Nhân quả là quy luật tất yếu của sự sống, có sinh ắt có diệt. Chỉ duy nhất con đường chư Phật đã giảng dạy mới giúp chúng ta liễu thoát sinh tử. Tùy mỗi căn cơ mà mỗi người nên tu pháp môn riêng, tịnh, mật hay thiền. Đời người khó gặp, vì những nghiệp ác mà chúng ta có thể trôi lăn trong tam ác đạo, nay có thân người không tu thì còn đợi đến bao giờ
Đây là một đoạn trích trong tác phẩm DELOG

HÀNH TRÌNH TỚI CÁC CÕI BÊN KIA CÁI CHẾT
DELOG DAWA DROLMA
Một tác phẩm rất hay, giới thiệu về một trong các cõi tịnh độ, ai muốn tìm hiểu phật pháp nên đọc
2. NHỮNG QUÁN CHIẾU TRONG TẤM GƯƠNG PHA LÊ
SÁU CÕI BẤT TỊNH
Xin đảnh lễ Đức Avalokiteshvara, đấng cao quý của thế giớI.
Ngàn cánh tay của Ngài là ngàn đại đế;
ngàn con mắt ngài là ngàn vị Phật của thời đại may mắn này.
Ngài xuất hiện trong mọi phương cách cần thiết để thuần hóa chúng sinh.
Con đảnh lễ Đức Avalokiteshvara cao quý và siêu phàm.
Con đảnh lễ Ngài, đấng che chở chúng con thoát khỏi tám nỗi sợ hãi;1
Con đảnh lễ Ngài, đấng dẫn dắt chúng con trên con đường tới các cõi cao hơn;
Con đảnh lễ Ngài, đấng đưa dẫn chúng con tới giải thoát.
Con đảnh lễ Đức Tara, với Ngài mọi mối liên hệ đều có ý nghĩa.
Sắc thân vinh quang của các Ngài hợp nhất tất cả chư Phật;
Các Ngài là tinh túy đích thực của Đức Kim Cương Trì;
Các Ngài là cội gốc của Tam Bảo.
Con đảnh lễ các bậc Đạo sư.
Bằng sự kính lễ, cúng dường, sám hối,
hoan hỉ trước công đức của người khác, khuyến thỉnh các bậc Thầy giảng dạy, và khẩn cầu chư Phật hiển lộ trong thế giới,
bất kỳ đức hạnh nhỏ bé nào con có thể tích tập
con hồi hướng cho sự giác ngộ siêu việt vô song.
Giờ đây Kundun Rinpoche, bậc có linh kiến về Phật Pháp,
hai tulku cực kỳ quý báu,2
những bậc cha mẹ tốt lành đã sinh ra tôi, và những người khác
đã liên tục thúc dục tôi, cho tới khi tôi không thể phớt lờ họ,
và vì thế tôi viết ra những điều chỉ là một giọt nước trong đại dương.
Tôi, cô gái khiêm tốn này tên là Dawa Drolma,
đã phát khởi động lực thanh tịnh và đi vào cánh cửa Giáo Pháp.
Tôi đã từ bỏ cách hành xử xấu xa và những hành vi ác hại, vô đạo đức.
Tôi đã cúng dường Tam Bảo càng nhiều càng tốt
và bố thí cho hành khất bằng mọi cách thức tôi có thể.
Tôi đã làm mọi nỗ lực để thực hành đức hạnh.
Khi đã vứt bỏ những thái độ xấu xa, tôi chỉ cố gắng trong những cách thế bi mẫn.
Một số người nói: “Việc sinh ra của cô ấy là một tái sinh may mắn,”
và tự đặt mình vào hàng ngũ những đệ tử trung thành và sùng mộ của tôi.
Những người khác nói: “Cô ta không phải là một vị trời cũng chẳng phải một quỷ ma.”
Dù họ thanh minh cho tôi, nhưng khó có thể coi những gì họ nói là sự thật.
Trong bất kỳ trường hợp nào, tôi là một cô gái ít ham muốn và nhu cầu.
Tôi không có những hy vọng được nổi tiếng.
Tôi không có sức mạnh để đảm đương gánh nặng của một nữ anh hùng đang tìm kiếm một địa vị cao ngất.
