PHẬT GIÁO KHÔNG CHẤP NHẬN CÓ LINH HỒN
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
-
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 1587
- Tham gia: 15:52, 05/04/11
- tigerstock68
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2135
- Tham gia: 14:12, 29/03/11
TL: PHẬT GIÁO KHÔNG CHẤP NHẬN CÓ LINH HỒN
thangmyden đã viết:Đạo do đâu mà có?
Người theo Đạo gọi là gì ?
http://www.google.com.vn/url?sa=t&sourc ... sqiHhrAVQw" target="_blank
http://www.vietfreefun.com/forum/showthread.php?33322" target="_blank
- tigerstock68
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2135
- Tham gia: 14:12, 29/03/11
TL: PHẬT GIÁO KHÔNG CHẤP NHẬN CÓ LINH HỒN
Tái sinh và luân hồi theo quan điểm Phật giáo
Vòng luân hồi
Phóng viên Phattuvietnam.net gửi câu hỏi tới PGS.TS Hà Vĩnh Tân về đề tài “Tái sinh và luân hồi”, và đã nhận được trả lời, như sau:
Hỏi 1: PGs.Ts lý giải như thế nào về những trường hợp trong thực tế như “cháu bé ở Vụ Bản”; đấy có phải là tái sinh luân hồi hay không?
Trả lời: Câu chuyện cháu bé ở Vụ Bản theo những người trong cuộc đã được nhiều người đưa lên phương tiện truyền thông. Đây là một vấn đề thuộc lĩnh vực nghiên cứu tâm linh khá thú vị cần được nghiên cứu nghiêm túc mới có thể kết luận được.
Ta biết rằng, con người là thể tổng hòa của hai mặt vật chất và tinh thần và loài người có hai đời sống là vật chất và tinh thần đang quện hòa nhau tương hỗ với nhau.
Phần tinh thần của con người, còn gọi là phần tâm linh, lại bao gồm trí tuệ và cảm xúc tâm hồn. Câu hỏi “sau khi phần thể xác của con người dừng hoạt động, thì phần tâm linh có còn tồn tại không? Và nếu tâm linh vẫn còn tồn tại thì ở mức độ nào và sự vận động của nó ra sao?” thuộc vào vấn đề khó nhất đối với trí tuệ loài người.
Cho tới nay khoa học chưa có câu trả lời rõ ràng cho vấn đề này!
Khoa học và công nghệ đã có những bước tiến nhảy vọt trong việc hiểu biết phần thể xác của con người và áp dụng kiến thức đó một cách rộng rãi vào đời sống vật chất của con người. Khoa học với ngành máy tính điện tử, truyền thông và trí tuệ nhân tạo cũng đang giúp ta mở dần một cánh cửa vào việc nhận biết và hiểu sâu hơn bản chất đời sống trí tuệ và tư duy của con người.
Tuy nhiên, đời sống tâm linh là vô cùng phong phú, và là một thực tại có bản chất huyền bí, vô hình, nên việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào nghiên cứu các hiện tượng của đời sống tâm linh nói chung lại còn rất hạn chế, hiện mới chỉ dừng lại việc ghi nhận và thống kê các “hiện tượng tâm linh”.
Khoa học vẫn chưa thể giúp ta “quan sát Tâm linh” một cách trực tiếp và chưa thể giải thích rạch ròi lĩnh vực này.
Các tôn giáo từ lâu đã quan tâm đến đời sống tâm linh của loài người, họ đều có triết lý và quan điểm riêng về các vấn đề đạo đức, tình thương giữa con người, cũng như về sự tồn tại của một phần tâm linh sau khi thể xác con người không còn hoạt đông.
Phật giáo, một tôn giáo có nền triết lý cởi mở và gần với khoa học nhất, trong hơn hai ngàn năm trăm năm nay cũng đã có nhận thức sâu sắc và khá rõ ràng về vấn đề tái sinh và luân hồi của tâm linh sau khi thể xác chết.
Đối với một hiện tượng hay câu chuyện tâm linh cụ thể như câu hỏi về “cậu bé ở Vụ Bản Nam Định” nêu ở đây, tôi cho rằng, hiện tượng hay câu chuyện tâm linh chỉ là “bằng chứng hiển nhiên” có sức thuyết phục với ai đã được tiếp xúc và thấy biết trực tiếp nó.
Là “những người trong cuộc”, họ thường nói: “tôi đã được mắt thấy tai nghe rõ ràng nên không thể không tin vào việc đó!”.
Ngược lại, với những người ngoài cuộc chỉ được nghe kể lại, thì thường rất khó mà tin ngay vào những chuyện hiếm khi xảy ra như vậy, việc tin hay không tin chủ yếu phụ thuộc vào kinh nghiệm và lập luận của riêng mình.
Quan điểm của tôi, như một người mới chỉ được đọc và nghe gián tiếp, là: “nếu câu chuyện đã được nhân chứng kể lại “là sự thật” (tôi xin nhấn mạnh, “nếu đó là sự thật”), thì đây chính là một bằng chứng về “sự Tái sinh luân hồi của một con nguời” được trình bày trong giáo lý của nhà Phật.
Còn “việc đó có phải là sự thật hay không?” xin dành lại cho các nhà khoa học trả lời sau khi nhập cuộc đầy đủ và thực sự nghiêm túc.
Tôi tin rằng, chỉ khi hiểu sâu sắc các kinh nghiệm và kiến thức cũng như biết cách áp dụng đúng đắn, hài hòa các phương pháp của Khoa học và Phật học, các nhà nghiên cứu tâm linh mới có thể thâm nhập vào lĩnh vực tinh tế và nhậy cảm này.
Chỉ khi đó chúng ta mới có được những câu trả lời có sức thuyết phục về các vấn đề Tâm linh.
Hỏi 2: Vậy tái sinh được hiểu theo nhà Phật thì như thế nào? Trong thực tế điều này đã được công nhận chưa?
Trả lời: Vấn đề về con người và sự tái sinh luân hồi là một chủ đề cốt yếu của nhà Phật, được trình bày trong toàn bộ giáo lý của nhà Phật và đặc biệt trong “Duy thức học” – một “bộ môn khoa học” trong Phật học. Tôi chỉ xin trình bày vắn tắt như sau:
Con người có “thân mạng” được cấu thành và phối kết hợp bởi năm nhóm, mà Phật giáo gọi là “ngũ uẩn” (hay năm kết tập) vật chất và tinh thần, gồm: Sắc uẩn (xác thân), Thọ uẩn (thọ cảm ưa chịu), Tưởng uẩn (tư tưởng hay tưởng tượng), Hành uẩn (hành vi tức việc làm) và Thức uẩn (thức trí phân biệt).
Trong đó, Sắc uẩn là phần “vật chất”, và bốn uẩn kia thuộc về phần tinh thần. Năm nhóm này biến đổi từng phút giây như một dòng nước.
Khi mệnh chung, thân xác mất đi, những nhóm đó tan rã, nhưng kết quả của những hành động về thân, khẩu , ý vẫn còn tác động. Cái “còn tác động” sau đó ta gọi là “nghiệp lực”.
Sắc uẩn ám chỉ xác thân, có hình thức khối lượng, biến đổi theo thời gian, và sờ thấy được, nên nó cụ thể.
Còn thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, và thức uẩn thì biến hiện, trừu tượng, vô hình như trường điện từ. Bốn uẩn này phải nương vào sắc uẩn (xác thân còn sinh hoạt) mới hiển lộng ra được. Khi hoạt động, bốn uẩn (hay danh pháp) ấy lại hiển lộng ra hai mặt, là mặt nổi và mặt chìm:
Mặt nổi gồm thọ uẩn, tưởng uẩn, và hành uẩn.
Mặt chìm tuy chỉ có một mình thức uẩn (thuộc tinh thần) hoạt động, nhưng nó lại rất nhậy bén, đa diện và phong phú.
Theo Duy thức học trong Phật giáo, thì vì thức uẩn rất phức tạp, có thể hình dung như nó gồm ba vòng ẩn hoạt, huyền bí vô cùng, là vòng ngoài, vòng giữa, và vòng trong. Ví như chiều sâu của đại dương gồm thượng tầng, trung tầng, và đáy biển.
