PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Trao đổi về y học, võ thuật, văn hóa, phong tục, tín ngưỡng
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Rõ ràng, một Kinh này chỉ là 1 hạt cát trong vô lượng hạt cát của hệ thống Giới Kinh.


Bởi vì: Phía sau sự giải thoát đó là gì (hay cái Ngã Đức Thế Tôn (TÂM) là gì thì Kinh này, Đức Thế Tôn chưa có nói).


Mặt khác, phần số 2 số 3 mới chỉ là mặt khái niệm phạm trù (lý thuyết) - còn trang nghiêm, chưa có.


Phần số 1 là nội dung của tên Kinh - Tên Kinh như ý nghĩa


Tuy nhiên, phần số 1 chỉ là dùng để đời tu, tu đời. Rõ ràng ai tu phần số 1 được rốt ráo thì người đó chắc chắn ngay hiện tiền cuộc sống sẽ hạnh phúc, phước lành, an bình, thoả chí, mãn nguyện và TRI KIẾN THẾ GIAN đã xếp vào hàng hữu học


Sử dụng phần số 1 cho cuộc sống ở đời thật nhiệm màu và kỳ diệu



Thật tiếc…
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Luật Nhân Duyên Quả


Từ đầu đến giờ, cũng như từ ngàn xưa đến giờ, chư chúng sinh chúng ta đã được nghe, đọc, nhắc, nói, viết về lý nhân duyên quả hoặc lý nhân quả hoặc lý nhân duyên hoặc lý nguyên nhân kết quả hoặc lý duyên khởi, duyên diệt, duyên hợp, duyên tan, hoá duyên.v.v.v


Vậy, chư chúng ta đã từng tự chánh tư duy, chánh kiến: Những pháp đó lý gì?


Mọi thứ hay mọi pháp đều không thể rời xa Pháp Quán là vậy


Hữu học, đa văn, tri kiến là vậy… là để dùng đầu vào (input) cho QUÁN.


QUÁN đến đây đã thấy có nhiều phương tiện Quán. Tựu chung lại có 2 loại: Quán tưởng và Quán thấy

Mục đích của Quán đến chung cuộc tối thắng cuối cùng là Quán ra: Cái Chân Như. Từ đó THẤY TÂM.


Hàng ngày, con người, ai cũng đều đang dùng phép Quán. Bằng nhiều tên gọi khác nhau.




Để thấy được sự chân như thường hằng hay cái Tâm tánh chân như ngay đây. Ai cũng phải Quán. Có Quán thì mới thấy. Không nhờ Quán thì bằng cách nào tính thấy tự hiện ra hoặc bằng cách nào minh?


Chư chúng sinh ta nghe Phật nói Pháp cũng nhờ sự Quán Thấy mà thấy được tánh (tính) thấy hay thấy được tâm chân như thường hằng. Không quán thì không thể thấy bởi vì: Cái tánh thấy, tánh tự thấy đó đang bị che mờ - vì bị che mờ nên chúng sinh ta mới đang trôi nổi ở thế gian luân hồi. Không thể tự nhiên minh, cũng không thể tự nhiên thấy bởi vì cặp (danh sắc-thức) đang là thứ nhân duyên nhau - nếu không có bất cứ một cái TÁC GÌ vào cái LUÂN NÀY thì cứ vô vàn vô lượng kiếp cặp nhân quả kia duyên nhau sinh ra toàn bộ thế giới… dù chư chúng sinh ta có chất tri thức, kiến thức, ghi nhớ về pháp Phật đến đâu đi chăng nữa thì tất cả đều là pháp vô thường ở thế gian do cặp nhân duyên kia luân hồi duyên nhau sinh ra tất cả.


Màn vô minh là cả thế giới - là cái điều trên. Chứ không phải cái gì sinh ra hay sinh ra cái gì. Chính vì màn vô minh này mà chúng ta không thấy minh vì vô minh đang tỏ nên không nhìn thấy minh.

Làm sao để tia minh loé ra? - Điều này, liên quan mật thiết tới cái gọi là: Tri kiến giải thoát.

Trong Đạo Đức Thế Tôn, chư chúng sinh ta đã gặp khái niệm tam minh: Túc mệnh minh, thiên nhãn minh, lậu tận minh.


Bây giờ, 3 cái minh trên đang bị che, nên chúng sinh ta đang “tồn tại” với cái gọi là: Túc mệnh vô minh, thiên nhãn vô minh, lậu tận vô minh.


Tại sao lại “túc mệnh vô minh?” - Vì chư chúng sinh ta đâu biết rõ được kiếp trước có hay không. Nếu tin là có vì đọc Kinh Pháp Phật thì nó như thế nào, ra sao - chúng ta đâu biết. Nên túc mệnh vô minh.

Nhưng 1 đời này, đời hiện tại này, kiếp này, mạng hiện tại đây - chư chúng sinh ta cũng đã biết chưa, thấy chưa? - Đến từ đâu, đi đâu và về đâu….?

Sinh già bệnh chết - hết một đời? - cái này biết rồi - nhưng đây chưa phải là tất cả về mệnh/mạng này. Bởi thế, ngoại Đạo mới có trang lyso này, mới có đủ các nghề bói mệnh số..v.v. - tại sao lại có những này tồn tại? - Đó là bởi vì đến 1 đời kiếp mạng hiện tại này thôi, chư chúng sinh ta cũng chưa minh - Nói gì túc mạng minh vô lượng kiếp mạng từ vô thỉ đến giờ và mai sau.


Như vậy, một tia minh cũng đang không thấy, làm sao mà thấy được toàn bộ cái minh? (Minh được minh)


Đức Thế Tôn để lại cho chư chúng sinh ta rất nhiều phương tiện để làm sao trong màn vô minh này thấy được 1 tia minh đầu tiên (thắp đèn)

Giống như ví dụ về chiếc ô tô và bằng lái ô tô. Trong hệ thống giới Kinh. Đọc thuộc hết rồi nghe, đọc hàng nghìn các luận giảng giải của mọi thể loại người từ xưa tới nay… - Đã có nhan nhản vô lượng chúng sinh ta biết về các phương tiện - giống như thấy rất rõ chiếc ô tô.

Vấn đề là lên ô tô mà ô tô nó không đưa tới đích. Nhiều chư chúng sinh ta là cứ lái quàng lái đại - đường thì ĐỨC THẾ TÔN chỉ rõ rồi - nhưng kết quả của việc không biết dùng phương tiện thì ai cũng tự thấy.


Ví dụ: Kinh Đại duyên được trích kia. Như đã nói ở phần 1: Đức Thế Tôn đã chỉ ra rất chi tiết cái phương tiện để có được 1 tia minh của “Hiện mệnh minh” - từ đây lấy nó mà đi, chẳng mấy chốc đến “túc mệnh minh”.

Muốn dùng được, phải Quán.


Quán gì?

Quán cái Lý nhân duyên của mạng/mệnh.

Từ đâu sinh ra? Đi về đâu? Do đâu lại vậy? - Cứ theo cái phương tiện của ĐỨC THẾ TÔN đi sẽ đến.



Chư chúng sinh ta lên cái phương tiện ô tô nhưng có 3 bánh hay xịt lốp hay hỏng động cơ hay hỏng hóc thiếu sót kỹ thuật gì đó, sai lệch gì đó về nguyên lý hoạt động của phương tiện - Liệu có dùng phương tiện được không?


Ví dụ: Với phương tiện ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ như đã nói phía trước, bây giờ nó bị sai lệch về nguyên lý kỹ thuật thành Định hơi thở hoặc vẫn tên là định niệm hơi thở nhưng nguyên lý hoạt động của cái ô tô bị hướng dẫn sai - Liệu có dùng được phương tiện? - dù chỉ là 1 chi tiết rất nhỏ đó


Với cái phương tiện nhân duyên này cũng vậy:


Nếu chư chúng sinh chúng ta có “biết lái xe nhân duyên, nhưng nguyên lý kỹ thuật của phương tiện bị mô tả sai thì liệu chúng ta ngồi lên phương tiện có đi được không?”


Chư chúng sinh ta hiện kiếp này đến từ đâu: Vô minh.
Chư chúng sinh ta về đâu? - Không có.

Vì sao lại bảo không có? - Ai cũng đã được biết về cái gọi là nghiệp. Nhưng ở mô tả nguyên lý kỹ thuật của phương tiện là 12 nhân duyên thì đến “bệnh tử” - tử là hết thân, còn nghiệp… nghiệp chứa ở đâu, là gì… làm sao quay trở lại quá trình luân hồi - hay làm sao lại sinh ra được lẫn nữa.

Chẳng lẽ ở đây, sẽ giải thích là: Do nghiệp mang tính/tánh vô minh nên quá trình luân hồi cứ lặp lại như vậy à?


Nếu cho rằng nghiệp mang tánh vô minh thì sẽ thấy ngay vô lượng kiếp luân hồi, cái tánh của nghiệp chính là tánh vô minh - vậy là cái tánh này thành tánh thường hằng còn gì?. Đến đây, chư chúng sinh ta rơi vào luân hồi mãi mãi vì “đã tự tưởng ra một thứ tánh vô minh thường hằng”

Đó chính là lý do trầm luân, mạt pháp.


Nguyên lý kỹ thuật của phương tiện chỉ có bị mô tả sai 1 chi tiết mà trầm luân


Còn khi này, theo Kinh ĐẠI NHÂN DUYÊN: Cặp nhân duyên quả “danh sắc-thức” nó cứ duyên nhau rồi mới sinh ra hiện đời ta đây. Khi chư chúng sinh ra già tử thì còn cái nghiệp nằm trong thức lại tiếp tục duyên với danh sắc mà tiếp tục lại có một quá trình LUÂN HỒI.


Cứ như vậy mà luân hồi vô thỉ kiếp.