Tôi không khao khát của cải hay kiếm tìm để có được ngay cả một sợi chỉ.
Tôi không ước muốn thuyết giảng, và thiếu hẳn một cái miệng lanh lợi và cái lưỡi hóm hỉnh.
Tuy nhiên, với tâm hoàn toàn thanh tịnh và vị tha
tôi có cảm tưởng rằng mình có thể ảnh hưởng đến tâm thức của một ít chúng sinh,
và vì thế tôi sẽ bày lộ một con đường cao quý, không thể sai lầm và thẳng tắp.
Nếu bạn coi con đường này như cái gì chân thật, thì đó sẽ là sự tốt lành vĩ đại nhất mà bạn có thể làm cho chính mình,
bởi bằng những chọn lựa đạo đức, bạn bảo đảm cho hạnh phúc của riêng mình.
Vì thế, hãy chú tâm lắng nghe những lời này của tôi!
Đây là câu chuyện của tôi về cái chết và hành trình đi tới địa ngục.
Các Đạo sư tôn kính ở địa vị cao,
những nhà cai trị với quyền lực và ảnh hưởng vĩ đại, an tọa trên những ngai tòa của họ,
và những nhà bảo trợ giàu có, là những người tạo dựng hạnh phúc và kho lẫm của cải vật chất –
khi họ chết và đi tới các cõi địa ngục,
không có vô số nhà sư tề tựu trong vẻ lộng lẫy và tráng lệ,
không có những cuộc duyệt binh với kiếm đao và các loại vũ khí,
không có những kho thực phẩm hay của cải để thực hiện những cuộc hối lộ bí mật.
Địa vị cao ngất, sức mạnh và quyền lực tàn nhẫn,
của cải của người giàu, những thân xác yêu kiều đẹp đẽ,
vẻ hóm hỉnh tinh ranh, và những lý lẽ thông minh
không thể làm khuây khỏa hay lừa gạt Thần Chết.
Có ai trong cõi người này sống mãi mà không chết?
Có ai không phải chia ly gia đình và bằng hữu?
Có thâu đạt nào không bị bỏ lại đằng sau?
Có ai không rơi ngã từ một tột đỉnh chót vót?
Sẽ tốt hơn cho tất cả các bạn nếu có những người như thế!
Mặc dù chúng ta nói về địa ngục như nơi nào xa xôi lắm, nhưng không phải thế.
Mặc dù chúng ta nói về bardo3 như nơi nào khác để đi, nhưng không phải thế.
Cái chết lảng vảng bên mình như cái bóng của ta đi theo thân xác.
Nếu bạn tỉnh giác về cái chết không thể tránh, bạn là người thông minh nhất trong tất cả.
Khi giờ chết đã tới, những bậc cha mẹ và con cái,
vợ chồng, thân quyến và bạn bè, của cải và tài sản đều như nhau
họ có hiến tặng cho bạn lợi ích hay nơi nương tựa nhỏ bé nhất? Hãy nhìn và thấy đấy!
Họ làm điều ác độc to lớn nhất là gởi các bạn tới các cõi thấp.4
Như thế, điều gì là lợi lạc? Chính là Tam Bảo không thể sai lầm.
Nếu bạn duy trì một tâm thức cao quý, đức hạnh và trì tụng thần chú mani sáu-âm,
bạn sẽ không đi vào con đường dẫn tới những tái sinh ở các cõi thấp trong vòng luân hồi,
mà đạt tới trạng thái toàn giác không gì sánh.
Om mani padme hung hri.
Xin đừng quên ban cho chúng con nơi nương tựa, Ôi các bậc Đạo sư và Tam Bảo.5
Xin đừng ẩn dấu lòng bi mẫn của Ngài, hỡi Đức Avalokiteshvara cao quý.
Xin làm những đấng bảo trợ nương tựa cho chúng con, hỡi các thiên nữ trắng và xanh.6
Xin chỉ cho chúng con con đường đi tới giải thoát, Ôi các Đấng Chiến Thắng và những bậc kế thừa của các Ngài.
Om mani padme hung hri.
Trong bầu trời trống rộng và mặt đất trống không của trạng thái bardo giữa cái chết và sự tái sinh,
ta không có cả cha lẫn mẹ để quay về nương tựa.
