PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
(95 tiếp)
Đến đây, đã dùng lời luận rất nhiều, đi một vòng quanh biển tri thức bao la khiến cho nhiều người chợt thấy “mơ hồ”. Do vậy, nhân thời khắc đẹp, điểm xuyết một số lời cá nhân sau:
1/ Những gì nêu ra tại đây là 1 phần không thể tách rời với bất cứ 1 nội dung, chi tiết nào trong tập luận xét trên khía cạnh thực hành.
2/ Đây không phải là một hướng dẫn hay quy trình, cũng như đầu tập luận đã khẳng định tập luận không mang tư cách của giảng sư hay kinh điển.
3/ Dù sao thì biết đâu đó, có người thực tập Quán vào Đạo, trong khi chưa/không có Đạo Sư hướng dẫn, do vậy cần phải ghi nhớ những điều này như thực chứng kiểm nghiệm, chứng và trú.
I. Rõ ràng, Đạo Đức Thế Tôn không phải là thứ thường. Khi Quán vào Đạo - như bao Đạo khác (Chúa, Tiên, Lão..v.v.). “Lực” là thứ cần phải rất rõ nó vừa nhiệm màu vừa nguy hiểm.
Đến đây, ai cũng đã rõ, Đạo Đức Thế Tôn không mở các Luân Xa thấp hay mở các luân xa 1 cách vô tội vạ hay theo những trình tự thường các Đạo khác giảng giải Công Truyền.
Đạo Đức Thế Tôn không hề có bí truyền. Tất cả đã được bày công truyền trong hệ thống giới kinh. Vì dùng Quán vào Đạo nên Đạo Đức Thế Tôn, lập tức mở Luân xa số 6 trước mặt (giữa hai mày trán).
Ai cũng đã rõ, luân xa mà cứ cố mở ra hết cỡ thì cửa “tan linh hồn” lớn hơn cửa linh hồn sẽ bị điên loạn (nhập ma, tẩu hoả..v.v.), đặc biệt luân xa số 6, 7. Có nhiều người đã tiếp cận các tri thức về luân xa đã biết rõ điều này. Tuy nhiên, một thực tế là: Người thực hành Đạo Đức Thế Tôn không cần phải quan tâm về luân xa mà sẽ tự khắc mở luân xa và Đạo mà nó là 1 cách tự nhiên. Không những thế, khi vào Cửa Đạo rồi mới biết LUÂN XA thật là thứ gì.
II. 1/ Khi Quán Chánh niệm để trước mặt - Tức là trực tiếp thực hiện tu tập trên luân xa 6 - Trí huệ. Nên ở đâu cũng được nói về “đặt chánh niệm trước mặt” nhưng căn bản không rõ “mục đích” của việc này.
2/ Vì thực hiện như trên nên khi lực Quán dần dần tăng lên thì từ Quán tưởng tới quán thấy tới vô lượng quán viên mãn (vô lượng ánh sáng vô lượng màu - còn gọi: ánh sáng nhiệm màu) thì người thực tập sẽ dần dần bắt đầu đi từ thế giới hiện hữu (thế giới điên đảo) trở về thế giới chân như thường hằng. Mà điều thấy ở đây, không hề khác so với những gì mọi Đạo chính thống khác mô tả, hướng tới cũng như Đạo Đức Thế Tôn nói. Theo ngôn ngữ hiện đại: Trường vô lượng sóng năng lượng (mà mỗi sóng là 1 tần số, một màu sắc…)
3/ Quá trình luân xa 6 mở ra (chính là luân xa Quán, chính là luân xa trí huệ, chính là luân xa duy nhất an toàn) là một quá trình lâu dài và (đừng quan tâm đến các luân xa khác cũng như hệ thống lý thuyết về luân xa, năng lượng, linh hồn gì gì của các ngoại Đạo khác - đặc biệt Chúa Đạo - kể cả việc quan tâm đến luân xa số 6 đang như thế nào hay cố gắng cho nó làm sao).
4/ Không quan tâm các luân xa khác nhưng lại trực tiếp dùng luân xa 6 (vì nó chính là luân xa Quá ) như 1/ đã nói. Do vậy, cần phải khắc ghi tuyệt đối 60 ma sự (đã trích). - Đây chính là do việc thực hành trực tiếp trên luân xa 6 gây ra. Nên phải nhớ - Đạo Đức Thế Tôn nhiệm màu hơn bất kỳ sức tưởng tượng của bất cứ ai trên thế gian này từ mấy nghìn năm nay cho đến giờ và mai sau. Chỉ khi thực chứng được đến đâu mới thấy “vị ngọt” đến đó. Kể nhiều, vô ích.
5/ Trải qua 60 ma sự và nhiều hơn thế nữa, luân xa 6 sẽ mở ra tới mức vô hạn lượng. Vậy các luân xa khác?
III. Thực tế, các luân xa khác đều đã được “tu tập” ngay khi ở trong Chánh niệm tỉnh thức Đạo Đức Thế Tôn - ( GIỚI PHẬT.
1/ Luân xa số 1 - luân xa gốc liên quan tới sắc. Nên việc “từ bỏ” là thứ đã dần dần tu tập màng ngăn luân xa 1 (còn hay được gọi là mang dĩ thái, màng ngăn cách vi tế, màng bảo vệ dĩ thái, màng bảo vệ vi tế).
2/ Luân xa số 2 - rõ ràng với việc tu tập “dục tình, dục dâm” đã là tu tập nó.
3/ Luân xa số 3 - rõ ràng với việc tu tập “thân và cái dạ dày - ăn” đã là đang tu tập nó.
4/ Luân xa số 4, 5 - Rõ ràng liên quan tới tâm từ, tâm bi - tu tập thứ này đã là thực tu hai luân xa này.
IV. Khi lực từ luân xa số 6 được tu tập đến trong thân và tinh thần người tu (tâm) thì nó ở phần trên nên cần hướng xuống. Do III mà tự khắc 3 vận hà tại xương sống lưng sẽ thông. Các màng dĩ thái của 5 luân xa này tự nhiên được mài mòn tiêu trừ làm lực của chúng đi lên.
Như vậy, ở cuối quá trình “bước nhảy cửa Đạo” việc dòng khí chạy ở xương sống là việc người thực hành thấy rõ và bình thường
V. Không được hướng khí của 5 luân xa dưới lên đầu bởi vì làm thế này sẽ trở nên “diên dại” và nó là thứ mà ngoại Đạo vẫn làm, vẫn biết là sẽ bị điên dại mà không biết cách sửa đúng bao đời nay dù tìm đủ mọi cách. Bởi vì họ chỉ biết hoặc mở tuần tự luân xa rồi dẫn khí ở vận hà mở tiếp các luân xa hoặc dùng “ngoại lực” trợ giúp mở luân xa. - Nhập ma cả.
VI. Chính vì Đạo Đức Thế Tôn mở luân xa 6 một cách thần kỳ như hệ thống GIỚI KINH nên thứ trí huệ này mới là thứ làm luân xa 6 mở ra và thứ này là thứ QUÁN THẤY - hay Quán lúc này lên cảnh quán thấy hay luân xa 6 mở ra mà THẤY - Thấy gì thì mọi người khi đạt cấp cảnh sẽ tự thấy.
Khi đó, khí từ trên đầu được đưa xuống (khi đã đạt cảnh quán thấy), khí từ vận hà 5 luân xa dưới được đưa lên. Ngay tại phía điểm (GÁP) sau gáy - vì vận hà của 5 luân xa dưới và 2 luân xa trên được ngăn cách bởi 1 đoạn hở tại vị trí này (trên luân xa số 5 nhưng ngay phía dưới tuyến yên - đầu cột sống và sọ não). Hai luồng khí này trong ngoài trên dưới công hợp sẽ bắc cầu - thông linh - thông thiên.
Nó diễn ra 1 cách tự nhiên. Chớ gượng ép hay cầu mong vì sẽ nhập ma đấy. Chỉ rõ là nếu khi thực tập thấy các khí này thì biết rõ đây là gì.
Khi đã thông linh thì không cần nói gì thêm ở đây.
Như vậy, quan trọng nhất là: Mở luân xa mà như không mở. Thực tập đánh tan các màng ngăn cách dĩ thái giữa các giới, các thể mà như không làm gì. Đừng quan tâm và đừng cố. Cái chính là chánh niệm tỉnh thức thực hành Đạo Đức Thế Tôn và ở trong GIỚI.
Khi nó đến, nó tự đến. Nhắc ở đây vì không có thầy mà lỡ đâu có ai đi đến rồi lại không biết điều này là gì thì thật uổng.
Phải nhớ luân xa 6 là luân xa trí huệ, luân xa 6 là luân xa Quán - chỉ có khi biết được mới thấy rõ, tại sao Đạo Đức Thế Tôn là Quán vào Đạo và trí huệ vô biên vô lượng là gì… vì luân xa 6 là một luân xa không thể mở bằng cách vận khí như ngoại Đạo bởi vì nó không phải là phàm trần. Nó cách 5 luân xa kia bởi 1 quãng ngắt (giới gian - giới khí) - vận hà khí của 5 luân xa phía dưới chỉ tới được chỗ đó là dừng. Nếu cố đưa lên, nó sẽ phá tan thức, phá tan óc, phá tan tinh thần. Nhẹ thì điên khùng.
Nên 60 ma sự và nhiều hơn thế nữa (do tác động tu tập luân xa 6) là thứ người thực tập cần trải qua bởi vì Quán pháp không phải đơn giản như nói ở trong tập luận này hay như mọi người tưởng.
VII. Nóng vội sẽ chết. Ai cũng rõ luân xa số 6 là gì. Nên nóng vội là chết.
VIII. Trí huệ
…
Đến đây, đã dùng lời luận rất nhiều, đi một vòng quanh biển tri thức bao la khiến cho nhiều người chợt thấy “mơ hồ”. Do vậy, nhân thời khắc đẹp, điểm xuyết một số lời cá nhân sau:
1/ Những gì nêu ra tại đây là 1 phần không thể tách rời với bất cứ 1 nội dung, chi tiết nào trong tập luận xét trên khía cạnh thực hành.
2/ Đây không phải là một hướng dẫn hay quy trình, cũng như đầu tập luận đã khẳng định tập luận không mang tư cách của giảng sư hay kinh điển.
3/ Dù sao thì biết đâu đó, có người thực tập Quán vào Đạo, trong khi chưa/không có Đạo Sư hướng dẫn, do vậy cần phải ghi nhớ những điều này như thực chứng kiểm nghiệm, chứng và trú.
I. Rõ ràng, Đạo Đức Thế Tôn không phải là thứ thường. Khi Quán vào Đạo - như bao Đạo khác (Chúa, Tiên, Lão..v.v.). “Lực” là thứ cần phải rất rõ nó vừa nhiệm màu vừa nguy hiểm.
Đến đây, ai cũng đã rõ, Đạo Đức Thế Tôn không mở các Luân Xa thấp hay mở các luân xa 1 cách vô tội vạ hay theo những trình tự thường các Đạo khác giảng giải Công Truyền.
Đạo Đức Thế Tôn không hề có bí truyền. Tất cả đã được bày công truyền trong hệ thống giới kinh. Vì dùng Quán vào Đạo nên Đạo Đức Thế Tôn, lập tức mở Luân xa số 6 trước mặt (giữa hai mày trán).
Ai cũng đã rõ, luân xa mà cứ cố mở ra hết cỡ thì cửa “tan linh hồn” lớn hơn cửa linh hồn sẽ bị điên loạn (nhập ma, tẩu hoả..v.v.), đặc biệt luân xa số 6, 7. Có nhiều người đã tiếp cận các tri thức về luân xa đã biết rõ điều này. Tuy nhiên, một thực tế là: Người thực hành Đạo Đức Thế Tôn không cần phải quan tâm về luân xa mà sẽ tự khắc mở luân xa và Đạo mà nó là 1 cách tự nhiên. Không những thế, khi vào Cửa Đạo rồi mới biết LUÂN XA thật là thứ gì.
II. 1/ Khi Quán Chánh niệm để trước mặt - Tức là trực tiếp thực hiện tu tập trên luân xa 6 - Trí huệ. Nên ở đâu cũng được nói về “đặt chánh niệm trước mặt” nhưng căn bản không rõ “mục đích” của việc này.
2/ Vì thực hiện như trên nên khi lực Quán dần dần tăng lên thì từ Quán tưởng tới quán thấy tới vô lượng quán viên mãn (vô lượng ánh sáng vô lượng màu - còn gọi: ánh sáng nhiệm màu) thì người thực tập sẽ dần dần bắt đầu đi từ thế giới hiện hữu (thế giới điên đảo) trở về thế giới chân như thường hằng. Mà điều thấy ở đây, không hề khác so với những gì mọi Đạo chính thống khác mô tả, hướng tới cũng như Đạo Đức Thế Tôn nói. Theo ngôn ngữ hiện đại: Trường vô lượng sóng năng lượng (mà mỗi sóng là 1 tần số, một màu sắc…)
3/ Quá trình luân xa 6 mở ra (chính là luân xa Quán, chính là luân xa trí huệ, chính là luân xa duy nhất an toàn) là một quá trình lâu dài và (đừng quan tâm đến các luân xa khác cũng như hệ thống lý thuyết về luân xa, năng lượng, linh hồn gì gì của các ngoại Đạo khác - đặc biệt Chúa Đạo - kể cả việc quan tâm đến luân xa số 6 đang như thế nào hay cố gắng cho nó làm sao).
4/ Không quan tâm các luân xa khác nhưng lại trực tiếp dùng luân xa 6 (vì nó chính là luân xa Quá ) như 1/ đã nói. Do vậy, cần phải khắc ghi tuyệt đối 60 ma sự (đã trích). - Đây chính là do việc thực hành trực tiếp trên luân xa 6 gây ra. Nên phải nhớ - Đạo Đức Thế Tôn nhiệm màu hơn bất kỳ sức tưởng tượng của bất cứ ai trên thế gian này từ mấy nghìn năm nay cho đến giờ và mai sau. Chỉ khi thực chứng được đến đâu mới thấy “vị ngọt” đến đó. Kể nhiều, vô ích.
5/ Trải qua 60 ma sự và nhiều hơn thế nữa, luân xa 6 sẽ mở ra tới mức vô hạn lượng. Vậy các luân xa khác?
III. Thực tế, các luân xa khác đều đã được “tu tập” ngay khi ở trong Chánh niệm tỉnh thức Đạo Đức Thế Tôn - ( GIỚI PHẬT.
1/ Luân xa số 1 - luân xa gốc liên quan tới sắc. Nên việc “từ bỏ” là thứ đã dần dần tu tập màng ngăn luân xa 1 (còn hay được gọi là mang dĩ thái, màng ngăn cách vi tế, màng bảo vệ dĩ thái, màng bảo vệ vi tế).
2/ Luân xa số 2 - rõ ràng với việc tu tập “dục tình, dục dâm” đã là tu tập nó.
3/ Luân xa số 3 - rõ ràng với việc tu tập “thân và cái dạ dày - ăn” đã là đang tu tập nó.
4/ Luân xa số 4, 5 - Rõ ràng liên quan tới tâm từ, tâm bi - tu tập thứ này đã là thực tu hai luân xa này.
IV. Khi lực từ luân xa số 6 được tu tập đến trong thân và tinh thần người tu (tâm) thì nó ở phần trên nên cần hướng xuống. Do III mà tự khắc 3 vận hà tại xương sống lưng sẽ thông. Các màng dĩ thái của 5 luân xa này tự nhiên được mài mòn tiêu trừ làm lực của chúng đi lên.
Như vậy, ở cuối quá trình “bước nhảy cửa Đạo” việc dòng khí chạy ở xương sống là việc người thực hành thấy rõ và bình thường
V. Không được hướng khí của 5 luân xa dưới lên đầu bởi vì làm thế này sẽ trở nên “diên dại” và nó là thứ mà ngoại Đạo vẫn làm, vẫn biết là sẽ bị điên dại mà không biết cách sửa đúng bao đời nay dù tìm đủ mọi cách. Bởi vì họ chỉ biết hoặc mở tuần tự luân xa rồi dẫn khí ở vận hà mở tiếp các luân xa hoặc dùng “ngoại lực” trợ giúp mở luân xa. - Nhập ma cả.
VI. Chính vì Đạo Đức Thế Tôn mở luân xa 6 một cách thần kỳ như hệ thống GIỚI KINH nên thứ trí huệ này mới là thứ làm luân xa 6 mở ra và thứ này là thứ QUÁN THẤY - hay Quán lúc này lên cảnh quán thấy hay luân xa 6 mở ra mà THẤY - Thấy gì thì mọi người khi đạt cấp cảnh sẽ tự thấy.
Khi đó, khí từ trên đầu được đưa xuống (khi đã đạt cảnh quán thấy), khí từ vận hà 5 luân xa dưới được đưa lên. Ngay tại phía điểm (GÁP) sau gáy - vì vận hà của 5 luân xa dưới và 2 luân xa trên được ngăn cách bởi 1 đoạn hở tại vị trí này (trên luân xa số 5 nhưng ngay phía dưới tuyến yên - đầu cột sống và sọ não). Hai luồng khí này trong ngoài trên dưới công hợp sẽ bắc cầu - thông linh - thông thiên.
Nó diễn ra 1 cách tự nhiên. Chớ gượng ép hay cầu mong vì sẽ nhập ma đấy. Chỉ rõ là nếu khi thực tập thấy các khí này thì biết rõ đây là gì.
Khi đã thông linh thì không cần nói gì thêm ở đây.