Vòng ngoài của thức uẩn tương ứng với thượng tầng của đại dương (kể cả mặt nước), nơi hứng chịu mọi vật, và áp lực của gió bão. Vòng ngoài này hướng ra ngoại cảnh qua năm giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) chịu tất cả ảnh hưởng của ngoại cảnh, đồng thời liên kết với vòng trong cùng qua vòng giữa. Vòng ngoài ấy (gồm năm thức đầu) ta tam gọi là vòng nhận thức.
Vòng giữa của thức uẩn tương ứng với trung tầng của đại dương, gắn với tư duy, có tác dụng phân biệt trước một đối tượng, để phản ứng ra ngoài hay nhận vào bên trong, cũng như trung tầng của đại dương có tác dụng đẩy bất cứ một vật thể gì lên mặt nước, hay nhận chìm vật ấy xuống đáy biển. Vòng giữa này (là thức thứ sáu) có thể gọi là vòng tri thức.
Vòng trong cùng của thức uẩn tương ứng với đáy biển, có đặc tánh tự nhiên là yên lặng thống kê mọi vật. Cũng như đáy biển là kho chứa tất cả những gì chìm xuống đó và giữ nguyên vị, không dời chỗ. Vòng trong cùng, hay trung tâm của thức uẩn này, được gọi là vòng Linh thức.
Vòng Linh thức này gồm có hai phần: Phần động (hiển lộng) gọi là Mạt-Na, quen gọi là “hồn”, và phần tĩnh (an nhiên) gọi là A-Lại-Da, thường gọi là “phách”.
Đó là hai thức lực tiềm lặng ‘nằm’ vừa trong vừa ngoài trí não con người. Hai loại siêu năng này biểu lộ được là do động lực cảm ứng của dòng nhân điện lưu chuyển trong não và thân thể.
Hồn lực Mạt-Na (còn gọi là thức thứ bảy) chủ trì các sự hiếu động và hành vi con người. Nó tượng trưng cho “tự ngã” (tức là cái ta), nắm giữ toàn diện cá thể nhân sinh. Phách lực A-Lại-Da (hay tàng thức – thức thứ tám) ẩn sâu trong tâm khảm, nên rất tiềm tàng, vốn tĩnh lặng.
Cái “kho” A-Lại-Da cất giữ không những tất cả hiểu biết và kinh nghiệm của riêng ta trong hiện tại, mà nó còn tồn trữ toàn thể thông tin về pháp hành từ vô thủy quá khứ, đến mãi mãi muôn kiếp luân hồi trong tương lai.
Phách lực hay tàng thức A-Lại-Da tượng trưng cho “đại ngã”, làm tiêu biểu cho “bản thể vũ trụ”. Nó là “gạch nối” giữa tiềm thức với cõi vô cùng, và là “pháp thân” của mọi sinh linh khi chưa chuyển động.
Phách lực A-Lại-Da, đôi khi còn được gọi là Thần Thức. Thần thức này cũng là “chân ngã” hay “tịnh ngã”, tứclà cái “ta thật” của mỗi chúng ta, theo Phật học, có khả năng thay đổi: tiến hóa hay thối hóa là do ba nghiệp (ý, khẩu, thân) mà chúng ta tạo trong quá khứ và hiện tại….
Hay nói cách khác, Thần thức con người sau khi lâm chung được nghiệp lực dẫn đi theo các nẻo đường luân hồi ở các cõi tâm linh như địa nguc, súc sinh, ngã quỷ, bán thần (Atula), người hay thiên thần…Trong trường hợp tái sinh lại kiếp người, thì nghiệp lực dẫn thấn thức nhập vào hợp thể tinh cha cộng trứng mẹ mà tạo nên bào thai con người.
Cần nói thêm rằng, có hai quan niệm thông thường trái ngược về vấn đề tái sinh luân hồi mà theo Phật giáo đều không đúng:
1/ Con người sau khi chết là hết, cả linh hồn và thể xác mất hẳn;
2/ Linh hồn là bất tử. Chân lý vô thường của vạn vật là: mọi sự vật, hiện tượng đều biến đổi không ngừng, Còn có bản thể hay bản tính của vũ trụ mới là bất biến, thường hằng mà thôi!
Theo Phật giáo, Đức Phật Thích Ca Mầu Ni, bằng công trình thiền quán vĩ đại 49 ngày, đã chỉ rõ: “tất cả mọi người đều có sẵn hạt giống của trí tuệ giác ngộ trong lòng”.
Phật gọi hạt giống của trí tuệ giác ngộ là “Chân như giác tính” hay nói tắt là Giác tính. Duy thức học cho rằng Giác tính nằm sâu trong tàng thức A-Lại-Da, lại bị mê mờ, người thường khó nhận biết được. Đây cũng chính là Huệ mạng của con người, gọi là nằm sâu trong “thân mạng” (gồm “ngũ uẩn giai không”) nhưng lại bao trùm khắp vũ trụ – “pháp giới”.
“Huệ mạng” là phần tinh túy nhất, còn được gọi hay “Phật tính”, giống như trong khoa học, người ta gọi bản tuần hoàn của các nguyên tố hóa học là bản tuần hoàn Meldeleev vậy.
“Huệ mạng” này ai ai cũng có, gắn liền với bản thể và bản tính của vũ trụ, vì vậy mà tồn tại vĩnh hằng. Chỉ những con người giác ngộ hoàn toàn như Phật tổ Như Lai là bậc “Vô thượng Chính đẳng Chính giác” mới nhận biết đầy đủ được huệ mạng này.
Cõi này của Tâm linh nhà Phật gọi là “Vô Dư Niết Bàn”. Nhà Phật phân biệt cõi “Vô Dư Niết Bàn” này với “cõi “Hữu Dư Niết Bàn”, thường được gọi là “cõi Vĩnh hằng” hay “Niết bàn”, nơi mà Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn chúng sinh tới, sau khi lâm chung…
Trình bày về một luận thuyết rộng lớn và tinh tế của Phật giáo về sự tái sinh luân hồi một cách vắn tắt như trên, bằngngôn ngữ phổ thông dùng ít các thuật ngữ chuyên môn, là điều khó; cộng với cái thấy hiểu còn hạn chế của mình, nên không khỏi có phần sai và thiếu, mong các bạn tìm đọc thêm bài giảng của các bậc thiền sư chân tu hoặc các nhà khoa học nghiên cứu tâm linh trong và ngoài nước để hiểu rõ và đúng hơn về vấn đề mang ý nghĩa nhân sinh quan trọng này.
Đây cũng là vấn đề thuộc loại hóc búa nhất đối với Khoa học.
Ta biết, Khoa học cũng còn chưa tìm ra cách ghi đọc và giải mã ngay lập tức ý nghĩ của con người. Có thể nói, việc chứng minh rõ ràng được sự tồn tại và vận hành của phách lực A-Lại-Da hay sự luân hồi của Thần thức là một bài toán còn khó hơn nữa mà Phật học đặt ra trước Khoa học.
Tuy nhiên, khoa học cũng không chịu lùi bước và hiện đang có những bước tiến lớn trong việc nghiên cứu một dạng thông tin mới với những hiện tượng siêu việt và công nghệ siêu việt của tương lai: Lý thuyết Thông tin Lượng tử với hiện tượng Thông tải Lượng tử (Quantum Information & Quantum Telepotation) để ứng dụng phát triển công nghệ Truyền thông Lượng tử & Máy tính Lượng tử (Quantum communicationm & Quatum Computer).
Tôi có niềm tin rằng, Lý thuyết Thông tin Lượng tử cùng những tiến bộ trong các ngành khoa học khác như máy tính điện tử, truyền thông, y sinh học phân tử, trí tuệ nhân tạo … nhất định sẽ giúp chúng ta giải được bài toán lớn về sự tồn tại và vận hành của phách lực A-Lại-Da, thiết lập hoàn toàn được cầu nối giữa hai con đường Khoa học và Đạo học chân thực, dẫn loài người tới mục đích cao quý là sự giác ngộ Chân lý vũ trụ, giúp chúng ta có được An lạc và Hạnh phúc ngay tại cuộc đời này.