Trong chốn thê lương, xa lạ này,
chúng sinh phàm tục lang thang, tâm hồn tan nát.
Om mani padme hung hri.
Giờ đây tôi sẽ nói về những kinh nghiệm linh kiến của tôi. Trong khi tôi, cô gái Dawa Drolma, đang vượt qua một hẻm núi xa lạ và khủng khiếp thì gặp Sherab Dronma, con gái của gia đình ông Raga Shag, một trong những bộ trưởng của chính phủ Lhasa. Bởi bà là một hóa thân của Bổn tôn Vajravarahi nên tất cả những ai có quan hệ với bà qua việc chia sẻ hoặc thọ nhận những của cải hay thực phẩm từ bà sẽ được dẫn dắt tới cõi thuần tịnh ở tiểu lục địa Chamara. Vì thế, bà đã xuất hiện trong các cõi thấp của sự tái sinh và đã đưa dẫn khoảng một trăm triệu chúng sinh theo bà thoát ra ngoài. Khi tôi gặp bà, bà đang tụng thần chú mani với một âm điệu cực kỳ du dương, khơi dậy lòng tin đến nỗi những giọt lệ tuôn rơi trên đôi mắt tất cả những người hiện diện.
Cả thiên nữ cao quý Tara Trắng (vị Bổn tôn mà với Ngài tôi đã có mối liên hệ nghiệp riêng và Ngài đã dẫn dắt tôi trong nhiều đời) và Sherab Dronma đều hiển lộ trong những hình tướng có vẻ bình thường. Các vị cư xử với nhau thật đằm thắm, giống như cuộc gặp gỡ giữa mẹ và con. Hơn nữa, Sherab Dronma còn xử sự với tôi trong cung cách có vẻ sùng mộ và tôn kính. Sau đó bà hát bài ca này:
Om mani padme hung hri.
Có năm con đường: trắng, đỏ, xanh dương, xanh lá cây, và vàng.
Con, con gái, hãy biết rõ con đường nào để đi.
Đức Tara Trắng, xin dẫn dắt cô gái trên con đường đó!
Con đường màu trắng đi về phương tây dẫn tới Cõi Cực Lạc,
cõi thuần tịnh của Đức Phật Amitabha.
Con đường màu đỏ dẫn tới Chamara,
cõi thuần tịnh của Đức Padmasambhava.
Con đường màu xanh dương dẫn tới Núi Potala,
cõi thuần tịnh của Đức Avalokiteshvara cao quý.
Con đường màu xanh lá cây dẫn tới Yulokod,
cõi thuần tịnh của Đức Tara cao quý, tôn kính.
Con đường màu vàng dẫn tới Cõi Hoa thượng,
cõi thuần tịnh của nhiếp chính Jampa Gonpo.
Nếu con không thể quyết định theo con đường nào,
thì việc lang thang trong bardo sau cái chết thật ít ý nghĩa.
Con, Dawa Drolma, hãy biết rõ nơi phải đi.
Cầu mong con đến được cõi mà con tìm kiếm.
Ta là một hóa thân của Vajravarahi.
Không có những trạng thái tái sinh thấp đối với những ai có liên hệ với ta qua ngôn ngữ hay tiếp xúc.
Từ Núi Huy Hoàng trong tiểu lục địa Chamara,
hãy đi tới thế giới của cõi người.
Cầu mong con được ban phước để thực hiện con đường dẫn tới giải thoát.
Bà tiếp tục: “Con gái, con cần phải trở về cõi người. Nhưng chỉ mới mười sáu tuổi, năng lực tinh thần của con chưa phát triển đầy đủ, và khi đã tái sinh làm một người đàn bà, con sẽ có một chút uy quyền. Bởi chúng sinh trong những thời đại suy hoại này sẽ khó tin rằng những tường thuật của con là chân thật, lợi lạc con có thể đem lại cho họ sẽ bị suy giảm.” Bởi thương xót tôi, nước mắt bà rơi lã chã.
Đức Tara Trắng, bậc đang dẫn dắt tôi trên con đường, có vẻ hơi phật lòng vì những lời này. Ngài trả lời:
Những cô gái thế tục bình thường và cô gái này thì không giống nhau,
bởi cô ấy là một hiện thân của Tara Trắng.
Cô ấy là một cô gái có tâm hồn đức hạnh.
