là CHỨNG. Trong thời-kỳ nầy, tuy Phật đã nhập-diệt, nhưng pháp-nghi, giới-luật còn vững chắc, nên có người hành-trì, có người tu-chứng. Trong trăm người tu cũng được 70, 80 người giải-thoát.

Tượng-pháp:
Thời-gian trong vòng 500 năm tiếp sau thời chánh-pháp (1000 năm sau khi Phật nhập Niết-bàn). Chữ TƯỢNG đây có nghĩa là MƯỜNG-TƯỢNG, Tương-tợ mà thôi. Thời-kỳ nầy giới-luật, pháp-nghi tu-hành của Phật để lại bị các Ma-tăng (Ngoại-giáo trá-hình, lẫn-lộn vào trong Phật-giáo để phá rối đạo) giảng giải sai lầm ... Nên tuy có giáo-lý, có người hành-trì ... song rất ít người tu-chứng.

Trong 100 người tu may ra chỉ được 1 hoặc 2 người đắc-đạo.

Mạt-pháp: Thời-gian 500 năm kế tiếp sau thời-gian Tượng-pháp (1500 năm sau khi Phật nhập Niết-bàn) trở riết về sau. Chữ MẠT đây có nghĩa là VI-MẠT, là bụi nhỏ, như chót nhọn của đầu sợi lông, như điểm sương ban sáng ... Thời-kỳ nầy đạo-pháp suy-đồi, luật-nghi bại-hoại. Tà-ma, ngoại-đạo lẫn-lộn vào trong Phật-giáo rất nhiều, phá hư Phật-pháp. Tuy rằng giáo lý vẫn còn, người tu vẫn có, nhưng không một ai chứng-đắc được cả.


Năm thời kiên-cố:

a. Năm thời: là 5 thời-kỳ biến-chuyển của Phật-pháp từ thạnh đến suy.
b. Kiên-cố: Ðây là nói về tâm-niệm của chúng-sanh, vọng-chấp quá bền-chắc, khó nhổ lên, khó xoay-chuyển nỗi tựa như rể cây quá sâu chắc không nhổ được vậy.

Theo kinh "Ðại-tập Nguyệt-Tạng", sau khi Phật nhập Niết-bàn, Phật-pháp sẽ lần-lượt trải qua 5 thời-kỳ kiên-cố như sau:

1. Giải-thoát kiên-cố: (Chánh-pháp).


Sau khi Thế-tôn nhập Niết-bàn 500 năm đầu-tiên thì đệ-tử của Phật có nhiều vị tu-hành được chứng-đắc, giải-thoát. Trong 100 người tu cũng có được 70, 80 người đắc quả. Trong nhơn-gian đầy-dẫy các bậc nhơn-hiền.

2. Thiền-định kiên-cố: (Tượng-pháp).

Sang đến 500 năm thứ hai, hàng xuất-gia, tại-gia tuy ít có người chứng-đạo như 500 năm đầu, song vẫn còn thực-hành y theo lời Phật dạy, đi sâu vào trong cảnh-giới Thiền-định. Trong 100 người tu cũng có được 7,8 người chứng quả.

3. Ða-văn kiên-cố: (Mạt-pháp).

Qua đến 500 năm thứ ba, thì đạo-căn chúng-sanh cạn-cợt hơn trước nhiều. Ða phần chỉ ham thích giảng-kinh, nói lý ngoài môi-miệng để cầu danh-lợi mà thôi. Trong muôn ức người tu, họa may lắm mới có vài ba người đắc đạo.

4. Tháp-tự kiên-cố:


Sang qua 500 năm thứ tư (tức là 2000 năm sau khi Phật nhập Niết-bàn) - Phật-giáo đồ chỉ thuần chuyên-chú vào các việc cất chùa to, tháp lớn để cầu phước-báo, chớ không còn cầu việc giải-thoát nữa. Ức-ức kẻ tu-hành, song không có một ai chứng đạo.