Đức Thế Tôn đã chỉ ra rõ ràng, minh bạch và TÁNH CHÂN LÝ TOÀN VẸN CỦA CẢ 1 HỆ THỐNG GIỚI KINH - Nó MINH NGHĨA CÁI GỌI LÀ TÂM CHÂN NHƯ THƯỜNG HẰNG.
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Cứ như vậy, dùng phép Quán sâu đến tận chân tơ kẽ tóc của nhân duyên - tới vi trần của Nhân Duyên Quả - Sẽ thấy Minh

Chư chúng sinh ta, nếu thấy căn cơ phù hợp với phương tiện này, hoàn toàn có thể cứ thế mà Quán đi. Nó cần rất nhiều tri thức và lý nhân duyên đấy. Tuy nhiên, khi chỉnh lý lại nguyên kỹ thuật phương tiện theo đúng phương tiện của Đức Thế Tôn thì sẽ thấy phương tiện nhiệm màu.



Như vậy, đến đây: Đường đi thẳng A La Hán với việc Quán để vào Thiền Định Niệm hơi thở đã được hệ thống giới Kinh lại

Đương Duyên Giác với việc Quán để vào Duyên Giác đã được hệ thống giới Kinh lại


Cũng nhân tiện đây lưu ý: Bản chư chúng sinh ta tôi: Không hề hoàn toàn đưa ra phương tiện mới, hay kỹ thuật mới để dùng phương tiện. Các Chư chúng sinh cần phải Y Kinh của Đạo Đức Thế Tôn mà tu hành. Việc tôi nói về hệ thống giới Kinh chỉ là chỉ ra sự sai lệch những chi tiết rất nhỏ của cùng 1 phương tiện ở trong hệ thống giới Kinh Phật.


Chư chúng sinh coi rằng định niệm hơi thở hay định hơi thở.. gọi bằng tên nào thì cũng là tu định (dừng/chỉ) hơi thở chứ cái gì như ma này nói là Quán Niệm để định hay phận biệt nọ kia…. Cũng như vậy, việc chư chúng sinh coi rằng : 12 nhân duyên là 12 nhân duyên, bao đời nay các Chư Tôn ầm ầm tuyên giảng và hay, nghe/ đọc thấy thấm nhuần như si như say… giờ cái ma này lại nói (Danh sắc - Thức) luân hồi..v.v. - Chúng sinh tôi chịu nghiệp.



Kính chư chúng sinh!
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Tiểu luận 95: ĐẠO VÀ ĐỜI


Lý nhân duyên quả thực sự thâm sâu và huyền ảo khó lường. Mang nhiệm màu không những Đạo mà còn mang cả nhiệm màu ĐỜI. Dù tập Luận này với mục đích Đạo, tuy nhiên, có câu Đạo gắn với Đời. Ai tu Đạo mà chẳng mang ơn phước của Đời. Bởi thế, việc giảng Đạo Đức Đời (hay Đạo Đức xã hội) một công việc thường xuyên của Chứ Chúng Tôn để lợi lạc chư chúng sinh. Thực ra thì như nhau cả. Ai cũng là thí chủ, ai cũng là Bồ Tát.


Nguyên nhân - Kết quả ở đời do đâu? - Theo lý nhân duyên quả, chư chúng sinh ta hoàn toàn có thể hiểu và từ đây TU ĐỜI HẠNH PHÚC LẠC AN - CẢI MỆNH CẢI SỐ


Ví dụ:

+ Do đâu mọi người đọc được những dòng chữ này? - Do những dòng chữ này đã được viết lên đây - Nên Sinh sinh ra..

+ Do đâu những dòng chữ này được sinh ra? - Do có cái máy tính. Nếu không có cái máy tính - làm sao có những dòng chữ ở đây. Cùng lắm người tác ra bằng lời nói ở băng caset, ở giấy, ở ghi âm.v.v. - Nên Hữu duyên ra sinh.

+ Do đâu mà lại có cái máy tính này để viết ra chữ? - Do ngay tại giây phút đánh những dòng chữ, người đánh máy đang sử dụng cái máy, hay còn gọi là đang thủ, đang sở hữu, dụng. Nếu như cái máy tính này không đang được người đánh máy lúc đó (thủ) mà ở nơi một người khác. Người này không đang thủ nó thì đánh máy gõ chữ vào không khí sao?. Nên Thủ duyên ra hữu.

+ Do đâu mà người đánh máy lại có thể (thủ) dụng cái máy tính này? - Do cảm tình. Nếu không có cái cảm tình, người đánh máy có thủ dụng cái máy tính? - Cái ái tình này có thể đến từ rất nhiều khía cạnh mà có hay có thể thấy nó ở nhiều loại: Cảm tình về truyền pháp, cảm tình về “sự sướng” - được nói được viết được thoả mãn cảm xúc, cảm tình với chia sẻ với mọi người, đặc biệt cảm tình với chiếc máy tính (nếu một người bị dị ứng thù ghét không đụng chạm với cái máy tính thì liệu họ có ái?)… Xét sâu xa đều là do những ái tình. - Vì những lẽ đó, nên Ái duyên ra thủ.

+ Do đâu mà lại có những cảm tình đó? - Do có thọ cảm. Nếu không cảm giác được những cảm tình kia thì làm sao thấy cái tình này? Mà đã không thấy những cảm xúc thì rất rõ: Cảm xúc không sinh. Chính vì có thọ cảm nên mới thấy cảm xúc. Nên thọ duyên ra ái tình cảm xúc là vậy.

+ Do đâu mà thọ lại sinh ra? - Nếu không có sự tiếp xúc giữa căn và trần liệu cái thọ này có sinh ra. Hoặc là sự chạm giữa mắt với cảnh sắc, hoặc là do sự tiếp xúc giữa tai với âm thanh hoặc là giữa thân với vật, giữa ý với pháp, giữa mũi (khứu giác) với hương, giữa vị giác với vị. Ví như người này không có pháp (hay phân biệt được cái máy tính trong đầu là gì, hay mắt không nhìn thấy bao giờ, tai chưa nghe, cũng không biết hương vị hay đụng chạm vào bao giờ) liệu có sinh ra cái thọ cảm gì với cái máy tính để mà dùng hay không dùng (cảm tình)? . Như vậy, rất rõ, do sự chạm giữa căn và trần thì cái thọ mới sinh ra. Gọi là xúc duyên ra thọ là vậy.

+ Do đâu lại có xúc? - Nếu như cái máy tính chưa bao giờ được xuất hiện trên đời thì liệu căn với trần có chạm nhau để mà xúc? - Chính vì cái máy tính nó có nên nó mới là trần, còn gọi là danh sắc. Danh sắc là cụm từ ghép chung để chỉ trần và cả danh trong đó có cả danh tưởng.


Ở đây, những cảm tình về thuyết pháp, nói pháp, cảm tình thích khoe khoang thể hiện hay cảm tình thương xót mọi người lầm mê cũng vậy, kể cả là những cảm tình được hiểu là đấu tranh, tranh luận sai đúng .v.v. - Mọi thứ cảm tình đó đều có thể ngược suy lại do thọ duyên ra và rồi do xúc duyên ra và rồi do danh sắc sinh ra.


+ Do đâu cái máy tính được sinh ra? - Không phải do con người sáng tạo ra sao? - Vậy không phải do thức duyên ra cái danh sắc này sao?

+ Do đâu mà thức sinh ra? - Cái này dễ trả lời nhất vì toàn bộ chúng sinh ta ở nước Việt Nam nên ai ai học qua Đại Học cũng đều đã được dạy: Vật chất sinh ra ý thức. - Đến bên duy vật biện chứng - ở một trong những chỗ sâu xa nhất với vấn đề triết học. Duy vật biện chứng Cũng khẳng định vậy. Còn Đức Thế Tôn thì nói ngắn gọn như đã được biết.


Toàn bộ mọi thế giới chủ quan lẫn thế giới khách quan xung quanh một con người cụ thể lẫn chính “bản thân - ngã” của con người đó - ở thế giới này đều có thể sử dụng lý nhân duyên quả như Đức Thế Tôn đã tuyên ở Kinh để thấy rõ tại sao lại thế giới/hoàn cảnh/cái ta gặp/cái ta có/ cái ta đau khổ buồn vui… (gọi là mệnh số 1 người cụ thể) - tại sao lại như vậy.


Chu trình lý nhân duyên quả trên giải thích được tất cả - KHÔNG CÓ BẤT CỨ MỘT CÁI GÌ CỦA 1 NGƯỜI NÀO ĐÓ MÀ LẠI NẰM NGOÀI QUY LUẬT TRÊN.


KHÔNG CÓ GÌ “HƯ KHÔNG” tự nhiên đến đập vào cái gọi là “người này” ở trong thế giới này mà nằm ngoài quy luật nhân duyên quả trên.




Từ đây, lội xuôi trở lại ngược:

Ví dụ:
Để không có dòng chữ này ở đây. Có rất nhiều cách - Chúng ta có thể ngắt nhân duyên của nó ở bất cứ đâu trong chu trình nhân quả của nó trên. Hoặc không bao giờ con người có ý thức được sinh ra. Hoặc con người không chế tạo ra máy tính hay người gõ không biết về máy tính (ngắt xúc, thọ) hoặc người gõ bị dị ứng, không có cảm tình với máy tính hay không có cảm xúc gõ (đều là không có cảm ái). Hoặc dù hết tất cả những điều vừa kể nhưng người gõ không thể thủ chạm dụng cái máy tính tại giây phút gõ … thì những dòng chữ đang đọc đây không thể hiện ra ở đây (gọi là được sinh ra).



Bây giờ, lại là những dòng chữ đã được sinh ra ở đây, lại trở thành danh sắc hay trở thành 1 pháp trần cho tất cả. Mà những ai hay trần hay chúng sinh đi vào đây đều đã lại có 1 phần duyên của nó tác động..


Một ví dụ, một pháp có thể không là gì, không ảnh hưởng đến cái gọi là số mệnh nhưng mọi thứ đều như cái ví dụ kia được sinh ra - vô lượng… thì số mệnh 1 con người hay 1 thế giới đã được chú định từ một cặp quy luật (1 chu trình) đầu tiên



Cũng như vậy: Bất kỳ một pháp nào, cũng đều có thể chặt đứt sự tồn tại của nó đối với “1 người đó” bởi 1 trong những cách: Chặt đứt bất kỳ một mắt xích nào trong cái chu trình hình thành nên pháp đó như Đức Thế Tôn đã tuyên.