Cô ấy là cô gái có lòng bi mẫn.
Cô ấy là một nữ anh hùng có tâm hồn can đảm.
Cô ấy là một Dakini được chứng nhận trong tiên tri.
Cô ấy là cháu gái của bốn Lạt ma.
Ngài Khakyod Wangpo bất nhiễm đã khởi hành tới Chamara trong một thời gian ngắn;
cô gái này đi tới cõi đó hy vọng gặp ngài.
Cô ấy tới chốn này không chút quyến luyến với người cha tốt lành của cô;
Cô ấy tới chốn này không chút quyến luyến với mẹ cô;
Cô ấy tới chốn này không chút bám luyến những vật sở hữu, thực phẩm, hay của cải;
Cô ấy tới chốn này không chút quyến luyến bằng hữu hay những người phục vụ.
Không thể phân ly với Pháp Vương Manjughosha,7
Đấng bảo trợ, hiện thân hoạt động của một ngàn vị Phật,
là đấng nương tựa, Đức Sakya Sodnam Tzemo vĩ đại.8
Hiện thân của Ngài trong thân tướng của một thiện tri thức,
Đạo sư Tromge Chhogtrul, hóa thân tuyệt hảo,
nỗ lực liên tục trì hỗn cô, ngài nói: “Đừng đi!”
nhưng cô ấy không nghe và đi tới cõi này.
Cô ấy cũng gặp những cõi linh kiến thanh tịnh không thể suy lường.
Nếu cô ấy trở về thế giới con người,
cô có thể kể về những chọn lựa đạo đức của việc chấp nhận những thiện hạnh và từ bỏ những ác hạnh.
Cô ấy có thể xoay chuyển tâm của chúng sinh.
Cô có thể thành tựu vô số lợi ích cho họ.
Cô có thể nói về những linh kiến của cô trong những cõi này.
Cô có thể viếng thăm cõi giới này một lần nữa.
Vì thế không cần đối xử với cô ấy với sự thương xót,
và bà không cần phải cảm thấy buồn đau trong lòng.
Rồi chúng tôi tiến lên.
Trong cổng vào lối đi dài và ghê sợ của bardo là Lạt ma Gyajam, một đệ tử thân thiết của Tromge Kundun Rinpoche. Tóc ngài bới lên thành một búi, và ngài khoác một khăn choàng và mặc một hạ y bằng vải trắng. Mặc dù tôi đã rất mong được gặp ngài, nhưng chúng tôi không tiếp xúc, và không bao lâu tôi tiếp tục đi. Tôi hỏi bà mẹ từ bi của các Đấng Chiến Thắng: “Vị Lạt ma đó của chúng ta, ngài Gyajam chứng ngộ – ngài từ đâu tới? Và với mục đích gì?”
Các thiên nữ Tara Trắng và Tara Xanh trả lời:
Bậc chứng ngộ và hết sức cao quý đó được đặt tên theo Đức Manjughosha9
đã nương tựa một Đạo sư nhân từ và cực kỳ bi mẫn.
Bởi có mối liên hệ nghiệp sâu đậm, ngài đã phát triển chứng ngộ toàn hảo;
bởi có sự tinh tấn lớn lao, ngài đã thực hành Pháp thật dũng mãnh;
bởi lòng bi mẫn của ngài vĩ đại, ngài đã tới giảng dạy Pháp trong bardo.
Om mani padme hung hri.
Lại thêm những điều để kể: Hàng trăm chúng sinh bị cuốn lên giống như một trận bão tuyết; hàng ngàn chúng sinh nữa rớt xuống như một trận mưa tuyết dày đặc. Họ kêu khóc, tiếng kêu như âm thanh của một ngàn con rồng. Nước mắt tuôn ra từ đôi mắt họ như một trận mưa rào kéo dài một năm. Từ đỉnh đèo cát giữa sự sống và sự chết xuống tới những cánh đồng sắt nóng đỏ rộng lớn trong các địa ngục, số lượng chúng sinh thật vô hạn, như những hạt cát trong đại dương. Họ không được nghỉ ngơi hay rảnh rỗi, giống như những cừu cái lẫn lộn với cừu non.10 Nỗi khổ của họ không thể đo lường được, giống như nỗi khổ của một con cá trên đất khô. Như người cố leo lên một đồi cát, họ không có cơ may để trốn thoát. Như người bị ném vào lò lửa, họ không có phương tiện để chịu đựng sự đau đớn này. Như người có ảo giác nhìn thấy nước, họ kinh nghiệm những hình tướng lộn xộn, sai lầm theo nghiệp của họ. Các thiên nữ bi mẫn và cao quý, xin đưa dẫn những chúng sinh đang trải qua những nghiệp quả hỗn loạn như thế!