Như vậy, quan trọng nhất là: Mở luân xa mà như không mở. Thực tập đánh tan các màng ngăn cách dĩ thái giữa các giới, các thể mà như không làm gì. Đừng quan tâm và đừng cố. Cái chính là chánh niệm tỉnh thức thực hành Đạo Đức Thế Tôn và ở trong GIỚI.
Khi nó đến, nó tự đến. Nhắc ở đây vì không có thầy mà lỡ đâu có ai đi đến rồi lại không biết điều này là gì thì thật uổng.
Phải nhớ luân xa 6 là luân xa trí huệ, luân xa 6 là luân xa Quán - chỉ có khi biết được mới thấy rõ, tại sao Đạo Đức Thế Tôn là Quán vào Đạo và trí huệ vô biên vô lượng là gì… vì luân xa 6 là một luân xa không thể mở bằng cách vận khí như ngoại Đạo bởi vì nó không phải là phàm trần. Nó cách 5 luân xa kia bởi 1 quãng ngắt (giới gian - giới khí) - vận hà khí của 5 luân xa phía dưới chỉ tới được chỗ đó là dừng. Nếu cố đưa lên, nó sẽ phá tan thức, phá tan óc, phá tan tinh thần. Nhẹ thì điên khùng.
Nên 60 ma sự và nhiều hơn thế nữa (do tác động tu tập luân xa 6) là thứ người thực tập cần trải qua bởi vì Quán pháp không phải đơn giản như nói ở trong tập luận này hay như mọi người tưởng.
VII. Nóng vội sẽ chết. Ai cũng rõ luân xa số 6 là gì. Nên nóng vội là chết.
VIII. Trí huệ
…
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Thật khó nghĩ … Tôi chỉ là người thường, tôi còn yêu đời, tôi đâu có hạnh gì, đức gì, lực gì, tu gì. Là tôi tự chém gió với tôi rằng tôi “phong ấn” cả vũ trụ này trong người… nhưng sự thật thì ai cũng biết, “làm gì có chuyện này”. Vậy mà các Chư Vị Tôn Đức lần lượt giáng cho tôi nhiều cái “tát đầu” quá…
Luân xa hay những gì gì đó liên quan, là 1 thứ tôi đâu dám Quán bừa? - Thế mà chẳng hiểu vị Chư Tôn Đức nào vẫn nhét vào nổi tại lúc này, hoặc cũng có thể là “lý nó” như vậy…
Tôi thấy cần phải trình rõ, dù khả năng điều trình ra này có vẻ “ngô nghê”.
Rất rõ ràng, “luân xa” là một từ ngữ tương đối khác biệt trong hệ thống giới kinh? bởi đây là một pháp có vẻ “tà môn ngoại Đạo” so với thường thức chính pháp của hệ thống giới Kinh.
Tuy nhiên, vị Chư Tôn Đức nào đã nhét vào với lời “ồm ồm” - Kim Cang Thừa - Mật - Tây Tạng… tôi thực sự “bị luồng hoả xà” bốc một mạch từ xương cụt lên sau gáy … “đến phát lạnh”. . . Tôi là phàm phu tục tử, còn yêu đời…

Luân xa hay những gì gì đó liên quan, là 1 thứ tôi đâu dám Quán bừa? - Thế mà chẳng hiểu vị Chư Tôn Đức nào vẫn nhét vào nổi tại lúc này, hoặc cũng có thể là “lý nó” như vậy…
Tôi thấy cần phải trình rõ, dù khả năng điều trình ra này có vẻ “ngô nghê”.
Rất rõ ràng, “luân xa” là một từ ngữ tương đối khác biệt trong hệ thống giới kinh? bởi đây là một pháp có vẻ “tà môn ngoại Đạo” so với thường thức chính pháp của hệ thống giới Kinh.
Tuy nhiên, vị Chư Tôn Đức nào đã nhét vào với lời “ồm ồm” - Kim Cang Thừa - Mật - Tây Tạng… tôi thực sự “bị luồng hoả xà” bốc một mạch từ xương cụt lên sau gáy … “đến phát lạnh”. . . Tôi là phàm phu tục tử, còn yêu đời…



TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Như vậy, cho đến đây thì tôi có một niềm tin tương đối vững chắc rằng Kinh Chuyển Pháp Luân chính là Pháp Chuyển Luân như đã giới thiệu đầu tập luận.
Như vậy, cuối cùng chúng ta cũng vẫn cần phải có “tri kiến” về cái gọi là luân, luân xa. - Nó có thực sự là 1 pháp trong Đạo Đức Thế Tôn hay không?
- Về mặt lý: Đạo Đức Thế Tôn là một Đạo bao trùm tất cả - bởi thế, chẳng có gì ở bên ngoài kể cả tà ma, ác, nghiệp..v.v Nên “cái thứ này” cũng không ngoại lệ. . - Dù có vẻ “rất tà” nhưng nó lại liên quan mật thiết trong Đạo Đức Thế Tôn ở một số khía cạnh.
- Về mặt như như: Luân xa được hiểu rằng nó hay được sử dụng cho một “lĩnh vực tinh thần”. Sử dụng bởi khái niệm “tinh thần lực” hay “ thần lực” hay “Thượng Đế, Chúa và thế giới” - thứ “lực sinh học hay lực tối thượng được tạo ra bởi Chúa.v.v.
Trong nhiều tài liệu, thứ “khí” này hay “năng lượng” này được mô tả đồng nghĩa với Tâm trong Đạo Đức Thế Tôn. Tuy nhiên, đều được trùm tấm màn “huyền bí”.
- Về mặt sự: Người tu tập trong phạm trù luân xa là một phương pháp sử dụng cái gọi là “khí thiên địa, vũ trụ, năng lượng…” được dẫn dắt bởi 1 “lực sống” tiến vào cơ thể con người và “cải tạo” cơ thể này trở nên “tốt hơn” theo ý muốn nào đó.
Luân xa như là những “tụ điểm”, những điểm “huyệt” trên cơ thể con người. Bình thường Nó mê mờ, bít đặc, trầm.. khiến cho “năng lượng vũ trụ” không hoặc khó có thể tiến vào, tràn vào trong khắp cơ thể. Việc ghi nhận có 6 luân xa chính hay 7luân xa chính - chỉ là con số, không phải là vấn đề mấu chốt vì dựa trên đặc điểm bít đặc, cản trở, điều tiết thì số lượng luân xa trong cơ thể “khá nhiều”. Tuy nhiên, số chính thì có hãn hữu.
Do pháp luân xa là pháp sử dụng cái gọi là “tinh thần” làm dẫn suất để dẫn 1 thứ gọi là “năng lượng/khí” đi vào trong cơ thể, cải tạo cả cơ thể (thân) lẫn tinh thần. Thoạt nhiên, mới nghe khi ban đầu thì khá nhiều người cho rằng: Vậy cái này thì liên quan gì đến Đạo Đức Thế Tôn?
Tuy nhiên, vậy Tâm chân như trong Đạo Đức Thế Tôn là gì? - Điều này chỉ có ai đạt được mới biết - nó không phải là diệu không, cũng chẳng phải là 1 thứ gì đó “tách biệt” với những thứ khác (tâm chân như của người khác).
Bởi vậy, hệ thống Kim Cang Thừa Tây Tạng Mật cho rằng: Thay vì tu Tâm thì tu tinh thần lực, lấy tinh thần lực tu thân, lấy đó tu Tâm. - Họ gọi cái Tâm này với tên là Chân Ngã.
Loại bỏ khía cạnh “Đấng thần linh” trong phạm trù luân xa này thì pháp tu của Kim Cang Thừa có thể nói: Rốt ráo ở nhiều giai đoạn.
Tuy nhiên, pháp tu này có ngược điểm chí mạng, đó là: Mê đắm.
Tất nhiên rồi, chẳng có pháp tu nào mang đến sự si mê như pháp tu này dù nó rốt ráo thù thắng. Nhưng đường thẳng lên đỉnh thì phải treo leo hiểm trở dốc vách thẳng đứng nguy hiểm, còn đường tiệm tiến hay lòng vòng thì dễ thở hơn. .
Điều này, nên là thương thức với công chúng chúng ta. Còn muốn tu? - Tôi nghĩ chúng ta nên gặp được các Sư Phụ ẩn cư cốc ở Tây Tạng, Himalaya..v.v.. còn chúng ta tự mở luân xa và tu tập trong Đạo Đức Thế Tôn - Thực sự là tìm đường chết! - Tôi nghĩ thế, nhưng đã bị nhét vào đây, chỗ này, khả năng cũng không hoàn toàn.
Điều này, nên được tất cả chúng ta hiểu rằng: Luân xa số 6 mở ra và cái gọi là “dòng hoả xà” thực chất chỉ là “hệ quả” của việc tu tập các Pháp Phật đạt được tới những cấp Đức Hạnh chứng thực nhất định.
Nếu không mở được ra luân xa 6 thì mọi lời tuyên bố rằng “tôi đã đạt cấp Thánh nọ, Thánh kia..” đều là “lời nói ngoa” - vì sao? - Vì hệ thống Giới Kinh có quá nhiều Kinh Pháp nói về Trời, các tầng trời, các Chư Vị Thánh Tăng Đoàn ngao du chư thiên, các vị Bồ Tát, các muôn kiếp lẫn muôn vô lượng Quang…
Như vậy, kể cả do bị nhét vào có chủ ý giới thiệu rõ việc tu chứng và trú thì, tôi vẫn cho rằng: Khó có thể dùng Pháp Mở Luân Xa để tu tập ra Kết Quả Phật. Mà do tu tập các phương tiện tu tập Pháp Phật thì việc mở ra các luân xa là hệ quả tất yếu.
Đây thêm là 1 thực chứng và trú nữa.
Tuy vậy, tôi cho rằng: Người Sư dẫn Đạo phải thực sự có được những cảnh hạnh tu sĩ “xuất khỏi thế gian” mới có thể ấn chứng và hướng dẫn người đệ tử qua cửa này.
Còn lại, việc người tu Đạo Đức Thế Tôn mà tự tu (và gần như tất cả kể cả xuất gia hay tại gia) - không có người tu sĩ chân sư xuất thế gian dẫn đạo đoạn này: Tự cầu may mắn thôi. . - Chúng ta cố gắng “khai tuệ”, khai kiểu gì thấy rõ hết mọi thứ trên trời dưới biển, khắp vũ trụ bao la, rồi ÁNH SÁNG THU PHÁT ĐƯỢC - Vậy là cái số 6 cũng đã mở dù… không gọi nó bằng cái tên Luân xa.
Thực tế, người tu sĩ Đạo Đức Thế Tôn khi ở cảnh này thì làm gì còn ai quan tâm nó danh (tên) là gì, công dụng, phân biệt, tánh ra sao… - Chúng ta thấy là thấy thôi. Biết rõ đã thấy, chân như như vậy.
Cái đáng nói nhất đó là: Ở cảnh giới này - những con người bình thường chúng ta vừa khinh khỉnh phân biệt luân xa với Đạo Đức Thế Tôn, vừa phân biệt đúng sai, vừa nghi vừa si… không thấy bất khả tư nghì chỉ thấy không thể tin được, quá ảo… Tâm là tâm không, không có gì, vô ngã, vô thường… giờ lại đi kể cái thuyết chân ngã, rồi lại của cả ngoại Đạo, rồi cái gì gì tu thân Kim cương, thần thông linh hiển,v,v,v mùi dục lạc khắp hư không…v..v.v
Chúng ta cần nhớ: Hệ quả và Pháp mục đích là khác nhau.
Chỉ khi chúng ta bỏ đi hết mọi định kiến, thiên kiến về phân biệt những thứ ngô nghê lẫn những thứ bất tư nghì, thứ trong ngoài Đạo..v.v. Chúng ta mới thấy: Bằng cách nào mà các Chư Vị Thánh Tăng Đoàn có thể đi khắp Chư Thiên cũng như mô tả Bồ Tát thần thông ra sao hay ánh sáng nhiệm màu là thế nào..
Dù các chúng ta muốn tu Phật để giải thoát, nhưng ngay từ đầu đã phủ bỏ những điều đã được ghi trong Giới Kinh - Vì nó bất khả tư nghì quá và nhìn khắp bao nhiêu thế kỷ, có thấy ai được như vậy đâu…v.v.v - Phủ bỏ như vậy hoặc mang tâm nghi ngờ rằng: Hệ thống Giới Kinh nói quá.v.v. - Thì không bao giờ tu ra được các Kết Quả Phật thực sự vì… ngay từ đầu đã cố gắng đi tìm cái thứ mơ hồ mà không biết được rằng thứ: Thứ sẽ thực chứng cấp cảnh tu là thứ gì
Không tu ra thì lại bảo là “làm gì có chuyện chu du khắp chư thiên của mấy chư vị Tăng Đoàn hay cái gì Bồ Tát hay cái gì vô lượng quang… làm gì có”
Nhưng nghe được có người ví dụ “đến được chư thiên” hay rõ hết các kiếp sống trước đó thì lại hô: Tà ma ngoại Đạo. Tà ma ngoại Đạo..v.v.v. Tâm phải là thế này mới là tâm Phật, tánh phải là thế này mới là tánh Phật… chứ ở đâu ra lại cứ suốt ngày nói “chư thiên” hay “kiếp nọ kiếp kia”.v.v. Ma nhập…
… lại bịt tai: Tu phải không thấy đạt được gì mới là tu đúng…
Trong khi, toàn bộ hệ thống giới Kinh. Từ các vị Tăng Đoàn tới các vị Bồ Tát… ai ai cũng đều Đầy nhiệm màu từ lên trời xuống đất tới luân hồi đủ mọi kiếp trong vô lượng quang…
Như vậy, cuối cùng chúng ta cũng vẫn cần phải có “tri kiến” về cái gọi là luân, luân xa. - Nó có thực sự là 1 pháp trong Đạo Đức Thế Tôn hay không?
- Về mặt lý: Đạo Đức Thế Tôn là một Đạo bao trùm tất cả - bởi thế, chẳng có gì ở bên ngoài kể cả tà ma, ác, nghiệp..v.v Nên “cái thứ này” cũng không ngoại lệ. . - Dù có vẻ “rất tà” nhưng nó lại liên quan mật thiết trong Đạo Đức Thế Tôn ở một số khía cạnh.
- Về mặt như như: Luân xa được hiểu rằng nó hay được sử dụng cho một “lĩnh vực tinh thần”. Sử dụng bởi khái niệm “tinh thần lực” hay “ thần lực” hay “Thượng Đế, Chúa và thế giới” - thứ “lực sinh học hay lực tối thượng được tạo ra bởi Chúa.v.v.
Trong nhiều tài liệu, thứ “khí” này hay “năng lượng” này được mô tả đồng nghĩa với Tâm trong Đạo Đức Thế Tôn. Tuy nhiên, đều được trùm tấm màn “huyền bí”.
- Về mặt sự: Người tu tập trong phạm trù luân xa là một phương pháp sử dụng cái gọi là “khí thiên địa, vũ trụ, năng lượng…” được dẫn dắt bởi 1 “lực sống” tiến vào cơ thể con người và “cải tạo” cơ thể này trở nên “tốt hơn” theo ý muốn nào đó.
Luân xa như là những “tụ điểm”, những điểm “huyệt” trên cơ thể con người. Bình thường Nó mê mờ, bít đặc, trầm.. khiến cho “năng lượng vũ trụ” không hoặc khó có thể tiến vào, tràn vào trong khắp cơ thể. Việc ghi nhận có 6 luân xa chính hay 7luân xa chính - chỉ là con số, không phải là vấn đề mấu chốt vì dựa trên đặc điểm bít đặc, cản trở, điều tiết thì số lượng luân xa trong cơ thể “khá nhiều”. Tuy nhiên, số chính thì có hãn hữu.
Do pháp luân xa là pháp sử dụng cái gọi là “tinh thần” làm dẫn suất để dẫn 1 thứ gọi là “năng lượng/khí” đi vào trong cơ thể, cải tạo cả cơ thể (thân) lẫn tinh thần. Thoạt nhiên, mới nghe khi ban đầu thì khá nhiều người cho rằng: Vậy cái này thì liên quan gì đến Đạo Đức Thế Tôn?
Tuy nhiên, vậy Tâm chân như trong Đạo Đức Thế Tôn là gì? - Điều này chỉ có ai đạt được mới biết - nó không phải là diệu không, cũng chẳng phải là 1 thứ gì đó “tách biệt” với những thứ khác (tâm chân như của người khác).
Bởi vậy, hệ thống Kim Cang Thừa Tây Tạng Mật cho rằng: Thay vì tu Tâm thì tu tinh thần lực, lấy tinh thần lực tu thân, lấy đó tu Tâm. - Họ gọi cái Tâm này với tên là Chân Ngã.
Loại bỏ khía cạnh “Đấng thần linh” trong phạm trù luân xa này thì pháp tu của Kim Cang Thừa có thể nói: Rốt ráo ở nhiều giai đoạn.
Tuy nhiên, pháp tu này có ngược điểm chí mạng, đó là: Mê đắm.
Tất nhiên rồi, chẳng có pháp tu nào mang đến sự si mê như pháp tu này dù nó rốt ráo thù thắng. Nhưng đường thẳng lên đỉnh thì phải treo leo hiểm trở dốc vách thẳng đứng nguy hiểm, còn đường tiệm tiến hay lòng vòng thì dễ thở hơn. .
Điều này, nên là thương thức với công chúng chúng ta. Còn muốn tu? - Tôi nghĩ chúng ta nên gặp được các Sư Phụ ẩn cư cốc ở Tây Tạng, Himalaya..v.v.. còn chúng ta tự mở luân xa và tu tập trong Đạo Đức Thế Tôn - Thực sự là tìm đường chết! - Tôi nghĩ thế, nhưng đã bị nhét vào đây, chỗ này, khả năng cũng không hoàn toàn.