Từ cái việc số mệnh con người là do vô lượng pháp được sinh (gọi là chúng sinh) - qua vô lượng chu trình nhân duyên quả như trên nên nếu đi ngược hết mọi pháp để trở về đời kiếp vô thỉ đầu tiên mà “bản ngã chúng sinh” này sinh ra ở thế giới này thì thấy: 1 chu trình nhân quả đầu tiên và cặp nhân quả đầu tiên ở cái thế giới này của bản ngã đó là: cặp Thức - Danh sắc


Tuy nhiên, với đời - một “bản ngã” chưa thể nào từ vài cái dòng chữ này kể cả là những dòng kim ngôn của Đức Thế Tôn mà dễ dàng Quán được về đời đầu tiên vô thỉ ngay. Vậy thì chỉ cần Quán ở đời này đã.


Quán ở đời này để cho ta (bản ngã) hạnh phúc, an yên, giàu sang, tốt, thoả mãn, đầy đủ, THIỆN LÀNH, PHƯỚC ĐỨC… rồi dần dần sẽ gỡ dần cái “mớ bòng bong” mệnh số chú định luân hồi từ vô thỉ đến nay.


1/ Có 1 pháp nào đang tồn tại với người đó mà người đó thấy rằng nó có hại cho bản thân, hay ác, hay bất thiện, hay mang lại phiền não, đau khổ thì… đưa vào chu trình lý nhân duyên quả của Đức Thế Tôn đã tuyên kia Quán. .

2/ Khi Quán được ra hết chu trình của nó thì lựa chọn xem mắt xích nào dễ chặt nhất thì: CHẶT - Trong Pháp Phật gọi là: ĐOẠN DIỆT CÁI DUYÊN NÀY


Toàn bộ cái này gọi là quá trình Tuỳ Tác hoá duyên theo Kinh và áp dụng Tứ Chánh Cần (tuỳ tác) để ĐOẠN DIỆT.





Nói đến đây, rất có thể nhiều chư chúng sinh ta vẫn sẽ áp dụng sai pháp lý nhân duyên vào đời hay đạo.


Ví dụ: Bây giờ 1 người đau khổ vì thất tình, bị lừa gạt tình, đang đau. Quán thế nào, chẳng lẽ Quán ngược trở lại để bảo: Đừng gặp người đó hay bảo lúc đó mình đến đó, hay đừng làm điều gì đó để gặp người đó à. - Làm gì có thuốc hối hận. Quá khứ thì không thể thay đổi.



Vậy Quán cái gì?

Ở ví dụ trên đây: Rõ ràng mắt xích nằm ở chỗ Ái. Theo thuận chiều Ái sẽ duyên sinh ra thủ hoặc duyên sinh ra nghiệp ác (ác pháp). Nên lúc này, người này còn giữ cái ái đau khổ này nó sớm muộn khiến người đó gặp pháp (thủ hoặc pháp tìm cầu)

Người này khi này phải Quán - Bản thân đang đau khổ vì điều này, chắc chắn cái ái này sẽ dẫn tới hoặc là thủ sinh ra hoặc là dẫn tới tìm cầu sinh ra. Bây giờ phải nhìn vào tự thân để điều thủ gì sắp chuẩn bị sinh ra hoặc điều tìm cầu gì sắp được sinh ra. Hoặc khả năng nó đã sinh ra rồi.


Do điều (pháp) thủ và (pháp) tìm cầu nếu chuẩn bị được sinh ra - xoay quanh điều này, người đó phải ngăn nó lại, diệt đi vì nó sẽ dẫn tới những hậu quả, như tìm cầu níu kéo, hay tìm cầu trả thù, hay thủ giữ người đó không chịu bỏ, hay thủ giữ chính tình cảm của mình - không chịu chấp nhận thực tế.


Như vậy, Quán Pháp trong đời ở đây là: Để biết 1 pháp ác, pháp có hại cho mình, có thể dẫn đến hại, ác đang ở vị trí nào và khả năng sẽ tới các kết quả phía sau thế nào. Khi biết được, người Quán dùng TUỲ TÁC để đoạn diệt hoặc hoá duyên. Không cho cái này tiếp tục phát triển luân hồi


Như ở ví dụ trên. Người vừa bị thất tình - là pháp xảy ra tại mắt xích ái. Nó đã liên quan tới cái Thọ đau khổ (vì thất tình rồi). Thì bây giờ phải biết cách chữa lành hay chặn/đoạn diệt cái pháp thất tình này không cho nó diễn biến ảnh hưởng tới cuộc đời nữa. Chặn ở thọ để diệt cảm giác khổ. Hoặc chặn ở thủ hoặc chặn ở tìm cầu. Theo đúng lý nhân duyên.


Chứ lúc này, về chặn thức, hay chặn danh sắc kiểu: Đốt kỷ vật, ném phá những kỷ niệm trong đầu, ngoài đời…. Chỉ làm tổn thương thêm bởi vì mắt xích đang ở chỗ thọ ái.



Ví dụ: Một người đang đi đường nhặt được 5-7 cây vàng. Cầm lên.

Vậy, lý nhân duyên quả đang ở đâu: Chỗ Thủ-Hữu. Nếu không chặt ngay - Rất có thể vì lẽ này mà số mệnh rẽ sang một hướng khác.

Ví dụ: Một người đang đi đường, được một người lạ nhờ cầm hộ 1 cái balo. Khi quán vào lý nhân duyên Quả. Rõ ràng, đây đang ở chỗ cặp (danh sắc - thức). Nếu người này mà vô thức hay cái thức không có thấy, mê mờ… khả năng số mệnh sẽ rẽ sang hướng khác.

Muốn pháp Tâm Bi - Bồ Tát Đạo thì rất rõ: Ngay khi Quán thấy mắt xích này, người này phải làm rõ cái danh sắc và thức hay làm rõ cái ba lô, cái con người lạ - để cái thức nó rõ. Khi cái thức rõ thì cái cặp danh sắc thức này nó mới duyên ra phước cho bản ngã và chúng sinh

Chứ mê mờ. Lại đi cầm hộ hàng phạm pháp lại bảo: Sao ông trời bất công, phúc phải tội


Ví dụ: Đời của bố mẹ mình khổ, đời mình cũng chưa có gì khấm khá hơn. Sinh mãi mới được 1 mặt con. Làm sao để nó có thể hơn được ông cha? - Rõ ràng ở trường hợp này, trong lý trình nhân duyên quả của Đức Thế Tôn. Đứa con đang ở cặp danh sắc - Thức nếu khi so cả 1 cuộc đời của nó. Vậy làm sao để nó lớn lên sẽ hơn mình?

Vậy là danh sắc - Phải đảm bảo cho nó toàn vẹn: Đặc biệt là thân thể, thiếu, hỏng, xấu, bệnh..v.v. Đều sẽ ra quả sau này có vẻ kém.

Thức: Như vậy, ngay từ nhỏ phải thấy rõ: Cái thức của đứa con ngay từ nhỏ là quan trọng nhất. Mà cái thức này của đứa con có được là từ đâu? - Từ danh sắc. Nên để tạo cho nó cái thức tốt thì: Cái danh sắc xung quanh nó - cái sẽ nhập vào nó qua 6 căn (lúc đầu mới có 5 căn, sau căn ý mới phát triển dần). - Cái nhập vào này chính là cái hàng ngày nó THẤY. Cái hàng ngày nó thấy nhiều nhất khi này là ai? - Là bố, là mẹ, là ông bà, những người chăm sóc.

Bởi vậy, muốn cái thức của nó tốt thì cái danh sắc phải tốt. Cái danh sắc tốt ở đây, không ngoài gì khác là những người: Bố mẹ ông bà người thân người chăm sóc thể hiện ra hình tướng tốtcó dạy cái ý tốt


Hình tướng tốt - giống như tu Đạo là hình tướng Tăng thì ở đây chính là: Đi đứng nằm ngồi hành động cử chỉ nói năng làm việc sinh hoạt..v.v phải là 1 hình mẫu danh sắc Tốt - bố mẹ muốn con sau như thế nào - Cứ hình tướng như thế mà hành. Thế là tu đời cả cho con cả cho mình. Đừng chửi nhau, cũng đừng ăn nói thô lỗ hay đánh đập, bê tha, ẩu tả.v.v. -con sau này giống mình hết - Lại nói: Tao có dạy mày thế đâu… nhưng con nó học hình tướng của mình. Lớn sau này thì phải dạy con chọn bạn mà chơi, chọn thầy mà học,v,v.

- Dạy cái ý tốt - giống như Pháp Phật trong Đạo. Thì ở đời đây là dạy con theo chuẩn mực ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI. Muốn con như thế nào thì cha mẹ cứ như thế đó, con nó khắc theo. Muốn con hiếu thuận thì cha mẹ chỉ cần hiếu thuận. Muốn con nó trọng tình cảm thì chỉ cần cha mẹ trọng tình cảm. Muốn con thế nào… cha mẹ như thế.


Con chắc chắn thành người - không những vậy, sẽ phát dương quang đại ở đời.

…..

Cha mẹ khi dạy con, quát con, mắng con, đe nẹt con, to tiếng với con: (dù nôi dung cứ cho đúng lý đi) - có ra kết quả? - Con nó thọ cái chỗ này, nó sẽ ra những quả khác.

Bao che lỗi lầm của con, để cho con tuỳ ý hành động xấu (nói láo, nói bậy, bỏ bê công việc của chính nó, cha mẹ làm hộ công việc của con.v.v.) - nuông chiều… : Có ra được kết quả?



Từ khi con được sinh ra thì hình tướng danh sắc là nhất - vì lúc này ý nó chưa hoàn thiện nên cái thức nó sẽ hình thành từ cái hình tướng của cha mẹ người cận kề. Đừng nghĩ: Nó trẻ nhỏ biết gì. Lầm đấy


Khi con lớn lên, bắt đầu cái ý đã có - Từ khoảng 4 tuổi lại trở lại rèn cái thức là trước. Đến 8 tuổi bắt đầu rèn cái xúc mạnh hơn - Đó là: Những công việc của con làm - nó phải tự làm và cần phải làm ra kết quả.


