PHẬT - ĐẠO
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
TL: PHẬT - ĐẠO
Như vậy, chúng ta cũng đã rõ “Vãng Sinh và Cực Lạc quốc độ”. Đến được nơi đây rồi mà chúng ta không thấy rõ con thuyền Vãng Sinh Cực Lạc thì…. Mới chỉ là Ý chúng ta đến được bến bờ Ta Bà chứ không phải (Tâm) chúng ta đến để chuẩn bị bước sang bờ bên kia Bỉ Ngạn.
Mà Ý đến bến Ta Bà - để làm gì? - Chẳng lẽ chúng ta dùng Ý để chuyên thuyền, cởi từ nút Ý như đã nói phía trên để đến bến bờ bên kia?
Như vậy, chúng ta thấy rõ con thuyền Vãng Sinh Cực Lạc là con thuyền gì.
- Chính là 1 con thuyền gọi là “dự phòng” cho chúng ta. Bởi vì rất có thể chúng ta đứng ở đây (bến Ta Bà) này cả đời không bước nổi 1 bước đầu tiên cũng là bước cuối cùng sang bến bờ bên kia. Vì chúng ta không vào được định, không đi được định đạo, không phá được 5 ấm - chúng ta cứ vào là bị đẩy ra, vì nhiều lẽ mà ai cũng tự thấy biết khi bắt đầu thực tập bước lên đường định đạo. Một bước cũng là một bước xa tận chân trời…
Chúng ta chút hơi thở cuối cùng ở đây, uổng không?
Lẽ này, khi chúng ta đã thấy rõ con thuyền Vãng Sinh Cực Lạc thì chúng ta thấy rõ, ở giây phút cuối cùng của cuộc đời ở đời này. Chúng ta khi chút hơi cuối cùng đó, hãy dùng tất cả những cái chúng ta có (chánh niệm, tỉnh giác, tỉnh thức) bám vào A Di Đà Phật. Thế thôi. Chúng ta sẽ không trở lại Ta Bà mà sẽ tiếp tục tu tập ở một nơi gọi là Cực Lạc Quốc Độ.
Nhắc lại để chúng ta rõ, nhớ “phương án dự phòng”.
Tất nhiên, tiên quyết là chúng ta đến được bến thuyền Bát Nhã nơi đây. Bằng cách nào thì có cả “rừng” Pháp - vô lượng Pháp, chúng ta không nói lại Lý để tới được nơi đây.
Mà Ý đến bến Ta Bà - để làm gì? - Chẳng lẽ chúng ta dùng Ý để chuyên thuyền, cởi từ nút Ý như đã nói phía trên để đến bến bờ bên kia?
Như vậy, chúng ta thấy rõ con thuyền Vãng Sinh Cực Lạc là con thuyền gì.
- Chính là 1 con thuyền gọi là “dự phòng” cho chúng ta. Bởi vì rất có thể chúng ta đứng ở đây (bến Ta Bà) này cả đời không bước nổi 1 bước đầu tiên cũng là bước cuối cùng sang bến bờ bên kia. Vì chúng ta không vào được định, không đi được định đạo, không phá được 5 ấm - chúng ta cứ vào là bị đẩy ra, vì nhiều lẽ mà ai cũng tự thấy biết khi bắt đầu thực tập bước lên đường định đạo. Một bước cũng là một bước xa tận chân trời…
Chúng ta chút hơi thở cuối cùng ở đây, uổng không?
Lẽ này, khi chúng ta đã thấy rõ con thuyền Vãng Sinh Cực Lạc thì chúng ta thấy rõ, ở giây phút cuối cùng của cuộc đời ở đời này. Chúng ta khi chút hơi cuối cùng đó, hãy dùng tất cả những cái chúng ta có (chánh niệm, tỉnh giác, tỉnh thức) bám vào A Di Đà Phật. Thế thôi. Chúng ta sẽ không trở lại Ta Bà mà sẽ tiếp tục tu tập ở một nơi gọi là Cực Lạc Quốc Độ.
Nhắc lại để chúng ta rõ, nhớ “phương án dự phòng”.
Tất nhiên, tiên quyết là chúng ta đến được bến thuyền Bát Nhã nơi đây. Bằng cách nào thì có cả “rừng” Pháp - vô lượng Pháp, chúng ta không nói lại Lý để tới được nơi đây.
TL: PHẬT - ĐẠO
Chúng ta đã được đọc/nghe/giảng giải nhiều về mấy pháp như nhiếp tâm, ghìm, không buông lung, neo, tụ điểm..v.v.. Về mặt thực tiễn thực hành: Việc này (thực hành các pháp này) chỉ có tinh tấn khi chúng ta có đối tượng cụ thể. Đơn giản vậy thôi.
Chúng ta cố gắng nhiếp tâm - thoạt hiểu bằng ý thì có nghĩa là: Chớ để 6 căn rong ruổi chạy theo trần/sắc/pháp/cảnh… thoạt quán sơ sơ thì thấy rằng ý giải này minh nghĩa, đúng, thấy thế này mới gọi là nhiếp tâm…
Nhưng thực hành không có mấy tinh tấn, đặc biệt là ngày chúng ta mới chập chững duyên tu.
Thực tiễn tinh tấn: Neo tâm, neo 6 căn, nhiếp 6 căn bám chặt vào 1 đối tượng… chúng ta sẽ thấy nhiếp tâm là gì, tinh tấn nhiếp tâm là gì… rất nhanh thấy tinh tấn.
Không có đối tượng, chúng ta mê mờ, mông lung….. Đạo lý thì thông mà Đạo định thì mù…
Nhưng Đức Thế Tôn đã nhắc kỹ: Chớ chấp pháp - tức là chớ chấp đối tượng mà chúng ta nương nhờ vào. Bởi vì, từ ngày tu tinh tấn, chúng ta sẽ sớm thấy cái đối tượng mà chúng ta nương neo vào đó thật là 1 pháp vi diệu… chúng ta chưa là Phật, ở đây, chúng ta sẽ ÁI… tức là si mê đối tượng, si mê pháp chúng ta nương vào - vẫn là con người mà. Là con người, là chúng sinh… vẫn ái.
Do vậy, cần nhớ (tỉnh thức) để đến bến bên kia, lên bờ (diệt luôn cả đối tượng), bỏ, xả….. - Lúc này thì chúng ta vẫn cần và phải cần Pháp (đối tượng) / thuyền để đến bờ bên kia.