Xin giới thiệu hai cuốn sách để độc giả tham khảo:
1-“Thuyết Luân Hồi và Phật Giáo Tây Phương” (Rebirth and the Western Buddhist),Tác giả: Tiến sỹ vật lý Martin Willson, dịch giả đại đức Thích Nguyên Tạng, 2006. http://www.quangduc.com/Taisanh/18luanhoi.html" target="_blank
2-“Sự sống sau cái chết…”, Tác giả: Deepak Chopra, The New York Times Bestseller, Nhã Nam – Nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn¸ 2009.
PGS.TS. Hà Vĩnh Tân – Viện Vật lý
Nguoofn: phattuvietnam.net
Vòng luân hồi
Phóng viên Phattuvietnam.net gửi câu hỏi tới PGS.TS Hà Vĩnh Tân về đề tài “Tái sinh và luân hồi”, và đã nhận được trả lời, như sau:
Hỏi 1: PGs.Ts lý giải như thế nào về những trường hợp trong thực tế như “cháu bé ở Vụ Bản”; đấy có phải là tái sinh luân hồi hay không?
Trả lời: Câu chuyện cháu bé ở Vụ Bản theo những người trong cuộc đã được nhiều người đưa lên phương tiện truyền thông. Đây là một vấn đề thuộc lĩnh vực nghiên cứu tâm linh khá thú vị cần được nghiên cứu nghiêm túc mới có thể kết luận được.
Ta biết rằng, con người là thể tổng hòa của hai mặt vật chất và tinh thần và loài người có hai đời sống là vật chất và tinh thần đang quện hòa nhau tương hỗ với nhau.
Phần tinh thần của con người, còn gọi là phần tâm linh, lại bao gồm trí tuệ và cảm xúc tâm hồn. Câu hỏi “sau khi phần thể xác của con người dừng hoạt động, thì phần tâm linh có còn tồn tại không? Và nếu tâm linh vẫn còn tồn tại thì ở mức độ nào và sự vận động của nó ra sao?” thuộc vào vấn đề khó nhất đối với trí tuệ loài người.
Cho tới nay khoa học chưa có câu trả lời rõ ràng cho vấn đề này!
Khoa học và công nghệ đã có những bước tiến nhảy vọt trong việc hiểu biết phần thể xác của con người và áp dụng kiến thức đó một cách rộng rãi vào đời sống vật chất của con người. Khoa học với ngành máy tính điện tử, truyền thông và trí tuệ nhân tạo cũng đang giúp ta mở dần một cánh cửa vào việc nhận biết và hiểu sâu hơn bản chất đời sống trí tuệ và tư duy của con người.
Tuy nhiên, đời sống tâm linh là vô cùng phong phú, và là một thực tại có bản chất huyền bí, vô hình, nên việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào nghiên cứu các hiện tượng của đời sống tâm linh nói chung lại còn rất hạn chế, hiện mới chỉ dừng lại việc ghi nhận và thống kê các “hiện tượng tâm linh”.
Khoa học vẫn chưa thể giúp ta “quan sát Tâm linh” một cách trực tiếp và chưa thể giải thích rạch ròi lĩnh vực này.
Các tôn giáo từ lâu đã quan tâm đến đời sống tâm linh của loài người, họ đều có triết lý và quan điểm riêng về các vấn đề đạo đức, tình thương giữa con người, cũng như về sự tồn tại của một phần tâm linh sau khi thể xác con người không còn hoạt đông.
Phật giáo, một tôn giáo có nền triết lý cởi mở và gần với khoa học nhất, trong hơn hai ngàn năm trăm năm nay cũng đã có nhận thức sâu sắc và khá rõ ràng về vấn đề tái sinh và luân hồi của tâm linh sau khi thể xác chết.
Đối với một hiện tượng hay câu chuyện tâm linh cụ thể như câu hỏi về “cậu bé ở Vụ Bản Nam Định” nêu ở đây, tôi cho rằng, hiện tượng hay câu chuyện tâm linh chỉ là “bằng chứng hiển nhiên” có sức thuyết phục với ai đã được tiếp xúc và thấy biết trực tiếp nó.
Là “những người trong cuộc”, họ thường nói: “tôi đã được mắt thấy tai nghe rõ ràng nên không thể không tin vào việc đó!”.
Ngược lại, với những người ngoài cuộc chỉ được nghe kể lại, thì thường rất khó mà tin ngay vào những chuyện hiếm khi xảy ra như vậy, việc tin hay không tin chủ yếu phụ thuộc vào kinh nghiệm và lập luận của riêng mình.
Quan điểm của tôi, như một người mới chỉ được đọc và nghe gián tiếp, là: “nếu câu chuyện đã được nhân chứng kể lại “là sự thật” (tôi xin nhấn mạnh, “nếu đó là sự thật”), thì đây chính là một bằng chứng về “sự Tái sinh luân hồi của một con nguời” được trình bày trong giáo lý của nhà Phật.
Còn “việc đó có phải là sự thật hay không?” xin dành lại cho các nhà khoa học trả lời sau khi nhập cuộc đầy đủ và thực sự nghiêm túc.
Tôi tin rằng, chỉ khi hiểu sâu sắc các kinh nghiệm và kiến thức cũng như biết cách áp dụng đúng đắn, hài hòa các phương pháp của Khoa học và Phật học, các nhà nghiên cứu tâm linh mới có thể thâm nhập vào lĩnh vực tinh tế và nhậy cảm này.
Chỉ khi đó chúng ta mới có được những câu trả lời có sức thuyết phục về các vấn đề Tâm linh.
Hỏi 2: Vậy tái sinh được hiểu theo nhà Phật thì như thế nào? Trong thực tế điều này đã được công nhận chưa?
Trả lời: Vấn đề về con người và sự tái sinh luân hồi là một chủ đề cốt yếu của nhà Phật, được trình bày trong toàn bộ giáo lý của nhà Phật và đặc biệt trong “Duy thức học” – một “bộ môn khoa học” trong Phật học. Tôi chỉ xin trình bày vắn tắt như sau:
Con người có “thân mạng” được cấu thành và phối kết hợp bởi năm nhóm, mà Phật giáo gọi là “ngũ uẩn” (hay năm kết tập) vật chất và tinh thần, gồm: Sắc uẩn (xác thân), Thọ uẩn (thọ cảm ưa chịu), Tưởng uẩn (tư tưởng hay tưởng tượng), Hành uẩn (hành vi tức việc làm) và Thức uẩn (thức trí phân biệt).
Trong đó, Sắc uẩn là phần “vật chất”, và bốn uẩn kia thuộc về phần tinh thần. Năm nhóm này biến đổi từng phút giây như một dòng nước.
Khi mệnh chung, thân xác mất đi, những nhóm đó tan rã, nhưng kết quả của những hành động về thân, khẩu , ý vẫn còn tác động. Cái “còn tác động” sau đó ta gọi là “nghiệp lực”.
Sắc uẩn ám chỉ xác thân, có hình thức khối lượng, biến đổi theo thời gian, và sờ thấy được, nên nó cụ thể.
Còn thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, và thức uẩn thì biến hiện, trừu tượng, vô hình như trường điện từ. Bốn uẩn này phải nương vào sắc uẩn (xác thân còn sinh hoạt) mới hiển lộng ra được. Khi hoạt động, bốn uẩn (hay danh pháp) ấy lại hiển lộng ra hai mặt, là mặt nổi và mặt chìm:
Mặt nổi gồm thọ uẩn, tưởng uẩn, và hành uẩn.
Mặt chìm tuy chỉ có một mình thức uẩn (thuộc tinh thần) hoạt động, nhưng nó lại rất nhậy bén, đa diện và phong phú.
Theo Duy thức học trong Phật giáo, thì vì thức uẩn rất phức tạp, có thể hình dung như nó gồm ba vòng ẩn hoạt, huyền bí vô cùng, là vòng ngoài, vòng giữa, và vòng trong. Ví như chiều sâu của đại dương gồm thượng tầng, trung tầng, và đáy biển.