Tuy nhiên, quan trọng nhất là cặp danh sắc - thức. Cha mẹ và môi trường sống là cặp danh sắc đầu tiên duyên ra những cái của thức của con ở kiếp sống này. Nên không phải dạy dỗ bằng “đạo lý” mà bằng “danh sắc”.

Danh sắc là pháp danh sắc là cái xung quanh con: Nó bao gồm hình tướng của xung quanh và ý nghĩa của hình tướng. Ở đây, cha mẹ người chăm sóc xếp đầu, rồi mới đến nhà trường. Lên đến môi trường xã hội, con nó lớn rồi: “con mọc răng nói năng gì nữa. Khó.


…..

Cứ như vậy QUÁN. Và muốn cải số thế nào thì cải như vậy.
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Bồ Tát - Bồ Đề Tát Đoả: Giác Ngộ Hữu Tình hay Giác Tình.


Đạt được A La Hán hay Duyện Giác thì tới Bồ Tát. Tâm Từ vô lượng rồi tiếp tục tu tới tâm Bi vô lượng. Bồ Tát thì sẽ hành Đạo Bồ Tát để tu tâm Bi vô lượng - trang nghiêm Tâm Phật.


Bồ Tát thì phải hành Bồ Tát Đạo. Bồ Tát thì phải đạt cấp ALAHAN hay Duyên Giác/Độc giác - Nhưng không trú ở đây mà nhập thế để trang nghiêm Tâm Phật (tu tâm Bi vô lượng viên mãn)


Không đạt cấp cảnh Bồ Tát mà hành Bồ Tát Đạo - đều là thí chủ, đều dễ dàng trở thành ma.
Thí chủ chư chúng sinh mà hành Bồ Tát Đạo thì rất dễ dàng tạo duyên phước lớn, sẽ sớm thấy được duyên Phật. Khả năng lớn sẽ gặp duyên Phật ngay tại đời hiện tại. Tuy nhiên, vì sự mạt pháp nên có ít người nhận ra để lựa chọn hoặc rốt ráo theo lên được cảnh A La Hán hay lên cảnh Duyên Giác. Đạt được cảnh này, mới có thể bước vào cảnh Bồ Tát. Dù sao, cái chư chúng sinh nên quan tâm ở đây là cảnh giới Bất Thối để khi luân hồi không bị trở lại con số 0 tròn trĩnh. Lúc này, lại mất bao năm để tu lại từ đầu, mới lại bước vào cảnh Bồ Tát - có khi lại đã mất thân.



Với tính Kinh Điển Đạo và Đời của hệ thống Giới Kinh được chỉ ra sơ sơ qua qua như trên thì Chư chúng sinh ta đều thấy: Tại đời này, Đức Thế Tôn không tại thế, thời mạt pháp, chưa hội tụ đủ duyên Phật để bước vào Duyên Giác hay Thanh văn nhằm rốt ráo trong 1 đời thân phải đạt cảnh cấp Bồ Tát bất thối thì… thay bằng dã tràng xe cát. Con đường từ Đời vào Đạo theo, làm một thí chủ, một thiện nam, tín nữ thực tập theo con đường hành Bồ Tát Đạo - có lẽ là thứ tạo ra duyên phước lớn nhất để sớm hội tụ đủ duyên tu rốt ráo.


Như vậy, có 2 sự khác nhau:

Chưa đạt Bồ Tát mà hành Bồ Tát Đạo rốt ráo - (bố thí pháp Phật) - khả năng rất lớn cùng dẫn nhau đi “chu du” thế giới thêm nhiều đời. Tuy nhiên, cũng không phải điều gì quá đáng, vì thế giới vốn Luân mà.

Nhưng sẽ tốt hơn là những Chư Tôn Vị có phước đức lớn đó - rốt ráo tinh tấn Thanh Văn hay Duyên Giác để đạt cấp cảnh Bất Thối rồi hãy quay ra trang nghiêm Tâm Phật hành Bồ Tát Đạo - Điều này lợi lạc chư chúng sinh, chư thiên, thế giới và loài người khôn cùng. - Đặc biệt là lợi lạc cho chính Chư Tôn Vị đó trên đường tu.



Chưa tu Đạo, tức là chưa tu. Chư chúng sinh vì mến Đạo, cúng dường các vị Chư Phật và Chư Bồ Tát, nghe các Chư Bồ Tát giảng Pháp (nhưng giờ kiếm đâu ra nhỉ)… vì phước đức cúng dường và nghe Pháp đó, Chư chúng sinh phát tâm nguyện đi theo con đường Phật, nguyện được giải thoát, hay vô thượng Bồ Đề. Chư chúng sinh thực tập bố thí, thực tập theo các gương hạnh của các Bồ Tát… để mong rằng một ngày sẽ đủ duyên được thọ ký và tu chứng.



Lưu ý: Người đã có đủ duyên phước Phật ở đời này, bắt đầu rốt ráo tinh tấn hành công thì trong quá trình trước khi tu chứng hoặc đạt cảnh hạnh A La Hán/Duyên Giác thì phải tuyệt đối thực hiện giới kinh không được buông lung, một khi đã bước 1 bước vào đây, phải rốt ráo đến mức “cái chết cận kề ngay đây mà phải làm sao đi đến được cảnh hạnh bất thối trước khi mất thân” - phải nghiêm ngặt như vậy: May ra mới thành công trước khi mất thân


Khi đã thành công rồi. Chư chúng sinh và tất cả các chư tôn khác, cả thế giới sẽ cúng dường khi bắt đầu qua hành Bồ Tát Đạo để tu tâm Bi vô lượng. Về mặt hình tượng thì trước khi đạt cảnh hạnh này thì ở trong thế mà phải lánh đời để tu, còn khi đã đạt cảnh hạnh này thì lại là xuất thế (cấp tu sĩ) nhưng lại ở trong đời để tu.


Nói là “Lánh đời” nhưng sự thấy ở trong hệ thống Giới Kinh là: Người này đã có đủ nhân duyên phước đức để từ bỏ hết để quyết tâm rốt ráo trong đời hiện thế này sẽ chứng đạt BẤT THỐI. Do đó, phải ghi nhớ, tuyệt đối ghi nhớ, tuyệt đối ghi nhớ, tuyệt đối nhớ, là tất cả, thứ duy nhất: GIỚI PHẬT

Không Giới thì rốt ráo được Quả gì?


Khi ở cấp cảnh Bồ Tát Bất Thối rồi thì chả cần Giới cũng đã luôn ở trong Giới. Có như vậy, nhận vô lượng cúng dường của Chư Chúng Sinh, chư thiên, thế giới mới không lỗi lầm, lạc đoạ. Mà lúc này, sự “vô lượng cúng dường” lại chẳng là gì trong cái Tâm Bồ Tát. So với 1 hạt cát hay vi trần cũng vậy, không hơn kém và đáng để bận Tâm. Tâm của Bồ Tát lúc này chỉ HƯỚNG TÂM BI sớm thành vô lượng.


Dù sao, chỉ chư chúng sinh ta chưa rõ, vô minh, lầm mê.


Tuy vậy, Đạo và Đời chẳng khác nhau. Không có bất kỳ một pháp thiện nào mang lại kết quả phước đức thù thắng ở đời hiện tại hơn là pháp thực tập theo Các Chư Vị Bồ Tát.


Khi thực tập theo các Chư vị Bồ Tát, tập trung chủ yếu ở 2 khía cạnh: Cho đi và cứu giúp. Đây là 2 khía cạnh tạo ra phước Đức rất lớn, nó vừa là phước đức hiện đời vừa là phước Đức Phật - để ở những đời sau này, một lúc đủ duyên được rốt ráo tinh tấn.


Bồ Tát thực hành Bồ Tát Đạo để trang nghiêm Tâm Phật (Tâm Bi).
Chúng sinh thực hành Bồ Tát Đạo để có được phước đức hiện tiền và vị lai.
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Chính vì Bồ Tát Đạo là cấp cảnh Hướng Tâm Bi nên tất cả Chư vị đều hưởng lợi lạc khi thực hành Bồ Tát Đạo từ chư chúng sinh tới chư Tôn Đức - chỉ trừ người lúc đang rốt ráo hành công tinh tấn từ cư sĩ lên tu sĩ vì phải lánh đời và từ bỏ nên phải ở trong GIỚI PHẬT TUYỆT ĐỐI cho đến khi công thành đức hạnh Bất Thối.



Sự lợi lạc trên, phản ánh một cách chân thực ĐẠO ĐỨC THẾ TÔN. ĐẠO VÀ ĐỜI!



Mạt pháp cũng là sự lẫn lộn Đạo và Đời.

Mang pháp tu Đạo vào đời, bắt đời tu thì không có kết quả rốt ráo.
Đang ở đời mà cứ muốn tu Đạo Pháp thì kết quả càng không rốt ráo.


Đạo Pháp là Đạo Pháp. Dù tràn ngập ở đời, nhưng vì là đời nên Đạo Pháp có tràn ngập cũng như là 1 thứ vô giá trị đối với Đời. Vì Đạo vốn là Đạo. Người có đạt Đạo hạnh thì người này Đời pháp liệu có thiếu? - Đến Đạo Pháp họ còn thực hành và chứng đạt được hạnh rồi thì ĐỜI PHÁP HỌ CÓ THỂ TUỲ NGHI PHƯƠNG TIỆN dễ hơn cả việc họ mở miệng ra nói 1 câu gì đó. - Điều này có nghĩa, làm gì có 1 thế pháp nào mà họ lại không thể giải quyết được - Chính vì điều này, họ mới thể hành BỒ TÁT ĐẠO một cách như trong Hệ thống Giới Kinh mà có hành vô lượng cũng như không. - Đức Thế Tôn từng nói trước khi đi: “Từ khi Chứng Đạo đến giờ, ta chưa nói một lời nào”.