Một bước đầu tiên - một bước cuối cùng. Bao đời chuẩn bị, bao năm chuẩn bị…
Chúng ta cố gắng nhiếp tâm - thoạt hiểu bằng ý thì có nghĩa là: Chớ để 6 căn rong ruổi chạy theo trần/sắc/pháp/cảnh… thoạt quán sơ sơ thì thấy rằng ý giải này minh nghĩa, đúng, thấy thế này mới gọi là nhiếp tâm…
Nhưng thực hành không có mấy tinh tấn, đặc biệt là ngày chúng ta mới chập chững duyên tu.
Thực tiễn tinh tấn: Neo tâm, neo 6 căn, nhiếp 6 căn bám chặt vào 1 đối tượng… chúng ta sẽ thấy nhiếp tâm là gì, tinh tấn nhiếp tâm là gì… rất nhanh thấy tinh tấn.
Không có đối tượng, chúng ta mê mờ, mông lung….. Đạo lý thì thông mà Đạo định thì mù…
Nhưng Đức Thế Tôn đã nhắc kỹ: Chớ chấp pháp - tức là chớ chấp đối tượng mà chúng ta nương nhờ vào. Bởi vì, từ ngày tu tinh tấn, chúng ta sẽ sớm thấy cái đối tượng mà chúng ta nương neo vào đó thật là 1 pháp vi diệu… chúng ta chưa là Phật, ở đây, chúng ta sẽ ÁI… tức là si mê đối tượng, si mê pháp chúng ta nương vào - vẫn là con người mà. Là con người, là chúng sinh… vẫn ái.
Do vậy, cần nhớ (tỉnh thức) để đến bến bên kia, lên bờ (diệt luôn cả đối tượng), bỏ, xả….. - Lúc này thì chúng ta vẫn cần và phải cần Pháp (đối tượng) / thuyền để đến bờ bên kia.
Một bước đầu tiên - một bước cuối cùng. Bao đời chuẩn bị, bao năm chuẩn bị…
TL: PHẬT - ĐẠO
Đức Thế Tôn đã nói, có 4 nơi mà niệm của chúng ta an trú (gọi là 4 trú xứ): Thân, thọ, tâm, pháp.
Như vậy, đối tượng chỉ ở 1 trong 4 trú xứ này khi chúng ta đưa 6 căn bám vào đối tượng.
Hiển nhiên, chúng ta không thể nào đưa 6 căn bám vào 1 sắc trần nào đó ở bên ngoài thân. Ví dụ bám vào cái cây hiện hữu, tờ tiền hiện hữu, ngôi nhà hiện hữu.v.v - Chúng ta ở đây không giảng lại rõ nghĩa tại sao lại không dùng các đối tượng “hiện hữu” ở thế giới như này để neo 6 căn vào. Tựu chung, nó không phải là các Pháp Phật có thể chuyên chúng ta đến bến bờ bên kia.
Một điều nữa, khi chúng ta đến đây với 1 trong 4 trú xứ của niệm - dù đối tượng ở xứ nào thì chúng ta cũng đã thấy về cơ bản: Đối tượng thân thì vô thường, đối tượng thọ thì khổ, đối tượng tâm thì vô ngã, còn pháp là tất cả cũng chẳng là gì nên pháp là Phật. (Pháp thân, pháp thọ, pháp tâm, pháp vô thường, pháp khổ, pháp vô ngã) - rất rõ pháp là pháp là tất cả mà cũng chẳng là gì.
Như vậy, cái gọi là đối tượng, dù tánh thế nào, nó ở đâu, xứ nào thì nó cũng chỉ là 1 pháp. Xứ Pháp! Chớ nên yêu vì nó cũng là ảo
Hiểu vậy, nhưng thực tiễn cũng nhiều người “không chịu rời thuyền dù đã tới bến bờ bên kia”. Rồi chúng ta tự thấy khi chúng ta chuyên thuyền tới đó… - Chúng ta nhắc chúng ta thật kỹ điều này: Thuyền - dù là thuyền nào, thuyền lá thuyền nan hay là thuyền chìm titanic… kiểu gì thì khi chúng ta đã đủ cơ duyên tới đây, đã ngồi lên thuyền, dù đi được dài đi được ngắn, đi tới hay không tới bờ bên kia thì theo thời gian ngồi thuyền, chúng ta cũng sẽ nảy sinh “tình cảm” với con thuyền. Chính là si mê/ ái/thủ… - Ở đây chính là PHÁP, bởi chúng ta đã ngồi được thuyền thì cũng đã rõ thân thọ tâm cũng là Pháp rồi. Mọi thứ khác đều là pháp rồi… nên chúng ta lúc này không ái, không si mê cái gì nữa đâu. Đã ngồi được pháp (thuyền) thì chúng ta đã thấy rõ mọi thứ là ảo… nhưng chúng ta sẽ tin “con thuyền” hay “pháp” chúng ta đang ngồi là PHÁP PHẬT - Nhiệm màu, diệu kỳ, thường hằng, chân chánh, chân như… chúng ta trở thành người không bỏ được Pháp, chúng ta không rời được pháp, yêu quá mà, gắn chặt vào rồi, đến bến bờ bên kia nhưng không chịu nhảy lên bờ. Chúng ta sẽ thấy, đã đến đây, chúng ta sẽ sớm thấy chúng ta như vậy.
KỲ LẠ KHÔNG.
Như vậy, đối tượng chỉ ở 1 trong 4 trú xứ này khi chúng ta đưa 6 căn bám vào đối tượng.
Hiển nhiên, chúng ta không thể nào đưa 6 căn bám vào 1 sắc trần nào đó ở bên ngoài thân. Ví dụ bám vào cái cây hiện hữu, tờ tiền hiện hữu, ngôi nhà hiện hữu.v.v - Chúng ta ở đây không giảng lại rõ nghĩa tại sao lại không dùng các đối tượng “hiện hữu” ở thế giới như này để neo 6 căn vào. Tựu chung, nó không phải là các Pháp Phật có thể chuyên chúng ta đến bến bờ bên kia.
Một điều nữa, khi chúng ta đến đây với 1 trong 4 trú xứ của niệm - dù đối tượng ở xứ nào thì chúng ta cũng đã thấy về cơ bản: Đối tượng thân thì vô thường, đối tượng thọ thì khổ, đối tượng tâm thì vô ngã, còn pháp là tất cả cũng chẳng là gì nên pháp là Phật. (Pháp thân, pháp thọ, pháp tâm, pháp vô thường, pháp khổ, pháp vô ngã) - rất rõ pháp là pháp là tất cả mà cũng chẳng là gì.