5. Ðấu-tranh kiên-cố:

Bước sang 500 năm thứ năm (tức là 2500 năm sau khi Phật nhập Niết-bàn - chính là thời buổi bây-giờ đây) - Phật giáo-đồ vì ngã-chấp và tự-ái quá nặng, nên trong đạo lẫn ngoài đời thường xảy ra nhiều cảnh tranh-đua, tàn-hại, giết-chóc lẫn nhau. Tam-Bảo không còn đúng theo thiệt-nghĩa nữa.

Kinh nói: "Năm trăm năm rốt sau ..." Chính là thời kỳ nầy, là hiện nay vậy.
__________________
Được cảm ơn bởi: teamoon, taijiquan, hey
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
cloudstrife
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 4206
Tham gia: 20:34, 24/11/10

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi cloudstrife »

PHẬT GIÁO

Triết lý Phật giáo nói đến định luật Thành, Trụ, Hoại, Không và bốn giai đoạn nầy cứ luân hồi mãi. Như vậy, giai đoạn Hoại, Không là thời ký cuối của chu kỳ thành lập Vũ Trụ, vạn vật.

Muôn vật giữa đời, có thạnh tất có suy, dù cho đạo pháp của Phật cũng vậy. Nhưng động cơ chánh trong sự suy vong của nền đạo là do con người chớ không phải do giáo pháp. Như hiện thời có thể nói Tam-tạng Kinh-điển đầy đủ hơn xưa, nhưng sở dĩ gọi là mạt-pháp, vì con người kém đạo đức căn lành không giữ đúng theo lời dạy của Phật. Cho nên người xưa có câu: "Nhơn năng hoằng đạo, phi đạo hoằng nhơn", chính là ý nầy, "Người hay mở mang cho đạo, không phải đạo mở mang cho người", câu nầy chỉ có ý nghĩa phiến diện!

Về đạo Phật, theo thuyết tam thời, thì hiện tại là thời mạt-pháp; theo thuyết ngũ thời, hiện tại chính nhằm thời đấu tranh. Từ đây về sau, cứ đúng theo thật tế mà nói, Phật-pháp có ở trong tình trạng tiệm suy, nếu có vùng dậy cũng chỉ trong giai đoạn tạm thời, hay hoặc chỉ có ảnh hưởng bên ngoài. Vậy, nhất là hàng Phật-tử, càng nên cố gắng thật học, thật tu, để duy trì pháp vận, lợi ích thế gian, và phải làm với hết sức của mình.

Theo Kinh Phật thì Đức Thích Ca có tiên tri: Sau nầy vào thời Mạt pháp sẽ có Đức Phật Di Lặc ra đời, là một vị Phật thứ năm trong 5 vị Phật. Phật Di Lặc là một vị Bồ Tát (*)sẽ nối tiếp Đức Thích Ca lập ra Hội Long Hoa để hóa độ chúng sanh. Hết thành rồi suy, hết suy lại thành, Phật Thích-Ca đã nhập diệt, Ðức Di-Lặc sẽ kế tiếp giáng sinh, nên chung qui chánh-pháp vẫn là bất diệt. Từ khi Phật Tích Ca tịch diệt đến nay, theo Kinh Phật, chia ra làm ba thời ký: Chánh pháp, Tượng Pháp và Mạt Pháp

1. Thời kỳ Chánh Pháp:

Là thời ký Đức Phật còn tận thế cho đến khi giáo lý của Ngài còn được phổ biến chân truyền. Phần đông ngươì tu được chứng quả, thời gian nầy khoảng năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.

2. Thời kỳ Tượng Pháp:

Thời kỳ nầy khoảng một ngàn năm lúc chư vị đệ tử của Phật còn tại thế, nối nhau truyến Chánh giáo, nhưng vì không được chân truyền nên đồ chúng đắc quả ít hơn thời gian Chánh pháp.

3. Thời Mạt Pháp:

Phật giáo suy vi vì thất chân truyền, thiên hạ thiên về vật chất mà không lo đến đường tinh thần nên rất ít người chứng quả.