Điều này, nên được tất cả chúng ta hiểu rằng: Luân xa số 6 mở ra và cái gọi là “dòng hoả xà” thực chất chỉ là “hệ quả” của việc tu tập các Pháp Phật đạt được tới những cấp Đức Hạnh chứng thực nhất định.
Nếu không mở được ra luân xa 6 thì mọi lời tuyên bố rằng “tôi đã đạt cấp Thánh nọ, Thánh kia..” đều là “lời nói ngoa” - vì sao? - Vì hệ thống Giới Kinh có quá nhiều Kinh Pháp nói về Trời, các tầng trời, các Chư Vị Thánh Tăng Đoàn ngao du chư thiên, các vị Bồ Tát, các muôn kiếp lẫn muôn vô lượng Quang…
Như vậy, kể cả do bị nhét vào có chủ ý giới thiệu rõ việc tu chứng và trú thì, tôi vẫn cho rằng: Khó có thể dùng Pháp Mở Luân Xa để tu tập ra Kết Quả Phật. Mà do tu tập các phương tiện tu tập Pháp Phật thì việc mở ra các luân xa là hệ quả tất yếu.
Đây thêm là 1 thực chứng và trú nữa.
Tuy vậy, tôi cho rằng: Người Sư dẫn Đạo phải thực sự có được những cảnh hạnh tu sĩ “xuất khỏi thế gian” mới có thể ấn chứng và hướng dẫn người đệ tử qua cửa này.
Còn lại, việc người tu Đạo Đức Thế Tôn mà tự tu (và gần như tất cả kể cả xuất gia hay tại gia) - không có người tu sĩ chân sư xuất thế gian dẫn đạo đoạn này: Tự cầu may mắn thôi. . - Chúng ta cố gắng “khai tuệ”, khai kiểu gì thấy rõ hết mọi thứ trên trời dưới biển, khắp vũ trụ bao la, rồi ÁNH SÁNG THU PHÁT ĐƯỢC - Vậy là cái số 6 cũng đã mở dù… không gọi nó bằng cái tên Luân xa.
Thực tế, người tu sĩ Đạo Đức Thế Tôn khi ở cảnh này thì làm gì còn ai quan tâm nó danh (tên) là gì, công dụng, phân biệt, tánh ra sao… - Chúng ta thấy là thấy thôi. Biết rõ đã thấy, chân như như vậy.
Cái đáng nói nhất đó là: Ở cảnh giới này - những con người bình thường chúng ta vừa khinh khỉnh phân biệt luân xa với Đạo Đức Thế Tôn, vừa phân biệt đúng sai, vừa nghi vừa si… không thấy bất khả tư nghì chỉ thấy không thể tin được, quá ảo… Tâm là tâm không, không có gì, vô ngã, vô thường… giờ lại đi kể cái thuyết chân ngã, rồi lại của cả ngoại Đạo, rồi cái gì gì tu thân Kim cương, thần thông linh hiển,v,v,v mùi dục lạc khắp hư không…v..v.v
Chúng ta cần nhớ: Hệ quả và Pháp mục đích là khác nhau.
Chỉ khi chúng ta bỏ đi hết mọi định kiến, thiên kiến về phân biệt những thứ ngô nghê lẫn những thứ bất tư nghì, thứ trong ngoài Đạo..v.v. Chúng ta mới thấy: Bằng cách nào mà các Chư Vị Thánh Tăng Đoàn có thể đi khắp Chư Thiên cũng như mô tả Bồ Tát thần thông ra sao hay ánh sáng nhiệm màu là thế nào..
Dù các chúng ta muốn tu Phật để giải thoát, nhưng ngay từ đầu đã phủ bỏ những điều đã được ghi trong Giới Kinh - Vì nó bất khả tư nghì quá và nhìn khắp bao nhiêu thế kỷ, có thấy ai được như vậy đâu…v.v.v - Phủ bỏ như vậy hoặc mang tâm nghi ngờ rằng: Hệ thống Giới Kinh nói quá.v.v. - Thì không bao giờ tu ra được các Kết Quả Phật thực sự vì… ngay từ đầu đã cố gắng đi tìm cái thứ mơ hồ mà không biết được rằng thứ: Thứ sẽ thực chứng cấp cảnh tu là thứ gì
Không tu ra thì lại bảo là “làm gì có chuyện chu du khắp chư thiên của mấy chư vị Tăng Đoàn hay cái gì Bồ Tát hay cái gì vô lượng quang… làm gì có”
Nhưng nghe được có người ví dụ “đến được chư thiên” hay rõ hết các kiếp sống trước đó thì lại hô: Tà ma ngoại Đạo. Tà ma ngoại Đạo..v.v.v. Tâm phải là thế này mới là tâm Phật, tánh phải là thế này mới là tánh Phật… chứ ở đâu ra lại cứ suốt ngày nói “chư thiên” hay “kiếp nọ kiếp kia”.v.v. Ma nhập…
… lại bịt tai: Tu phải không thấy đạt được gì mới là tu đúng…
Trong khi, toàn bộ hệ thống giới Kinh. Từ các vị Tăng Đoàn tới các vị Bồ Tát… ai ai cũng đều Đầy nhiệm màu từ lên trời xuống đất tới luân hồi đủ mọi kiếp trong vô lượng quang…
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
(95 tiếp)
Nhắc lại: Những điều nói ở đây, không thể và không thể được coi là một lộ trình hay phương thức nào đó. Mọi thứ về Đạo Đức Thế Tôn chỉ có ở hệ thống Giới Kinh. Những điều nói ở đây chỉ nên được là những câu chuyện thế gian, nó không phải là 1 hệ thống hay cách thức phương tiện tu tập cụ thể nào. Nên như vậy…
***
Đến đây, Chúng ta đã bắt đầu đi sâu sắc hơn về việc thực chứng, chứng và trú (an trú). Những điều nói ra sẽ chỉ như “chuyện ngô nghê” và mỗi người đều nên biết rõ, vị trí thực tại của bản thân cũng như “chuyện hoang tưởng” ở đây để không bị lẫn lộn, ảo tưởng sức mạnh bản thân.
Khi bắt đầu tiếp cận với tri thức “năng lượng vũ trụ hay tâm chân như thường hằng là gì”. Tri thức này đã là tri thức cuối của mọi Đạo Giáo trên thế gian này xưa nay. Có thể bí truyền hay công truyền nhưng đều sẽ nói đến những yếu tố giống nhau bằng những phương pháp, ngôn từ, khái niệm khác nhau (tuỳ theo mỗi Đạo, mỗi Giáo).
Chúng ta thấy rất rõ: Giới Phật mới là thứ xác định chúng ta có ở trong Đạo Đức Thế Tôn hay không. Không Giới thì sử dụng phương tiện nào, pháp nào đi nữa -nó cũng không phải là ánh sáng chánh niệm tỉnh thức Đạo Đức Thế Tôn.
Năm giới cơ bản mà ai cũng đã biết:
1/ Không sát sinh
2/ Không lấy của không cho
3/ Không tà dâm
4/ Không nói láo
5/ Không dùng chất kích thích
5 giới này là tất cả của Giới Phật. Nếu như bắt buộc chỉ lựa chọn 1 giới để định nghĩa thì nó là không sát sinh. Từ 5 giới này sinh ra vô lượng Giới Phật. Chính là luật, còn hay được gọi là giới luật, giới hạnh…
Dù chỉ là 1 giới như vừa kể hay 5 giới cơ bản: Khi đi đến tận cùng, triển khai Quán, triển khai tu tập, thực hành đến tận cùng: Nó bao trùm toàn bộ và được gọi là Giới Phật.
Điều này có nghĩa, 5 giới trên không hề có ý nghĩa, nội dung đơn giản như chúng ta vẫn hiểu hay được đọc ở bất cứ đâu.
Ví dụ: Không sát sinh, cứ tưởng dễ nhưng đâu có dễ:
1/ Khi Quán sâu hơn thì ta thấy, để làm được lại cần phải ăn chay, chưa đủ.
2/ Khi Quán sâu hơn, kể cả ta tự trồng cái cây trái rau ăn cũng vẫn là có sát sinh, nên tự thấy cái chức nghiệp tưởng chừng lương thiện vậy mà cũng nằm ngoài giới nói gì chức nghiệp khác. Chưa đủ.
3/ Khi Quán sâu hơn, lên rừng hái lá cây ăn cũng vẫn thấy mỗi khi làm vậy là bao nhiêu chúng sinh bị giết.. thế nên thành ăn xin, chưa đủ, lại còn không cất chứa đồ ăn xin, còn không lấy đồ sống, còn không bẻ cây hái lá, trồng mầm.v.v. - chưa đủ dù đã thấy giới luật Phật bao la.
4/ Để không sát sinh, khi Quán sâu sẽ thấy: Đi cái xe máy, đi ô tô hay chạy nhảy nằm ngồi.v.v. Bao nhiêu chúng sinh cũng vì lẽ đó mà chết - tự nhiên sẽ thấy cái gọi là oai nghi đi đứng nằm ngồi trong Giới Phật là ra sao. Vẫn Chưa đủ.
5/ Quán sâu hơn nữa và vô lương Quán sẽ thấy: Chỉ cần thực hiện được 1 giới không sát sinh này thì cũng đồng nghĩa là đã thực hiện đầy đủ 5 giới cơ bản lẫn mọi giới luật, lẫn mọi giới hạnh được chỉ ra trong hệ thống giới kinh đã cụ túc - tức là đầy đủ.
Nhưng nói vậy, khác gì bảo tu thành Phật đi rồi nói chuyện. Bởi thế, chúng ta phải lần lần. Ở đây là phân ra 5 giới cơ bản.
Đạt 5 giới cơ bản này là chúng ta thành tu sĩ, mọi giới luật khác trong giới kinh đều đã đạt hạnh cụ túc - đầy đủ. Do vậy, 5 giới cơ bản này cũng như 1 giới không sát sinh - ý nghĩa và nội dung của nó bao la bao trùm khắp. Đừng một ai nghĩ: Tôi đã thực hiện được đầy đủ 5 giới này. Và cái tôi đang cố gắng là thực hiện đầy đủ mấy trăm giới luật, giới nọ giới kia trong hệ thống giới kinh - Bởi vì: Khi thực hiện được đầy đủ 5 giới cơ bản kia thì mọi giới luật khác đều đã cụ túc đầy đủ giới hạnh.
Ví dụ: Không lấy của không cho
Cứ tưởng đơn giản là: Không ăn trộm cắp, lừa đảo, cướp giật.v.v. Là đủ? - Làm gì có chuyện dễ vậy.
Chúng ta làm việc, một chức nghiệp gọi là cơ bản lương thiện, lao động chân chính tạo ra tiền - sao lại bảo là tôi lấy của không cho? - Nhưng khi đạt Quán thâm sâu mới rõ: Những điều này đều là lấy của không cho. Đến việc tự trồng cái cây để ăn chay còn vi phạm giới sát sinh, chưa nói đến việc mảnh đất để trồng rau hay dựng cái chòi (hay nhà lầu) để ở cũng đều là lấy của không cho - chứ ở đâu ra có cái gì của ta bằng cách trao đổi?
Rất rõ: Cái mà gọi là của có (hữu, thủ) bằng cách Trao đổi (dù là trao đổi cái gì) thì nó cũng không phải là của cho, ở đâu ra là của cho, thế mà vẫn lấy, lại còn kêu đó là của tôi… nên rất rõ giới này thâm sâu. Mà nó cũng lại chỉ là giới được triển khai ra từ 1 giới: Không sát sinh - Giới Phật. (
Thực hiện 1 giới mà tự thấy cái của tôi, cái tôi nó là thế nào…
Cái thân: Đúng là được cho
Để nuôi cái thân: Muốn thực hiện đúng “không lấy của không cho” thì chắc chắn chỉ còn cách ăn xin chứ vào rừng tự bẻ lá cây (rau) ăn cũng là “lấy của không cho”. .
Cũng như thế với các giới cơ bản khác.
Chỉ là, cũng như 1 giới Phật duy nhất, do chưa thực hiện được 5 giới cơ bản cụ túc nên phải lui xuống thực hiện rất nhiều giới phía sau của giới luật - chủ yếu là để thực hiện được 5 giới cơ bản cụ túc - chứ chưa nói đến Giới Phật duy nhất.
5 giới Phật cơ bản này - đừng một ai nói đã thực hiện được đầy đủ cụ túc hay một ai tin rằng họ đã thực hiện được bởi vì: Khi thực hiện được cụ túc 5 giới này - người này là tu sĩ rồi. Xuất thế gian rồi, cấp cảnh siêu phàm rồi, làm gì còn có cái danh để cho chúng ta nghe bàn. Nên câu nói xàm nhất: Tôi đang giữ 5 giới này…vv.v làm gì có chuyện này: Câu nói đúng là: Tôi đang tu tập 5 giới này. Nhưng kể cả là tu tập theo 5 giới này - không hề đơn giản vì đây là cấp cảnh xuất thế gian - sao có đủ duyên để tu dễ vậy. Lùi một bước, tu mấy trăm giới luật còn dễ hơn hoặc tu hạnh đầu đà cũng không khó bằng việc tu cụ túc 5 giới này
Tuy vậy, việc thực hành tu tập 5 giới này là việc cơ bản đầu tiên trong Đạo Đức Thế Tôn. Dù chưa đạt được cụ túc nhưng chỉ cần tập trung vào việc thực hành 5 giới này cho đến mức cụ túc - việc trở thành tu sĩ là sớm hay muộn. Chúng ta biết, không phải là cụ túc 5 giới ngay lập tức mà là giữ được thân tâm tinh thần cang nhiều, càng lâu ở trong 5 giới này thì kết quả tu tập càng hiện rõ. Thân tâm không ở trong 5 giới này đều là ở ngoài Giới Phật.
Ví dụ: Uống ngụm nước trà hay uống ngụm nước hoa quả, tăng lực,v.v. : Cũng là dùng chất kích thích rồi. Ăn thứ bổ béo cho no cho nhiều cho đủ cũng là dùng chất kích thích rồi. - Khi nào Quán thấy như này và nhiều hơn như này bội phần mới thấy: Thiểu dục tri túc là gì…
Cũng như vậy, 5 giới này nhiệm màu ra sao. Nên cố gắng, thực hành được bao nhiêu thì thấy Phật ngay ở thân tâm bấy nhiêu. Chỉ có một thực tế là: Nhiều người ảo tưởng qua bao năm, đời, kiếp: Tôi đã ở trong 5 giới này, giữ được ở trong 5 giới này nghiêm ngặt, không hề vi phạm… - mà đâu có thấy giải thoát gì… Đây là do không Quán nên không thấy được chân như. Quán phát triển sâu thêm 1 tẹo thôi là thấy: Hoá ra có giữ được ở trong giới đâu. Là do bản thân không biết (vô minh) nên mới nghĩ đã giữ giới được rồi.v.v.
***
Như vậy:
1/ Không dùng chất kích thích chính là: Bảo vệ, tu tập luân xa đầu tiên - luân xa gốc.
2/ Không sát sinh: Bảo vệ, tu tập luân xa số 4 - luân xa trái tim
3/ Không nói láo: Bảo vệ, tu tập luân xa số 5 - luân xa cổ họng
4/ Không tà dâm: Bảo vệ, tu tập luân xa số 2
5/ Không lấy của không cho: Chính là bảo vệ, tu tập luân xa dạ giày (một luân xa mang đến rất nhiều thứ của thế giới này) - là trung tâm của luân hồi, vô minh và phát triển ở thế giới.
Trái ngược với thường thức và nhiều ngoại Đạo khác: Đạo Đức Thế Tôn tập trung vào bảo vệ và giữ trạng thái của 5 luân xa phía dưới nhờ việc ở trong Giới Phật.
Luân xa số 4 nhờ việc ở trong Giới Phật được kích hoạt trạng thái năng lượng cao hơn. Các luân xa khác được dần dần đưa về trạng thái dừng (im), bất động cho tới khi việc mở luân xa 6 có kết quả.
Chỉ dùng việc hoạt động của luân xa số 4 để giữ thân sống trong quá trình mở luân xa 6. 4 luân xa còn lại cần phải được đưa về trạng thái dừng, đóng, bịt, bảo vệ.
Điều này rất trái ngược với thường thức về cái gọi là: Mở các luân xa phía dưới để: Sống và làm việc
Nếu các luân xa phía dưới mở ra, hoạt động ào ào thì người tu chìm trong dục lạc và lạc dục thế gian rồi.
Tuy nhiên, đừng lo chết bệnh. Năng lượng từ luân xa số 4 sẽ cung cấp đủ cho thân.
Chỉ sợ, số 4 nó có quay hay không? - thế thì phải nhìn, giới gì, tâm gì, từ (bi) gì… đang ở trạng thái nào mà số 4 lại không quay.
Dù vậy, người ở trong Giới Phật sẽ không cần quan tâm luân xa, chỉ cần ở trong giới càng rốt ráo, không buông lung thì hoạt động của các luân xa đều như đã kể, chỉ còn 1 luân xa số 5 giữ năng lượng, 4 luân xa dần dừng.
Cũng từ đây, một người mới bắt đầu vào thực hành Đạo Đức Thế Tôn - nhìn vào 5 luân xa và hiện trạng bản thân sẽ tự thấy: Luân xa nào đang bị hoạt động quá mức, cần phải cân bằng lại.