Vòng ngoài của thức uẩn tương ứng với thượng tầng của đại dương (kể cả mặt nước), nơi hứng chịu mọi vật, và áp lực của gió bão. Vòng ngoài này hướng ra ngoại cảnh qua năm giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) chịu tất cả ảnh hưởng của ngoại cảnh, đồng thời liên kết với vòng trong cùng qua vòng giữa. Vòng ngoài ấy (gồm năm thức đầu) ta tam gọi là vòng nhận thức.
Vòng giữa của thức uẩn tương ứng với trung tầng của đại dương, gắn với tư duy, có tác dụng phân biệt trước một đối tượng, để phản ứng ra ngoài hay nhận vào bên trong, cũng như trung tầng của đại dương có tác dụng đẩy bất cứ một vật thể gì lên mặt nước, hay nhận chìm vật ấy xuống đáy biển. Vòng giữa này (là thức thứ sáu) có thể gọi là vòng tri thức.
Vòng trong cùng của thức uẩn tương ứng với đáy biển, có đặc tánh tự nhiên là yên lặng thống kê mọi vật. Cũng như đáy biển là kho chứa tất cả những gì chìm xuống đó và giữ nguyên vị, không dời chỗ. Vòng trong cùng, hay trung tâm của thức uẩn này, được gọi là vòng Linh thức.
Vòng Linh thức này gồm có hai phần: Phần động (hiển lộng) gọi là Mạt-Na, quen gọi là “hồn”, và phần tĩnh (an nhiên) gọi là A-Lại-Da, thường gọi là “phách”.
Đó là hai thức lực tiềm lặng ‘nằm’ vừa trong vừa ngoài trí não con người. Hai loại siêu năng này biểu lộ được là do động lực cảm ứng của dòng nhân điện lưu chuyển trong não và thân thể.
Hồn lực Mạt-Na (còn gọi là thức thứ bảy) chủ trì các sự hiếu động và hành vi con người. Nó tượng trưng cho “tự ngã” (tức là cái ta), nắm giữ toàn diện cá thể nhân sinh. Phách lực A-Lại-Da (hay tàng thức – thức thứ tám) ẩn sâu trong tâm khảm, nên rất tiềm tàng, vốn tĩnh lặng.
Cái “kho” A-Lại-Da cất giữ không những tất cả hiểu biết và kinh nghiệm của riêng ta trong hiện tại, mà nó còn tồn trữ toàn thể thông tin về pháp hành từ vô thủy quá khứ, đến mãi mãi muôn kiếp luân hồi trong tương lai.
Phách lực hay tàng thức A-Lại-Da tượng trưng cho “đại ngã”, làm tiêu biểu cho “bản thể vũ trụ”. Nó là “gạch nối” giữa tiềm thức với cõi vô cùng, và là “pháp thân” của mọi sinh linh khi chưa chuyển động.
Phách lực A-Lại-Da, đôi khi còn được gọi là Thần Thức. Thần thức này cũng là “chân ngã” hay “tịnh ngã”, tứclà cái “ta thật” của mỗi chúng ta, theo Phật học, có khả năng thay đổi: tiến hóa hay thối hóa là do ba nghiệp (ý, khẩu, thân) mà chúng ta tạo trong quá khứ và hiện tại….
Hay nói cách khác, Thần thức con người sau khi lâm chung được nghiệp lực dẫn đi theo các nẻo đường luân hồi ở các cõi tâm linh như địa nguc, súc sinh, ngã quỷ, bán thần (Atula), người hay thiên thần…Trong trường hợp tái sinh lại kiếp người, thì nghiệp lực dẫn thấn thức nhập vào hợp thể tinh cha cộng trứng mẹ mà tạo nên bào thai con người.
Cần nói thêm rằng, có hai quan niệm thông thường trái ngược về vấn đề tái sinh luân hồi mà theo Phật giáo đều không đúng:
1/ Con người sau khi chết là hết, cả linh hồn và thể xác mất hẳn;
2/ Linh hồn là bất tử. Chân lý vô thường của vạn vật là: mọi sự vật, hiện tượng đều biến đổi không ngừng, Còn có bản thể hay bản tính của vũ trụ mới là bất biến, thường hằng mà thôi!
Theo Phật giáo, Đức Phật Thích Ca Mầu Ni, bằng công trình thiền quán vĩ đại 49 ngày, đã chỉ rõ: “tất cả mọi người đều có sẵn hạt giống của trí tuệ giác ngộ trong lòng”.
Phật gọi hạt giống của trí tuệ giác ngộ là “Chân như giác tính” hay nói tắt là Giác tính. Duy thức học cho rằng Giác tính nằm sâu trong tàng thức A-Lại-Da, lại bị mê mờ, người thường khó nhận biết được. Đây cũng chính là Huệ mạng của con người, gọi là nằm sâu trong “thân mạng” (gồm “ngũ uẩn giai không”) nhưng lại bao trùm khắp vũ trụ – “pháp giới”.
“Huệ mạng” là phần tinh túy nhất, còn được gọi hay “Phật tính”, giống như trong khoa học, người ta gọi bản tuần hoàn của các nguyên tố hóa học là bản tuần hoàn Meldeleev vậy.
“Huệ mạng” này ai ai cũng có, gắn liền với bản thể và bản tính của vũ trụ, vì vậy mà tồn tại vĩnh hằng. Chỉ những con người giác ngộ hoàn toàn như Phật tổ Như Lai là bậc “Vô thượng Chính đẳng Chính giác” mới nhận biết đầy đủ được huệ mạng này.
Cõi này của Tâm linh nhà Phật gọi là “Vô Dư Niết Bàn”. Nhà Phật phân biệt cõi “Vô Dư Niết Bàn” này với “cõi “Hữu Dư Niết Bàn”, thường được gọi là “cõi Vĩnh hằng” hay “Niết bàn”, nơi mà Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn chúng sinh tới, sau khi lâm chung…
Trình bày về một luận thuyết rộng lớn và tinh tế của Phật giáo về sự tái sinh luân hồi một cách vắn tắt như trên, bằngngôn ngữ phổ thông dùng ít các thuật ngữ chuyên môn, là điều khó; cộng với cái thấy hiểu còn hạn chế của mình, nên không khỏi có phần sai và thiếu, mong các bạn tìm đọc thêm bài giảng của các bậc thiền sư chân tu hoặc các nhà khoa học nghiên cứu tâm linh trong và ngoài nước để hiểu rõ và đúng hơn về vấn đề mang ý nghĩa nhân sinh quan trọng này.
Đây cũng là vấn đề thuộc loại hóc búa nhất đối với Khoa học.
Ta biết, Khoa học cũng còn chưa tìm ra cách ghi đọc và giải mã ngay lập tức ý nghĩ của con người. Có thể nói, việc chứng minh rõ ràng được sự tồn tại và vận hành của phách lực A-Lại-Da hay sự luân hồi của Thần thức là một bài toán còn khó hơn nữa mà Phật học đặt ra trước Khoa học.
Tuy nhiên, khoa học cũng không chịu lùi bước và hiện đang có những bước tiến lớn trong việc nghiên cứu một dạng thông tin mới với những hiện tượng siêu việt và công nghệ siêu việt của tương lai: Lý thuyết Thông tin Lượng tử với hiện tượng Thông tải Lượng tử (Quantum Information & Quantum Telepotation) để ứng dụng phát triển công nghệ Truyền thông Lượng tử & Máy tính Lượng tử (Quantum communicationm & Quatum Computer).
Tôi có niềm tin rằng, Lý thuyết Thông tin Lượng tử cùng những tiến bộ trong các ngành khoa học khác như máy tính điện tử, truyền thông, y sinh học phân tử, trí tuệ nhân tạo … nhất định sẽ giúp chúng ta giải được bài toán lớn về sự tồn tại và vận hành của phách lực A-Lại-Da, thiết lập hoàn toàn được cầu nối giữa hai con đường Khoa học và Đạo học chân thực, dẫn loài người tới mục đích cao quý là sự giác ngộ Chân lý vũ trụ, giúp chúng ta có được An lạc và Hạnh phúc ngay tại cuộc đời này.