Theo Kinh Đại Tập, từ khi Phật tịch diệt về sau chỉ có 2.500, chia ra 5 thời kỳ: Mỗi thời kỳ 500 năm và 500 năm sau cùng là thời kỳ nhân loại xa lìa chánh pháp, theo tà thuyết, tìm đủ mọi mánh khoé để giết hại nhau. Thời kỳ nầy là thời kỳ Mạt Pháp, sẽ có Đức Phật Di Lặc ra đời giáo Đạo cho chúng sanh trở về Chánh pháp để lập đời Thượng Nguơn Thánh Đức, tạo một Chu Kỳ mới là cuộc sống sẽ vô cùng tốt đẹp.

(*) Tiếng Phạn là Bodhisattva, nghĩa là cứu độ tất cả mọi người. Vị nầy còn một bậc nữa là thành Phật. Đức Di Lặc nay là vị Phật tá danh là"Long Hoa Giáo Chủ Đương Lai Hạ sanh Di Lặc Tôn Phật". Ngài là vị Phật mà vì lòng Tư Bi thương nhân loại nên Ngài hạ mình giáng sanh để tận độ chúng sanh.


NHỮNG LỜI HUYỀN KÝ VỀ THỜI MẠT KIẾP

Khi Ðức Thế-Tôn sắp vào cõi Niết-bàn, Ngài có huyền ký tình trạng trong đời mạt-pháp và lúc chánh-pháp sắp diệt. Xin dẫn ra đây ít đoạn để cho hàng Phật-tử xuất-gia tại-gia tự kiểm điểm, gạn bỏ điều ác, tu tập pháp lành.

Trong kinh Đại-Bi, Đức Phật bảo: "Nầy A-Nan! Khi ta Niết-bàn rồi, trong thời gian 500 năm rốt sau, nhóm người giữ giới, y theo chánh-pháp, lần lần tiêu giảm; các bè đảng phá giới, làm điều phi pháp, ngày tăng thêm nhiều. Do chúng-sanh phỉ báng chánh-pháp, gây nhiều ác hạnh, nên phước thọ bị tổn giảm, các tai nạn đáng kinh khiếp nổi lên. Bấy giờ có nhiều Tỷ-khưu đắm mê danh lợi, không tu thân, tâm, giới, huệ. Họ tham trước những y, bát, thức ăn, sàng tòa, phòng xá, thuốc men, rồi ganh ghét tranh giành phỉ báng lẫn nhau, thậm chí đem nhau đến quan ty, lời nói như đao kiếm.

Cho nên, A-Nan! Đối với những vị xuất-gia tu phạm hạnh, thân khẩu ý thực hành đạo từ bi, ông nên cung cấp những thức cúng dường cho đầy đủ. Vị nào đối với các phạm hạnh hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc tin, hoặc làm, hoặc nhiều, hoặc ít, ông nên làm thế nào cho họ không khởi lòng não loạn, nên vâng giữ điều nầy! Tại sao thế? Vì trong cõi ngũ trược vào thời mạt kiếp, có nhiều sự khổ nạn như: đói, khát, giặc, cướp, nắng hạn, bão lụt, các loài trùng phá hại mùa màng, tóm lại có nhiều nhân duyên làm cho chúng-sanh bị xúc não.

A-Nan! Lúc bấy giờ có các hàng trưởng-giả, cư-sĩ, tuy bị nhiều sự khổ não bức thiết, song vẫn sanh lòng tịnh tín, cung kính tôn trọng ngôi Tam-bảo, bố thí, giữ giới, tụng kinh, tu các công đức, khuyên người y theo Phật-pháp làm lành. Do thiện căn đó, khi mạng chung họ được sanh về Thiên-đạo, hưởng các điều vui. Còn các Tỳ-khưu ác kia, ban sơ dùng đức tin, tâm lành, bỏ tục xuất-gia; nhưng sau khi xuất-gia, họ lại tham trước danh lợi, không cố gắng tu hành, nên kết cuộc bị đọa vào ác đạo"...