Nhắc lại: Những điều nói ở đây, không thể và không thể được coi là một lộ trình hay phương thức nào đó. Mọi thứ về Đạo Đức Thế Tôn chỉ có ở hệ thống Giới Kinh. Những điều nói ở đây chỉ nên được là những câu chuyện thế gian, nó không phải là 1 hệ thống hay cách thức phương tiện tu tập cụ thể nào. Nên như vậy…
***
Đến đây, Chúng ta đã bắt đầu đi sâu sắc hơn về việc thực chứng, chứng và trú (an trú). Những điều nói ra sẽ chỉ như “chuyện ngô nghê” và mỗi người đều nên biết rõ, vị trí thực tại của bản thân cũng như “chuyện hoang tưởng” ở đây để không bị lẫn lộn, ảo tưởng sức mạnh bản thân.
Khi bắt đầu tiếp cận với tri thức “năng lượng vũ trụ hay tâm chân như thường hằng là gì”. Tri thức này đã là tri thức cuối của mọi Đạo Giáo trên thế gian này xưa nay. Có thể bí truyền hay công truyền nhưng đều sẽ nói đến những yếu tố giống nhau bằng những phương pháp, ngôn từ, khái niệm khác nhau (tuỳ theo mỗi Đạo, mỗi Giáo).
Chúng ta thấy rất rõ: Giới Phật mới là thứ xác định chúng ta có ở trong Đạo Đức Thế Tôn hay không. Không Giới thì sử dụng phương tiện nào, pháp nào đi nữa -nó cũng không phải là ánh sáng chánh niệm tỉnh thức Đạo Đức Thế Tôn.
Năm giới cơ bản mà ai cũng đã biết:
1/ Không sát sinh
2/ Không lấy của không cho
3/ Không tà dâm
4/ Không nói láo
5/ Không dùng chất kích thích
5 giới này là tất cả của Giới Phật. Nếu như bắt buộc chỉ lựa chọn 1 giới để định nghĩa thì nó là không sát sinh. Từ 5 giới này sinh ra vô lượng Giới Phật. Chính là luật, còn hay được gọi là giới luật, giới hạnh…
Dù chỉ là 1 giới như vừa kể hay 5 giới cơ bản: Khi đi đến tận cùng, triển khai Quán, triển khai tu tập, thực hành đến tận cùng: Nó bao trùm toàn bộ và được gọi là Giới Phật.
Điều này có nghĩa, 5 giới trên không hề có ý nghĩa, nội dung đơn giản như chúng ta vẫn hiểu hay được đọc ở bất cứ đâu.
Ví dụ: Không sát sinh, cứ tưởng dễ nhưng đâu có dễ:
1/ Khi Quán sâu hơn thì ta thấy, để làm được lại cần phải ăn chay, chưa đủ.
2/ Khi Quán sâu hơn, kể cả ta tự trồng cái cây trái rau ăn cũng vẫn là có sát sinh, nên tự thấy cái chức nghiệp tưởng chừng lương thiện vậy mà cũng nằm ngoài giới nói gì chức nghiệp khác. Chưa đủ.
3/ Khi Quán sâu hơn, lên rừng hái lá cây ăn cũng vẫn thấy mỗi khi làm vậy là bao nhiêu chúng sinh bị giết.. thế nên thành ăn xin, chưa đủ, lại còn không cất chứa đồ ăn xin, còn không lấy đồ sống, còn không bẻ cây hái lá, trồng mầm.v.v. - chưa đủ dù đã thấy giới luật Phật bao la.
4/ Để không sát sinh, khi Quán sâu sẽ thấy: Đi cái xe máy, đi ô tô hay chạy nhảy nằm ngồi.v.v. Bao nhiêu chúng sinh cũng vì lẽ đó mà chết - tự nhiên sẽ thấy cái gọi là oai nghi đi đứng nằm ngồi trong Giới Phật là ra sao. Vẫn Chưa đủ.
5/ Quán sâu hơn nữa và vô lương Quán sẽ thấy: Chỉ cần thực hiện được 1 giới không sát sinh này thì cũng đồng nghĩa là đã thực hiện đầy đủ 5 giới cơ bản lẫn mọi giới luật, lẫn mọi giới hạnh được chỉ ra trong hệ thống giới kinh đã cụ túc - tức là đầy đủ.
Nhưng nói vậy, khác gì bảo tu thành Phật đi rồi nói chuyện. Bởi thế, chúng ta phải lần lần. Ở đây là phân ra 5 giới cơ bản.
Đạt 5 giới cơ bản này là chúng ta thành tu sĩ, mọi giới luật khác trong giới kinh đều đã đạt hạnh cụ túc - đầy đủ. Do vậy, 5 giới cơ bản này cũng như 1 giới không sát sinh - ý nghĩa và nội dung của nó bao la bao trùm khắp. Đừng một ai nghĩ: Tôi đã thực hiện được đầy đủ 5 giới này. Và cái tôi đang cố gắng là thực hiện đầy đủ mấy trăm giới luật, giới nọ giới kia trong hệ thống giới kinh - Bởi vì: Khi thực hiện được đầy đủ 5 giới cơ bản kia thì mọi giới luật khác đều đã cụ túc đầy đủ giới hạnh.
Ví dụ: Không lấy của không cho
Cứ tưởng đơn giản là: Không ăn trộm cắp, lừa đảo, cướp giật.v.v. Là đủ? - Làm gì có chuyện dễ vậy.
Chúng ta làm việc, một chức nghiệp gọi là cơ bản lương thiện, lao động chân chính tạo ra tiền - sao lại bảo là tôi lấy của không cho? - Nhưng khi đạt Quán thâm sâu mới rõ: Những điều này đều là lấy của không cho. Đến việc tự trồng cái cây để ăn chay còn vi phạm giới sát sinh, chưa nói đến việc mảnh đất để trồng rau hay dựng cái chòi (hay nhà lầu) để ở cũng đều là lấy của không cho - chứ ở đâu ra có cái gì của ta bằng cách trao đổi?
Rất rõ: Cái mà gọi là của có (hữu, thủ) bằng cách Trao đổi (dù là trao đổi cái gì) thì nó cũng không phải là của cho, ở đâu ra là của cho, thế mà vẫn lấy, lại còn kêu đó là của tôi… nên rất rõ giới này thâm sâu. Mà nó cũng lại chỉ là giới được triển khai ra từ 1 giới: Không sát sinh - Giới Phật. (
Thực hiện 1 giới mà tự thấy cái của tôi, cái tôi nó là thế nào…
Cái thân: Đúng là được cho
Để nuôi cái thân: Muốn thực hiện đúng “không lấy của không cho” thì chắc chắn chỉ còn cách ăn xin chứ vào rừng tự bẻ lá cây (rau) ăn cũng là “lấy của không cho”. .
Cũng như thế với các giới cơ bản khác.
Chỉ là, cũng như 1 giới Phật duy nhất, do chưa thực hiện được 5 giới cơ bản cụ túc nên phải lui xuống thực hiện rất nhiều giới phía sau của giới luật - chủ yếu là để thực hiện được 5 giới cơ bản cụ túc - chứ chưa nói đến Giới Phật duy nhất.
5 giới Phật cơ bản này - đừng một ai nói đã thực hiện được đầy đủ cụ túc hay một ai tin rằng họ đã thực hiện được bởi vì: Khi thực hiện được cụ túc 5 giới này - người này là tu sĩ rồi. Xuất thế gian rồi, cấp cảnh siêu phàm rồi, làm gì còn có cái danh để cho chúng ta nghe bàn. Nên câu nói xàm nhất: Tôi đang giữ 5 giới này…vv.v làm gì có chuyện này: Câu nói đúng là: Tôi đang tu tập 5 giới này. Nhưng kể cả là tu tập theo 5 giới này - không hề đơn giản vì đây là cấp cảnh xuất thế gian - sao có đủ duyên để tu dễ vậy. Lùi một bước, tu mấy trăm giới luật còn dễ hơn hoặc tu hạnh đầu đà cũng không khó bằng việc tu cụ túc 5 giới này
Tuy vậy, việc thực hành tu tập 5 giới này là việc cơ bản đầu tiên trong Đạo Đức Thế Tôn. Dù chưa đạt được cụ túc nhưng chỉ cần tập trung vào việc thực hành 5 giới này cho đến mức cụ túc - việc trở thành tu sĩ là sớm hay muộn. Chúng ta biết, không phải là cụ túc 5 giới ngay lập tức mà là giữ được thân tâm tinh thần cang nhiều, càng lâu ở trong 5 giới này thì kết quả tu tập càng hiện rõ. Thân tâm không ở trong 5 giới này đều là ở ngoài Giới Phật.
Ví dụ: Uống ngụm nước trà hay uống ngụm nước hoa quả, tăng lực,v.v. : Cũng là dùng chất kích thích rồi. Ăn thứ bổ béo cho no cho nhiều cho đủ cũng là dùng chất kích thích rồi. - Khi nào Quán thấy như này và nhiều hơn như này bội phần mới thấy: Thiểu dục tri túc là gì…
Cũng như vậy, 5 giới này nhiệm màu ra sao. Nên cố gắng, thực hành được bao nhiêu thì thấy Phật ngay ở thân tâm bấy nhiêu. Chỉ có một thực tế là: Nhiều người ảo tưởng qua bao năm, đời, kiếp: Tôi đã ở trong 5 giới này, giữ được ở trong 5 giới này nghiêm ngặt, không hề vi phạm… - mà đâu có thấy giải thoát gì… Đây là do không Quán nên không thấy được chân như. Quán phát triển sâu thêm 1 tẹo thôi là thấy: Hoá ra có giữ được ở trong giới đâu. Là do bản thân không biết (vô minh) nên mới nghĩ đã giữ giới được rồi.v.v.
***
Như vậy:
1/ Không dùng chất kích thích chính là: Bảo vệ, tu tập luân xa đầu tiên - luân xa gốc.
2/ Không sát sinh: Bảo vệ, tu tập luân xa số 4 - luân xa trái tim
3/ Không nói láo: Bảo vệ, tu tập luân xa số 5 - luân xa cổ họng
4/ Không tà dâm: Bảo vệ, tu tập luân xa số 2
5/ Không lấy của không cho: Chính là bảo vệ, tu tập luân xa dạ giày (một luân xa mang đến rất nhiều thứ của thế giới này) - là trung tâm của luân hồi, vô minh và phát triển ở thế giới.
Trái ngược với thường thức và nhiều ngoại Đạo khác: Đạo Đức Thế Tôn tập trung vào bảo vệ và giữ trạng thái của 5 luân xa phía dưới nhờ việc ở trong Giới Phật.
Luân xa số 4 nhờ việc ở trong Giới Phật được kích hoạt trạng thái năng lượng cao hơn. Các luân xa khác được dần dần đưa về trạng thái dừng (im), bất động cho tới khi việc mở luân xa 6 có kết quả.
Chỉ dùng việc hoạt động của luân xa số 4 để giữ thân sống trong quá trình mở luân xa 6. 4 luân xa còn lại cần phải được đưa về trạng thái dừng, đóng, bịt, bảo vệ.
Điều này rất trái ngược với thường thức về cái gọi là: Mở các luân xa phía dưới để: Sống và làm việc
Nếu các luân xa phía dưới mở ra, hoạt động ào ào thì người tu chìm trong dục lạc và lạc dục thế gian rồi.
Tuy nhiên, đừng lo chết bệnh. Năng lượng từ luân xa số 4 sẽ cung cấp đủ cho thân.
Chỉ sợ, số 4 nó có quay hay không? - thế thì phải nhìn, giới gì, tâm gì, từ (bi) gì… đang ở trạng thái nào mà số 4 lại không quay.
Dù vậy, người ở trong Giới Phật sẽ không cần quan tâm luân xa, chỉ cần ở trong giới càng rốt ráo, không buông lung thì hoạt động của các luân xa đều như đã kể, chỉ còn 1 luân xa số 5 giữ năng lượng, 4 luân xa dần dừng.
Cũng từ đây, một người mới bắt đầu vào thực hành Đạo Đức Thế Tôn - nhìn vào 5 luân xa và hiện trạng bản thân sẽ tự thấy: Luân xa nào đang bị hoạt động quá mức, cần phải cân bằng lại.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Như vậy, chúng ta đã thấy, về mặt sắc và tinh thần ở thế giới này có cấu trúc liên hệ tinh vi ra sao - đó cũng là lý do: Rất nhiều người thông lý Đạo Phật nhưng trên mặt sự - tức là thực tế, lại không thể giải thoát - dù có biểu hiện ra bên ngoài là giải thoát đi chăng nữa thì tự bên trong nội thân tinh thần vẫn không thể giải thoát ràng buộc. Nếu giải thoát mà dễ thì ai ai cũng giải thoát hết rồi.
Chúng ta phải giải quyết được mối liên hệ giữa biểu hiện của chúng ta ở thế giới (thân và tinh thần) với cái sự thường hằng của chính chúng ta. Vì lẽ nào lại có các lý như trong hệ thống giới kinh - vô thường, vô ngã, luân hồi.v.v.
Luân xa như một cái máy bơm đồng thời như 1 điểm kết nối với bên ngoài. Bình thường, sự kết nối của thân tâm ta với bên ngoài ( tạm gọi vậy) ở thế giới điên đảo này là thông qua cái gọi là luân xa này nhưng được ngăn cách bởi 1 màng, được gọi là màng ngăn vi tế. Như vậy, các luân xa ở trạng thái bình thường cũng không mở kết nối với bên ngoài. Nó đóng.
Tuy nhiên, dù ở trạng thái này, luân xa nó vẫn quay hay bơm hay chia cái năng lượng ở trong thân thể duy trì cái sự sống. Dù sự quay này là chậm chạp nhưng mỗi luân xa sẽ đều chia cái năng lượng sống này đến các bộ phận trên toàn cơ thể mà nó phụ trách.
Nói theo ngôn từ Đạo Đức Thế Tôn: Nghiệp ở đâu, lưu ở đâu, và nó phân chia thế nào mà: lúc thì cái chân sẽ bị quả nghiệp gãy, lúc thì cái mồm bị quả nghiệp loét, lúc thì cái dạ dày, cái ruột bị quả nghiệp bệnh hay cái trí bị quả nghiệp mệt.v.v. - sao không tập trung quả nghiệp vào 1 nơi thôi, rồi mình bỏ nó đi… như kiểu vào 1 chân rồi mình cắt nó đi - từ đây hết nghiệp..v.v.
Cơ chế phân phối quả nghiệp ra sao, mức độ nặng nhẹ mỗi lần thế nào và mức độ vượt qua cái quả nghiệp khi nó đến này ở mỗi người lại khác nhau, tại sao lại vậy? - ví dụ cùng là chịu 1 loại quả nghiệp cụ thể nào đó mà có người lại vượt qua được sớm, có người trầy trật, có người thì chìm đắm tạo thêm vô số nghiệp luôn…
Những điều này không hề đơn giản. Không có cái Quán đến một mức nhất định (công hạnh) thì dù có đọc thuộc hết Giới Kinh cũng không nói được rõ. Có nói cũng trở thành nói xuông.
Cơ chế phân phối nghiệp lực liên quan rất lớn đến hệ thống luân xa và cơ chế hoạt động của các luân xa.
Một sự thực: Người mà ảo tưởng sức mạnh bản thân quá mức, rồi bị loè bịp hay tự loè bịp mình đi mở luân xa (tự mình hay nhờ người mở giúp) . Dù nó là luân xa nào đi nữa thì: Khả năng nghiệp sớm muộn tập tới với cường độ bội phần
Họ không biết. Vừa quy cho việc mở luân xa bị ma nhập (mà cũng đúng nếu hiểu theo khái niệm tà ma ngoại đạo), vừa quy cho việc không biết cách mở luân xa.v..v
Tựu chung lại, nó không hề tốt - kể cả luân xa số 4 có được mở cũng không phải là chuyện tốt.
Bởi vì, thế gian mấy ai hiểu được nghiệp quả và các cơ chế hoạt động của nghiệp quả với các mối liên hệ cơ bản của nghiệp và thân và tinh thần và lực (tâm) …
Đức Thế Tôn trải qua bao lâu với những bất khả tư nghì của Ngài mới có thể tìm ra con đường mở luân xa 6 - con đường an toàn nhất dù chúng ta đã đọc các ma sự đều đã rõ: Nó cũng nguy hiểm thế nào khi thực tu… - Nhiều người ảo tưởng sức mạnh tới mức cho rằng bản thân “siêu đẳng” tu tập chỉ chịu qua mấy ma sự qua qua và đã sớm vượt qua hết chứng nọ chứng kia…- đều là đang vô minh cả.
Có nhiều người bị ảnh hưởng của luân xa 4. Quên cả việc mở luân xa 6 (trí tuệ). Bị luân xa 4 ảnh hưởng sẽ trở nên một nhà hoạt động cộng đồng - cứ nghĩ bản thân là Bồ Tát đang hành Bồ Tát Đạo nhưng đã chứng Bất Thối đâu, vì thế, khi mất thân là lại quay lại từ đầu - tất nhiên, nếu không coi bản thân là Bồ Tát mà làm được vậy thì phước báu (nghiệp) ở các đời sau vẫn hiện trở lại.
Tuy nhiên, đây vẫn là những người có phước.
Còn rất nhiều người, có khi lại đau khổ chỉ vì cái luân xa tim này hoạt động mở quá mức bị tập nghiệp.
***
Như vậy, sự đóng mở của các luân xa nó như một cái van để bơm hút nghiệp phước. Chiêu nghiệp chiêu phước.
Vì sao lại chiêu được? Vì sao lại bơm hút được? - Vì chúng ta đã tạo nhân duyên từ vô thỉ đời tới nay. Đến lúc này, đến thời điểm này, trạng thái này khi có 1 hợp duyên nữa xuất hiện đã đủ để hợp quả (hiện quả) thì cái gọi là nghiệp đó nó “giáng” xuống - tác động thông qua luân xa để vào thân tâm tinh thần để rồi hiện ra mà thôi.