Như vậy, cái gọi là đối tượng, dù tánh thế nào, nó ở đâu, xứ nào thì nó cũng chỉ là 1 pháp. Xứ Pháp! Chớ nên yêu vì nó cũng là ảo
Hiểu vậy, nhưng thực tiễn cũng nhiều người “không chịu rời thuyền dù đã tới bến bờ bên kia”. Rồi chúng ta tự thấy khi chúng ta chuyên thuyền tới đó… - Chúng ta nhắc chúng ta thật kỹ điều này: Thuyền - dù là thuyền nào, thuyền lá thuyền nan hay là thuyền chìm titanic… kiểu gì thì khi chúng ta đã đủ cơ duyên tới đây, đã ngồi lên thuyền, dù đi được dài đi được ngắn, đi tới hay không tới bờ bên kia thì theo thời gian ngồi thuyền, chúng ta cũng sẽ nảy sinh “tình cảm” với con thuyền. Chính là si mê/ ái/thủ… - Ở đây chính là PHÁP, bởi chúng ta đã ngồi được thuyền thì cũng đã rõ thân thọ tâm cũng là Pháp rồi. Mọi thứ khác đều là pháp rồi… nên chúng ta lúc này không ái, không si mê cái gì nữa đâu. Đã ngồi được pháp (thuyền) thì chúng ta đã thấy rõ mọi thứ là ảo… nhưng chúng ta sẽ tin “con thuyền” hay “pháp” chúng ta đang ngồi là PHÁP PHẬT - Nhiệm màu, diệu kỳ, thường hằng, chân chánh, chân như… chúng ta trở thành người không bỏ được Pháp, chúng ta không rời được pháp, yêu quá mà, gắn chặt vào rồi, đến bến bờ bên kia nhưng không chịu nhảy lên bờ. Chúng ta sẽ thấy, đã đến đây, chúng ta sẽ sớm thấy chúng ta như vậy.
KỲ LẠ KHÔNG.
TL: PHẬT - ĐẠO
VIII. Về Tâm ấn và Y Bát
Chúng ta phải hiểu “tâm chân như thường hằng” là gì, hay niết bàn, giải thoát là gì… - Chúng ta hiểu được Đạo Lý này, thì chúng ta mới có cơ hội vào định bằng phương pháp tâm ấn (trực chỉ).
Cái hiểu của chúng ta, không cần biết đúng hay sai hay hiểu thế nào. Mà chúng ta muốn hiểu thế nào cũng được, đó là việc của chúng ta vì bản chất những cái hiểu này đều là ảo mộng, đều từ Ý cả - nên không có Thầy nào ấn chứng cái Ý hiểu.
Khi chúng ta bám 6 căn vào cái “tâm chân như thường hằng” mà chúng ta đã hiểu kia. Tại giây phút hiện tại này, nếu chúng ta tham vấn, luận bàn, thoại, giảng, đàm luận, đàm đạo… - Chúng ta sẽ rơi vào trạng thái mà trước kia các Chư Tổ gọi là “NGỘ ĐẠO”. Tâm ấn chính là vậy, Thiền trực chỉ bản tâm chính là vậy.
Đức Thế Tôn ngồi giữa hội chúng giơ lên nhành hoa. Chúng ta hãy cứ thử làm 1 người đệ tử của Đức Thế Tôn, được chứng kiến giây phút này. Chắc chắn chúng ta cũng “không hiểu gì”. Cánh hoa được giơ lên, mắt chúng ta nhìn theo, cành hoa được hạ xuống, mắt chúng ta nhìn theo… mà chúng ta chẳng hiểu gì. Đó, nên chúng ta mới luân hồi.
Khi 6 căn chúng ta bám vào cái gọi là “tâm chân như thường hằng” mà chúng ta tự thấy - dù chúng ta thấy hiểu tâm chân như thường hằng là cái gì cũng thế. Chúng ta lại đặt địa vị chúng ta vào giây phút Đức Thế Tôn làm hành động trên. Chúng ta nếu không cười như Ngài Ca Diếp thì chúng ta cũng lăn ra đất ngủ.
Nếu cái chúng ta bám vào không “ĐỊNH” - hay chúng ta chưa đủ căn cơ để thấy tâm chân như thường hằng thì ở hoàn cảnh Đức Thế Tôn giảng bài Pháp “Chánh pháp Nhãn tạng, Niết Bàn Diệu tâm, Thực tướng Vô tướng” này, mắt chúng ta sẽ chạy theo cánh tay cầm bông hoa nâng lên hạ xuống của Đức Thế Tôn. Còn Ý ở trong đầu thì chạy hơn con ngựa, con khỉ để tìm xem “Pháp Đức Thế Tôn đang giảng là gì”.
…
Ngài A Nan đang bước đi. Ngài Ca Diếp gọi “A Nan”. Ngài A Nan lập tức quay lại nhìn Ngài Ca Diếp, Ngài Ca Diếp không nói gì. Giây phút này ngài A Nan nhập thiền và lại tiếp tục bước đi. Ngài Ca Diếp lại cất tiếng gọi “A Nan” - nhưng Ngài A Nan vẫn bước đi, không phản ứng.
Chúng ta đừng nghĩ về chuyện giả bộ giống như vị tổ sư thứ nhất và thứ 2 này. Dù chúng ta giả bộ được hình tướng thì Ý của chúng ta nó cũng sẽ nhảy nhót như con khỉ con ngựa. - Sự cố tình phớt lờ, hay giả bộ - không phản ánh chúng ta đã được tâm ấn.
Từ đây, chúng ta rõ mọi công án, mọi thoại đầu của các vị Chư Tổ, Chư Tôn Túc ở thời “giáo ngoại biệt truyền”.
Khi chúng ta bám chặt 6 căn vào cái gọi là “tâm chân như thường hằng” - lúc này chúng ta mà tương tác với bên ngoài thì ”như kẻ ngớ ngẩn”.
Nếu người khác đi phân tích, giảng giải, suy diễn “những điều ngớ ngẩn” này thì chỉ được “mớ bòng bong”. Nên việc viết ra chữ, phân tích, nghiền ngẫm công án, thoại đầu.v.v. - là điều vô minh tưởng - không có kết quả.