Kinh Đại-Tập nói: "Trong đời mạt-pháp, có những vua, quan, cư-sĩ ỷ mình giàu sang quyền thế, sanh tâm kinh mạn, cho đến đánh mắng người xuất-gia. Nên biết những kẻ gây nghiệp ấy, sẽ bị tội đồng như làm cho thân Phật ra huyết..."

Trong kinh Pháp-Diệt-Tận, Đức Phật bảo: "Về sau, khi pháp của ta sắp diệt, nơi cõi ngũ trược nầy tà đạo nổi lên rất thạnh. Lúc ấy có những quyến thuộc ma vào làm Sa-môn để phá rối đạo pháp của ta. Họ mặc y phục như thế gian, ưa thích áo cà-sa năm sắc, ăn thịt uống rượu, sát sanh, tham trước mùi vị, không có từ tâm tương trợ, lại ganh ghét lẫn nhau. Bấy giờ có các vị Bồ-Tát, Bích-Chi, La-Hán vì bản nguyện hộ trì Phật-pháp, hiện thân làm Sa-môn, tu hành tinh tấn, đạo hạnh trang nghiêm, được mọi người kính trọng.
Các bậc ấy có đức thuần hậu, từ ái, nhẫn nhục, ôn hòa, giúp đỡ kẻ già yếu cô cùng, hằng đem kinh tượng khuyên người phụng thờ đọc tụng, giáo hóa chúng-sanh một cách bình đẳng, tu nhiều công đức, không nệ tổn mình lợi người. Khi có những vị Sa-môn đạo đức như thế, các Tỷ-khưu ma kia ganh ghét phỉ báng, vu cho những điều xấu, dùng đủ cách lấn áp, xua đuổi, hạ nhục, khiến cho không được ở yên. Từ đó các Tỷ-khưu ác càng lộng hành, không tu đạo hạnh, bỏ chùa chiền điêu tàn hư phế, chỉ lo tích tụ tài sản riêng, làm các nghề không hợp pháp để sinh sống, đốt phá rừng núi làm tổn hại chúng-sanh không có chút từ tâm.
Lúc ấy có nhiều kẻ nô tỳ hạ tiện xuất-gia làm tăng ni, họ thiếu đạo đức, dâm dật tham nhiễm, nam nữ sống lẫn lộn, Phật-pháp suy vi chính là do bọn nầy. Lại có những kẻ trốn phép vua quan, lẫn vào cửa đạo, rồi sanh tâm biếng nhác không học không tu. Đến kỳ tụng giới trong mỗi nửa tháng, họ chỉ lơ là gắng gượng, không chịu chuyên chú lắng nghe. Nếu có giảng thuyết giới luật, họ lược bỏ trước sau, không chịu nói ra hết.

Nếu có đọc tụng kinh văn, họ không rành câu, chữ, không tìm hỏi bậc cao minh, tự mãn cầu danh, cho mình là phải. Tuy thế, bề ngoài họ cũng ra vẻ đạo đức, thường hay nói phô, để hy vọng mọi người cúng dường. Các Tỷ-khưu ma nầy sau khi chết sẽ bị đọa vào Địa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc-sanh trải qua nhiều kiếp. Khi đền tội xong, họ thác sanh làm người ở nơi biên địa, chỗ không có ngôi Tam-bảo.


Lúc Phật-pháp sắp diệt người nữ phần nhiều tinh tấn, ưa tu những công đức. Trái lại, người nam phần nhiều kém lòng tin tưởng, thường hay giải đãi khinh mạn, không thích nghe pháp, không tu phước huệ, khi thấy hàng Sa-môn thì rẻ rúng chê bai, xem như đất bụi. Lúc ấy, do nghiệp ác của chúng-sanh, mưa nắng không điều hòa, ngũ sắc hư hao, tàn tạ, bịnh dịch lưu hành, người chết vô số. Thời bấy giờ, hàng quan liêu phần nhiều khắc nghiệt tham ô, lớp dân chúng lại nhọc nhằn nghèo khổ, ai nấy đều mong cho có giặc loạn. Trong thế gian lúc ấy khó tìm được người lương thiện, còn kẻ ác thì nhiều như cát ở bãi biển, đạo đức suy đồi, chư thiên buồn thương rơi lệ.