Nói theo cách thế gian:
- Vì đâu có người ngu kẻ dốt đứa thông minh, kể cả trong 1 gia đình? - Theo Đạo Đức Thế Tôn: - Do tập nghiệp. - Cũng là do trạng thái luân xa. Vì sao? - Vì cùng được học, được dạy bảo, nuôi, môi trường như nhau mà vẫn khác nhau do cái nghiệp… cũng là do trạng thái luân xa mỗi người khác nhau.
Nhưng nếu ai đó lại cố tình muốn mở ra như vừa nói phía trên - cho bằng bạn bằng bè bằng anh bằng em thì… khả năng lại còn bị “ma hành” nặng hơn. Vì ai biết được cái nghiệp là gì là phước thiện hay ác ma? - bởi thế: Cái màng vi tế ngăn cách luân xa nó có tác dụng bảo vệ là vậy. Nó như cái van supap nồi hơi áp suất vậy. Đóng mở rách lành - trạng thái theo cường lực của tập nghiệp và tạo nghiệp hiện tại cũng như trạng thái hiện tại.
Vì thế, hệ thống luân xa là một tham chiếu cho mỗi người tu tập rất tốt. Căn cứ vào đây để thấy rằng: Bản thân phải trọng tu những điều gì rốt ráo hơn..
Chất kích thích và luân xa số 1 sẽ kích thích nhau. Khi luân xa số 1 quay mạnh nó sẽ tạo dòng hoả lực bốc lên kéo theo các luân xa khác ảnh hưởng và khả năng lớn là chiêu quả ngay ở tương lai rất gần hiện hữu luôn. Các quả nghiệp theo mối liên hệ này sẽ có thể liên miên tới nếu như hoả lực ở luân xa 1 mạnh.
Cũng như vậy, luân xa số 2, số 3,4,5
Sau khi bốc 1 vòng, dòng hoả lực lại đi xuống rồi lại đi lên - chúng ta cứ quay cuồng vậy.
Về mặt sự, không thể nào bít kín 1 luân xa dù thường thức như được giới thiệu rằng: Nó luôn đóng.
Tuy nhiên, đó là vì không hiểu hết cơ chế màng ngăn cách dĩ thái kiểu van supap thôi.
Ở thế giới có câu: Rậu đổ bìm leo là vậy. Đã gặp 1 chuyện lớn lớn kiểu gì cũng là vô số chuyện từ đâu ập tới… hoặc đã gặp vận gì đỏ đỏ lại cứ thấy khí vận liên miên một hồi…
Nhưng vật cùng tất phản. Không có gì là mãi. Sau khi áp lực giảm thì các van supap đều trở lại trạng thái bình thường. Có muốn cũng không đóng mở được.
Như vậy, chúng ta đã rất rõ về mặt cơ chế trên khía cạnh mối liên hệ lực (tập nghiệp quả, phước) đến bằng cách nào và kết thúc ra sao.
Màng ngăn cách dĩ thái có thể bị phá vỡ bởi:
Nội lực: Tức là tại đời hiện tại, vì sự ý chí và cố gắng, vì sự tìm cầu và nỗ lực, vì sự ham muốn và hành động, vì sự tác nghiệp của thân khẩu hay ý… vì cái được gọi là ta hiện tại mà thúc đẩy một màng ngăn dĩ thái của luân xa nào đó bị mở ra khiến cho những tập nghiệp phước lực được trở đến và hiện hữu (quả). Chính nó có thể kéo theo một dây chuyền phản ứng liên miên vì cái này nó chạy theo 3 vận hà cũng như luân tức là cứ chạy vòng mãi trong người để làm quay các luân xa tiếp sức cho nó cho đến khi hết.
Hoá ra nó như là thứ “nghiệp/phước/cơ” điều khiển ta vậy.
Ngoại lực: Đến thời điểm, nó tập thẳng vào màng dĩ thái ngăn cách và bảo vệ ta, làm khai mở luân xa thông qua đó tạo nên các kết quả hiện tiền.
Tuy nhiên, ngoai lực không thể tự nhiên tập đến trừ khi được chiêu cảm.
Cái gì chiêu cảm? - Cái năng lượng ở trong vận hà hay cái năng lượng ở trong thân tinh thần ta nó vẫn đang hàng ngày chạy vòng vòng vòng đó dù các màng dĩ thái ngăn cách với bên ngoài đóng thì nó vẫn chạy để duy trì sự sống và “ta” mà. Khi đến vị trí, địa điểm, thời gian, - giống như là sóng cộng hưởng - cái nghiệp phước đang đợi ở bên ngoài sẽ ập đến đả xuyên màng dĩ thái ngăn cách là vậy.
Như vậy, luân xa chính là vậy.
Nhưng muốn giải thoát thì kiểu gì chúng ta cũng phải đi qua cái cánh cửa này
Mở ra thì chết - Như đã nói phía trên và ở thực tế chắc đầy ví dụ mà ai cũng đã biết về hậu quả mở luân xa lung tung.
Không mở ra thì khác gì: Nói là tu Đạo mà không biết cả cửa Đạo lẫn mở cửa Đạo
Luân xa số 7: Đừng nhắc đến vì nó giống như cánh cửa ngàn lớp - không bao giờ mở được trực tiếp cũng chẳng bao giờ đủn được nó rung rinh. Nó là quả, kết quả. Vốn dĩ nó là vậy, như vậy, như như, thường, nút và thực tế là không có ở thân ta. Luân xa số 7 giống như là thực. Mà ở thế giới này vốn là thế giới ảo thật, nên rõ ràng ở thế này, số 7 chính là ảo, không tác động được gì đâu. Chỉ thấy nó khi chúng ta thấy.
Cái nút nằm ở số 6. Tuy nhiên, chúng ta phải rõ 5 cái phía dưới. - Đối với Đạo Đức Thế Tôn: 6 cũng là một, cái một cũng không còn. Khi đó chỉ còn ánh sáng vô lượng màu ở số 7 thôi, mà có nhìn thấy vô lượng màu không? - Không! Vì sao? - Có ai nhìn ánh sáng trắng mà thấy các màu đỏ da cam vàng lục lam chàm tím không?
Mà ánh sáng trắng mới có 7 màu đã vậy thì ánh sáng chứa vô lượng màu là màu gì? Màu đen? Hay không màu? Hay gọi nó là không đi…
- Cái này để cho người thấy tự biết.
Luân xa số 1 màu đỏ! Số 2 màu da cam, số 3 màu vàng, số 4 màu lục, số 5 màu lam, số 6 màu chàm, số 7: màu của vô lượng màu - chứ không phải màu tím cũng không phải màu trắng dù số 7 ở thế gian này có 1 vài người thấy nó màu tím - nhưng không phải, màu của nó là màu của vô lượng màu.
Chúng ta phải giải quyết được mối liên hệ giữa biểu hiện của chúng ta ở thế giới (thân và tinh thần) với cái sự thường hằng của chính chúng ta. Vì lẽ nào lại có các lý như trong hệ thống giới kinh - vô thường, vô ngã, luân hồi.v.v.
Luân xa như một cái máy bơm đồng thời như 1 điểm kết nối với bên ngoài. Bình thường, sự kết nối của thân tâm ta với bên ngoài ( tạm gọi vậy) ở thế giới điên đảo này là thông qua cái gọi là luân xa này nhưng được ngăn cách bởi 1 màng, được gọi là màng ngăn vi tế. Như vậy, các luân xa ở trạng thái bình thường cũng không mở kết nối với bên ngoài. Nó đóng.
Tuy nhiên, dù ở trạng thái này, luân xa nó vẫn quay hay bơm hay chia cái năng lượng ở trong thân thể duy trì cái sự sống. Dù sự quay này là chậm chạp nhưng mỗi luân xa sẽ đều chia cái năng lượng sống này đến các bộ phận trên toàn cơ thể mà nó phụ trách.
Nói theo ngôn từ Đạo Đức Thế Tôn: Nghiệp ở đâu, lưu ở đâu, và nó phân chia thế nào mà: lúc thì cái chân sẽ bị quả nghiệp gãy, lúc thì cái mồm bị quả nghiệp loét, lúc thì cái dạ dày, cái ruột bị quả nghiệp bệnh hay cái trí bị quả nghiệp mệt.v.v. - sao không tập trung quả nghiệp vào 1 nơi thôi, rồi mình bỏ nó đi… như kiểu vào 1 chân rồi mình cắt nó đi - từ đây hết nghiệp..v.v.
Cơ chế phân phối quả nghiệp ra sao, mức độ nặng nhẹ mỗi lần thế nào và mức độ vượt qua cái quả nghiệp khi nó đến này ở mỗi người lại khác nhau, tại sao lại vậy? - ví dụ cùng là chịu 1 loại quả nghiệp cụ thể nào đó mà có người lại vượt qua được sớm, có người trầy trật, có người thì chìm đắm tạo thêm vô số nghiệp luôn…
Những điều này không hề đơn giản. Không có cái Quán đến một mức nhất định (công hạnh) thì dù có đọc thuộc hết Giới Kinh cũng không nói được rõ. Có nói cũng trở thành nói xuông.
Cơ chế phân phối nghiệp lực liên quan rất lớn đến hệ thống luân xa và cơ chế hoạt động của các luân xa.
Một sự thực: Người mà ảo tưởng sức mạnh bản thân quá mức, rồi bị loè bịp hay tự loè bịp mình đi mở luân xa (tự mình hay nhờ người mở giúp) . Dù nó là luân xa nào đi nữa thì: Khả năng nghiệp sớm muộn tập tới với cường độ bội phần
Họ không biết. Vừa quy cho việc mở luân xa bị ma nhập (mà cũng đúng nếu hiểu theo khái niệm tà ma ngoại đạo), vừa quy cho việc không biết cách mở luân xa.v..v
Tựu chung lại, nó không hề tốt - kể cả luân xa số 4 có được mở cũng không phải là chuyện tốt.
Bởi vì, thế gian mấy ai hiểu được nghiệp quả và các cơ chế hoạt động của nghiệp quả với các mối liên hệ cơ bản của nghiệp và thân và tinh thần và lực (tâm) …
Đức Thế Tôn trải qua bao lâu với những bất khả tư nghì của Ngài mới có thể tìm ra con đường mở luân xa 6 - con đường an toàn nhất dù chúng ta đã đọc các ma sự đều đã rõ: Nó cũng nguy hiểm thế nào khi thực tu… - Nhiều người ảo tưởng sức mạnh tới mức cho rằng bản thân “siêu đẳng” tu tập chỉ chịu qua mấy ma sự qua qua và đã sớm vượt qua hết chứng nọ chứng kia…- đều là đang vô minh cả.
Có nhiều người bị ảnh hưởng của luân xa 4. Quên cả việc mở luân xa 6 (trí tuệ). Bị luân xa 4 ảnh hưởng sẽ trở nên một nhà hoạt động cộng đồng - cứ nghĩ bản thân là Bồ Tát đang hành Bồ Tát Đạo nhưng đã chứng Bất Thối đâu, vì thế, khi mất thân là lại quay lại từ đầu - tất nhiên, nếu không coi bản thân là Bồ Tát mà làm được vậy thì phước báu (nghiệp) ở các đời sau vẫn hiện trở lại.
Tuy nhiên, đây vẫn là những người có phước.
Còn rất nhiều người, có khi lại đau khổ chỉ vì cái luân xa tim này hoạt động mở quá mức bị tập nghiệp.
***
Như vậy, sự đóng mở của các luân xa nó như một cái van để bơm hút nghiệp phước. Chiêu nghiệp chiêu phước.
Vì sao lại chiêu được? Vì sao lại bơm hút được? - Vì chúng ta đã tạo nhân duyên từ vô thỉ đời tới nay. Đến lúc này, đến thời điểm này, trạng thái này khi có 1 hợp duyên nữa xuất hiện đã đủ để hợp quả (hiện quả) thì cái gọi là nghiệp đó nó “giáng” xuống - tác động thông qua luân xa để vào thân tâm tinh thần để rồi hiện ra mà thôi.
Nói theo cách thế gian:
- Vì đâu có người ngu kẻ dốt đứa thông minh, kể cả trong 1 gia đình? - Theo Đạo Đức Thế Tôn: - Do tập nghiệp. - Cũng là do trạng thái luân xa. Vì sao? - Vì cùng được học, được dạy bảo, nuôi, môi trường như nhau mà vẫn khác nhau do cái nghiệp… cũng là do trạng thái luân xa mỗi người khác nhau.
Nhưng nếu ai đó lại cố tình muốn mở ra như vừa nói phía trên - cho bằng bạn bằng bè bằng anh bằng em thì… khả năng lại còn bị “ma hành” nặng hơn. Vì ai biết được cái nghiệp là gì là phước thiện hay ác ma? - bởi thế: Cái màng vi tế ngăn cách luân xa nó có tác dụng bảo vệ là vậy. Nó như cái van supap nồi hơi áp suất vậy. Đóng mở rách lành - trạng thái theo cường lực của tập nghiệp và tạo nghiệp hiện tại cũng như trạng thái hiện tại.
Vì thế, hệ thống luân xa là một tham chiếu cho mỗi người tu tập rất tốt. Căn cứ vào đây để thấy rằng: Bản thân phải trọng tu những điều gì rốt ráo hơn..
Chất kích thích và luân xa số 1 sẽ kích thích nhau. Khi luân xa số 1 quay mạnh nó sẽ tạo dòng hoả lực bốc lên kéo theo các luân xa khác ảnh hưởng và khả năng lớn là chiêu quả ngay ở tương lai rất gần hiện hữu luôn. Các quả nghiệp theo mối liên hệ này sẽ có thể liên miên tới nếu như hoả lực ở luân xa 1 mạnh.
Cũng như vậy, luân xa số 2, số 3,4,5
Sau khi bốc 1 vòng, dòng hoả lực lại đi xuống rồi lại đi lên - chúng ta cứ quay cuồng vậy.
Về mặt sự, không thể nào bít kín 1 luân xa dù thường thức như được giới thiệu rằng: Nó luôn đóng.
Tuy nhiên, đó là vì không hiểu hết cơ chế màng ngăn cách dĩ thái kiểu van supap thôi.
Ở thế giới có câu: Rậu đổ bìm leo là vậy. Đã gặp 1 chuyện lớn lớn kiểu gì cũng là vô số chuyện từ đâu ập tới… hoặc đã gặp vận gì đỏ đỏ lại cứ thấy khí vận liên miên một hồi…
Nhưng vật cùng tất phản. Không có gì là mãi. Sau khi áp lực giảm thì các van supap đều trở lại trạng thái bình thường. Có muốn cũng không đóng mở được.
Như vậy, chúng ta đã rất rõ về mặt cơ chế trên khía cạnh mối liên hệ lực (tập nghiệp quả, phước) đến bằng cách nào và kết thúc ra sao.
Màng ngăn cách dĩ thái có thể bị phá vỡ bởi:
Nội lực: Tức là tại đời hiện tại, vì sự ý chí và cố gắng, vì sự tìm cầu và nỗ lực, vì sự ham muốn và hành động, vì sự tác nghiệp của thân khẩu hay ý… vì cái được gọi là ta hiện tại mà thúc đẩy một màng ngăn dĩ thái của luân xa nào đó bị mở ra khiến cho những tập nghiệp phước lực được trở đến và hiện hữu (quả). Chính nó có thể kéo theo một dây chuyền phản ứng liên miên vì cái này nó chạy theo 3 vận hà cũng như luân tức là cứ chạy vòng mãi trong người để làm quay các luân xa tiếp sức cho nó cho đến khi hết.
Hoá ra nó như là thứ “nghiệp/phước/cơ” điều khiển ta vậy.
Ngoại lực: Đến thời điểm, nó tập thẳng vào màng dĩ thái ngăn cách và bảo vệ ta, làm khai mở luân xa thông qua đó tạo nên các kết quả hiện tiền.
Tuy nhiên, ngoai lực không thể tự nhiên tập đến trừ khi được chiêu cảm.
Cái gì chiêu cảm? - Cái năng lượng ở trong vận hà hay cái năng lượng ở trong thân tinh thần ta nó vẫn đang hàng ngày chạy vòng vòng vòng đó dù các màng dĩ thái ngăn cách với bên ngoài đóng thì nó vẫn chạy để duy trì sự sống và “ta” mà. Khi đến vị trí, địa điểm, thời gian, - giống như là sóng cộng hưởng - cái nghiệp phước đang đợi ở bên ngoài sẽ ập đến đả xuyên màng dĩ thái ngăn cách là vậy.
Như vậy, luân xa chính là vậy.
Nhưng muốn giải thoát thì kiểu gì chúng ta cũng phải đi qua cái cánh cửa này
Mở ra thì chết - Như đã nói phía trên và ở thực tế chắc đầy ví dụ mà ai cũng đã biết về hậu quả mở luân xa lung tung.
Không mở ra thì khác gì: Nói là tu Đạo mà không biết cả cửa Đạo lẫn mở cửa Đạo
Luân xa số 7: Đừng nhắc đến vì nó giống như cánh cửa ngàn lớp - không bao giờ mở được trực tiếp cũng chẳng bao giờ đủn được nó rung rinh. Nó là quả, kết quả. Vốn dĩ nó là vậy, như vậy, như như, thường, nút và thực tế là không có ở thân ta. Luân xa số 7 giống như là thực. Mà ở thế giới này vốn là thế giới ảo thật, nên rõ ràng ở thế này, số 7 chính là ảo, không tác động được gì đâu. Chỉ thấy nó khi chúng ta thấy.