Nhưng chúng ta đã đến đây, nhảy vào thuyền, đến bờ bên kia, nhảy lên bờ thì cái gì rồi cũng thấy rõ, chứ không chỉ những điều ngớ ngẩn như trên khi tìm hiểu về sự dẫn Đạo của các Chư Tôn Tổ thời xưa.
Ngay lúc này chúng ta cũng có thể “ngớ ngẩn” khi trình Đạo lên Thầy hay kiểm tra cấp bậc của môn sinh. Điều chắc chắn: Chúng ta không giả bộ được và môn sinh cũng không giả bộ được vì giây phút ngớ ngẩn đó 6 căn của chúng ta và môn sinh học trò cần bám chặt vào cái gọi là “tâm chân như thường hằng”… - Nên nếu giả bộ, người có 6 căn bám chặt vào tâm chân như thường hằng (”ĐỊNH”) sẽ rõ ràng ngay người đối diện giả bộ hoặc mới đi đến đâu.
Tâm ấn chính là vậy.
Chúng ta phải hiểu “tâm chân như thường hằng” là gì, hay niết bàn, giải thoát là gì… - Chúng ta hiểu được Đạo Lý này, thì chúng ta mới có cơ hội vào định bằng phương pháp tâm ấn (trực chỉ).
Cái hiểu của chúng ta, không cần biết đúng hay sai hay hiểu thế nào. Mà chúng ta muốn hiểu thế nào cũng được, đó là việc của chúng ta vì bản chất những cái hiểu này đều là ảo mộng, đều từ Ý cả - nên không có Thầy nào ấn chứng cái Ý hiểu.
Khi chúng ta bám 6 căn vào cái “tâm chân như thường hằng” mà chúng ta đã hiểu kia. Tại giây phút hiện tại này, nếu chúng ta tham vấn, luận bàn, thoại, giảng, đàm luận, đàm đạo… - Chúng ta sẽ rơi vào trạng thái mà trước kia các Chư Tổ gọi là “NGỘ ĐẠO”. Tâm ấn chính là vậy, Thiền trực chỉ bản tâm chính là vậy.
Đức Thế Tôn ngồi giữa hội chúng giơ lên nhành hoa. Chúng ta hãy cứ thử làm 1 người đệ tử của Đức Thế Tôn, được chứng kiến giây phút này. Chắc chắn chúng ta cũng “không hiểu gì”. Cánh hoa được giơ lên, mắt chúng ta nhìn theo, cành hoa được hạ xuống, mắt chúng ta nhìn theo… mà chúng ta chẳng hiểu gì. Đó, nên chúng ta mới luân hồi.
Khi 6 căn chúng ta bám vào cái gọi là “tâm chân như thường hằng” mà chúng ta tự thấy - dù chúng ta thấy hiểu tâm chân như thường hằng là cái gì cũng thế. Chúng ta lại đặt địa vị chúng ta vào giây phút Đức Thế Tôn làm hành động trên. Chúng ta nếu không cười như Ngài Ca Diếp thì chúng ta cũng lăn ra đất ngủ.
Nếu cái chúng ta bám vào không “ĐỊNH” - hay chúng ta chưa đủ căn cơ để thấy tâm chân như thường hằng thì ở hoàn cảnh Đức Thế Tôn giảng bài Pháp “Chánh pháp Nhãn tạng, Niết Bàn Diệu tâm, Thực tướng Vô tướng” này, mắt chúng ta sẽ chạy theo cánh tay cầm bông hoa nâng lên hạ xuống của Đức Thế Tôn. Còn Ý ở trong đầu thì chạy hơn con ngựa, con khỉ để tìm xem “Pháp Đức Thế Tôn đang giảng là gì”.
…
Ngài A Nan đang bước đi. Ngài Ca Diếp gọi “A Nan”. Ngài A Nan lập tức quay lại nhìn Ngài Ca Diếp, Ngài Ca Diếp không nói gì. Giây phút này ngài A Nan nhập thiền và lại tiếp tục bước đi. Ngài Ca Diếp lại cất tiếng gọi “A Nan” - nhưng Ngài A Nan vẫn bước đi, không phản ứng.
Chúng ta đừng nghĩ về chuyện giả bộ giống như vị tổ sư thứ nhất và thứ 2 này. Dù chúng ta giả bộ được hình tướng thì Ý của chúng ta nó cũng sẽ nhảy nhót như con khỉ con ngựa. - Sự cố tình phớt lờ, hay giả bộ - không phản ánh chúng ta đã được tâm ấn.
Từ đây, chúng ta rõ mọi công án, mọi thoại đầu của các vị Chư Tổ, Chư Tôn Túc ở thời “giáo ngoại biệt truyền”.
Khi chúng ta bám chặt 6 căn vào cái gọi là “tâm chân như thường hằng” - lúc này chúng ta mà tương tác với bên ngoài thì ”như kẻ ngớ ngẩn”.
Nếu người khác đi phân tích, giảng giải, suy diễn “những điều ngớ ngẩn” này thì chỉ được “mớ bòng bong”. Nên việc viết ra chữ, phân tích, nghiền ngẫm công án, thoại đầu.v.v. - là điều vô minh tưởng - không có kết quả.
Nhưng chúng ta đã đến đây, nhảy vào thuyền, đến bờ bên kia, nhảy lên bờ thì cái gì rồi cũng thấy rõ, chứ không chỉ những điều ngớ ngẩn như trên khi tìm hiểu về sự dẫn Đạo của các Chư Tôn Tổ thời xưa.
Ngay lúc này chúng ta cũng có thể “ngớ ngẩn” khi trình Đạo lên Thầy hay kiểm tra cấp bậc của môn sinh. Điều chắc chắn: Chúng ta không giả bộ được và môn sinh cũng không giả bộ được vì giây phút ngớ ngẩn đó 6 căn của chúng ta và môn sinh học trò cần bám chặt vào cái gọi là “tâm chân như thường hằng”… - Nên nếu giả bộ, người có 6 căn bám chặt vào tâm chân như thường hằng (”ĐỊNH”) sẽ rõ ràng ngay người đối diện giả bộ hoặc mới đi đến đâu.
Tâm ấn chính là vậy.
TL: PHẬT - ĐẠO
Như vậy, chúng ta cũng đã có thể tự chứng được một số dạng bậc của ĐỊNH ĐẠO.
1. Như Đức Thế Tôn đã nói về chính Ngài: Khi đi kinh hành, sét nổ bên tai cũng không phản ứng.
2. Như Tổ Ca Diếp - Lúc nào cũng đã ở định hiện tại an lạc trú dù thân tâm vẫn ở thế giới này: Mỉm cười trước sự biến đổi (vô thường) của cảnh trần.