Xin giới thiệu hai cuốn sách để độc giả tham khảo:
1-“Thuyết Luân Hồi và Phật Giáo Tây Phương” (Rebirth and the Western Buddhist),Tác giả: Tiến sỹ vật lý Martin Willson, dịch giả đại đức Thích Nguyên Tạng, 2006. http://www.quangduc.com/Taisanh/18luanhoi.html" target="_blank
2-“Sự sống sau cái chết…”, Tác giả: Deepak Chopra, The New York Times Bestseller, Nhã Nam – Nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn¸ 2009.
PGS.TS. Hà Vĩnh Tân – Viện Vật lý
Nguoofn: phattuvietnam.net
-
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 1587
- Tham gia: 15:52, 05/04/11
- tigerstock68
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2135
- Tham gia: 14:12, 29/03/11
TL: PHẬT GIÁO KHÔNG CHẤP NHẬN CÓ LINH HỒN
[highlight=#fafcff]
Việc các nhà ngoại cảm tìm được hài cốt của những người chết nhờ tiếp xúc với người “cõi âm” được báo chí công bố gần đây là điều có thật và rất đáng trân trọng. Thực ra, khả năng ngoại cảm của con người được biết đến từ thời xa xưa. Các nước trên thế giới, từ lâu, đã nghiên cứu và ứng dụng ngoại cảm vào nhiều lĩnh vực của đời sống, trong đó có cả quân sự.
Và các nhà khoa học Việt Nam, từ khoảng 15 năm nay, đã bắt đầu nghiên cứu một cách nghiêm túc về các hiện tượng đặc biệt của con người, trong đó có ngoại cảm. Tiên phong trong lĩnh vực này là các cơ quan như Liên hiệp Khoa học Công nghệ tin học ứng dụng, Viện Khoa học Hình sự Bộ Công an, Trung tâm Bảo trợ Văn hóa truyền thống và Bộ môn Cận tâm lý Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người.
Trước hết, Phật giáo không hề có quan niệm về một dạng sống được gọi là “cõi âm”. Thế giới quan của Phật giáo là vô lượng vô biên thế giới, hằng hà sa số thế giới, trong đó có thế giới Ta bà gồm Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Hai cõi Sắc và Vô sắc là cõi giới của thiền định. Cõi Dục gồm lục đạo là các loài Trời, A tu la, Người, Ngạ quỷ, Súc sanh và Địa ngục. Cõi âm hoặc âm phủ chỉ là quan niệm dân gian dùng để chỉ thế giới của người chết đối lập với cõi người sống (cõi dương).
Đối với các bậc chân sư Phật giáo đã chứng đạo, khả năng đặc biệt của các nhà ngoại cảm là chuyện bình thường, không có gì xa lạ cả. Những thiền sư, nhờ tu tập thiền định mà thành tựu Tam minh và Lục thông. Trong đó, khả năng của các nhà ngoại cảm hiện nay có thể xem như là một phần nhỏ của Thiên nhãn thông (năng lực thấy rõ mọi thứ, không ngăn ngại), Thiên nhĩ thông (năng lực nghe được tất cả các dạng âm thanh) và Tha tâm thông (năng lực biết được tâm ý của người cùng các chúng sanh khác).
Chỉ có điều, các hành giả Phật giáo hiếm khi tuyên bố về thần thông, bởi thần thông thường thành tựu trước trí tuệ (chứng đắc Tứ thiền đã có năng lực của Ngũ thông, trừ Lậu tận thông) và chấp thủ hay lạm dụng vào thần thông sẽ chướng ngại giải thoát tối hậu. Vì vậy, các hành giả Phật giáo khi có sở đắc về thần thông thì đa phần thường im lặng. Đối với giới khoa học, Thiếu tướng Chu Phác, Chủ nhiệm Bộ môn Cận tâm lý Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người, khá am tường Phật giáo khi nhận định: “Việc ‘thấy’ của các nhà ngoại cảm xét dưới góc độ khoa học hiện đại thực ra là hiện tượng Thiên nhãn thông, một trong mười lợi ích của thiền định”.
Sau khi chết, thần thức thường trải qua giai đoạn trung gian, chuyển tiếp trước khi tái sanh. Khoảng thời gian cho giai đoạn mang thân trung ấm này tối đa là 49 ngày, ngoại trừ hai trường hợp cực thiện và cực ác thì tái sanh ngay lập tức vào cõi Trời hay cõi Địa ngục. Tuy nhiên, còn có trường hợp đặc biệt của thân trung ấm do chết đột ngột (đột tử) và chết một cách oan ức thì thần thức hoặc “không biết” mình đã chết, hoặc do oán hận ngút ngàn mà cận tử nghiệp bám chặt, chấp thủ kiên cố vào trạng huống “hiện tại”, được gọi là các “oan hồn”, cần phải khai thị (giải nghiệp) mới có thể chuyển kiếp, tái sanh.
Ngoài các thân trung ấm, những “oan hồn”, các nhà ngoại cảm còn tiếp xúc được với những chúng sanh trong loài Ngạ quỷ. Nhà ngoại cảm Bích Hằng đã nói rất chính xác: “Thế giới người âm rất đa dạng, phong phú, chia thành nhiều giai tầng”. Chúng sanh loài Ngạ quỷ chiếm nhiều nhất so với các loài khác trong lục đạo. Những đối tượng mà con người gọi là “ma, quỷ, thần linh nói chung…” đều thuộc “những giai tầng” của loài Ngạ quỷ này.
Như vậy, “cõi âm” mà các nhà ngoại cảm tiếp xúc được bao gồm các chúng sanh đang ở giai đoạn thân trung ấm, các “oan hồn” và loài Ngạ quỷ. Nhà ngoại cảm Bích Hằng cũng nói rõ là “tôi chưa thấy địa ngục của người cõi âm bao giờ”, bởi chỉ những người tạo các ác nghiệp và các bậc Đại Bồ tát có đầy đủ thần lực mới vào được địa ngục mà thôi.
Hiện nay, các nhà ngoại cảm thường tìm kiếm hài cốt theo hai hướng.
Khuynh hướng thứ nhất là các nhà ngoại cảm “thấy” được hài cốt, vẽ lại sơ đồ chi tiết khu vực ấy và hướng dẫn thân nhân tìm kiếm. Trường hợp này nhà ngoại cảm chỉ sử dụng khả năng “thiên nhãn thông” của mình để tìm kiếm và phát hiện hài cốt mà không cần trợ giúp của “chủ nhân” chính hài cốt ấy. Bởi hầu hết những hài cốt này chỉ là phần thân xác vật chất đơn thuần (địa đại-đất), còn thần thức đã theo nghiệp tái sanh.
Tuy nhiên, vì các nhà ngoại cảm chưa thành tựu Đại định (tam muội) nên năng lực “thấy” của họ thường chập chờn. Tùy thuộc vào cấp độ định tâm hay trạng thái tâm của họ khi làm việc mà “thấy mờ hoặc tỏ” khác nhau, phải điều chỉnh nhiều lần mới tìm ra vị trí chính xác của hài cốt. Năng lực thấy rõ không có gì ngăn ngại này của các nhà ngoại cảm còn được vận dụng để tìm kiếm khoáng sản, thăm dò lòng đất (ngành mỏ-địa chất), khả năng khám, chữa bệnh (ngành y khoa) v.v… hiện đang được nhiều quốc gia trên thế giới nghiên cứu, khai thác và ứng dụng.
Khuynh hướng thứ hai thì ngược lại, nhà ngoại cảm tiếp xúc với người “cõi âm” và họ chỉ cho nhà ngoại cảm thấy hài cốt của chính họ hoặc những người khác. Trường hợp này, sự trợ giúp của người “cõi âm” vô cùng cần thiết, do đó nhà ngoại cảm và thân nhân phải có lòng thành. Vì người “cõi âm” biết được tâm ý của chúng ta cho nên nếu lòng không trong sáng, tâm không thành khẩn, làm việc vì danh lợi thì sẽ thất bại. Những chúng sanh mang thân trung ấm, những “oan hồn” và loài ngạ quỷ đều có thể tiếp xúc được với nhà ngoại cảm để truyền thông những thông tin cần thiết.