Nầy A-Nan! Lúc đạo pháp ta sắp diệt, ngày đêm rút ngắn, con người đoản mệnh, nhiều kẻ mới bốn mươi tuổi, tóc trên đầu đã điểm bạc. Về phần người nam, bởi nhiều dâm dật nên hay yểu chết, trái lại người nữ sống lâu hơn. Lúc ấy có nhiều tai nạn nổi lên, như giặc cướp, bịnh tật, bão lụt, nhơn dân hoặc không tin hiểu đó là nghiệp báo, hoặc vì sống quen trong cảnh ấy, xem như là việc thường. Bấy giờ nếu có bậc Bồ-Tát, Bích-Chi, La-Hán dùng bi tâm ra giáo hóa, do nghiệp ác của chúng-sanh và sức ngoại ma xua đuổi, cũng ít ai đến dự pháp hội.
Còn bậc tu hành chân chánh, phần nhiều ẩn cư nơi núi rừng xa vắng, giữ đời sống an vui đạm bạc, được chư thiên hộ trì. Khi nhơn thọ giảm còn 52 tuổi, áo cà-sa của hàng Sa-môn đổi thành sắc trắng, kinh Thủ-Lăng-Nghiêm và Bát-Chu-Tam-Muội tiêu diệt trước, các kinh khác lần lần diệt sau, cho đến không còn văn tự.

Nầy A-Nan! Như ngọn đèn dầu trước khi sắp tắt, ánh đèn bỗng bừng sáng lên rồi lu mờ và mất hẳn. Đạo-pháp của ta đến lúc tiêu diệt cũng có tướng trạng như thế. Từ đó về sau trải qua ức triệu năm, mới có Phật Di-Lặc ra đời giáo hóa chúng-sanh". Lúc Ðức Di-Lặc thành chánh giác, Ngài ngồi nơi một gốc đại thọ, cành cây như mình rồng, hoa nở tủa ra bốn bên như những đầu rồng, nên gọi cây nầy là Long-Hoa-bồ-đề. Sau khi thành đạo quả, Phật Di-Lặc cũng ngồi nơi đây mà thuyết pháp, nên lại có danh từ Long-Hoa-pháp-hội.



( trích Phật học tinh yếu của HT Thích Thiền Tâm )
Được cảm ơn bởi: teamoon, hey
Đầu trang

hey
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 255
Tham gia: 16:15, 24/02/11

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi hey »

:) :) :) :) :)
Tập tin đính kèm
1.jpg
1.jpg (152.42 KiB) Đã xem 1012 lần
Được cảm ơn bởi: cloudstrife, tigerstock68
Đầu trang

hey
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 255
Tham gia: 16:15, 24/02/11

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi hey »

--------------------------
Tập tin đính kèm
2.jpg
2.jpg (170.96 KiB) Đã xem 1010 lần
3.jpg
3.jpg (207.95 KiB) Đã xem 1010 lần
4.jpg
4.jpg (190.84 KiB) Đã xem 1010 lần
Được cảm ơn bởi: cloudstrife, taijiquan
Đầu trang

hey
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 255
Tham gia: 16:15, 24/02/11

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi hey »

--------------
Tập tin đính kèm
5.jpg
5.jpg (170.35 KiB) Đã xem 1010 lần
6.jpg
6.jpg (209.92 KiB) Đã xem 1010 lần
7.jpg
7.jpg (172.4 KiB) Đã xem 1010 lần
Được cảm ơn bởi: cloudstrife, taijiquan
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
cloudstrife
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 4206
Tham gia: 20:34, 24/11/10