Bởi thế, ngoại trừ Bồ Tát, người ở thế gian chư chúng sinh ta (dù đang tu hay sắp tu hay chưa tu, không tu) - hành Bồ Tát Đạo: Không hề dễ như vẫn tưởng


+ Cho đi hay bố thí: Bởi vì thế gian này được gọi là trần, nên còn hay được người ta cùng nói: trần thế là vậy. Vậy là cho đi trần: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

Gộp lại, người ta hay nói: Bố thí Vật chất, bố thí tinh thần, bố thí Pháp thoát đau khổ.


Bố thí hay từ bỏ hay cho đi vật chất: Dễ

Bố thí tinh thần hay động viên tinh thần, khích lệ tinh thần: Cái này có rất nhiều chư chúng sinh ta không hề biết cách làm (phương tiện) dù đầy tâm mong mỏi muốn làm mà có khi càng làm, càng thấy hỏng. Trong ngôn ngữ hệ thống Giới Kinh. Còn hay gọi pháp này với tên bố thí/cho sự vô uý

Bố thí pháp thoát đau khổ: Cái này khó rồi.



Việc tu Tâm vô lượng Bi còn là đặt nền móng để có căn cơ Tâm hỷ và Tâm xả phía sau.


Cứu giúp sẽ làm cho việc cho đi trần dễ có “lý do, động cơ, mục đích” hơn - khi chúng ta đều là “người ở trần thế, trần gian”


Như vậy, nguyên lý từ ĐỜI VÀO ĐẠO của con đường Bồ Tát Đạo chính là: XẢ TRẦN VÔ LƯỢNG



Đến đây, ai dám nói rằng: Bồ Tát Đạo không phải là một Pháp tu Phật? -Không những thế, còn là Pháp tu Kinh Điển.



Nhiều chư chúng sinh còn nhiều vô minh nên bị chấp pháp, mê hoặc bởi pháp tiểu thừa, chỉ cần thực hành QUÁN vô lượng tâm, rồi giữ giới chặt đứt tham sân si mạn nghi .v.v. Tác nhập vào Thiền Định là chứng đạt… thực tế, nó không hề đơn giản như lý thuyết

Tại sao một chư chúng sinh - muốn đến được bước rốt ráo hành công lánh đời tu chứng đạt Thanh Văn hay Duyên Giác trong đời hiện thế này lại đã phải tích cóp bao đời thực tập theo Bồ Tát Đạo.


Bởi vì nếu không đủ phước đức, người này chưa thể MINH QUẢ PHẬT. Họ chưa minh nhưng lại có cái tâm muốn dứt bỏ hết tất cả (xả bỏ trần) để ép tâm vào chứng đạt. Vì theo Pháp Phật nên điều này là đúng. Tức là họ có thể chứng đạt quả thiết thực ngay tại đời . - Tuy nhiên, đến đây, cái nghiệp chưa trả hết. Người này vẫn chưa hoàn toàn MINH và giải thoát thực thụ. Nếu không sớm nhận ra, cả một thân người sớm uống phí.


Một chư chúng sinh chưa tu thì 1 thân người hay vô lượng thân khác nhau có gì khác nhau. Họ đâu có thấy khổ đau gì?

Nhưng một người đã bước cái chân bước 1 bước vào công phá CƠ kia - như đầu luận đã nói, mà tại thân này, không chứng Bất Thối thì… không phải phí hoài sao? - Vô lượng của vô lượng của vô lượng bao nhiêu đời kiếp nữa mới có lại được thân người? - Đặc biệt lại dính thêm 1 tý chút cái gì đó của thức ở đời hiện thân không xả hết thì mang cả cái đi chứng kiến luân hồi mới hay.


Bởi vì Luân nó quay vòng.


Nên phải đạt Bất Thối. Có đạt Bất Thối thì mới yên tâm luân hồi mà tu tiếp được.





Hai phương pháp “xả trần” như vừa nói, khác gì nhau?


Phương pháp xả trần rốt ráo theo Kinh Sa Môn Quả chẳng hạn (tức là xả trần rất đúng GIỚI KINH nhé) có 2 trường hợp:

1/ Người đã hành chất ngàn núi phước Bồ Tát Đạo ở bao đời Quá khứ nên đến thân hiện tại: Nghiệp nợ trần không còn mấy: Sinh ra khả năng đã được vào Chùa. Không vào chùa từ lúc 7-8 tuổi (sa di). Tuổi này, như đã nói phía trước, cặp danh sắc - thức đời này đến tuổi này là bắt đầu XÚC rất nhiều ở đời. Lúc này vào có duyên Chùa là xúc chỉ có Pháp Phật. Hoặc kể cả vào Chùa hay xuất gia muộn hơn nhưng người này ở đời hiện thế cũng không có nhiều xúc thọ ái thủ hữu với thế giới/đời hiện tại.

Chính vì lẽ này, người tu này “xả trần” dễ không?


2/ Không/ Chưa đủ phước duyên Pháp Phật như 1/ phía trên. Người này sống đến cả 1 cơ số tuổi, xúc thọ ái thủ hữu đủ cả, như: Cha mẹ họ hàng anh em đầy đủ, giàu có, được hưởng đầy đủ tiện nghi từ nhỏ tới lớn, đi học thì phá phách (do nhà giàu) ăn chơi, hay học hành chểnh mảng, nhưng lại thông minh biết nhiều tài lẻ, đẹp trai, xinh gái nhiều người yêu mến thương và thương mến yêu nhiều người, hưởng đủ 5 món dục lạc. Thất tình, đổ vỡ tâm lý, đổ vỡ vật chất ở hai mấy tuổi, bỏ tất cả những dục lạc tham muốn đã và đang có đi tu..


Người này “xả trần” dễ không?

Đó là chưa nói đến muôn hình vạn trạng vô lượng chúng sinh sẽ có dính mắc trần còn hơn ví dụ này.


“Xả trần” không dễ, nên ép tâm vào Giới. Đã như vậy rồi lại không kiên trì giữ vững điều này để điều hoà tâm mà lại muốn nhanh nhanh chóng chóng tu chứng. Muốn thật nhanh thật nhanh giải thoát khỏi cảnh trần khổ đau - Vậy chắc chắn tẩu hoả nhập ma, rơi vào tưởng ấm không ra được.


Một người phát thệ nguyện vô lượng DŨNG KHÍ, để “xả trần” trong trường hợp 2/ này. Do vậy, ở được trong GIỚI nhưng chỉ ở trong đó thôi. Học và học và học và “tụng Diệu Pháp Liên Hoa Kinh” (- sẽ tiểu luận ở sau cuối cùng Kinh này). Để thấu nghĩa lý về chữ NHẪN. Lấy chữ nhẫn để trả nghiệp “xả trần” - đến cuối đời, hơi thở sắp tàn - mới hành công tinh tấn vào cảnh hạnh - mới có khả năng là thành công ở hiện thân.



Đạo Đức Thế Tôn vô biên nhiệm màu. Nhưng phải thấy, thắp đèn, minh thì… mới rốt ráo tới Quả.


Chứ nếu đơn giản kiểu: Thấy được đường từ nhà đến thủ đô rõ như goole maps trong đầu: Là cho rằng đã tới được thủ đô? - Muốn tới thủ đô, dù rõ đường, có phương tiện, biết lái phương tiện… thì cũng cần thời gian - ở HỆ THỐNG GIỚI KINH CỦA ĐỨC THẾ TÔN VỚI TRƯỜNG HỢP NÀY LÀ DIỆU PHÁP LIÊN HOA KINH.



Phương pháp xả trần thực tập theo Đường Bồ Tát Đạo thì có lẽ chư chúng sinh ta đọc nhiều, rõ rồi: Lấy nhẫn ở ngay trong đời (nhẫn vô lượng luân hồi) để xả nghiệp - Kể từ khi bắt đầu có được cái duyên Phật (cúng dường Phật và nghe được Pháp Phật, phát nguyện vô thượng Bồ Đề…).

Rõ ràng thời gian lâu hơn.


Đổi lại, chư chúng sinh xả trần theo phương pháp Bồ Tát Đạo thì phước đức đã đang và sẽ hiện tiền ngay ở đời hiện tại và cứ tích luỹ dần cho tới đời vị lại cho tới 1 đời sẽ trở thành người như ví dụ ở 1/. - Sinh ra đã có duyên Phật Hạnh thì sẽ rốt ráo ở đời này


Thế mà cả 2 sau khi thành công mới bước vào Bồ Tát - lại rất lâu trang nghiêm Tâm vô lượng Bi - mới đi ra khỏi thế giới vũ trụ này được


Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Như vậy, chúng sinh ta thấy rõ Bồ Tát Đạo vừa mô tả hành trì trang nghiêm Tâm Phật, vừa “dẫn Đạo” cho tất cả chư chúng sinh lần lần từ đời vào Đạo.


Chúng sinh ta đọc Kinh thì chỗ nào cũng thấy ghi vô lượng đời, vô lượng kiếp, vô thỉ.v.v. - Nhưng tất chư chúng sinh ta có ai rõ: Mình từ vô thỉ đó đến giờ đã tu bao nhiêu kiếp rồi, hay bây giờ mới chưa được 1 kiếp đầu tiên? - Biết đâu đó, ngay ở kiếp này chúng sinh ta đã sắp đủ phước đức, chỉ cần tu thêm 1 chút xíu nữa là có thể gặp Đại Duyên giải thoát đời này luôn… - Không ai biết. Vì thế cũng không lo rằng: phải thêm vô lượng kiếp nữa mới được Đạo thì lâu quá, thôi không tu nữa…




Trong hệ thống giới Kinh, có nơi còn nói: - “Nhờ oai thần của Phật, 50 a tỳ kiếp cũng bằng nửa ngày”. Vậy thì chuyện 1 ngày nhiều kiếp là chuyện “bình thường”.