Ở đây, trường hợp đặc biệt cần lưu tâm là các “oan hồn”. Như đã nói những người chết “bất đắc kỳ tử”, chết trong oán hận tột cùng rất khó tái sanh. Mặc dù phần lớn các luận sư Phật giáo đều cho rằng thời gian thích hợp cho tái sanh của thân trung ấm thường tối đa là 49 ngày nhưng “oan hồn” là một ngoại lệ. Theo luận sư Pháp Cứu (Dharmatrata), tác giả Tạp A tỳ đàm tâm luận (Samyutara Abhidharmahridaya) thì thân trung ấm tồn tại không hạn chế thời gian nếu nhân duyên chưa đủ để đầu thai (xem thêm Đại cương luận Câu xá, tác giả Thích Thiện Siêu, NXB Tôn Giáo, 2000, tr.109).
Kế thừa quan điểm này, về sau vị chân sư Phật giáo Tây Tạng Sogyal Rinpoche, bằng tuệ giác chứng ngộ của mình, trong Tạng thư sống chết (Thích nữ Trí Hải dịch) khẳng định: “Toàn thể trung ấm tái sanh kéo dài trung bình 49 ngày, và ít nhất là một tuần. Nhưng cũng còn tùy, giống như hiện tại có người sống tới trăm tuổi, trong khi kẻ khác chết non. Một số lại còn bị kẹt trong thế giới trung gian để thành ma quỷ (18- Bardo tái sanh)” hay “Những người đã có cái chết kinh khủng hay đột ngột rất cần được giúp đỡ. Những nạn nhân của ám sát, tự sát, tai nạn, chiến tranh, thường rất dễ rơi vào sợ hãi đau đớn, hoặc ở mãi trong kinh nghiệm khủng khiếp về cái chết của họ, do đó không thể tiến đến giai đoạn tái sanh (19- Giúp đỡ sau khi chết)”. Vì những lý do trên, có những trường hợp tuy đã chết rất lâu nhưng vẫn chưa được tái sanh.
Phần lớn những người “cõi âm” mà nhà ngoại cảm tiếp xúc, mô tả hình dáng, tính cách của họ đúng như dáng vẻ, tâm trạng lúc chết đều ở trong trường hợp này. Chính việc thần thức “ở mãi trong kinh nghiệm khủng khiếp về cái chết”, “bị kẹt trong thế giới trung gian” (lời của Sogyal Rinpoche), sự chấp thủ kiên cố, bám chặt vào trạng huống “hiện tại” trước khi chết đã tạo ra một dạng sống gọi là “oan hồn”. Do đó, Phật giáo thường lập đàn tràng Giải oan bạt độ và Chẩn tế âm linh cô hồn. Giải oan là tháo gỡ sự chấp thủ, khai thị cho “oan hồn” hiểu giáo pháp mà buông xả, tỉnh ngộ để tái sanh. Chẩn tế là ban phát thực phẩm cho loài ngạ quỷ được no đủ, đồng thời khuyến hóa họ hồi tâm hướng thiện để sớm chuyển nghiệp, siêu thăng.
Như vậy, thế giới “cõi âm” vô cùng đa dạng và phức tạp, những nhà ngoại cảm nhờ có nhân duyên đặc biệt nên tiếp xúc được với họ, giúp họ truyền thông với con người. “Thông điệp” của người “cõi âm” cũng không ngoài tình thương, sự trân trọng, quan tâm lẫn nhau và đề cao các giá trị đạo đức, tâm linh. Chính những tâm tư của người “cõi âm”, nhất là các “oan hồn” đã góp phần tạo nên khí vận quốc gia, hồn thiêng sông núi. Do đó, việc cầu nguyện cho âm siêu dương thái theo pháp thức Phật giáo là điều cần làm.
Ngày nay, các nhà khoa học đang nỗ lực khám phá hiện tượng ngoại cảm theo hướng trường sinh học hay năng lượng sinh học. Tuy nhiên, nếu chỉ thiên về nghiên cứu “vật chất” thì sẽ khó tiếp cận trọn vẹn vấn đề, bởi “sắc tức thị không, không tức thị sắc” (Tâm kinh). Đó là chưa kể đến hoạt dụng của tâm thức A lại da bao trùm khắp cả pháp giới, siêu việt cả tâm lẫn vật, theo Duy thức học, chỉ có tu tập thiền định mới có thể khai mở và thành tựu kho tàng tuệ giác này.
(Theo Giác Ngộ)
[/highlight][/font][/color]
Cõi âm và vấn đề ngoại cảm
Thời gian gần đây, báo chí có đưa tin về việc các nhà ngoại cảm đi tìm mộ liệt sĩ và tiếp xúc được với người “cõi âm”. Phật giáo giải thích hiện tượng này thế nào? Quan điểm của Phật giáo là thần thức sau khi chết tối đa là 49 ngày thì tái sanh vào một thế giới tương ứng với nghiệp thức. Nếu đã tái sanh vào cõi khác thì “ai” tiếp xúc với các nhà ngoại cảm? Tại sao có những người chết cách nay hàng trăm năm vẫn tiếp xúc được với các nhà ngoại cảm? “Cõi âm” mà các nhà ngoại cảm tiếp xúc được nằm ở đâu trong lục đạo.Việc các nhà ngoại cảm tìm được hài cốt của những người chết nhờ tiếp xúc với người “cõi âm” được báo chí công bố gần đây là điều có thật và rất đáng trân trọng. Thực ra, khả năng ngoại cảm của con người được biết đến từ thời xa xưa. Các nước trên thế giới, từ lâu, đã nghiên cứu và ứng dụng ngoại cảm vào nhiều lĩnh vực của đời sống, trong đó có cả quân sự.
Và các nhà khoa học Việt Nam, từ khoảng 15 năm nay, đã bắt đầu nghiên cứu một cách nghiêm túc về các hiện tượng đặc biệt của con người, trong đó có ngoại cảm. Tiên phong trong lĩnh vực này là các cơ quan như Liên hiệp Khoa học Công nghệ tin học ứng dụng, Viện Khoa học Hình sự Bộ Công an, Trung tâm Bảo trợ Văn hóa truyền thống và Bộ môn Cận tâm lý Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người.
Trước hết, Phật giáo không hề có quan niệm về một dạng sống được gọi là “cõi âm”. Thế giới quan của Phật giáo là vô lượng vô biên thế giới, hằng hà sa số thế giới, trong đó có thế giới Ta bà gồm Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Hai cõi Sắc và Vô sắc là cõi giới của thiền định. Cõi Dục gồm lục đạo là các loài Trời, A tu la, Người, Ngạ quỷ, Súc sanh và Địa ngục. Cõi âm hoặc âm phủ chỉ là quan niệm dân gian dùng để chỉ thế giới của người chết đối lập với cõi người sống (cõi dương).
Đối với các bậc chân sư Phật giáo đã chứng đạo, khả năng đặc biệt của các nhà ngoại cảm là chuyện bình thường, không có gì xa lạ cả. Những thiền sư, nhờ tu tập thiền định mà thành tựu Tam minh và Lục thông. Trong đó, khả năng của các nhà ngoại cảm hiện nay có thể xem như là một phần nhỏ của Thiên nhãn thông (năng lực thấy rõ mọi thứ, không ngăn ngại), Thiên nhĩ thông (năng lực nghe được tất cả các dạng âm thanh) và Tha tâm thông (năng lực biết được tâm ý của người cùng các chúng sanh khác).