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi cloudstrife »

TẶNG MỘT VẦNG TRĂNG
Tác giả: Lâm Thanh Huyền
Dịch giả: Phạm Huê


Một vị thiền sư nọ cất túp lều tranh trong rừng sâu sống ẩn dật tu luyện không tranh đua với đời. Thiền sư tiếp xúc với cỏ cây nhiều hơn con người cho nên tâm hồn ông rất thanh thản vô vi. Một đêm trăng sáng vằng vặc, ông đi dạo chơi trong núi, giữa khung cảnh thanh tịnh huyền ảo đó, ông đột nhiên khai ngộ ra tự tính bát nhã đã tiềm ẩn từ lâu trong người.


Nhà sư vui mừng rảo bước ra về, không ngờ nơi ông tu hành đang có sự viếng thăm của một kẻ trộm. Tội nghiệp cho tên trộm, hắn không tìm thấy được vật gì quí giá trong túp lều tranh đành thất thểu bước ra thì chạm mặt nhà sư. Thật ra thì nhà sư đã về đến nhà từ lâu nhưng ông ngại sẽ làm cho tên trộm giật mình, vì vậy ông đã nấn ná phía bên ngoài đợi cho tên trộm bước ra, tay ông cầm sẵn chiếc cà sa bạc màu mà ông đã mặc nhiều năm trên người. Tên trộm hơi bỡ ngỡ chưa biết phải làm sao thì nhà sư đã lên tiếng:
- Con lặn lội đường xa đến thăm, ta không nỡ để con ra về tay không. Trời về khuya gió lạnh, con hãy cầm đỡ tấm cà sa này xem đó như một món quà nhỏ của ta tặng.
Nói xong ông khoác chiếc áo cũ lên người tên trộm, con người đáng thương cảm thấy ngỡ ngàng, hắn lầm lũi ra đi mà không nói được một lời.
Nhìn theo kẻ trộm dần dần khuất vào bóng đêm, nhà sư thở dài lẩm bẩm:
- Hỡi kẻ đáng thương, ta ước gì có thể tặng cho con một vầng trăng sáng vằng vặc của đêm nay.

Nhà sư không tặng được vầng trăng cho tên trộm cho nên ông cảm thấy xốn xang. Trong đêm sáng trăng thanh tịnh này, không có gì đẹp và thanh khiết cho bằng ánh trăng. Khi ông muốn mang ánh trăng tặng cho người khác, ngoài cái đẹp của sự vật, còn có một ý nghĩa trong sạch và thanh thoát cho tâm hồn. Từ ngàn xưa, những vị Đại Đức của Thiền Tông thường dùng ánh trăng để tượng trưng cho tự tính của con người, lý do là vầng trăng đêm mang ánh sáng dịu dàng, bình đẳng chiếu sáng khắp nơi. Làm thế nào để tìm cho được một ánh trăng sáng trong tâm hồn thường là mục tiêu của người theo đạo Thiền. Dưới mắt của nhà sư, kẻ trộm kia bị dục vọng làm mờ đôi mắt, cũng như vầng trăng sáng bị mây đen che phủ. Một con người không tìm được hướng đi, không tự chiếu sáng lấy mình, chính là một điều vô cùng bất hạnh.
Sáng hôm sau, khi ánh bình minh đánh thức ông dậy, nhà sư mở mắt ra thì thấy tấm áo cà sa đã được xếp ngay ngắn đặt bên cạnh từ lúc nào. Nhà sư cảm thấy vui mừng hơn bao giờ hết, ông lẩm bẩm nói rằng:
- Cuối cùng thì ta cũng tặng được cho con người đáng thương kia một vầng trăng sáng rồi.