3. Như Tổ A Nan - Giống như: “Tôi để cho kéo đi thôi, bị kéo đi là do tôi còn nhiều việc, lắm chuyện phải làm. Còntôi cũng học Chư Huynh vào định thì: “Huynh đang khóc ai?””
4. Như các bậc dẫn Đạo: Như các Tổ tiếp sau…
Nói về chỗ này, không phải nói cao thấp thâm sâu về thứ bậc hay khả năng của người hành thiền, mà nói về con đường (định đạo) không phải là 1 điểm mà nó có nông có sâu, có thu phát tự nhiên, cũng có khó khăn đi vào đi ra… Nắm được để chúng ta tự thấy, tự chứng chứ thời hiện giờ… chả tìm đâu ra mấy người ấn chứng cho chúng ta.
1. Như Đức Thế Tôn đã nói về chính Ngài: Khi đi kinh hành, sét nổ bên tai cũng không phản ứng.
2. Như Tổ Ca Diếp - Lúc nào cũng đã ở định hiện tại an lạc trú dù thân tâm vẫn ở thế giới này: Mỉm cười trước sự biến đổi (vô thường) của cảnh trần.
3. Như Tổ A Nan - Giống như: “Tôi để cho kéo đi thôi, bị kéo đi là do tôi còn nhiều việc, lắm chuyện phải làm. Còntôi cũng học Chư Huynh vào định thì: “Huynh đang khóc ai?””
4. Như các bậc dẫn Đạo: Như các Tổ tiếp sau…
Nói về chỗ này, không phải nói cao thấp thâm sâu về thứ bậc hay khả năng của người hành thiền, mà nói về con đường (định đạo) không phải là 1 điểm mà nó có nông có sâu, có thu phát tự nhiên, cũng có khó khăn đi vào đi ra… Nắm được để chúng ta tự thấy, tự chứng chứ thời hiện giờ… chả tìm đâu ra mấy người ấn chứng cho chúng ta.
TL: PHẬT - ĐẠO
Như vậy, cuối cùng chúng ta cũng rõ, khi đến và đứng ở đây, hành trang, thứ mà dùng được để chúng ta sang bến bên kia chỉ là Chánh niệm, tỉnh giác, tỉnh thức. Ngặt một nỗi, để có được điều này đủ dùng cho bước chân đầu tiên, chúng ta có khi tốn cả 1 đời nghiên kinh thích nghĩa, tìm lý diễn đạo.v.v. chúng ta, không thể có chánh niệm, tỉnh giác, tỉnh thức nếu không thực hành, mà để thực hành được, chúng ta phải thấu lý, hiểu tánh… nhưng để thấu lý hiểu tánh, chúng ta nhiều khi lại quên thực hành - vì sao? - vì 6 căn bị cái lý cái tánh cái thấy cái hiểu, cái (pháp Phật) nó lôi kéo, nó trói. Nên giải thoát trong ảo mộng. .
Bây giờ, có khả năng vào định được rồi hoặc có thể vào định được rồi. Là đã Tu xong? - Chưa xong. Còn dài lắm, vì bước đầu tiên cũng là bước cuối cùng nên cho đến khi bước xong bước cuối cùng (niết bàn), có lẽ mới là xong.
Vào xứ định, hiểm nguy gấp muôn vạn lần so với lúc sơ cơ bên ngoài. Nhưng lại không còn gì để nương tựa. Ở bên ngoài khi sơ cơ thì chúng ta còn Kinh, còn Pháp, còn Lý, còn Tánh, còn Phước, còn Đức, còn Thầy còn Bạn, còn rất nhiều thứ mà chúng ta nghĩ rằng có thể giúp chúng ta, và trợ giúp được thật. Nhưng đến đây, không còn gì rồi ngoài Chánh niệm, tỉnh giác và tỉnh thức.
Tỉnh giác là điều chúng ta thấy ở đây tối quan trọng rồi. Là lực gần như quyết định tất cả. Đến đây, cái gọi là minh của chúng ta đã lờ mờ phát hiện, cái gọi là minh (tam minh) hay cái gọi là trí huệ, trí tuệ giải thoát… thì ra cái trí này, cái minh này… Nó phát ra từ tỉnh giác.
Đúng là cái minh luôn luôn tồn tại, cái trí huệ luôn luôn ở đây, ai ai cũng có. Còn gọi là cái Tánh Phật, cái Tánh chân như thương hằng đó.v.v. Gọi là gì cũng vậy, tất cả đều ở cái nút đây: Tỉnh giác
Chúng ta không tỉnh giác thì có nghĩa chúng ta mê mờ. Gọi là vô minh. Còn khi chúng ta minh thì vô minh bị che lấp, cũng giống như khi chúng ta vô minh thì minh bị che lấp.
Tu minh với tu vô vô minh thì chúng ta có thích nghĩa cả đời cũng không biết tu cái gì để tu minh, hay tu hết vô minh.
Tu trí huệ hay tu trí tuệ giải thoát cũng thế. Tu Tánh Phật, tu Tánh Chân như thường hằng cũng vậy, chúng ta thích nghĩa cả đời có khi cũng chưa thấu lý nói gì đến có dùng được cái lý đã học hiểu này để mà làm chúng ta giải thoát hay không.
Nhưng tu tỉnh giác là chúng ta đã thấy Đức Thế Tôn nói cả vô lượng Pháp cho chúng ta tu tỉnh giác. Hơn nữa, các Chư Tôn Túc, các Thầy qua mấy nghìn năm còn phiên giải cho chúng ta vô lượng kỹ thuật, phương tiện, các dùng, cách tu hợp thời hợp thế, căn cơ..v.v
Chúng ta là chúng sinh. Có 6 căn thôi. Ngoài ra, chẳng còn căn giác nào nữa. Như đã nói phía trước, Đức Thế Tôn bảo rồi, cởi 6 cái nút mà cái khăn tự buộc này ra thì cái khăn vẫn là cái khăn. Giác vẫn là giác nhưng không phải 6 nút giác nữa. Cởi 1 nút, 6 tự thông, 6 nút cũng là 1, 1 cũng là 6 là vậy. Tính giác như cái khăn đã vắt buộc tạo thành 6 nút - bây giờ cởi nó ra. Tỉnh giác chính là vậy.