Om tare tuttare ture soha.
Trên một cánh đồng trống và rộng lớn trong bardo, Lozang Drolma, con gái của Tromge Kundun Dargyay, đang lang thang. Nỗi khổ của cô không quá lớn cũng không quá nhẹ nhàng. Cô trao cho tôi thông điệp sau đây để thuật lại:
Hãy nói lại điều này cho những người trong gia đình tôi:
Nếu cha mẹ thực sự cảm nhận rằng con gái của mẹ đang đau khổ,
thì một lần duy nhất trì tụng thần chú mani sẽ mang lại lợi ích to lớn.
Nếu cha mẹ có thể thu xếp để trì tụng Kinh Giải Thoát,
càng nhiều càng tốt thần chú mani,
và Tantra Sám Hối Bất nhiễm,
thì con có thể từ bỏ thân bardo này
và được tái sinh làm người với samaya trong sạch.11
Với lòng bi mẫn, tôi lớn tiếng tụng thần chú sáu-âm cho cô từ xa, và cô ấy ra đi, bị cuốn dạt như một chiếc lông chim trong gió.
Om mani padme hung hri.
Trên đèo cát cao ngất giữa sự sống và sự chết, là một cánh đồng cực kỳ hoang vắng, thảo nguyên bao la xám xịt của sự chết. Con sông người chết có một mầu nâu ngầu đục, không có chỗ cạn, chỉ có những con sóng tung cao thật dữ dội. Chiếc cầu sáu-nhịp dễ sợ làm tôi ớn lạnh. Những sứ giả kinh khủng của Yama, Thần Chết cực kỳ hung dữ và phàm ăn. Không có một vị bảo trợ nào trong xứ sở của người chết, chúng sinh ở đó thật bơ vơ, không nơi nương tựa!
Om mani padme hung hri.
Aga, con dâu của gia đình Gyaten xứ T’hromt’hog, ở trong con sông nâu không có chỗ cạn của người chết đó, phải chịu nỗi khổ không thể tưởng tượng nổi. Đây là hậu quả sau cùng của việc cô đã cúng dường trà bất tịnh cho tập hội nhiều tu sĩ. Tôi tụng thần chú mani, và Đức Tara đã cứu thoát cô, kéo cô ra khỏi con sông nâu hung dữ bằng một mũi tên có trang trí dải ruy băng.
Tôi tiếp tục đi xuống một nơi khủng khiếp. Không có ánh sáng mà chỉ là bóng tối ảm đạm đến nỗi tôi chỉ có thể nhìn thấy phía trước khoảng một cánh tay. Từ trên cao, một trận mưa lửa đổ xuống. Mặt đất bị bao phủ bởi sắt nóng. Kim loại nóng chảy tràn ngập mọi hướng và đủ loại vũ khí rải đầy khắp nơi. Xác chúng sinh chất cao khoảng một trăm sải (1 sải= 1,8m), da họ màu đen như mực. Tiếng kêu thét của họ nghe inh tai nhức óc và kéo dài không dứt, giống như trăm cừu mẹ gặp được trăm cừu con của chúng, “Trời ơi! Than ôi! Ôi khổ tôi chưa! Chao ôi! Ôi Cha ơi! Ôi Mẹ ơi! Cứu con! Ôi, nóng quá!”
Cảnh tượng hỗn loạn và khủng khiếp này dường như xảy ra rải rác ở một nơi nào đó.