Ví dụ:

Một ngày hơi thở đã trải qua bao kiếp? - Có kiếp nào giống kiếp nào đâu… thế mà cái kiểm soát hơi thở là niệm hơi thở, vẫn thường hằng (nếu so với hơi thở đó). Một ngày hơi thở cũng tu luyện và tu tới cái cảnh giới tiệp tiếp “định”. Muốn tự dành quyền hơi thở về cho chính hơi thở… có anh gỉ mũi mới bảo với hơi thở là: Hơi thở là vô ngã. Tứ đại duyên hợp: ô xi ni tơ các bon nic và tạp, nếu có định thì cũng chỉ là “định tưởng”. Rốt ráo hơn hết là tánh chân như thường hằng. Hơi thở bèn nói với gỉ mũi là xa vắng thế tôn, thế tôn bảo định là định. Lần trước, ta đã tiến tới phổi ấm, vượt qua nó và định ở đó hơn 50 nghìn kiếp. Bây giờ trở về dẫn dắt toàn bố chúng thở sinh chỉ có cách định mới giải thoát… chứ ở đâu cái gì ánh sáng nhiệm màu, với quốc độ, tịnh độ, trang nghiêm..toàn là ma nước mũi bịa ra hết…

Trong khi đó ở một phương xa thế giới lỗ mũi vô lượng vô biên muôn ngàn thế giới, cũng có một thế giới có tràn ngập ánh sáng báu màu đỏ, ở nơi đó cũng có các chúng sinh đang “tu luyện”. Loài bạch cầu loài tiểu cầu loài hồng cầu loài ma vi khuẩn, loài..v.v. Trong đó loài nào cũng đang siêng năng tinh tấn tu hành nhằm giải thoát.



Ví dụ tưởng tượng vậy thôi. Cũng không có gì dài hay mang nội dung gì.


Trở lại với đời!


Với cách tu đời: Xả trần bố thí, kết hợp với lý nhân duyên quả và các pháp thiện.v.v. Thì cuộc đời khác gì tự tại.

Tất nhiên, vẫn phải tu, chẳng có gì tu 1-2 hơi, qua quýt cho xong mà có kết quả được cả.


Lý nhân duyên quả giải thích rất nhiệm màu những gì đang đến…, vì sao lại đến, những gì sẽ đến, hay những gì sẽ qua… vì duyên do gì lại vậy. Chỉ cần nắm rõ là vừa có nấc tiến ở duyên giác vừa vẫn tu ra phước báu ở hiện đời.


Một lẽ những nghiệp ở quá khứ nó vẫn còn đó, nó sẽ vẫn sẽ chiêu duyên nghiệp tới. Không bằng cách nào khác. Mặc nó thôi. Cái chính của người tu lẫn người không tu chỉ sống đời chính là: Từ giây phút hiện tại tạo NHÂN DUYÊN. MUỐN CÓ QUẢ GÌ Ở TƯƠNG LAI THÌ TẠO NHÂN VÀ DUYÊN CHO NÓ, việc quả đến sau khi làm vậy, chỉ là thời gian.



Trong Kinh Đại Duyên đã trích phía trước kia: Rất nhiều người nghĩ: Đời hiện thân của “mình” là chỗ duyên sinh, có sinh nên duyên ra quả lão tử, có lão tử nên duyên ra ưu bi sầu khổ.v.v.v - Đây là cách hiểu lầm lạc về lý Đại Nhân Duyên.


Ưu bi sầu khổ hay hỷ lạc đã đến từ ở chỗ mắt xích Thọ rồi. Và cái thọ này có là do có duyên xúc duyên ra. Thọ chỉ là quả của duyên xúc thôi. (Xúc trong Kinh Đại Duyên này là xúc chạm của 6căn với 6trần chứ không phải cảm xúc).


Cái mắt xích sanh sanh ra và lại là duyên của lão tử đó: Chính là hiện hữu của chúng sinh đối với NHÂN DUYÊN 1 người ở 1 đời hiện thế.


Khi “1 người” luân hồi - mang theo tất cả cái nghiệp của đời kiếp trước vào ẩn vào trong thức, cùng với danh sắc mà đại diện là cái thân bắt đầu duyên nhau mà từ đó có “xúc chạm” với trần. . Từ đây, mọi pháp đối với người đó được sanh ra theo đúng lý trình nhân quả, nó sinh ra và nó lại chết đi.

+ Cái ăn sinh ra và nó lại diệt đi rồi nó lại được sinh ra (cặp mắt xích sinh - lão tử)
+ Cái mặc cũng vậy
+ Cái ở cũng thế
+ Cái nghề nghiệp cũng vậy
+ Cái tiền bạc vật chất khác cũng thế
+ Cái người yêu, thương, vợ chồng con, thân..v.v. Cũng vậy
+ Mọi cái… đối với người đó đều thế, đều được sinh ra theo cái lý nhân duyên quả kia và chúng sinh này chính là cặp sinh-lão tử cuối cung của chu trình


Toàn bộ cái chúng sinh được sinh ra kia, ở trong một thế giới, được gọi với ngôn ngữ thời hiện đại hiện nay là: Thế giới chủ quan.

Trong thế giới này, có vô lượng chúng sinh như vậy. Nếu như một người BỒ TÁT - Là chủ nhân của thế giới này có thể Độ hoá vô lượng chúng sinh này vào CÕI NIẾT BÀN HAY TỊNH ĐỘ thì… thế giới của người Bồ Tát này chính là Quốc Độ, Tịnh Độ, là Phật Quốc..v.v.


Nên người Bồ Tát mới có nguyện độ hoá hết vô lượng chúng sinh thì mới Thành Phật



Dù sao thì Vạn pháp quy tông

Khả năng đưa có nòng cốt ngoại Đạo vào đây… cũng sẽ thành Pháp Phật.
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

(95 Tiếp)


Như vậy, Đạo Đức Thế Tôn vốn dĩ đã mang trong hệ thống Giới Kinh đầy đủ mọi phương tiện, vô lượng phương tiện - không những phương tiện tu Đạo mà còn đầy đủ các phương tiện tu đời - ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI - mà hệ thống Đạo Đức xã hội này lại là một hệ thống được duyên ra từ Đạo nên - Đối với đời, có thể nói nó trường tồn với đời về tính Đạo Đức xã hội, ở mọi thời đại, mọi nền văn minh.


Nền Đạo Đức xã hội được thể hiện trong Đạo Đức Thế Tôn đơn giản, khúc triết nhưng bao hàm những giá trị cốt lõi, trường tồn:

1/ Lòng Từ Bi ở xã hội dẫn tới tính thiện của con người.
2/ Sự cho đi ở xã hội dẫn tới tính nhân văn của con người (tình người).

Ở đây, theo ngôn ngữ dịch và tuỳ cơ ứng biến. Đối với xã hội, nên chuyển cụm từ “bố thí” bằng từ “cho đi” hoặc những từ như tặng, từ thiện, hảo tâm.v.v.

Như vậy, chỉ cần triển khai hai yếu tố cốt lõi trên, nền Đạo Đức Xã hội đã trở nên chuẩn mực, tân tiến, văn minh. Là yếu tố cốt lõi của kể cả xã hội Cộng Sản văn minh.


Đối với nền Đạo Đức xã hội, Không cần phải chế thêm những phương tiện mới làm gì.



Người thực tập theo Bồ Tát Đạo sau khi đã phát nguyện vô thượng bồ đề, ngoài việc trên thì cũng cần phải trau dồi Pháp Phật. Nghe Kinh, nghe Pháp.


Nghe Kinh nghe Pháp là: Nghe Bồ Tát nói Kinh Pháp Phật. Nhưng chưa có duyên được nghe Kinh Pháp thì nếu có duyên đọc Kinh thì cố gắng đọc.

Ngoài ra, các giảng giải nghĩa lý - Nếu như là giảng luận bình về Đạo Đức Xã Hội của các bậc Chư Tôn Đức - bất kể ai, cũng nên nghe, đọc bởi vì những Chư Tôn Đức này dù có khả năng không tu ra một Quả Phật gì nhưng họ đã có thể cạo tóc, đắp áo, được suy Tôn Đức (từ Đại Đức đến Thượng Toạ đến Hoà Thượng, Trưởng Lão) - Những vị Chư Tôn Đức này dù là ai, đã giảng, luận, bình, đều là pháp đạo đức đời đáng được tuyên dương, đáng được trì hành, đáng được noi theo


Như vậy, lui xuống một bước: Các đàn tràng (on hoặc off) của các vị Chư Tôn Đức tụng, niệm Kinh Pháp Phật - nên được nghe và nên nghe. Bởi vì, chúng sinh ta không thể biết được Bồ Tát là ai. Biết đâu đó, đấy chính là Bồ Tát.


Không nhầm lẫn việc nghe Kinh Pháp Phật với việc nghe giảng giải cắt nghĩa luận Pháp Phật - Cái này nhan nhản nhưng ai có duyên đọc hệ thống giới Kinh Phật đều rõ: Đức Thế Tôn và Chư Bồ Tát chỉ tụng giảng Pháp Phật - Tức là KINH PHẬT.


Người nghe được 1 bài Kinh Pháp Phật của Bồ Tát thì đây đã là ĐẠI CƠ DUYÊN - khả năng rất lớn, ở đời hiện thế hoặc chuẩn bị bước vào tu tinh tấn lên cảnh tu sĩ.



Lùi thêm một bước nữa: Do chưa đủ duyên phước nên không thể nghe được dù chỉ 1 bài Kinh Pháp Phật của Bồ Tát (vì Đức Thế Tôn thì đi rồi) thì với hạnh nguyện mong muốn được tinh tấn tu hành từ đời vào Đạo: Chư Chúng sinh ta nên tự tụng đọc Kinh Pháp Phật và tự nghe.

Với hạnh nguyện và TÂM NGUYỆN đủ lớn, thanh tịnh, chú tâm, thuần nhất: Sớm muộn các Chư Bồ Tát sẽ có cảm ứng và tha lực sẽ đến hộ trì.


Ngoài ra, không có thêm điều gì khác.


Tại sao lại là nghe và tự đọc (tụng)?