Cái nút nằm ở số 6. Tuy nhiên, chúng ta phải rõ 5 cái phía dưới. - Đối với Đạo Đức Thế Tôn: 6 cũng là một, cái một cũng không còn. Khi đó chỉ còn ánh sáng vô lượng màu ở số 7 thôi, mà có nhìn thấy vô lượng màu không? - Không! Vì sao? - Có ai nhìn ánh sáng trắng mà thấy các màu đỏ da cam vàng lục lam chàm tím không?
Mà ánh sáng trắng mới có 7 màu đã vậy thì ánh sáng chứa vô lượng màu là màu gì? Màu đen? Hay không màu? Hay gọi nó là không đi…

Luân xa số 1 màu đỏ! Số 2 màu da cam, số 3 màu vàng, số 4 màu lục, số 5 màu lam, số 6 màu chàm, số 7: màu của vô lượng màu - chứ không phải màu tím cũng không phải màu trắng dù số 7 ở thế gian này có 1 vài người thấy nó màu tím - nhưng không phải, màu của nó là màu của vô lượng màu.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Như vậy, chúng ta rất rõ - những người ở trong Đạo Đức Thế Tôn: 5 Luân xa đầu là không đụng tới, luân xa 7 càng bỏ qua.
Chúng ta chỉ có một: Pháp chuyển luân hay Chuyển pháp luân hay Luân chuyển pháp hay chuyển luân pháp. Chỉ có 1 - luân duy nhất.
Để chuyển được cái luân này thì ai cũng rõ: Đây là tu cái gọi là tinh thần hay cái gọi là tâm mà mọi người hay nhầm. Còn ở trong tập luận này, tôi có nói rõ, tâm là cái bao gồm cả hàm nghĩa thân và tinh thần.
Chúng ta không thể nào chỉ tu một cái tinh thần - tức là mở cái luân số 6.
Tôi không biết về thực tế, trong nhiều năm trước tới nay, có bao nhiêu người ở thế gian này đã thực chứng rằng: Họ mở ra luân 6 xong sớm muộn cảm thấy: Nguy hiểm và gặp tập nghiệp - nào có thấy ai giải thoát hay thành đấng nào, có ai trí tuệ mở ra đến mức thích biết cái gì là tự biết tự thấy nó tự đến…
Vì sao?
- Vì Đạo Đức Thế Tôn đâu có phải tu nguyên cái luân 6 - mở ra là trí tuệ vô biên, vô lượng, thích gì biết nấy…
Mở luân 6 chắc chắn nguy hiểm hơn 5 luân phía trước, bởi sao? - Bởi vì luân 6 là luân ở phía trên thân, tượng trưng cho thông linh, tượng trưng cho phàm - thánh, tượng trưng cho nhân - thần. Tượng trưng cho giới gian, cách biệt.
Dòng vận hà (hay dòng lực năng lượng sống) chảy trong thân thực tế là bị ngắt ở phía sau ót. Khí nó đến đó là “bốc hoả” .
Bình thường Dòng này chạy “ảo” theo phong cách: Từ đỉnh đầu còn hay gọi là huyệt bách hội chạy thẳng xuống theo vận hà giữa xuống đến giữa hậu môn và cơ quan sinh dục tách ra làm 2 lại chạy lên, hội tụ lại đỉnh đầu và lại đi xuống…. Cứ vậy.
Đây là kênh lực chính. Trên đường chạy, đến các vị trí luân thì cái điểm này như một cái bánh xe, chia cái lực này một phần vào các nhánh kênh (kinh) phụ mà thuộc khu vực chức năng của nó để duy trì sự sống cơ thể (ta).
Cùng với huyết mạch, hệ thống này tạo nên hệ thống kinh lạc khắp cơ thể. Tuy nhiên ở đây, tôi không bàn về y học hay đông y hay huyết mạch. Chúng ta chỉ tập trung thứ kinh lạc do các luân này tham gia.
Như vậy, luân ở đây, đóng vai trò như tim trong hệ tuần hoàn.
Nhưng tim này là tim hở, có thể kết nối với (bên ngoài - tạm gọi vậy) và sự ngăn cách với bên ngoài là màng ngăn vi tế. Kinh lạc, chúng ta chỉ quan tâm 3 vận hà chính - tức là 3 mạch chính. Một mạch dẫn xuống, 2 mạch dẫn lên và tuần hoàn nhau như vậy.
Bây giờ chúng ta đã hiểu: Tim bơm thứ gì cho cơ thể và nó lấy, thải từ đâu (từ phổi, dạ ruột, gan, thận..v.v ) thì hệ thống luân xa cũng như vừa nói:
Thứ này lấy do cơ chế đóng mở supap với bên ngoài ở vị trí các luân. Và chính nó cũng “thải” ra bên ngoài các thứ được gọi là “ký nghiệp/phước” đợi chờ được nhận lại ở tương lai.
Thứ chỉ huy cả tim đập lẫn “supap” luân này: chính là cái được tôi gọi ở tập luận đây CƠ
Như vậy, luân số 7 không tham gia vào quá trình này, luân số 6 cũng vậy. Ban đầu, thứ “kinh lạc” vận hà này lên đầu và đi xuống là ở vị trí huyệt bách hội. Đây không phải vị trí luân 7. Luân 6 đóng kín thì cũng không tham gia vào quá trình “bình thường” này.
Bởi thực tế, dòng vận hà hệ thống luân đã bị “giới gian” ngăn cách ở ngay sau ót giữa luân số 5 và 6.
Ảo là vậy.
Như vậy, tinh thần và thân ở thế giới này đã được nhìn thấy rất rõ qua việc giới gian ngăn cách đứt đoạn dòng vận hà giữa 5 luân đầu và 2 luân cuối trên đầu.
Nếu chỉ mở luân 6 - không thể nào đạt kết quả Đạo Đức Thế Tôn.
Tuy nhiên, lại không đụng mở đến 5 luân đầu tiên được. Chúng ta phải bảo vệ và tu tập nó.
Người bình thường: Màng ngăn cách dĩ thái của 5 luân đầu tiên là thủng lỗ chỗ, rách tả tơi, lúc tan tành, lúc chữa lành.v.v.v
Chính vì thế, nên tham sân si mạn nghi , dục lạc dục hỉ.v.v. Đủ cả - Như tất cả chúng ta bây giờ.
Mở thì có vẻ dễ? - Thấy nhiều người nhiều chục năm nay đã trải qua thực tế?
Đóng, nói là đóng, có khó? - Chả có ai biết đóng dù khả năng họ bảo họ mở ra được.
Không đóng được đâu. Tất nhiên, trong Đạo Đức Thế Tôn thì mở hay đóng thì các màng dĩ thái này cũng như nhau (màng của 5 luân đầu): Đều rách tả tơi và đều cần bảo vệ cả bởi vốn dĩ nó như cái van vậy, chúng ta chỉ bảo vệ (GIỚI) được chứ không thể bịt kín được. Sau này nó cũng sẽ tự mở khi mở luân 6.
Phải hạ hoả! Đừng cho nó “cuồng nộ” lên, vì nguyên lý dòng chảy ai cũng rõ: chảy càng mạnh hay áp lực càng lớn thì lực tác dụng vào thành càng nhiều - như vậy thì mang ngăn cách dĩ thái càng dễ rách mở.
Chảy nhẹ, càng nhẹ càng tốt.
Không chết được đâu. Sống chết có số. Nếu như ngăn được cái dòng này chảy theo ý chí, khác gì chỉ còn cách tự chết. - giống như tự bảo tim đừng đập vậy.
Rất rõ ràng: Với 1 người ở xã hội bình thường, không tu Đạo thì rất rõ: Cần cái dòng này chảy càng mạnh càng tốt. Nó là dòng đem đến tất cả mà nó chảy lừ đừ thì khác gì một cuộc đời hẩm hiu, và sự thực ở thế giới điên đảo này là vậy: Dòng này càng lừ đừ yếu thì cuộc đời người này càng yếu từ thân thể tới tinh thần, mọi thứ… tức là không thể thấy được dục lạc, dục hỉ… chỉ thấy thọ khổ là nhiều, đau khổ là lắm.v.v.
Nhưng người thực hành Đạo Đức Thế Tôn thì sao? - Thì quá tốt để chúng ta tu tập đạt được kết quả rốt ráo.
Như vậy, tu thân chính là việc bảo vệ 5 luân này, giới 5 cái luân này, không cho nó hoạt động rách rưới, thủng lỗ chỗ, mở ra, bị xung kích, bị hoả thiêu..v.v.
Vậy, chúng ta sẽ sớm chết? - Không có dòng này thì chả chết?
- Không! Trước khi “viện binh” từ luân số 6 được mở ra thì để đảm bảo thân sống còn tu , lực này đến từ việc: Duy trì luân số 4.
Luân số 4 không phải chỉ là tình yêu đại đồng, tình yêu nhân loại - Trên một khía cạnh nào đó, nó còn mang ý nghĩa: Hữu tình hay Bồ Tát. Thứ này, sớm muộn sau này người tu cũng phải Giác, hay như đã nói, cấp Giác Hữu Tình (Cấp Bồ Tát).
Việc chưa cần biết luân 6,7 thông linh, thiên giới, màu mè ra sao. Luân số 4 hoạt động tốt thì người này đã luôn có 1 cuộc sống ở đời tốt rồi. Dù người thực hành Đạo Đức Thế Tôn sẽ không thể chìm vào luân 4 này nhưng việc tu tập tâm từ, tâm bi luôn luôn bắt đầu từ những ngày đầu tiên ở bước đường “trở về” là vậy.
Luân số 4 hoạt động đủ để cung cấp “phước” cho người thực hành dù sẽ bảo vệ nghiêm ngặt 4 luân còn lại, không buông lung.
Bắt buộc phải làm cho “sự xung động” của 5 luân này trở về một trạng thái xung động ổn định với nguồn lực được tiếp từ luân tim. 4 luân kia phải về trạng thái càng bít càng tốt.
Phải tạo ra 1 màng dĩ thái thật dày đặc. Lực lượng từ luân 4 rót vào phải ở trạng thái chỉ đủ để duy trì sống thân chứ không cho xao động đến mức phá màng dĩ thái của các luân khác.
Đây chính là Giới hạnh cụ túc trong hệ thống giới kinh. Như sa môn quả, như 13 hạnh đầu đà, như 5 giới luật cơ bản - đều hướng đến kết quả: Tạo lập việc bít màng dĩ thái của 4 luân và điều tiết màng dĩ thái luân 4.
Quá trình tu tập gọi là: Bình ổn tâm
Còn tên gọi của nó: Cụ túc giới hạnh
Phải có được hạnh này mới nói đến chuyện mở luân 6.
Còn lại, không có điều trên (giới hạnh cụ túc) thì dù có mở luân 6 ra cũng không thể đạt kết quả Phật và hậu quả ai cũng đã thấy.
Đến đây, chúng ta cũng đã rõ: Đi bằng phương tiện nào: Tu theo sa môn quả (cắt tóc xuất gia) - 25 giới hạnh cơ bản hay hạnh đầu đà (13 hạnh cơ bản) hay thực tập Bồ Tát Đạo (5 giới cơ bản)… hay mọi phương tiện khác, đều phải đạt được đức: Giới hạnh cụ túc của phương tiện đó. Không đạt được thì làm sao vào cửa Đạo được.
Chứng, trú ở đây: Ngoài luân số 4, các luân kia gần như là dừng, được thủ hộ đầy đủ:
1/ Không thấy còn bị kích thích bởi bất cứ thứ gì nữa: Luân số 1 ổn
2/ Không còn một mong muốn hay cầu muốn gì nữa: Luân số 3 ổn
3/ Không còn tình dục: Luân số 2 ổn
4/ Cảm thấy nói là điều vô bổ (pháp nói) và cũng không còn muốn nói để tác cái gì trên thế gian này nữa. Tất nhiên, không câm nhưng tịnh khẩu như cốc hay nương theo cảnh như Đức Thế Tôn: “Cả đời ta từ khi thành Đạo chưa nói 1 lời” - Luân số 5 ổn
5/ Biết rõ: Ta vẫn là con người. Một con người phàm phu tục tử. Một con người nhỏ bé dù 4 điều trên ta đã thấy rõ nhưng không vì thế mà thọ khổ, thọ sầu bi, thọ lạc, thọ không khổ không lạc. Với trái tim của con người, dòng máu vẫn chảy. Ta là một con người bình thường, thật bình thường, không là gì cũng không không là gì... - Luân số 5 ổn.
Lúc này, với giới hạnh cụ túc này, chúng ta mới HÀNH CÔNG
Bây giờ mới là vận công, dụng công, hành công, Đánh vào cửa Đạo. Dù thời gian để đạt được giới hạnh cụ túc - bằng bất cứ phương tiện gì (cách thức nào) - có thể là rất lâu. Rất nhiều chục năm tu tập đấy.
Phải thực sự có NHẪN mới thực tập được ra giới hạnh cụ túc. Mới nhận thấy giới hạnh cụ túc - chứ không phải là “hoang tưởng” tự cho là đã đạt hay tu tập theo kiểu: Không đường không lối không mục đích mục tiêu kết quả.
Đường là phải đi. Chỉ có đi đường mới tới đích. Không có 1 phương thức nào mà không đi đường mà lại tới đích. Mà đường, dịch theo tiếng Hán Việt cũng tên là ĐẠO.
Nên phải nhẫn. Minh mà vẫn phải nhẫn. Giác ngộ rồi mà vẫn phải nhẫn. Vì tu chính là đi đường, tu chính là sửa những thứ “cái tôi ở thế giới này” sửa thành “Tâm chân như thường hằng giải thoát”… dù là với mục tiêu nào, cách thức nào thì: Để có quả, duyên thời gian là không thể thiếu, đúng rõ đường cũng vậy, giác ngộ trực chỉ thẳng cũng thế. Đều phải cần Nhẫn.
Việc hành công mở cửa Đạo là rất quan trọng nên không thể nào chuẩn bị qua qua quýt quýt muốn nhanh nhanh chóng chóng “giải thoát”. Làm gì có chuyện dễ vậy.
Cũng đừng nghe “tà ma” đến mức: Phật là bỏ hết, buông bỏ hết…. Không có gì mang theo được… câu nói thì ở 1 văn cảnh nhất định nào đó nhưng lại biến thành 1 phương châm: Không chuẩn bị gì để vào cửa Đạo hoặc là biến chính nó thành phương tiện: Tu quên hết tất cả, quên luôn cả bản thân, tu thành điên điên khùng khùng (vì khi mở luân 6 ra là không còn cơ hội chuẩn bị nữa rồi)
Chúng ta chỉ có một: Pháp chuyển luân hay Chuyển pháp luân hay Luân chuyển pháp hay chuyển luân pháp. Chỉ có 1 - luân duy nhất.
Để chuyển được cái luân này thì ai cũng rõ: Đây là tu cái gọi là tinh thần hay cái gọi là tâm mà mọi người hay nhầm. Còn ở trong tập luận này, tôi có nói rõ, tâm là cái bao gồm cả hàm nghĩa thân và tinh thần.
Chúng ta không thể nào chỉ tu một cái tinh thần - tức là mở cái luân số 6.
Tôi không biết về thực tế, trong nhiều năm trước tới nay, có bao nhiêu người ở thế gian này đã thực chứng rằng: Họ mở ra luân 6 xong sớm muộn cảm thấy: Nguy hiểm và gặp tập nghiệp - nào có thấy ai giải thoát hay thành đấng nào, có ai trí tuệ mở ra đến mức thích biết cái gì là tự biết tự thấy nó tự đến…
Vì sao?
- Vì Đạo Đức Thế Tôn đâu có phải tu nguyên cái luân 6 - mở ra là trí tuệ vô biên, vô lượng, thích gì biết nấy…
Mở luân 6 chắc chắn nguy hiểm hơn 5 luân phía trước, bởi sao? - Bởi vì luân 6 là luân ở phía trên thân, tượng trưng cho thông linh, tượng trưng cho phàm - thánh, tượng trưng cho nhân - thần. Tượng trưng cho giới gian, cách biệt.
Dòng vận hà (hay dòng lực năng lượng sống) chảy trong thân thực tế là bị ngắt ở phía sau ót. Khí nó đến đó là “bốc hoả” .
Bình thường Dòng này chạy “ảo” theo phong cách: Từ đỉnh đầu còn hay gọi là huyệt bách hội chạy thẳng xuống theo vận hà giữa xuống đến giữa hậu môn và cơ quan sinh dục tách ra làm 2 lại chạy lên, hội tụ lại đỉnh đầu và lại đi xuống…. Cứ vậy.
Đây là kênh lực chính. Trên đường chạy, đến các vị trí luân thì cái điểm này như một cái bánh xe, chia cái lực này một phần vào các nhánh kênh (kinh) phụ mà thuộc khu vực chức năng của nó để duy trì sự sống cơ thể (ta).
Cùng với huyết mạch, hệ thống này tạo nên hệ thống kinh lạc khắp cơ thể. Tuy nhiên ở đây, tôi không bàn về y học hay đông y hay huyết mạch. Chúng ta chỉ tập trung thứ kinh lạc do các luân này tham gia.
Như vậy, luân ở đây, đóng vai trò như tim trong hệ tuần hoàn.
Nhưng tim này là tim hở, có thể kết nối với (bên ngoài - tạm gọi vậy) và sự ngăn cách với bên ngoài là màng ngăn vi tế. Kinh lạc, chúng ta chỉ quan tâm 3 vận hà chính - tức là 3 mạch chính. Một mạch dẫn xuống, 2 mạch dẫn lên và tuần hoàn nhau như vậy.
Bây giờ chúng ta đã hiểu: Tim bơm thứ gì cho cơ thể và nó lấy, thải từ đâu (từ phổi, dạ ruột, gan, thận..v.v ) thì hệ thống luân xa cũng như vừa nói:
Thứ này lấy do cơ chế đóng mở supap với bên ngoài ở vị trí các luân. Và chính nó cũng “thải” ra bên ngoài các thứ được gọi là “ký nghiệp/phước” đợi chờ được nhận lại ở tương lai.