Cởi rồi, có khi lại tự thắt vào. Vì chúng ta vẫn đang ở thế giới. Nên Đức Thế Tôn dù đã thành Đạo nhưng vẫn không buông lung là vậy. Các Chư Tôn Túc cũng thế. Gọi là hộ trì 6 căn. Chúng ta vừa cởi nó ra, vừa phải hộ trì nó. Không hộ trì nó thì nó lại “ngủ giác” ngay, tức là bị trần cảnh sắc xâm nhiễm, chúng ta lại thối lui.
Khi nào chúng ta luôn biết: TÔI ĐANG…. Thì khi đó, chúng ta xông quan cởi nút được. Khả năng lực tỉnh giác của chúng ta đã tương đối có lực.
Bây giờ, có khả năng vào định được rồi hoặc có thể vào định được rồi. Là đã Tu xong? - Chưa xong. Còn dài lắm, vì bước đầu tiên cũng là bước cuối cùng nên cho đến khi bước xong bước cuối cùng (niết bàn), có lẽ mới là xong.
Vào xứ định, hiểm nguy gấp muôn vạn lần so với lúc sơ cơ bên ngoài. Nhưng lại không còn gì để nương tựa. Ở bên ngoài khi sơ cơ thì chúng ta còn Kinh, còn Pháp, còn Lý, còn Tánh, còn Phước, còn Đức, còn Thầy còn Bạn, còn rất nhiều thứ mà chúng ta nghĩ rằng có thể giúp chúng ta, và trợ giúp được thật. Nhưng đến đây, không còn gì rồi ngoài Chánh niệm, tỉnh giác và tỉnh thức.
Tỉnh giác là điều chúng ta thấy ở đây tối quan trọng rồi. Là lực gần như quyết định tất cả. Đến đây, cái gọi là minh của chúng ta đã lờ mờ phát hiện, cái gọi là minh (tam minh) hay cái gọi là trí huệ, trí tuệ giải thoát… thì ra cái trí này, cái minh này… Nó phát ra từ tỉnh giác.
Đúng là cái minh luôn luôn tồn tại, cái trí huệ luôn luôn ở đây, ai ai cũng có. Còn gọi là cái Tánh Phật, cái Tánh chân như thương hằng đó.v.v. Gọi là gì cũng vậy, tất cả đều ở cái nút đây: Tỉnh giác
Chúng ta không tỉnh giác thì có nghĩa chúng ta mê mờ. Gọi là vô minh. Còn khi chúng ta minh thì vô minh bị che lấp, cũng giống như khi chúng ta vô minh thì minh bị che lấp.
Tu minh với tu vô vô minh thì chúng ta có thích nghĩa cả đời cũng không biết tu cái gì để tu minh, hay tu hết vô minh.
Tu trí huệ hay tu trí tuệ giải thoát cũng thế. Tu Tánh Phật, tu Tánh Chân như thường hằng cũng vậy, chúng ta thích nghĩa cả đời có khi cũng chưa thấu lý nói gì đến có dùng được cái lý đã học hiểu này để mà làm chúng ta giải thoát hay không.
Nhưng tu tỉnh giác là chúng ta đã thấy Đức Thế Tôn nói cả vô lượng Pháp cho chúng ta tu tỉnh giác. Hơn nữa, các Chư Tôn Túc, các Thầy qua mấy nghìn năm còn phiên giải cho chúng ta vô lượng kỹ thuật, phương tiện, các dùng, cách tu hợp thời hợp thế, căn cơ..v.v
Chúng ta là chúng sinh. Có 6 căn thôi. Ngoài ra, chẳng còn căn giác nào nữa. Như đã nói phía trước, Đức Thế Tôn bảo rồi, cởi 6 cái nút mà cái khăn tự buộc này ra thì cái khăn vẫn là cái khăn. Giác vẫn là giác nhưng không phải 6 nút giác nữa. Cởi 1 nút, 6 tự thông, 6 nút cũng là 1, 1 cũng là 6 là vậy. Tính giác như cái khăn đã vắt buộc tạo thành 6 nút - bây giờ cởi nó ra. Tỉnh giác chính là vậy.
Cởi rồi, có khi lại tự thắt vào. Vì chúng ta vẫn đang ở thế giới. Nên Đức Thế Tôn dù đã thành Đạo nhưng vẫn không buông lung là vậy. Các Chư Tôn Túc cũng thế. Gọi là hộ trì 6 căn. Chúng ta vừa cởi nó ra, vừa phải hộ trì nó. Không hộ trì nó thì nó lại “ngủ giác” ngay, tức là bị trần cảnh sắc xâm nhiễm, chúng ta lại thối lui.
Khi nào chúng ta luôn biết: TÔI ĐANG…. Thì khi đó, chúng ta xông quan cởi nút được. Khả năng lực tỉnh giác của chúng ta đã tương đối có lực.
TL: PHẬT - ĐẠO
Đây là lưu ý bậc nhất trước khi chúng ta “lên thuyền”. Lực tỉnh giác của chúng ta đến đâu thì khi chuyên chuyến đò tới bến bên kia, chúng ta có sức tỉnh thức đến đấy. Chúng ta chưa tỉnh giác đủ, chúng ta sẽ không có lực tỉnh thức khi thuyền cập bến bên kia để mà nhảy lên bờ ngộ. Với “ngủ thức” và “ngủ giác” chúng ta sẽ lòng vòng thêm nhiều thời gian ở biển luân hồi vô biên đấy.
Nên chúng ta cần chuẩn bị cho khéo. Kiên trì và thử nhiều lần, thực tập nhiều lần. Đừng lo mất thời gian.
Về pháp tu tỉnh giác và hộ trì 6 căn thì có vô lượng pháp. Hơn nữa có vô lượng phương tiện, kỹ thuật, cách dùng… nhan nhản rồi. Chúng ra có chịu thực hành hay không thôi.
Giống như Thầy Giác Khang bảo: Cái gì cũng A Di Đà Phật. Giống như Thầy Thông Lạc bảo: Tác ý, tác ý, bắt nó về tụ điểm, ghìm chặt nó ở đó. Giống như Thầy Thanh Từ, một câu đơn giản: Biết Vọng không theo. Giống như mọi Thầy khác: Tôi ăn cơm biết tôi đang ăn cơm, tôi (làm gì) biết tôi đang làm gì…
Đơn giản không?
Hay chúng ta còn muốn ĐỨC THẾ TÔN ẤN CHỨNG, MƠI TIN CƠ. Vậy, Đức Thế Tôn bảo: Khi tôi thở vào, tôi biết tôi đang thở vào. Khi tôi thở ra, tôi biết tôi đang thở ra.