Chắc là bạn không thể ngờ là vầng trăng cũng có thể trở thành một món quà tặng. Điều này kể ra cũng lý thú lắm nhỉ. Trong cuộc sống thực tế của chúng ta, có những sự vật vô hình không thể nào làm quà tặng được. Dĩ nhiên là bạn không thể nào nói với người ăn mày ngoài đường như thế này: "Tôi tặng cho ông một chút từ bi". Chúng ta chỉ có thể dùng số lượng tiền bạc hoặc hiện vật nhiều hay ít để đo lường tấm lòng từ bi đó. Cũng như bạn không thể nào nói với người yêu của bạn rằng: "Anh tặng cho em 100 cái tình yêu", bạn chỉ có thể tặng cho nàng 100 đóa hoa hồng. Cũng từ số lượng hoa hồng, người ta có thể đo lường được mức độ say đắm và tấm lòng trung kiên với người yêu. Tuy rằng lối tính toán và đo lường này không phải lúc nào cũng chính xác. Đôi khi người tặng hoa hồng có thể lại là người thật lòng thương yêu và tình yêu của họ lại còn nồng nàn và chín chắn hơn cả những người tặng hột xoàn cho người đẹp nữa, bạn ạ.

Thế nhưng trên cõi đời này, có nhiều sự việc như tình bạn, tình yêu, chính nghĩa, hạnh phúc, bình an, trí tuệ đều là những thứ vô giá mà chúng ta không thể nào dùng những sự vật hữu hình để đo lường. Đây cũng là một điều làm cho giữa con người và con người có những sự hiểu lầm nhau trên giá trị của những sự việc vô hình trừu tượng. Con người thường dùng những vật hữu hình để diễn đạt những tín hiệu của tâm linh, như là tình yêu thương, lòng hiếu thảo, sự biết ơn chẳng hạn. Thế nhưng trong quá trình để đo lường những sự việc vô hình đó chắc chắn thế nào cũng có những chênh lệch, mà sự chênh lệch này thường khiến cho bạn bè hiểu lầm, tình ruột thịt trở thành thù nghịch, kẻ yêu nhau trở thành nghi kỵ, thù ghét nhau.


Những tình cảm vô hình giá trị đó có một sự tiếp cận với triết lý của Phật Học: "chỉ có thể lãnh hội mà không thể nào truyền đạt". Thí dụ như một cái siết tay thân mật giữa đôi bạn thân, một nụ hôn nồng cháy của đôi tình nhân, một nụ cười âu yếm giữa vợ và chồng, một tiếng kêu mẹ thân yêu thắm thiết, hoặc một lời cầu chúc đẹp đều là những món quà tặng cho nhau quí giá nhất mà không có một khối lượng tiền của nào có thể mua được(hay một sự quan tâm đặt biệt xuất phát từ đáy lòng cũg là một món quà quý giá hơn cả mọi hiện vật )

Trên thế gian không có một phương thức cố định nào có thể huấn luyện cho con người biểu lộ những tình cảm vô hình đó. Thế nhưng theo tôi nghĩ, phương pháp duy nhất để huấn luyện cho bản ngã có thể diễn đạt được những tình cảm này là chúng ta hãy quay lại phán xét về chính bản thân, tìm nhiều phương thức để làm giàu nhân cách, khiến cho bản thân chúng ta trở thành thuần thiện, nhiệt tình, vô tư thì tự nhiên những tình cảm vô hình bạn dành cho kẻ khác sẽ biểu hiện một cách rõ ràng trên sắc diện.


Khi sự chân thành của bạn (Lòng từ bi) có thể lộ ra trên sắc diện thì lúc đó bạn có thể tặng một vầng trăng cho kẻ khác mà chắc chắn đối phương sẽ dễ dàng nhận được món quà quí giá này.
Nếu lúc nào chúng ta cũng giữ được tấm lòng trong sạch, tính tình khoan dung, tự tâm yên tĩnh, lục căn thanh tịnh thì đừng nói một ánh trăng mà nhiều ánh trăng cũng có thể làm quà tặng cho kẻ khác được. ánh trăng không chỉ đơn thuần dùng để tặng cho nhau mà còn có thể chiếu sáng lẫn nhau, soi đường cho nhau, hồi hướng cho nhau.