Nếu chư chúng sinh ta đã tìm hiểu đủ nhiều về Đạo Đức Thế Tôn thì thấy rất rõ: Đức Thế Tôn chỉ nói Pháp Phật và Chư Đoàn đệ tử cũng như cư sĩ, ngoại Đạo.v.v. Chỉ nghe Pháp Phật. Các Bồ Tát (hay còn có Kinh gọi là Đại Bồ Tát) cũng chỉ nói Pháp Phật. Ngoài ra, các Chư Bồ Tát còn nói thêm các phương tiện tu chứng của chính vị đó, ví như: Bồ Tát Quán Thế Âm: Nói thêm về phương tiện tu chứng của chính Ngài. Bồ Tát Phổ Hiền nói thêm về phương tiện tu chứng của chính ngài..v.v.v


Như vậy, Chư Bồ Tát cũng không đi giảng giải cắt nghĩa, luận giải: Pháp Phật (ghi ra chữ gọi là Kinh Phật) - họ chỉ tụng đọc nói lại lời Pháp của các Chư vị Phật và có thể nói phương tiện tu chứng của chính họ.


Có sự nhầm lẫn ở đây ở nhiều đời kiếp, năm tháng. Tuy nhiên, vốn dĩ thế giới ta bà này là vậy. Không sa đà thêm vào chỗ này.


Tuy nhiên, cần phải có một lưu ý rất lớn ở đây: Người chưa đủ duyên phước để bước vào giai đoạn hành công tinh tấn lên tu sĩ mà cứ ép TÂM ĐỊNH niệm hơi thở (vào 4 cấp thiền Phật) thì như đã trích Kinh ở phía trước: Hầu như đều sẽ bị các ma ấm diễn hoá ra Phật, Bồ Tát giảng Pháp cho nghe . Đây là một bi ai!


Bao nhiêu đời thế, bao nhiều nguyện cầu mong - Không cảm ứng được chư Bồ Tát nào tới nói Pháp Phật. Tự bản thân lấy Pháp tu.. một hồi thì rơi vào tưởng ấm. Hỏng hết cả.



Quay trở lại phía trên, tại sao Đức Thế Tôn và các Chư Phật, chư Bồ Tát chỉ nói pháp Phật và người được nghe dùng tai nghe?

Đây là Minh tâm kiến tánh. Đây mới đúng là Minh tâm kiến tánh. Bởi vì các vị ý đều an trú trong tự tánh, nên chỉ có người nào đó có minh đi tới chỗ này, mới nghe được.


Tại sao lại là nói và nghe? - Cái này liên quan tới 6 căn của chư chúng sinh ta. Như trong hệ thống giới Kinh - Kinh đã nói: Phá vào nhĩ căn là cách phá dễ nhất, đặc biệt là chư chúng sinh đời mạt pháp.


Bởi vậy, Quán Thế Âm là một phương tiện được ghi đi ghi lại trong hệ thống giới Kinh. Đi với đó, là Ngài Bồ Tát Quán Thế Âm - một thị giả của Đức Phật A Di Đà. Bởi thế, trong hệ thống giới Kinh mới có Kinh tên: Phật nói Kinh A Di Đà - Một pháp môn niệm Phật.

Như phía trước đã nhắc qua. Kinh: Quán niệm hơi thở. Tên như ý nghĩa. Thì ở đây, kinh: Phật nói Kinh A Di Đà cũng là một Kinh tên như ý nghĩa. Là nghe chứ không phải đọc.

Như vậy, người tu Niệm A Di Đà Phật - Rõ ràng phải tụng bằng mồm của mình để tai nghe mới là tu theo đúng phương tiện.

Toàn bộ hệ thống giới Kinh: Tên Kinh phải như Ý nghĩa. Tên Kinh phải trực chỉ nghĩa Pháp. Nhân tiện thì tên của bất cứ ai, kể cả 10 danh hiệu Phật, Tên đều như ý nghĩa.



Như vậy, khi được nghe Pháp Phật - ĐÂY LÀ ĐẠI DUYÊN ĐỂ ĐÁNH VÀO NHĨ CĂN.



Tuy đang nói về đời nhưng ở đoạn này lại nói qua Đạo: Chính vì vậy, mà nhiều người đã đọc kỹ Kinh Đại Duyên cũng như đọc rất nhiều hệ thống Giới Kinh - không tìm hay tu ra Quả rốt ráo gì?

Lại còn bỏ đi Kinh Đại Duyên, phê ra rất nhiều phương tiện mới ở chỗ này mà không biết rằng: Cái vòng tròn luân hồi của Kinh Đại Duyên nó làm cho chúng sinh không thoát ra được. Vì nó chính là vô lượng thế giới, vô lượng chúng sinh… Muốn thoát ra, phải tiến tới những lớp chu trình mỏng nhất mà phá mới phá được cái chu trình nhân quả này. Theo một cách hiểu ở trong thế với thứ ngoài thế thì phần trước tác lại Kinh điển phía trước, sai lè sai lặc. Tuy nhiên, toàn bộ mọi thế giới ở trong cái luân đại duyên này cũng đều là quả do cái tánh ở bên ngoài đó duyên ra mà thôi.



Ở đây, là tiến vào cửa Đạo bằng mắt xích Phá Xúc. Phá xúc chạm. Tuy nhiên, chỗ xúc chạm này lại có 6 căn. Phá 6 căn một lúc, hay phá từng căn một. Nếu phá từng căn 1 thì phá căn nào trước?


Trong hệ thống Giới Kinh - Kinh đã nói hết minh nghĩa về việc nên phá căn nào trước. Bởi vậy, đoạn này cũng là nói về hướng phương tiện đó, pháp đó, nơi đó, y theo đó là ra. Quán Thế Âm là vậy.


Như vậy, việc được nghe Phật hay Bồ Tát nói Pháp - không những được khai căn mà chắn chắn pháp đó là pháp phù hợp. Vấn đề là chư chúng sinh ta căn cơ đặc sệt nên không nghe được Pháp Âm


Vì thế, mới phải ở đời rất lâu, tu cho bớt cái sự đặc của căn đi thì sẽ có đủ duyên cơ phước đức tự khắc cảm được Pháp Âm.


Như đã nói phía trước. Chư chúng sinh ta dùng tự lực khai căn. Siêng năng tự đọc tự nghe Kinh hoặc nghe các chư Tôn Tụng Kinh, hoặc một phương tiện nào đó phù hợp. Dù sao thì cũng nhan nhản ở hệ thống giới Kinh. Sẽ đến một ngày 1 đời nào đó được đủ duyên NGHE PHÁP ÂM CỦA CÁC CHƯ TÔN ĐỨC. - Như vậy, chúng sinh ta cũng hiểu thêm về sự thọ ký quan trọng thế nào.


Nhiều người học cao đọc rộng, tìm thấy trong hệ thống Giới Kinh ghi rõ: Chỉ những người được thọ ký mới có thể chứng lên vô thượng Bồ Đề giải thoát. Mà giờ đây, Đức Thế Tôn đi xa rồi, còn ai thọ ký cho… tu công cốc… thế là tự thoái lui…


Tuy nhiên, chư chúng sinh ta ĐỪNG BUỒN dù thời nay các chư Thánh, Chư Bồ Tát đi đâu hết rồi, mấy ngàn năm nay có mấy ai được nghe Pháp Âm của các ngài? Không lẽ tu sĩ lại khó như vậy sao? - Có một câu, chúng sinh tôi muốn viết ở đây: Khi ta đọc (đọc thầm, không tụng chẳng hạn) một Kinh trong hệ thống giới kinh - cái ta biết là nội dung đó vào trong ta là: Sắc trần hay thanh trần?


Chữ viết thì có hình dạng lằng nhà lằng nhằng, hoặc trên giấy hoặc trên mạng - là sắc trần rồi.

Nhưng nội dung chữ viết lưu ở trong đầu ta (vào qua căn mắt) - là pháp (vì ở trong đầu rồi) thì pháp này đến từ sắc trần hay thanh trần? - có giống nhau không?



Vì vậy, hệ thống Giới Kinh có nhiệm màu. Tự nó có nhiệm màu về Pháp Âm của Đức Thế Tôn, các Chư Thánh, Chư Bồ Tát


Tuy nhiên, cũng phải thực sự Đại Cơ Duyên mới đọc được 1 bản Kinh mà đọc như đang thể bản thân đang ngồi ở Pháp Đàn của Chư Phật, Chư Thánh, Chư Bồ Tát nghe.



Dù sao thì, tất cả giờ đây, chỉ có vậy. Muốn thấy thế nào thì cũng chỉ có thế. Biết làm sao giờ.
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Như vậy, đến đấy chúng ta đã thấy 30 vọng tưởng đã trình đủ xuyên suốt từ mở đầu tập luận đến khi này, những trạng thái ma vọng tưởng đấu tranh với chánh niệm tỉnh thức.

Điều này có nghĩa, 50 trạng thái ma tưởng (đã trích Kinh phía trước) - nó không phải đợi đến khi chúng ta công phá ngũ ấm mới hiện ra, mà từng giây phút, cứ chúng sinh vào định là gặp. Nhẹ thì gặp sĩ tốt, nặng thì gặp thiên ma, nặng hơn nữa thì gặp ta ma.

Trong khi đó, định là một trạng thái tĩnh, thanh… và có nhiều cách (phương tiện định). Không phải chỉ thiền định hơi thở hay thiền định thân, định tâm mà định quán, định vô lậu, định niệm… bất kỳ, cứ muốn định, vào định là gặp ma, cấp cao dần, từ ma sĩ tốt trở lên, đủ cả. Định càng thâm sâu, ma gặp được càng có pháp lực cao cường.

Chỉ có sự tỉnh thức mới có thể vượt qua được ma. Không tỉnh thức, ở bất cứ vị trí nào, ma sẽ lại kéo chúng ta trở về với sự luân vốn dĩ vô thường, vọng tưởng.

“Bỏ xuống đồ đao lập tức thành Phật” - câu trạch pháp có ý nghĩa thâm sâu. Rốt ráo cuối cùng: Ma - Phật cũng giống như vô minh - minh.

Quay đi, quay lại, vẫn trở về đời. Không khác! - Điều này, không phải vì chúng ta không cố gắng, không chịu tinh tấn rốt ráo minh, không muốn được giải thoát… - Đơn giản bởi vì chúng ta đang ở thế giới vô thường.