Thứ chỉ huy cả tim đập lẫn “supap” luân này: chính là cái được tôi gọi ở tập luận đây CƠ
Như vậy, luân số 7 không tham gia vào quá trình này, luân số 6 cũng vậy. Ban đầu, thứ “kinh lạc” vận hà này lên đầu và đi xuống là ở vị trí huyệt bách hội. Đây không phải vị trí luân 7. Luân 6 đóng kín thì cũng không tham gia vào quá trình “bình thường” này.
Bởi thực tế, dòng vận hà hệ thống luân đã bị “giới gian” ngăn cách ở ngay sau ót giữa luân số 5 và 6.
Ảo là vậy.
Như vậy, tinh thần và thân ở thế giới này đã được nhìn thấy rất rõ qua việc giới gian ngăn cách đứt đoạn dòng vận hà giữa 5 luân đầu và 2 luân cuối trên đầu.
Nếu chỉ mở luân 6 - không thể nào đạt kết quả Đạo Đức Thế Tôn.
Tuy nhiên, lại không đụng mở đến 5 luân đầu tiên được. Chúng ta phải bảo vệ và tu tập nó.
Người bình thường: Màng ngăn cách dĩ thái của 5 luân đầu tiên là thủng lỗ chỗ, rách tả tơi, lúc tan tành, lúc chữa lành.v.v.v
Chính vì thế, nên tham sân si mạn nghi , dục lạc dục hỉ.v.v. Đủ cả - Như tất cả chúng ta bây giờ.
Mở thì có vẻ dễ? - Thấy nhiều người nhiều chục năm nay đã trải qua thực tế?
Đóng, nói là đóng, có khó? - Chả có ai biết đóng dù khả năng họ bảo họ mở ra được.
Không đóng được đâu. Tất nhiên, trong Đạo Đức Thế Tôn thì mở hay đóng thì các màng dĩ thái này cũng như nhau (màng của 5 luân đầu): Đều rách tả tơi và đều cần bảo vệ cả bởi vốn dĩ nó như cái van vậy, chúng ta chỉ bảo vệ (GIỚI) được chứ không thể bịt kín được. Sau này nó cũng sẽ tự mở khi mở luân 6.
Phải hạ hoả! Đừng cho nó “cuồng nộ” lên, vì nguyên lý dòng chảy ai cũng rõ: chảy càng mạnh hay áp lực càng lớn thì lực tác dụng vào thành càng nhiều - như vậy thì mang ngăn cách dĩ thái càng dễ rách mở.
Chảy nhẹ, càng nhẹ càng tốt.
Không chết được đâu. Sống chết có số. Nếu như ngăn được cái dòng này chảy theo ý chí, khác gì chỉ còn cách tự chết. - giống như tự bảo tim đừng đập vậy.
Rất rõ ràng: Với 1 người ở xã hội bình thường, không tu Đạo thì rất rõ: Cần cái dòng này chảy càng mạnh càng tốt. Nó là dòng đem đến tất cả mà nó chảy lừ đừ thì khác gì một cuộc đời hẩm hiu, và sự thực ở thế giới điên đảo này là vậy: Dòng này càng lừ đừ yếu thì cuộc đời người này càng yếu từ thân thể tới tinh thần, mọi thứ… tức là không thể thấy được dục lạc, dục hỉ… chỉ thấy thọ khổ là nhiều, đau khổ là lắm.v.v.
Nhưng người thực hành Đạo Đức Thế Tôn thì sao? - Thì quá tốt để chúng ta tu tập đạt được kết quả rốt ráo.
Như vậy, tu thân chính là việc bảo vệ 5 luân này, giới 5 cái luân này, không cho nó hoạt động rách rưới, thủng lỗ chỗ, mở ra, bị xung kích, bị hoả thiêu..v.v.
Vậy, chúng ta sẽ sớm chết? - Không có dòng này thì chả chết?
- Không! Trước khi “viện binh” từ luân số 6 được mở ra thì để đảm bảo thân sống còn tu , lực này đến từ việc: Duy trì luân số 4.
Luân số 4 không phải chỉ là tình yêu đại đồng, tình yêu nhân loại - Trên một khía cạnh nào đó, nó còn mang ý nghĩa: Hữu tình hay Bồ Tát. Thứ này, sớm muộn sau này người tu cũng phải Giác, hay như đã nói, cấp Giác Hữu Tình (Cấp Bồ Tát).
Việc chưa cần biết luân 6,7 thông linh, thiên giới, màu mè ra sao. Luân số 4 hoạt động tốt thì người này đã luôn có 1 cuộc sống ở đời tốt rồi. Dù người thực hành Đạo Đức Thế Tôn sẽ không thể chìm vào luân 4 này nhưng việc tu tập tâm từ, tâm bi luôn luôn bắt đầu từ những ngày đầu tiên ở bước đường “trở về” là vậy.
Luân số 4 hoạt động đủ để cung cấp “phước” cho người thực hành dù sẽ bảo vệ nghiêm ngặt 4 luân còn lại, không buông lung.
Bắt buộc phải làm cho “sự xung động” của 5 luân này trở về một trạng thái xung động ổn định với nguồn lực được tiếp từ luân tim. 4 luân kia phải về trạng thái càng bít càng tốt.
Phải tạo ra 1 màng dĩ thái thật dày đặc. Lực lượng từ luân 4 rót vào phải ở trạng thái chỉ đủ để duy trì sống thân chứ không cho xao động đến mức phá màng dĩ thái của các luân khác.
Đây chính là Giới hạnh cụ túc trong hệ thống giới kinh. Như sa môn quả, như 13 hạnh đầu đà, như 5 giới luật cơ bản - đều hướng đến kết quả: Tạo lập việc bít màng dĩ thái của 4 luân và điều tiết màng dĩ thái luân 4.
Quá trình tu tập gọi là: Bình ổn tâm
Còn tên gọi của nó: Cụ túc giới hạnh
Phải có được hạnh này mới nói đến chuyện mở luân 6.
Còn lại, không có điều trên (giới hạnh cụ túc) thì dù có mở luân 6 ra cũng không thể đạt kết quả Phật và hậu quả ai cũng đã thấy.
Đến đây, chúng ta cũng đã rõ: Đi bằng phương tiện nào: Tu theo sa môn quả (cắt tóc xuất gia) - 25 giới hạnh cơ bản hay hạnh đầu đà (13 hạnh cơ bản) hay thực tập Bồ Tát Đạo (5 giới cơ bản)… hay mọi phương tiện khác, đều phải đạt được đức: Giới hạnh cụ túc của phương tiện đó. Không đạt được thì làm sao vào cửa Đạo được.
Chứng, trú ở đây: Ngoài luân số 4, các luân kia gần như là dừng, được thủ hộ đầy đủ:
1/ Không thấy còn bị kích thích bởi bất cứ thứ gì nữa: Luân số 1 ổn
2/ Không còn một mong muốn hay cầu muốn gì nữa: Luân số 3 ổn
3/ Không còn tình dục: Luân số 2 ổn
4/ Cảm thấy nói là điều vô bổ (pháp nói) và cũng không còn muốn nói để tác cái gì trên thế gian này nữa. Tất nhiên, không câm nhưng tịnh khẩu như cốc hay nương theo cảnh như Đức Thế Tôn: “Cả đời ta từ khi thành Đạo chưa nói 1 lời” - Luân số 5 ổn
5/ Biết rõ: Ta vẫn là con người. Một con người phàm phu tục tử. Một con người nhỏ bé dù 4 điều trên ta đã thấy rõ nhưng không vì thế mà thọ khổ, thọ sầu bi, thọ lạc, thọ không khổ không lạc. Với trái tim của con người, dòng máu vẫn chảy. Ta là một con người bình thường, thật bình thường, không là gì cũng không không là gì... - Luân số 5 ổn.
Lúc này, với giới hạnh cụ túc này, chúng ta mới HÀNH CÔNG
Bây giờ mới là vận công, dụng công, hành công, Đánh vào cửa Đạo. Dù thời gian để đạt được giới hạnh cụ túc - bằng bất cứ phương tiện gì (cách thức nào) - có thể là rất lâu. Rất nhiều chục năm tu tập đấy.
Phải thực sự có NHẪN mới thực tập được ra giới hạnh cụ túc. Mới nhận thấy giới hạnh cụ túc - chứ không phải là “hoang tưởng” tự cho là đã đạt hay tu tập theo kiểu: Không đường không lối không mục đích mục tiêu kết quả.
Đường là phải đi. Chỉ có đi đường mới tới đích. Không có 1 phương thức nào mà không đi đường mà lại tới đích. Mà đường, dịch theo tiếng Hán Việt cũng tên là ĐẠO.
Nên phải nhẫn. Minh mà vẫn phải nhẫn. Giác ngộ rồi mà vẫn phải nhẫn. Vì tu chính là đi đường, tu chính là sửa những thứ “cái tôi ở thế giới này” sửa thành “Tâm chân như thường hằng giải thoát”… dù là với mục tiêu nào, cách thức nào thì: Để có quả, duyên thời gian là không thể thiếu, đúng rõ đường cũng vậy, giác ngộ trực chỉ thẳng cũng thế. Đều phải cần Nhẫn.
Việc hành công mở cửa Đạo là rất quan trọng nên không thể nào chuẩn bị qua qua quýt quýt muốn nhanh nhanh chóng chóng “giải thoát”. Làm gì có chuyện dễ vậy.
Cũng đừng nghe “tà ma” đến mức: Phật là bỏ hết, buông bỏ hết…. Không có gì mang theo được… câu nói thì ở 1 văn cảnh nhất định nào đó nhưng lại biến thành 1 phương châm: Không chuẩn bị gì để vào cửa Đạo hoặc là biến chính nó thành phương tiện: Tu quên hết tất cả, quên luôn cả bản thân, tu thành điên điên khùng khùng (vì khi mở luân 6 ra là không còn cơ hội chuẩn bị nữa rồi)
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Tôi nhắc lại một lần nữa: Trong tập luận này: Những điều nói ở đây, không thể và không thể được coi là một lộ trình hay phương thức nào đó. Mọi thứ về Đạo Đức Thế Tôn chỉ có ở hệ thống Giới Kinh. Những điều nói ở đây chỉ nên được là những câu chuyện thế gian, nó không phải là 1 hệ thống hay cách thức phương tiện tu tập cụ thể nào. Nên như vậy…
Hành công phá cửa Đạo
Với giới hạnh cụ túc đầy đủ, với trí tuệ thế gian đầy đủ, người thực tập Đạo Đức Thế Tôn đã thấy được cửa vào Đạo. Bắt đầu hành công phá cửa Đạo.
Lưu ý: Sự chuẩn bị về giới hạnh và trí tuệ là một sự chuẩn bị lâu dài bền bỉ và không thể nào thiếu được sự kiên trì nhẫn nại và nhẫn nhục - thực tế rồi ai cũng thấy nếu như khi thực chứng thực tu dù bằng phương tiện nào, cách thức nào. Thời gian có thể rất rất lâu dài (tuỳ vào căn cơ tập nghiệp phước báo của mỗi người) mà thời gian này có thể nhiều đời, hiện đời, nhiều năm, ít năm.
Khi nào đã thấy 2 thứ: Giới hạnh cụ túc đầy đủ. Trí tuệ thế gian cụ túc đầy đủ (thể hiện bằng pháp Quán công lực, hiệu quả thế nào, pháp tuỳ ra sao, pháp tác thế nào).
Với sự đầy đủ này, người thực tập bắt đầu hành công vào Đạo. Tốt nhất là phải có tĩnh thất riêng biệt, độc cư.v.v.
Việc lựa chọn địa điểm hành công cũng rất quan trọng. Không được nóng vội và lựa chọn bừa.
Nơi có nhân khí vượng là phải tránh xa. Nhân khí vượng thì linh khí yếu. Đến khi hành công thế này rồi mà còn không tự thông được nhân khí vượng là gì, linh khí vượng là gì thì cần phải thực sự quán lại bản thân xem cái trí tuệ thế gian đã chuẩn bị đủ chưa?
Đức Thế Tôn là một người có vô lượng trí tuệ, không những thế còn có vô thượng trí tuệ. Trước khi thành Đạo, Ngài cũng chỉ có 1 cái đầu và 1 bộ óc, một con người. Điều này, một sự thực (Phật Bảo) hiện chờ chờ trước mặt: Không thể nào dùng một trí tuệ thiếu sót mà vào Đạo được. Không thể nào bảo: Tôi ở trên đỉnh một toà nhà (xem kinh sa môn quả) - mà lại không đi qua các tầng nhà phía dưới. Chỉ có người ảo tưởng, huyễn hoặc, mơ mộng, mê tín mới cho rằng: Bay thẳng 1 cái là lên đỉnh toà nhà.
Bởi thế: Làm gì có chuyện vô thượng trí tuệ (trí tuệ giải thoát) và vô lượng trí tuệ Thế Gian Giải - cái gì cũng biết, pháp gì cũng biết, chân tơ kẽ tóc mọi thứ đều rõ cả … mà lại: Không có trí tuệ thế gian
Có trí tuệ thế gian nhưng không phải để khoe, để mở 5 luân xa dưới hay để mưu cầu dục lạc, dục hỉ và các tham cầu ngũ dục ở thế gian. Nhưng phải có đủ trí tuệ thế gian để phá vào cửa Đạo.
Trí tuệ thế gian chỉ đến khi QUÁN. Việc thực tập thân (tu 5 luân xa đạt thân ổn định) - giới hạnh cụ túc phải đi cùng với việc thực tập Quán (ở đây, thế gian nên gọi là Quán tưởng). Nó chỉ đến, khi kiên trì thực tập Quán này, và kiên trì, kiên trì thực tập… trí tuệ thế gian nó mới chất lên, mới có… chính nó mới biến đổi từ lượng sang chất thành trí tuệ xuất thế gian - thứ Quán Thấy - hay minh giải thoát.
Nếu không tu tập thân, không giới hạnh. Cái trí tuệ thế gian chỉ khiến cho người thực tập có một cái bản ngã, cái tôi to đùng, khinh rẻ thiên hạ, khinh rẻ người khác kém hơn bản thân.
Sự thực là như vậy.
Nên nhiều người không có hạnh giới, không tu tập thân thì thấy - khi mở mang trí tuệ nó làm bản ngã của mình to lên bèn phết quyết: Trí thế gian vô dụng. . . Nên mới không bao giờ đi đến quả Phật dù khả năng công thẳng luân 6.
Đến đây, chúng ta đã rất rõ: Chúng ta gọi là luân 6 là gọi theo cách nhiều người biết về luân xa. Còn chúng ta không biết về luân xa nhưng chúng ta gọi cái này là cửa Đạo. Chúng ta gọi nó là điểm Đạo. Chúng ta gọi là đột phá. Chúng ta gọi nó là minh. Chúng ta gọi nó là vào định. Chúng ta gọi nó là điểm đột phá.v..vv. - bằng tên gì cũng được, đâu có phân biệt - khi biết được rõ thế này cũng là trí thế gian (trí thế gian thôi chứ chưa là trí giải thoát đâu). Chúng ta thấy rõ hết cả thế gian họ nói lên điều gì bằng ngôn từ gì - chúng ta đều thấy: bản chất. Đây là trí, vẫn chỉ là trí tiệm cận, chưa biến chất.
Như vậy, rất rõ, ngôn từ hay kể cả hình sắc hay nhiều cái khác nữa… chúng ta đã không cần phân biệt mà vẫn biết, vẫn hiểu, vẫn thấy: Thế mà vẫn chỉ là trí thế gian. Chứ chưa nói đến việc, chúng ta dùng pháp nói, nói ra… nó đã biến đổi thêm n lần và hoàn toàn là thế gian điên đảo rồi…
Không phải không phân biệt, vô niệm là trở thành 1 người “ngơ”, không ghi nhớ cái gì, không phân biệt được cái gì với cái gì luôn luôn tự kỷ ám thị đến mức cho rằng: Gì gì cái gì cũng như nhau và đều là ảo hết, không hết, không gì hết.v.v. và cho rằng đây là: tu đến không phân biệt.
Càng tu thì cái trí phải càng mở ra, thấy rõ hết và khi tiếp cận vô lượng trí thế gian là đã đến mức: Không cần lấy ra để quán thì thôi chứ nếu cần lấy ra để quán là nó dường như tự tuôn ra - dù ở đâu không cần biết. Nhưng dính mắc vào không? - Nếu chúng ta chấp vào trí, chấp vào cái này - chúng ta chết luôn. Chết ở đây mang hàm nghĩa trong Đạo Đức Thế Tôn.( Sinh thành hoạt diệt) - luân hồi vô lượng luôn.
Làm gì có nhớ và quên nữa. .
Khi tự thấy đến trí thế gian bản thân tiếp cận tới điều này tức là: Khả năng đã tiếp cận cụ túc - hay ít nhất là đã đủ dùng.
Vì bản chất: Không phải là nhớ, cũng không phải là suy luận, cũng không phải là đúng hay sai, thô hay tinh. Cái chính đó là: Quên và nhớ
Như đã được biết: Biên giới sâu cạn của tưởng ấm đó là quên và nhớ. (Biên giới của sắc ấm là sắc và không, biên giới của thọ ấm là chạm và lìa, biên giới của hành ấm là sinh và tử, biên giới của thức ấm là (hoà tan với hoà tan..))
Trí thế gian hay trí liên quan mật thiết tới cái tưởng ấm, hay tiềm thức, hay tưởng hay thứ mà mọi người vẫn tưởng.