Đó!
Chúng ta tu qua sơ cơ. Điều cốt lõi là chúng ta phải tu, chúng ta mới chứng, mới Thấy, mới trí huệ, trí tuệ, minh… Còn không thì chỉ Ý CHÚNG TA THẤY do học/đọc/nghe/quán (suy nghĩ) chứ không phải là “chúng ta”.
Đến được đây, bến Ta Bà này, cần phải chuẩn bị lại, làm kỹ, không để lọt một lỗi lầm nhỏ trước khi bước lên con thuyền vào định. Vì vào định, hiểm nguy gấp trăm vạn lần.
Nên chúng ta cần chuẩn bị cho khéo. Kiên trì và thử nhiều lần, thực tập nhiều lần. Đừng lo mất thời gian.
Về pháp tu tỉnh giác và hộ trì 6 căn thì có vô lượng pháp. Hơn nữa có vô lượng phương tiện, kỹ thuật, cách dùng… nhan nhản rồi. Chúng ra có chịu thực hành hay không thôi.
Giống như Thầy Giác Khang bảo: Cái gì cũng A Di Đà Phật. Giống như Thầy Thông Lạc bảo: Tác ý, tác ý, bắt nó về tụ điểm, ghìm chặt nó ở đó. Giống như Thầy Thanh Từ, một câu đơn giản: Biết Vọng không theo. Giống như mọi Thầy khác: Tôi ăn cơm biết tôi đang ăn cơm, tôi (làm gì) biết tôi đang làm gì…
Đơn giản không?
Hay chúng ta còn muốn ĐỨC THẾ TÔN ẤN CHỨNG, MƠI TIN CƠ. Vậy, Đức Thế Tôn bảo: Khi tôi thở vào, tôi biết tôi đang thở vào. Khi tôi thở ra, tôi biết tôi đang thở ra.
Đó!
Chúng ta tu qua sơ cơ. Điều cốt lõi là chúng ta phải tu, chúng ta mới chứng, mới Thấy, mới trí huệ, trí tuệ, minh… Còn không thì chỉ Ý CHÚNG TA THẤY do học/đọc/nghe/quán (suy nghĩ) chứ không phải là “chúng ta”.
Đến được đây, bến Ta Bà này, cần phải chuẩn bị lại, làm kỹ, không để lọt một lỗi lầm nhỏ trước khi bước lên con thuyền vào định. Vì vào định, hiểm nguy gấp trăm vạn lần.
TL: PHẬT - ĐẠO
Dù vào định bằng con thuyền phương tiện nào thì khi dừng (“CHỈ”) quán, dừng (chỉ) niệm… chúng ta sẽ thấy mọi thứ gọi là diệu kỳ là gì. Chỉ là dừng lại thì định cũng ở ngay đó. Tuy nhiên, rất khó để nói rõ.
Một sự thực là: Chúng ta sẽ bị đẩy ra.
Còn nếu ở lúc đó mà chúng ta “bắt” đối tượng (chúng ta thấy mà, muôn vàn thứ diệu kỳ)… chúng ta đã thất niệm, rời bỏ đối tượng ban đầu (con thuyền) mà chạy theo ảo mộng. Nhưng nếu Ý của chúng ta mà còn niệm (con thuyền) thì chúng ta lại chưa Chỉ niệm được. Chưa CHỈ được thì vẫn là Ý.
Như vậy, chúng ta cần chuẩn bị sẵn sự thực tập thuần thục:
1. Bám chặt vào đối tượng con thuyền (Pháp) để đến.
2. Chỉ quán nhưng phải còn tỉnh thức để “không chạy theo cái thấy” khi này.
3Đặc biệt quan trọng: Nếu thấy đuối sức hoặc bị kéo đi khi này, ngay lập tức khởi lại niệm đối tượng con thuyền và bám chặt vào con thuyền để ổn định lại
Bằng không chúng ta sẽ được kéo đi xa lắm. Nào là gặp từ Diêm Vương tới Thánh Thần, thị sát lại từ 3 kiếp tới 300 kiếp… Tệ hơn nữa là Chúng Ta thấy cả vũ trụ 10 phương đồng tôn ta làm Phật, Làm Minh Chủ… để “cứu rỗi” thế gian….
Một sự thực là: Chúng ta sẽ bị đẩy ra.
Còn nếu ở lúc đó mà chúng ta “bắt” đối tượng (chúng ta thấy mà, muôn vàn thứ diệu kỳ)… chúng ta đã thất niệm, rời bỏ đối tượng ban đầu (con thuyền) mà chạy theo ảo mộng. Nhưng nếu Ý của chúng ta mà còn niệm (con thuyền) thì chúng ta lại chưa Chỉ niệm được. Chưa CHỈ được thì vẫn là Ý.
Như vậy, chúng ta cần chuẩn bị sẵn sự thực tập thuần thục:
1. Bám chặt vào đối tượng con thuyền (Pháp) để đến.
2. Chỉ quán nhưng phải còn tỉnh thức để “không chạy theo cái thấy” khi này.
3Đặc biệt quan trọng: Nếu thấy đuối sức hoặc bị kéo đi khi này, ngay lập tức khởi lại niệm đối tượng con thuyền và bám chặt vào con thuyền để ổn định lại
Bằng không chúng ta sẽ được kéo đi xa lắm. Nào là gặp từ Diêm Vương tới Thánh Thần, thị sát lại từ 3 kiếp tới 300 kiếp… Tệ hơn nữa là Chúng Ta thấy cả vũ trụ 10 phương đồng tôn ta làm Phật, Làm Minh Chủ… để “cứu rỗi” thế gian….
TL: PHẬT - ĐẠO
VIII. Về vấn đề “CHỈ” hay “DỪNG”
Chư Tôn Túc xưa dùng từ “Chỉ”, thường gọi là “chỉ quán”. Tức là khi chuyên con thuyền đến bến bên kia thì dừng lại.
Khi nào thì thuyền đến bến? - Chính là khi chúng ta “dừng” lại được.
Dừng cái gì? - Dừng chính cái “Ý” mà lúc này chúng ta đang bám vào đối tượng đó. Lúc này, chúng ta chỉ còn 1 đối tượng và 6 căn bám chặt vào đây. Nhưng chúng ta rất rõ, lúc này “Ý” chúng ta vẫn biết rõ: Chúng ta đang bám chặt vào đối tượng. Có nghĩa vẫn là “ý niệm”.