+ Ma đối với chư chúng sinh chúng ta ở đời làm chúng ta không phân biệt được, hoàn toàn không phân biệt được sự điên đảo và sự chân như dù trí tuệ và nhận thức hiểu biết đến đâu chăng nữa.
+ Ma đối với người phát nguyện xuống tóc đắp áo xuất gia - đơn giản là “tìm cầu tu chứng đạt pháp giải thoát”


Nó quyện vần với nhau, bằng cách nào cũng không lối thoát. - Tưởng rằng “tìm cầu tu chứng pháp giải thoát” thì có gì thiện lành hơn? - Vậy mà ma sự ở đó còn nặng nề hơn gấp bội phần so với ở đời. Bao nhiêu phúc đức duyên lành tích tập sau bao nhiêu đời không biết - mới có thể tiến tới chỗ có cảm ứng với Pháp Phật, được đại duyên, được giác ngộ, được gặp thầy gặp pháp… - vậy mà, ma sự xuất hiện lại còn “khủng bố” hơn. Nặng nề và kinh khủng hơn.

Đọc được 50 ma sự Đức Thế Tôn nói đó - mới thấy rằng: - Người thực sự là Đức Thế Tôn - một người thật (đã được khoa học khảo cổ nghiệm chứng bằng vật chất di lưu lại), việc thật, tu thật, chứng thật, giáo hoá thật, hiện hữu thật…(đủ cả) ở cái thế gian thật này (vốn là thế gian điên đảo).

Điều này có nghĩa, con đường Đức Thế Tôn khai thông - giờ đây, đâu còn nhìn thấy nữa, dù nó vẫn ở đây. Người đi, sự oai thần của người không còn… liệu mấy ai còn có thể tỉnh thức tìm ra? - Dù, theo lưu chép, các Chư Vị Bồ Tát vẫn đang hiện tiền độ thế.

Tuy nhiên, vì có niềm tin (không có niềm tin thì bỏ - vì đến chỗ này mà không có niềm tin thì ma nó đánh gục hết rồi), - nói niềm tin - có vẻ rất mê tín - nhưng không có đủ niềm tin - Không thể thẩm hội được “Diệu Pháp Liên Hoa”, đồng thời chắc chắn bị ma hạ gục.

Sự chánh niệm, rồi cũng chỉ được duy trì bởi “niềm tin”. Không có niềm tin Phật, tánh Phật - sẽ mất chánh niệm. - Đó là chưa cần ma Ba Tuần xuất thế.


Có thể nói, không phải do sức tỉnh thức (dù đây mới là lực), mà do có niềm tin mới có thể ở trong Chánh Niệm Tỉnh Thức Đạo Đức Thế Tôn. Niềm tin bất diệt thì ngọn đèn bất diệt. Tuy nhiên, có câu nói “hữu tâm vô lực” - phải biến niềm tin này thành sức tỉnh thức.


Trong 50 ma sự, chúng ta đều thấy:

+ Phải thấy bản thân chưa chứng. Còn thấy, cảm thấy, thọ… cái chứng đạt là hỏng rồi.
+ Sáu căn thông là 1 nấc tự thấy. Chỉ có điều này mới làm người tu phân biệt được giả trân, điển đảo và chân như, thường và vô thường. Chỉ khi tự thấy điều này.
+ Càng có “tham vọng” tìm cầu tu chứng Đạo - càng có khả năng đoạ ma lớn.
+ Cuối cùng đời - đời chúng ta mới là giây phút hiện tại, mới là hiện




Rồi cuối cùng, vô lượng vô biên vô ngàn muôn kiếp - ai cũng thấy: Tánh chân như thường hằng hay cái tâm bất biến này nó chỉ và chỉ được thấy ở “giây phút hiện tại” hay hiện thấy, ngoài ra, quá khứ hay tương lai… tất cả là tưởng, đã là tưởng tức là vọng tưởng

Nên đời, hiện tại đời mới là ĐẠO

Mà nếu chỉ có “niềm tin” cũng như ảo ảnh trong gương. - Với trí tuệ thế gian siêu việt - (Đại Thế Trí) - cũng chỉ hơn được ”bước đường xa” chứ - đâu tới quả gì, đích gì, giải thoát gì… - Một thứ góp đủ mà tất cả chúng ta đều biết nhưng mấy ai từ vô thỉ đến nay làm được: NHẪN
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Tôi viết lại lý nhân duyên như đã trích Kinh ở phía trước, sơ lược tổng quát:


1/ Vì có danh sắc, nên danh sắc duyên sinh ra thức
2/ Vì có quả thức, nên thức duyên sinh ra danh sắc
3/ Vì có quả danh sắc, nên danh sắc duyên sinh ra xúc
4/ Vì có quả xúc, nên xúc duyên sinh ra thọ
5/ Vì có quả thọ, nên thọ duyên sinh ra ái
6/ Vì có quả ái, nên ái duyên sinh ra thủ
7/ Vì có quả thủ, nên thủ duyên sinh ra hữu
8/ Vì có quả hữu, nên hữu duyên sinh ra sinh
9/ Vì có quả sinh, nên sinh duyên sinh ra lão tử



Chu trình lý nhân duyên này là chu trình “vô thường” của thế giới ta bà này. Nó không đầu, không đuôi, cứ thế luân hồi nhau. Là lý điên đảo vọng tưởng

Chúng ta không thể biết được cái bên ngoài chu trình này dù trong Kinh Pháp Phật đã khẳng định cái bên ngoài chu trình này là cái Tâm chân như thường hằng tĩnh định, tánh Phật, tánh bổn nguyên, Định.


Nếu chúng ta chặt đứt được 1 mắt xích trong chu trình nhân quả trên, gọi là thoát khỏi vòng luân hồi. Chúng ta sẽ nhìn thấy ánh sáng minh - từ việc ngộ tới việc hành, từ lý ngộ tới sự thành. Minh, ngộ, lý là một lẽ. Nếu có được rồi, sự thành là 1 lẽ. Từ lý tới sự thành, cần thời gian. Không nơi đâu, thời nào có chuyện, một đêm ngộ mà hôm sau thành Phật.

Nếu như không có 1 tia minh, cũng giống như đi đường trong đêm đen.



1/ Nếu đánh phá vào cửa thức, gọi là đánh phá cửa vô minh-minh. Đây có thể nói là cách đánh phá kinh hiển. Cách đánh phá này, dùng phương tiện thù thắng mà hầu như ai cũng đã nghe: ĐỊNH. Tuy nhiên, định có dễ vậy không thì đến đây hầu như ai cũng rõ quan điểm trong tập luận này. Bởi vậy, không thể dễ dàng định ngay được, dù sớm muộn cũng phải vào định - bởi vì khi phá 1 mắt xích - dù là mắt xích nào, sau đó vẫn phải phá hết các mắt xích.

2/ Phá vào cửa thọ. Nông cạn, biên giới của cửa thọ là chạm - lìa. Chạm tức là đã giác xúc (6 căn đã rung). Lìa thì tánh của Tâm thường hằng vẫn có nhưng giác xúc sẽ không rung, tức là căn trần không chạm nhau thì sẽ không có thọ. Phá cửa thọ, còn gọi là phá căn - tánh thấy biết của tâm.

3/ Phá cửa sinh. Gọi là vô sinh thì diệt không có hay còn được nói với câu “sinh diệt thì diệt diệt”. Sinh không có thì diệt (lão tử) ở đâu còn? . Đánh phá cửa này, có lẽ hầu như ai cũng được gặp trong Giới Kinh Đại Thừa - Đặc biệt là đường Bồ Tát. Vô sinh pháp nhẫn được nói đi nói lại cũng là vậy. Tuỳ pháp vô niệm cũng là thế. Đều là: Để cho chúng sinh không sinh ra nữa. Nhiều khi còn được thực tập bởi phương tiện, độ hoá (chúng sinh) cũng là vậy.

4/ Đánh vào cửa tử. Còn gọi là đánh danh sắc. Khi tử thì sẽ quay lại vòng luân hồi. Mà rõ ràng để khởi lại lại luân hồi thì yếu tố danh sắc là yếu tố không thể thiếu. Không có danh sắc thì thứ đã tử đó không thể luân hồi.

Ví dụ:Đơn giản là cái nhà của ta trước có 2 vợ chồng thì đủ, giờ 4 người thì chật, cũ nát. Gió thổi tốc nóc, mưa rột ướt sàn.v.v. - Đã bị hỏng (lão tử). Nếu không có danh sắc thì chẳng bao giờ nó lại được luân hồi trở lại.

Cái gì cũng thế. Mà kể cả danh sắc cũng vậy.



Như vậy, đánh danh sắc là dễ nhất, đánh đến sinh, đánh đến thọ, đánh đến thức.


Ở trong đây, có một cửa “không thấy” được Đức Thế Tôn giáo pháp - đó là đánh cửa Tưởng. Điều minh duy nhất: Cửa tưởng có lẽ chẳng bao giờ đánh được bởi vì cả thế giới này lẫn chúng ta và tất cả đều là tưởng - vọng tưởng mà đang như thế này. - Có lẽ vậy, càng đánh càng tạo nên thế giới ngày mai. (Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai).



Đánh cửa nào sẽ đạt kết quả?


Theo hệ thống giới Kinh. Đánh cửa nào rồi rốt cục cuối cùng nhất cũng phải đánh đến (vòng luân hồi đầu tiên) hay lớp vi tế cuối cùng. Khi đánh đến lớp vi tế cuối cùng thì Đức Thế Tôn đã chỉ rõ:

+ Diệt ma vọng tưởng sắc ấm trước tiên nhất, phải diệt được đầu tiên. - Diệt vọng tưởng kiên cố.
+ Diệt ma vọng tưởng thọ ấm tiếp theo. - Diệt vọng tưởng hư minh.
+ Diệt ma vọng tưởng tưởng ấm tiếp theo. - Diệt vọng tưởng dung thông.
+ Diệt ma vọng tưởng hành ấm tiếp theo. - Diệt vọng tưởng u uẩn.
+ Diệt ma vọng tưởng thức ấm cuối cùng. - Diệt vọng tưởng điên đảo, huyễn hoá hư không (tâm 5/).
Đầu trang

Trả lời bài viết