Chỉ có điều, các hành giả Phật giáo hiếm khi tuyên bố về thần thông, bởi thần thông thường thành tựu trước trí tuệ (chứng đắc Tứ thiền đã có năng lực của Ngũ thông, trừ Lậu tận thông) và chấp thủ hay lạm dụng vào thần thông sẽ chướng ngại giải thoát tối hậu. Vì vậy, các hành giả Phật giáo khi có sở đắc về thần thông thì đa phần thường im lặng. Đối với giới khoa học, Thiếu tướng Chu Phác, Chủ nhiệm Bộ môn Cận tâm lý Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người, khá am tường Phật giáo khi nhận định: “Việc ‘thấy’ của các nhà ngoại cảm xét dưới góc độ khoa học hiện đại thực ra là hiện tượng Thiên nhãn thông, một trong mười lợi ích của thiền định”.
Sau khi chết, thần thức thường trải qua giai đoạn trung gian, chuyển tiếp trước khi tái sanh. Khoảng thời gian cho giai đoạn mang thân trung ấm này tối đa là 49 ngày, ngoại trừ hai trường hợp cực thiện và cực ác thì tái sanh ngay lập tức vào cõi Trời hay cõi Địa ngục. Tuy nhiên, còn có trường hợp đặc biệt của thân trung ấm do chết đột ngột (đột tử) và chết một cách oan ức thì thần thức hoặc “không biết” mình đã chết, hoặc do oán hận ngút ngàn mà cận tử nghiệp bám chặt, chấp thủ kiên cố vào trạng huống “hiện tại”, được gọi là các “oan hồn”, cần phải khai thị (giải nghiệp) mới có thể chuyển kiếp, tái sanh.
Ngoài các thân trung ấm, những “oan hồn”, các nhà ngoại cảm còn tiếp xúc được với những chúng sanh trong loài Ngạ quỷ. Nhà ngoại cảm Bích Hằng đã nói rất chính xác: “Thế giới người âm rất đa dạng, phong phú, chia thành nhiều giai tầng”. Chúng sanh loài Ngạ quỷ chiếm nhiều nhất so với các loài khác trong lục đạo. Những đối tượng mà con người gọi là “ma, quỷ, thần linh nói chung…” đều thuộc “những giai tầng” của loài Ngạ quỷ này.
Như vậy, “cõi âm” mà các nhà ngoại cảm tiếp xúc được bao gồm các chúng sanh đang ở giai đoạn thân trung ấm, các “oan hồn” và loài Ngạ quỷ. Nhà ngoại cảm Bích Hằng cũng nói rõ là “tôi chưa thấy địa ngục của người cõi âm bao giờ”, bởi chỉ những người tạo các ác nghiệp và các bậc Đại Bồ tát có đầy đủ thần lực mới vào được địa ngục mà thôi.
Hiện nay, các nhà ngoại cảm thường tìm kiếm hài cốt theo hai hướng.
Khuynh hướng thứ nhất là các nhà ngoại cảm “thấy” được hài cốt, vẽ lại sơ đồ chi tiết khu vực ấy và hướng dẫn thân nhân tìm kiếm. Trường hợp này nhà ngoại cảm chỉ sử dụng khả năng “thiên nhãn thông” của mình để tìm kiếm và phát hiện hài cốt mà không cần trợ giúp của “chủ nhân” chính hài cốt ấy. Bởi hầu hết những hài cốt này chỉ là phần thân xác vật chất đơn thuần (địa đại-đất), còn thần thức đã theo nghiệp tái sanh.
Tuy nhiên, vì các nhà ngoại cảm chưa thành tựu Đại định (tam muội) nên năng lực “thấy” của họ thường chập chờn. Tùy thuộc vào cấp độ định tâm hay trạng thái tâm của họ khi làm việc mà “thấy mờ hoặc tỏ” khác nhau, phải điều chỉnh nhiều lần mới tìm ra vị trí chính xác của hài cốt. Năng lực thấy rõ không có gì ngăn ngại này của các nhà ngoại cảm còn được vận dụng để tìm kiếm khoáng sản, thăm dò lòng đất (ngành mỏ-địa chất), khả năng khám, chữa bệnh (ngành y khoa) v.v… hiện đang được nhiều quốc gia trên thế giới nghiên cứu, khai thác và ứng dụng.
Khuynh hướng thứ hai thì ngược lại, nhà ngoại cảm tiếp xúc với người “cõi âm” và họ chỉ cho nhà ngoại cảm thấy hài cốt của chính họ hoặc những người khác. Trường hợp này, sự trợ giúp của người “cõi âm” vô cùng cần thiết, do đó nhà ngoại cảm và thân nhân phải có lòng thành. Vì người “cõi âm” biết được tâm ý của chúng ta cho nên nếu lòng không trong sáng, tâm không thành khẩn, làm việc vì danh lợi thì sẽ thất bại. Những chúng sanh mang thân trung ấm, những “oan hồn” và loài ngạ quỷ đều có thể tiếp xúc được với nhà ngoại cảm để truyền thông những thông tin cần thiết.
Ở đây, trường hợp đặc biệt cần lưu tâm là các “oan hồn”. Như đã nói những người chết “bất đắc kỳ tử”, chết trong oán hận tột cùng rất khó tái sanh. Mặc dù phần lớn các luận sư Phật giáo đều cho rằng thời gian thích hợp cho tái sanh của thân trung ấm thường tối đa là 49 ngày nhưng “oan hồn” là một ngoại lệ. Theo luận sư Pháp Cứu (Dharmatrata), tác giả Tạp A tỳ đàm tâm luận (Samyutara Abhidharmahridaya) thì thân trung ấm tồn tại không hạn chế thời gian nếu nhân duyên chưa đủ để đầu thai (xem thêm Đại cương luận Câu xá, tác giả Thích Thiện Siêu, NXB Tôn Giáo, 2000, tr.109).
Kế thừa quan điểm này, về sau vị chân sư Phật giáo Tây Tạng Sogyal Rinpoche, bằng tuệ giác chứng ngộ của mình, trong Tạng thư sống chết (Thích nữ Trí Hải dịch) khẳng định: “Toàn thể trung ấm tái sanh kéo dài trung bình 49 ngày, và ít nhất là một tuần. Nhưng cũng còn tùy, giống như hiện tại có người sống tới trăm tuổi, trong khi kẻ khác chết non. Một số lại còn bị kẹt trong thế giới trung gian để thành ma quỷ (18- Bardo tái sanh)” hay “Những người đã có cái chết kinh khủng hay đột ngột rất cần được giúp đỡ. Những nạn nhân của ám sát, tự sát, tai nạn, chiến tranh, thường rất dễ rơi vào sợ hãi đau đớn, hoặc ở mãi trong kinh nghiệm khủng khiếp về cái chết của họ, do đó không thể tiến đến giai đoạn tái sanh (19- Giúp đỡ sau khi chết)”. Vì những lý do trên, có những trường hợp tuy đã chết rất lâu nhưng vẫn chưa được tái sanh.
Phần lớn những người “cõi âm” mà nhà ngoại cảm tiếp xúc, mô tả hình dáng, tính cách của họ đúng như dáng vẻ, tâm trạng lúc chết đều ở trong trường hợp này. Chính việc thần thức “ở mãi trong kinh nghiệm khủng khiếp về cái chết”, “bị kẹt trong thế giới trung gian” (lời của Sogyal Rinpoche), sự chấp thủ kiên cố, bám chặt vào trạng huống “hiện tại” trước khi chết đã tạo ra một dạng sống gọi là “oan hồn”. Do đó, Phật giáo thường lập đàn tràng Giải oan bạt độ và Chẩn tế âm linh cô hồn. Giải oan là tháo gỡ sự chấp thủ, khai thị cho “oan hồn” hiểu giáo pháp mà buông xả, tỉnh ngộ để tái sanh. Chẩn tế là ban phát thực phẩm cho loài ngạ quỷ được no đủ, đồng thời khuyến hóa họ hồi tâm hướng thiện để sớm chuyển nghiệp, siêu thăng.
Như vậy, thế giới “cõi âm” vô cùng đa dạng và phức tạp, những nhà ngoại cảm nhờ có nhân duyên đặc biệt nên tiếp xúc được với họ, giúp họ truyền thông với con người. “Thông điệp” của người “cõi âm” cũng không ngoài tình thương, sự trân trọng, quan tâm lẫn nhau và đề cao các giá trị đạo đức, tâm linh. Chính những tâm tư của người “cõi âm”, nhất là các “oan hồn” đã góp phần tạo nên khí vận quốc gia, hồn thiêng sông núi. Do đó, việc cầu nguyện cho âm siêu dương thái theo pháp thức Phật giáo là điều cần làm.