Chúng ta thuần thục làm điều này, đến 1 lúc chúng ta sẽ “Chỉ”. Tức là “dừng” cái ý niệm này. Khi này, chúng ta đến bến. Cũng là định lại.
Ngay giây phút này, chúng ta sẽ thấy diệu kỳ.
Diệu kỳ như thế nào? - Cái này lại là mỗi người 1 trải nghiệm . Cái thấy sẽ không một ai giống ai, thế mới hay nhưng đại thể chung là thấy tất cả.
Thấy rồi thì sao, thì chúng ta sẽ bị cuốn theo nếu lúc này chúng ta không còn Tỉnh thức, chúng ta không còn Chánh niệm, hoặc chúng ta không có tý giới nào… chúng ta sẽ bị cuốn theo.
Sức mạnh cuốn hút ở đây gấp trăm ngàn lần sức cuốn hút của tình dục, tiền, cái ăn, quyền lực, danh tài ở đời… - vì những cái ở đời chưa phải là đỉnh.
Vào đến ngay chỗ đây, tình tiền danh tài thực đỉnh gấp trăm vạn lần. Rồi chúng ta đều tự thấy cái “mê ly” đến không thể “mê ly” hơn ở chỗ đây.
Chúc phúc mỗi chúng ta ở chỗ này! Nên chúng ta nhớ “sự hiểm nguy”.
Chư Tôn Túc xưa dùng từ “Chỉ”, thường gọi là “chỉ quán”. Tức là khi chuyên con thuyền đến bến bên kia thì dừng lại.
Khi nào thì thuyền đến bến? - Chính là khi chúng ta “dừng” lại được.
Dừng cái gì? - Dừng chính cái “Ý” mà lúc này chúng ta đang bám vào đối tượng đó. Lúc này, chúng ta chỉ còn 1 đối tượng và 6 căn bám chặt vào đây. Nhưng chúng ta rất rõ, lúc này “Ý” chúng ta vẫn biết rõ: Chúng ta đang bám chặt vào đối tượng. Có nghĩa vẫn là “ý niệm”.
Chúng ta thuần thục làm điều này, đến 1 lúc chúng ta sẽ “Chỉ”. Tức là “dừng” cái ý niệm này. Khi này, chúng ta đến bến. Cũng là định lại.
Ngay giây phút này, chúng ta sẽ thấy diệu kỳ.
Diệu kỳ như thế nào? - Cái này lại là mỗi người 1 trải nghiệm . Cái thấy sẽ không một ai giống ai, thế mới hay nhưng đại thể chung là thấy tất cả.
Thấy rồi thì sao, thì chúng ta sẽ bị cuốn theo nếu lúc này chúng ta không còn Tỉnh thức, chúng ta không còn Chánh niệm, hoặc chúng ta không có tý giới nào… chúng ta sẽ bị cuốn theo.
Sức mạnh cuốn hút ở đây gấp trăm ngàn lần sức cuốn hút của tình dục, tiền, cái ăn, quyền lực, danh tài ở đời… - vì những cái ở đời chưa phải là đỉnh.
Vào đến ngay chỗ đây, tình tiền danh tài thực đỉnh gấp trăm vạn lần. Rồi chúng ta đều tự thấy cái “mê ly” đến không thể “mê ly” hơn ở chỗ đây.
Chúc phúc mỗi chúng ta ở chỗ này! Nên chúng ta nhớ “sự hiểm nguy”.
TL: PHẬT - ĐẠO
Dừng niệm - nói thì dễ nhưng làm thì khó. - Sau này, kỹ thuật “tâm ấn” của các Chư Tôn Túc cũng chẳng còn mấy tác dụng - nguyên nhân: Đó là chẳng còn ai dùng được nữa. - Giống như nghệ nhân 1 nghề. Khi kỹ thuật ngày 1 xuống cấp thì nghệ nhân ngày nay chẳng thể là nghệ nhân thời xưa.
Dù ở trên phương tiện nào, dùng kỹ thuật nào thì việc ”dừng” chính là nâng được chân bước bước đầu tiên - cũng là bước cuối cùng. Nên không nhanh như chúng ta bước 1 bước chân ở đời. Hình tượng vậy thôi.
Khi chúng ta đến “điểm dừng” - đây cũng không phải là nơi Tánh chân như thường hằng, cũng không phải là “KHÔNG”. Giống như lội biển cả - chỗ này chúng ta mới gọi là chạm đến nước biển thôi.
Chúng ta có bị cuốn đi không là 1 vấn đề. - Vấn đề ở đây chỉ ở chỗ “chúng ta không bị cuốn đi” - một cách thực tế: Chúng ta không bị cái thấy cuốn đi.
Lúc này cái thấy, tánh thấy vừa mới chạm vào nhau bởi (“cái khăn”) chứ không phải qua “nút khăn” như chúng ta ở đời.
Chúng ta không bị cuốn đi. Lúc này chúng ta mới làm công tác ”Thấm nhuần” sắc thân bằng cảm giác hỉ lạc - ly dục, ly ác pháp. Chúng ta thấm toàn thân thọ hỉ lạc này, sắc thân chính là pháp thân.
Dù ở trên phương tiện nào, dùng kỹ thuật nào thì việc ”dừng” chính là nâng được chân bước bước đầu tiên - cũng là bước cuối cùng. Nên không nhanh như chúng ta bước 1 bước chân ở đời. Hình tượng vậy thôi.
Khi chúng ta đến “điểm dừng” - đây cũng không phải là nơi Tánh chân như thường hằng, cũng không phải là “KHÔNG”. Giống như lội biển cả - chỗ này chúng ta mới gọi là chạm đến nước biển thôi.
Chúng ta có bị cuốn đi không là 1 vấn đề. - Vấn đề ở đây chỉ ở chỗ “chúng ta không bị cuốn đi” - một cách thực tế: Chúng ta không bị cái thấy cuốn đi.
Lúc này cái thấy, tánh thấy vừa mới chạm vào nhau bởi (“cái khăn”) chứ không phải qua “nút khăn” như chúng ta ở đời.
Chúng ta không bị cuốn đi. Lúc này chúng ta mới làm công tác ”Thấm nhuần” sắc thân bằng cảm giác hỉ lạc - ly dục, ly ác pháp. Chúng ta thấm toàn thân thọ hỉ lạc này, sắc thân chính là pháp thân.