Ở giữa một cánh đồng bao la khác sừng sững một chiếc ngai sắt màu đen có kích thước của một tòa nhà ba tầng. Ngự trên đó là Dharmaraja,12 Thần Chết. Thân ông màu nâu pha đỏ tía đậm, trông thật khủng khiếp, hung nộ, và dữ tợn. Đôi mắt ông sáng rực như mặt trời và mặt trăng, đỏ ngầu và lóe sáng như tia chớp. Có những mụt cóc trên má và những chỗ khác trên mặt ông. Ở phần thân trên, ông khoác miếng da sống của một con voi, quanh thắt lưng là miếng da lột của một con người, quanh thân dưới là hạ y bằng da cọp. Ông tô điểm bằng quần áo lụa cùng nhiều món trang sức bằng xương và châu báu. Trên đầu đội một vương miện làm bằng năm đầu lâu khô. Trong bàn tay phải, ông ôm một bảng định mệnh có vẽ các vạch chéo song song, trong bàn tay trái là tấm gương nghiệp quả.13 Ông ngồi trong tư thế chéo chân. Vẻ rực rỡ tỏa ra từ thân ông làm chói mắt.
Trước mặt Yama là Ác Ýù, một thuộc hạ đầu rắn đang cầm một tấm gương. Bên phải Yama là Kiêu Ngạo, với đầu sư tử, cầm cái trống tòa. Phía sau Yama là Định Mệnh, với đầu khỉ, cầm một cái cân. Bên trái Yama là Awa Đầu-Bò, cầm những cuộn giấy. Xung quanh họ là hàng triệu thuộc hạ của Thần Chết hóa hiệân trong những hình dạng có đầu của vô số thú vật.
Đức Tara và tôi, cô gái, cùng thực hiện ba lễ lạy và dâng bài tán tụng sau đây:
Nếu nhận ra được, thì chính là đây – bổn tâm của ta;
nếu không nhận ra, thì đó là Thần Chết phẫn nộ vĩ đại.
Thực ra đây chính là Đấng Chiến Thắng, Pháp Thân Samantabhadra (Phổ Hiền).
Chúng con đảnh lễ và tán thán dưới chân Dharmaraja.
Nếu nhận ra được, thì đó là Đức Phật Vajrasattva (Kim Cang Tát Đỏa);
Nếu không, đó là Ác Ý với đầu của một con rắn.
Thực ra đây chính là tâm giác ngộ, với sự sân hận hoàn toàn được tịnh hóa.
Chúng con đảnh lễ và tán thán thuộc hạ vĩ đại cầm một tấm gương.
Nếu nhận ra được, thì đó là Đức Phật Ratnasambhava (Bảo Sanh);
nếu không, đó là Kiêu Ngạo với đầu sư tử.
Thực ra đây chính là tâm giác ngộ, với tâm kiêu ngạo hoàn toàn được tịnh hóa.
Chúng con đảnh lễ và tán thán thuộc hạ vĩ đại cầm một cái trống tòa.
Nếu nhận ra được, thì đó là Đức Phật Amitabha (A Di Đà)
nếu không, đó là Định Mệnh với đầu khỉ.
Thực ra đây chính là tâm giác ngộ, với tâm tham luyến hoàn toàn được tịnh hóa.
Chúng con đảnh lễ và tán thán thuộc hạ vĩ đại cầm một cái cân.
Nếu nhận ra được, thì đó là Đức Phật Amoghasiddhi (Bất Không Thành Tựu);
nếu không, đó là Awa Đầu-Bò.
Thực ra đây chính là tâm giác ngộ, với tâm ganh tị hoàn toàn được tịnh hóa.
Chúng con đảnh lễ và tán thán thuộc hạ vĩ đại cầm những cuộn giấy.
Các ngài biết rõ đức hạnh hay điều xấu ác, những thuộc hạ phẫn nộ của sự chết này.
Cầu mong chúng sinh không làm điều gì, không tích tập nghiệp xấu.
không bị dẫn vào những con đường không lối thoát và không thể chịu đựng,
được tái sinh trong một cõi thuần tịnh không lỗi lầm và không sợ hãi.
Dharmaraja hơi mỉm cười và trả lời: “Cô con gái có biện tài từ cõi người, cô đã tích tập loại nghiệp tích cực, thiện lành nào? Cô đã tích tập loại nghiệp tiêu cực, xấu ác nào? Hãy nói thật trung thực, bởi nói dối sẽ không ích lợi gì!”
Đức Tara Trắng đứng lên, đảnh lễ Dharmaraja ba lạy và nói: “Thay mặt cô gái này, tôi có vài điều muốn nói.”