Ngày nay, các nhà khoa học đang nỗ lực khám phá hiện tượng ngoại cảm theo hướng trường sinh học hay năng lượng sinh học. Tuy nhiên, nếu chỉ thiên về nghiên cứu “vật chất” thì sẽ khó tiếp cận trọn vẹn vấn đề, bởi “sắc tức thị không, không tức thị sắc” (Tâm kinh). Đó là chưa kể đến hoạt dụng của tâm thức A lại da bao trùm khắp cả pháp giới, siêu việt cả tâm lẫn vật, theo Duy thức học, chỉ có tu tập thiền định mới có thể khai mở và thành tựu kho tàng tuệ giác này.
(Theo Giác Ngộ)
[/highlight][/font][/color]
Được cảm ơn bởi: vnb777, tuankietxm
-
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 1587
- Tham gia: 15:52, 05/04/11
TL: PHẬT GIÁO KHÔNG CHẤP NHẬN CÓ LINH HỒN
Tin hay không tin tuỳ vào sự hiểu biết kiến thức và nhận định lập trường của mỗi người, nhóm người.
Có nhiều người không tin và cũng không không tin.Mặc khác cũng tồn tại 2 kiểu tin và không tin đối lập nhau, bên nào cũng đưa ra dẫn chứng , lý luận để chứng minh là đúng .
Vậy bên nào đúng bên nào sai ?Khi nào có kết quả ?
Đấy mới quan trọng .
Có nhiều người không tin và cũng không không tin.Mặc khác cũng tồn tại 2 kiểu tin và không tin đối lập nhau, bên nào cũng đưa ra dẫn chứng , lý luận để chứng minh là đúng .
Vậy bên nào đúng bên nào sai ?Khi nào có kết quả ?
Đấy mới quan trọng .
-
- Nhất đẳng
- Bài viết: 126
- Tham gia: 13:56, 27/08/10
TL: PHẬT GIÁO KHÔNG CHẤP NHẬN CÓ LINH HỒN
Địa Tạng Bồ Tát là bậc Đại sĩ phát đại nguyện độ chúng sanh thọ khổ trong địa ngục của Phật Giáo. Nhân vì Ngài an nhẫn trong khổ đau để tìm ra phương tiện cứu độ hết thảy địa ngục thọ khổ chúng sanh, dù bao chướng duyên hay khó nhọc, Ngài không bao giờ có một niệm thối tâm và không có điều gì có thể lay chuyển nổi đại nguyện đại tâm của Ngài, vững vàn như đại địa cho nên được xưng danh là Địa Tạng. Trong Kinh Địa Tạng Thập Luân quyển nhất chép: “An nhẫn bất động giống như đại địa, tịnh lự thâm mật như mật tạng hàm chứa cho nên gọi là Địa Tạng”.
Trích : Nguyện Lực Của Đức Địa Tạng Trong Phật Giáo Bắc Truyền
Trích : Nguyện Lực Của Đức Địa Tạng Trong Phật Giáo Bắc Truyền
Được cảm ơn bởi: cocacola
-
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 1587
- Tham gia: 15:52, 05/04/11
TL: PHẬT GIÁO KHÔNG CHẤP NHẬN CÓ LINH HỒN
Bài của bạn có mục đích lý giải 1 điều gì?Hay là sự tích Địa Tạng Bồ Tat?Tinh Tam đã viết:Địa Tạng Bồ Tát là bậc Đại sĩ phát đại nguyện độ chúng sanh thọ khổ trong địa ngục của Phật Giáo. Nhân vì Ngài an nhẫn trong khổ đau để tìm ra phương tiện cứu độ hết thảy địa ngục thọ khổ chúng sanh, dù bao chướng duyên hay khó nhọc, Ngài không bao giờ có một niệm thối tâm và không có điều gì có thể lay chuyển nổi đại nguyện đại tâm của Ngài, vững vàn như đại địa cho nên được xưng danh là Địa Tạng. Trong Kinh Địa Tạng Thập Luân quyển nhất chép: “An nhẫn bất động giống như đại địa, tịnh lự thâm mật như mật tạng hàm chứa cho nên gọi là Địa Tạng”.
Trích : Nguyện Lực Của Đức Địa Tạng Trong Phật Giáo Bắc Truyền
- tigerstock68
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2135
- Tham gia: 14:12, 29/03/11
TL: PHẬT GIÁO KHÔNG CHẤP NHẬN CÓ LINH HỒN
[highlight=#ebeadd]ĐẠO PHẬT KHÔNG CHẤP NHẬN KHÁI NIỆM LINH HỒN[/highlight]
[highlight=#ebeadd]Giáo lý Đạo Phật không chấp nhận khái niệm linh hồn, cho nên kinh sách cũng không nói đến thuật ngữ linh hồn, vì nếu nói đến linh hồn tức là chấp nhận quan điểm của liên minh Do Thái, Ki Tô và Hồi Giáo là:[/highlight]
[highlight=#ebeadd]- Linh hồn là do Thượng Đế sáng tạo và ban cho con người,[/highlight]
[highlight=#ebeadd]- Linh hồn không có đầu thai hay luân hồi, chỉ lên thiên đàng hoặc xuống hỏa ngục mà thôi, chỉ một lần ở trên cõi nhân gian như những con người.[/highlight]
[highlight=#ebeadd]- Linh hồn không có trong thú vật, hay súc sanh không có linh hồn.[/highlight]
[highlight=#ebeadd]Đấy là ba điểm cơ bản mà giáo lý Đạo Phật không chấp nhận linh hồn và vì thế không sử dụng thuật ngữ linh hồn. Hoặc nếu có dùng chữ linh hồn đi nữa thì cũng không phải, hay không có những ý nghĩa trên vì:[/highlight]
[highlight=#ebeadd]- Đạo Phật không thừa nhận một đấng tạo hóa, hay thượng đế.[/highlight]
[highlight=#ebeadd]- Đạo Phật có sáu cõi luân hồi hay tam giới tứ sanh lục đạo.[/highlight]
[highlight=#ebeadd]- Súc sanh cũng là một chúng sanh trong lục đạo luân hồi cũng có thế giới tâm linh như những chúng sinh khác.[/highlight]
[highlight=#ebeadd]Giáo lý Đạo Phật không chấp nhận khái niệm linh hồn, cho nên kinh sách cũng không nói đến thuật ngữ linh hồn, vì nếu nói đến linh hồn tức là chấp nhận quan điểm của liên minh Do Thái, Ki Tô và Hồi Giáo là:[/highlight]
[highlight=#ebeadd]- Linh hồn là do Thượng Đế sáng tạo và ban cho con người,[/highlight]
[highlight=#ebeadd]- Linh hồn không có đầu thai hay luân hồi, chỉ lên thiên đàng hoặc xuống hỏa ngục mà thôi, chỉ một lần ở trên cõi nhân gian như những con người.[/highlight]
[highlight=#ebeadd]- Linh hồn không có trong thú vật, hay súc sanh không có linh hồn.[/highlight]
[highlight=#ebeadd]Đấy là ba điểm cơ bản mà giáo lý Đạo Phật không chấp nhận linh hồn và vì thế không sử dụng thuật ngữ linh hồn. Hoặc nếu có dùng chữ linh hồn đi nữa thì cũng không phải, hay không có những ý nghĩa trên vì:[/highlight]
[highlight=#ebeadd]- Đạo Phật không thừa nhận một đấng tạo hóa, hay thượng đế.[/highlight]
[highlight=#ebeadd]- Đạo Phật có sáu cõi luân hồi hay tam giới tứ sanh lục đạo.[/highlight]
[highlight=#ebeadd]- Súc sanh cũng là một chúng sanh trong lục đạo luân hồi cũng có thế giới tâm linh như những chúng sinh khác.[/highlight]
Được cảm ơn bởi: cocacola