Vì vậy khi nhà sư nói với tên trộm: "Ước gì ta có thể tặng cho con một vầng trăng sáng", đó chính là tiếng nói của một tấm lòng từ bi, trong sạch. Tấm lòng từ bi đã khiến cho kẻ trộm cảm nhận được và xấu hổ vì hành động bất lương. Hắn đã ngộ đạo và quay lại con đường phúc thiện tràn đầy ánh sáng.
__________________
Được cảm ơn bởi: taijiquan
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
cloudstrife
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 4206
Tham gia: 20:34, 24/11/10

TL: Đất Phật

Gửi bài gửi bởi cloudstrife »

Hình ảnh 8 vị bồ tát trong kinh Dược Sư

Kinh Dược Sư Bổn Nguyện Công Đức chép rằng: "...trong hàng tứ chúng Bí Sô, Bí Sô Ni, Ô Ba Sách Ca, Ô Ba Tư Ca, và những thiện nam tín nữ đều có thọ trì tám phần trai giới... rồi đem căn lành này nguyện sanh về chỗ Phật Vô Lượng Thọ ở thế giới Cực Lạc Tây Phương... nhưng nếu chưa quyết định mà nghe được danh hiệu Đức Dược Sư Lưu Luy Quang Như Lai, khi mạng chung sẽ có tám vị Đại Bồ tát như Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Quán Thế Âm Bồ tát, Đắc Đại Thế Bồ tát, Vô Tận Ý Bồ tát, Bảo Đàn Hoa Bồ tát, Dược Vương Bồ tát, Dược Thượng Bồ tát, Di Lặc Bồ tát từ trên không trung đi đến đưa đường chỉ lối cho, thì được vãng sanh..."

1. Văn Thù Sư Lợi Bồ tát: tiếng Phạm là Manjusri, dịch âm là Văn Thù Thi Lợi, Mạn Thù Thất Lợi, Mãn Tổ Thất Lý, nghĩa là Diệu Thích, Diệu Cát Tường, Diệu Lạc, Pháp Vương Tử…Là 1 trong Tứ Đại Bồ tát của Phật Giáo, có liên hệ mật thiết với kinh điển Bát Nhã (trí tuệ). Vị Bồ tát này thành Phật đã lâu, nhiều kiếp lâu xa trong quá khứ đã gieo trồng hạt giống Phật, đã thành Vô Thượng Chánh Đẳng Giác ở thế giới Bình Đẳng phương Nam, hiệu là Long Chủng Thượng Như Lai, có tuổi thọ bốn trăm bốn mươi vạn tuổi, Đức Phật đó nay gọi là Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử.

Theo hệ thống kinh điển Đại Thừa Phật Giáo như kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, kinh Duy Ma Cật, kinh Bảo Tích Tam Muội Văn Thù Sư Lợi Vấn Pháp Thân, kinh Pháp Hoa… đều lấy Văn Thù Bồ tát làm thượng thủ, cho Văn Thù Bồ tát là mẹ sinh ra chư Phật, Bồ tát (vì Phât Giáo lấy trí tuệ làm căn bản). Văn Thù Bồ tát và Phổ Hiền Bồ tát là 2 vị Bồ tát đứng hầu Đức Phật Thích Ca, thế gian thường gọi là Hoa Nghiêm Tam Thánh, biểu thị cho trí huệ của Phật. Ngài thường ngồi trên Sư tử tượng trưng cho oai thế dũng mãnh của chư Phật, Bồ tát. Tiếng rống của sư tử biểu thị sự vô úy, có công năng trấn tỉnh những chúng sanh trầm luân mê muội, tay cầm kim cang bảo kiếm biểu thị đoạn trừ phiền não của chúng sanh.
Tập tin đính kèm
1.jpg
Được cảm ơn bởi: taijiquan, hey
Đầu trang

Trả lời bài viết