Chúng ta bảo 1 người kém trí tức là người này cái gì cũng không biết hoặc không hiểu biết nhiều… điều này ở trong Đạo Đức Thế Tôn gọi là quên. Dù 1 người chỉ loanh quanh ở trong 1 căn nhà, không tiếp xúc với xã hội, không học hành gì mấy, không đọc mấy, chẳng nghe mấy, cũng không xem không nhìn thế giới mấy.v.v. Không tương tác xã hội ở đời mấy… - Chúng ta biết rất rõ người này ở thế được gọi là kém trí… họ có học hay tiệp cận cái gì đâu mà lại gọi họ là quên?
Nhưng đấy là họ quên thôi - dù đời này họ tiếp xúc rất ít, dường như nói cái gì cũng không biết vì có được tiếp xúc, được học đâu. . Sao gọi là quên được? Phải gọi là không hiểu biết hay không có trí tuệ/thông minh chứ…v.v - Không phải.
Biên giới của tưởng ấm là: Quên và nhớ.
Có khi cái người vừa nhắc kia họ đã đến thế giới này, vũ trụ này lâu hơn ta vô lượng kiếp, mà ta có khi đã luân hồi ở thế giới này cũng vô lượng kiếp rồi… họ quên, không ai hơn trí ai đâu (dù đang gọi là trí thế gian). Chúng ta cũng quên.
Vì tưởng ấm.
Chỉ khi bắt đầu hiểu (quán) được về những điều này là do quên và nhớ của tưởng thức chứ không phải do học và đọc sách nghe sách như chúng ta đang nghĩ…
Chúng ta mới biết và mới thấy (tức dùng được) - cái trí thế gian này đến từ đâu.
Chứ không phải ở đời này chúng ta học, đọc..v.v, nhớ để nói rằng: Chúng ta đã tiệm cận vô lượng trí thế gian.
Hãy nhớ: Đức Thế Tôn trước khi thành Đạo cũng như ta: Một cái đầu, một bộ óc, một số năm ở hiện thế… - Điều này rất rõ không đủ dung lượng và thời gian để chứa, ghi nhớ bằng việc đọc học .v.v. Trong bộ óc hiện tại chúng ta hiện đời.
Chúng ta đã có CƠ ghi ở vô lượng kiếp mọi thứ, không phải chỉ nghiệp phước mà còn cả cái điều này - nhớ - quên những điều thấy. Chúng ta đang hiện ở thế giới điên đảo, nên với tưởng ấm chúng ta đang quên. Tiếp cận được tưởng ấm sẽ tự thấy nhớ.
Nhưng chúng ta có truy đuổi điều này không? - Truy đuổi thành nhà bác học, giáo sư, vĩ nhân hiểu biết, nhà giảng thuyết thật nhiều học sinh thu thật nhiều tiền…?
- Chúng ta chỉ lấy ra để Quán. Để chuẩn bị cho cuộc phá cửa Đạo. Để biến nó từ lượng thành chất - minh. Còn không lấy ra làm gì? - Phục vụ gì trên con đường thực hành Đạo Đức Thế Tôn?
Nên, chúng ta phải thấy đạt được điều này mới hãy nghĩ đến mở cửa Đạo.
Bằng không, cứ đọc 60 ma sự cơ bản sẽ rất rõ: Vào 1 cái, mất tỉnh thức luôn. Chắc chắn. Không thể nào còn tỉnh thức vì … lúc đó không thể phân biệt được Ma Phật là gì nữa
Chúng ta đã rõ tại sao lại nhiều ĐẠI NHÂN gục ở đây. Đó không phải là vì họ kém hay họ xấu hay họ thiếu nọ thiếu kia về mặt giới hạnh, đức hạnh - kể cả là định. Nhưng họ thiếu mất cái trí hạnh chưa viên mãn nên rụng ở cửa tưởng ấm. Sức tỉnh thức của họ rất cao vì nội lực của họ lớn lắm nhưng đi vào đây: Không phân biệt được Ma Phật…. - Nên cuối cùng toàn có là bịt tai chộm chuông: Đừng phân biệt, đừng phân biệt vì Đạo Phật là không phân biệt…v.v.v
- Rất đúng. Đạo Đức Thế Tôn là không phân biệt và sự thực những câu trên vẫn rất đúng với tưởng ấm hay khi phá cửa. Vấn đề là: Cái thực sự người đó đã thấy, cầm nắm và bỏ lại ra sao (cái ở trong lúc hành công phá cửa Đạo) - không phải là ở những thời điểm khác hay sau khi phá quan ra ngoài….
Chắc chắn: Khi một người hành công phá cửa Đạo, sau đó đi ra: Họ có cái gì khác trước và sau - đây chính là thứ để chính họ cũng như toàn bộ chư thiên biết: Họ đã thành Đạo hay chưa. - Cái này, cứ vào và ra đi thì rõ. Chứ nếu không muốn vào, nghe đọc, biết: Chẳng để làm gì.
Như vậy, chúng ta không thể nhớ được mọi kiếp hay mọi thứ quá khứ đâu - lúc này chưa. Nhưng về mặt lý sự: Vì sự tu tập đã trải qua như đã từng, nên với Quán Pháp - người này đã có khả năng tiếp cận vô lượng trí thế gian. Muốn là có thể dùng Quán để thấy.
Với sự đầy đủ như vậy: Bước vào hành công!
Hành công phá cửa Đạo
Với giới hạnh cụ túc đầy đủ, với trí tuệ thế gian đầy đủ, người thực tập Đạo Đức Thế Tôn đã thấy được cửa vào Đạo. Bắt đầu hành công phá cửa Đạo.
Lưu ý: Sự chuẩn bị về giới hạnh và trí tuệ là một sự chuẩn bị lâu dài bền bỉ và không thể nào thiếu được sự kiên trì nhẫn nại và nhẫn nhục - thực tế rồi ai cũng thấy nếu như khi thực chứng thực tu dù bằng phương tiện nào, cách thức nào. Thời gian có thể rất rất lâu dài (tuỳ vào căn cơ tập nghiệp phước báo của mỗi người) mà thời gian này có thể nhiều đời, hiện đời, nhiều năm, ít năm.
Khi nào đã thấy 2 thứ: Giới hạnh cụ túc đầy đủ. Trí tuệ thế gian cụ túc đầy đủ (thể hiện bằng pháp Quán công lực, hiệu quả thế nào, pháp tuỳ ra sao, pháp tác thế nào).
Với sự đầy đủ này, người thực tập bắt đầu hành công vào Đạo. Tốt nhất là phải có tĩnh thất riêng biệt, độc cư.v.v.
Việc lựa chọn địa điểm hành công cũng rất quan trọng. Không được nóng vội và lựa chọn bừa.
Nơi có nhân khí vượng là phải tránh xa. Nhân khí vượng thì linh khí yếu. Đến khi hành công thế này rồi mà còn không tự thông được nhân khí vượng là gì, linh khí vượng là gì thì cần phải thực sự quán lại bản thân xem cái trí tuệ thế gian đã chuẩn bị đủ chưa?
Đức Thế Tôn là một người có vô lượng trí tuệ, không những thế còn có vô thượng trí tuệ. Trước khi thành Đạo, Ngài cũng chỉ có 1 cái đầu và 1 bộ óc, một con người. Điều này, một sự thực (Phật Bảo) hiện chờ chờ trước mặt: Không thể nào dùng một trí tuệ thiếu sót mà vào Đạo được. Không thể nào bảo: Tôi ở trên đỉnh một toà nhà (xem kinh sa môn quả) - mà lại không đi qua các tầng nhà phía dưới. Chỉ có người ảo tưởng, huyễn hoặc, mơ mộng, mê tín mới cho rằng: Bay thẳng 1 cái là lên đỉnh toà nhà.
Bởi thế: Làm gì có chuyện vô thượng trí tuệ (trí tuệ giải thoát) và vô lượng trí tuệ Thế Gian Giải - cái gì cũng biết, pháp gì cũng biết, chân tơ kẽ tóc mọi thứ đều rõ cả … mà lại: Không có trí tuệ thế gian
Có trí tuệ thế gian nhưng không phải để khoe, để mở 5 luân xa dưới hay để mưu cầu dục lạc, dục hỉ và các tham cầu ngũ dục ở thế gian. Nhưng phải có đủ trí tuệ thế gian để phá vào cửa Đạo.
Trí tuệ thế gian chỉ đến khi QUÁN. Việc thực tập thân (tu 5 luân xa đạt thân ổn định) - giới hạnh cụ túc phải đi cùng với việc thực tập Quán (ở đây, thế gian nên gọi là Quán tưởng). Nó chỉ đến, khi kiên trì thực tập Quán này, và kiên trì, kiên trì thực tập… trí tuệ thế gian nó mới chất lên, mới có… chính nó mới biến đổi từ lượng sang chất thành trí tuệ xuất thế gian - thứ Quán Thấy - hay minh giải thoát.
Nếu không tu tập thân, không giới hạnh. Cái trí tuệ thế gian chỉ khiến cho người thực tập có một cái bản ngã, cái tôi to đùng, khinh rẻ thiên hạ, khinh rẻ người khác kém hơn bản thân.
Sự thực là như vậy.
Nên nhiều người không có hạnh giới, không tu tập thân thì thấy - khi mở mang trí tuệ nó làm bản ngã của mình to lên bèn phết quyết: Trí thế gian vô dụng. . . Nên mới không bao giờ đi đến quả Phật dù khả năng công thẳng luân 6.
Đến đây, chúng ta đã rất rõ: Chúng ta gọi là luân 6 là gọi theo cách nhiều người biết về luân xa. Còn chúng ta không biết về luân xa nhưng chúng ta gọi cái này là cửa Đạo. Chúng ta gọi nó là điểm Đạo. Chúng ta gọi là đột phá. Chúng ta gọi nó là minh. Chúng ta gọi nó là vào định. Chúng ta gọi nó là điểm đột phá.v..vv. - bằng tên gì cũng được, đâu có phân biệt - khi biết được rõ thế này cũng là trí thế gian (trí thế gian thôi chứ chưa là trí giải thoát đâu). Chúng ta thấy rõ hết cả thế gian họ nói lên điều gì bằng ngôn từ gì - chúng ta đều thấy: bản chất. Đây là trí, vẫn chỉ là trí tiệm cận, chưa biến chất.
Như vậy, rất rõ, ngôn từ hay kể cả hình sắc hay nhiều cái khác nữa… chúng ta đã không cần phân biệt mà vẫn biết, vẫn hiểu, vẫn thấy: Thế mà vẫn chỉ là trí thế gian. Chứ chưa nói đến việc, chúng ta dùng pháp nói, nói ra… nó đã biến đổi thêm n lần và hoàn toàn là thế gian điên đảo rồi…
Không phải không phân biệt, vô niệm là trở thành 1 người “ngơ”, không ghi nhớ cái gì, không phân biệt được cái gì với cái gì luôn luôn tự kỷ ám thị đến mức cho rằng: Gì gì cái gì cũng như nhau và đều là ảo hết, không hết, không gì hết.v.v. và cho rằng đây là: tu đến không phân biệt.
Càng tu thì cái trí phải càng mở ra, thấy rõ hết và khi tiếp cận vô lượng trí thế gian là đã đến mức: Không cần lấy ra để quán thì thôi chứ nếu cần lấy ra để quán là nó dường như tự tuôn ra - dù ở đâu không cần biết. Nhưng dính mắc vào không? - Nếu chúng ta chấp vào trí, chấp vào cái này - chúng ta chết luôn. Chết ở đây mang hàm nghĩa trong Đạo Đức Thế Tôn.( Sinh thành hoạt diệt) - luân hồi vô lượng luôn.
Làm gì có nhớ và quên nữa. .
Khi tự thấy đến trí thế gian bản thân tiếp cận tới điều này tức là: Khả năng đã tiếp cận cụ túc - hay ít nhất là đã đủ dùng.
Vì bản chất: Không phải là nhớ, cũng không phải là suy luận, cũng không phải là đúng hay sai, thô hay tinh. Cái chính đó là: Quên và nhớ
Như đã được biết: Biên giới sâu cạn của tưởng ấm đó là quên và nhớ. (Biên giới của sắc ấm là sắc và không, biên giới của thọ ấm là chạm và lìa, biên giới của hành ấm là sinh và tử, biên giới của thức ấm là (hoà tan với hoà tan..))
Trí thế gian hay trí liên quan mật thiết tới cái tưởng ấm, hay tiềm thức, hay tưởng hay thứ mà mọi người vẫn tưởng.
Chúng ta bảo 1 người kém trí tức là người này cái gì cũng không biết hoặc không hiểu biết nhiều… điều này ở trong Đạo Đức Thế Tôn gọi là quên. Dù 1 người chỉ loanh quanh ở trong 1 căn nhà, không tiếp xúc với xã hội, không học hành gì mấy, không đọc mấy, chẳng nghe mấy, cũng không xem không nhìn thế giới mấy.v.v. Không tương tác xã hội ở đời mấy… - Chúng ta biết rất rõ người này ở thế được gọi là kém trí… họ có học hay tiệp cận cái gì đâu mà lại gọi họ là quên?
Nhưng đấy là họ quên thôi - dù đời này họ tiếp xúc rất ít, dường như nói cái gì cũng không biết vì có được tiếp xúc, được học đâu. . Sao gọi là quên được? Phải gọi là không hiểu biết hay không có trí tuệ/thông minh chứ…v.v - Không phải.
Biên giới của tưởng ấm là: Quên và nhớ.
Có khi cái người vừa nhắc kia họ đã đến thế giới này, vũ trụ này lâu hơn ta vô lượng kiếp, mà ta có khi đã luân hồi ở thế giới này cũng vô lượng kiếp rồi… họ quên, không ai hơn trí ai đâu (dù đang gọi là trí thế gian). Chúng ta cũng quên.
Vì tưởng ấm.
Chỉ khi bắt đầu hiểu (quán) được về những điều này là do quên và nhớ của tưởng thức chứ không phải do học và đọc sách nghe sách như chúng ta đang nghĩ…
Chúng ta mới biết và mới thấy (tức dùng được) - cái trí thế gian này đến từ đâu.
Chứ không phải ở đời này chúng ta học, đọc..v.v, nhớ để nói rằng: Chúng ta đã tiệm cận vô lượng trí thế gian.
Hãy nhớ: Đức Thế Tôn trước khi thành Đạo cũng như ta: Một cái đầu, một bộ óc, một số năm ở hiện thế… - Điều này rất rõ không đủ dung lượng và thời gian để chứa, ghi nhớ bằng việc đọc học .v.v. Trong bộ óc hiện tại chúng ta hiện đời.
Chúng ta đã có CƠ ghi ở vô lượng kiếp mọi thứ, không phải chỉ nghiệp phước mà còn cả cái điều này - nhớ - quên những điều thấy. Chúng ta đang hiện ở thế giới điên đảo, nên với tưởng ấm chúng ta đang quên. Tiếp cận được tưởng ấm sẽ tự thấy nhớ.
Nhưng chúng ta có truy đuổi điều này không? - Truy đuổi thành nhà bác học, giáo sư, vĩ nhân hiểu biết, nhà giảng thuyết thật nhiều học sinh thu thật nhiều tiền…?
- Chúng ta chỉ lấy ra để Quán. Để chuẩn bị cho cuộc phá cửa Đạo. Để biến nó từ lượng thành chất - minh. Còn không lấy ra làm gì? - Phục vụ gì trên con đường thực hành Đạo Đức Thế Tôn?
Nên, chúng ta phải thấy đạt được điều này mới hãy nghĩ đến mở cửa Đạo.
Bằng không, cứ đọc 60 ma sự cơ bản sẽ rất rõ: Vào 1 cái, mất tỉnh thức luôn. Chắc chắn. Không thể nào còn tỉnh thức vì … lúc đó không thể phân biệt được Ma Phật là gì nữa
Chúng ta đã rõ tại sao lại nhiều ĐẠI NHÂN gục ở đây. Đó không phải là vì họ kém hay họ xấu hay họ thiếu nọ thiếu kia về mặt giới hạnh, đức hạnh - kể cả là định. Nhưng họ thiếu mất cái trí hạnh chưa viên mãn nên rụng ở cửa tưởng ấm. Sức tỉnh thức của họ rất cao vì nội lực của họ lớn lắm nhưng đi vào đây: Không phân biệt được Ma Phật…. - Nên cuối cùng toàn có là bịt tai chộm chuông: Đừng phân biệt, đừng phân biệt vì Đạo Phật là không phân biệt…v.v.v
- Rất đúng. Đạo Đức Thế Tôn là không phân biệt và sự thực những câu trên vẫn rất đúng với tưởng ấm hay khi phá cửa. Vấn đề là: Cái thực sự người đó đã thấy, cầm nắm và bỏ lại ra sao (cái ở trong lúc hành công phá cửa Đạo) - không phải là ở những thời điểm khác hay sau khi phá quan ra ngoài….
Chắc chắn: Khi một người hành công phá cửa Đạo, sau đó đi ra: Họ có cái gì khác trước và sau - đây chính là thứ để chính họ cũng như toàn bộ chư thiên biết: Họ đã thành Đạo hay chưa. - Cái này, cứ vào và ra đi thì rõ. Chứ nếu không muốn vào, nghe đọc, biết: Chẳng để làm gì.
Như vậy, chúng ta không thể nhớ được mọi kiếp hay mọi thứ quá khứ đâu - lúc này chưa. Nhưng về mặt lý sự: Vì sự tu tập đã trải qua như đã từng, nên với Quán Pháp - người này đã có khả năng tiếp cận vô lượng trí thế gian. Muốn là có thể dùng Quán để thấy.
Với sự đầy đủ như vậy: Bước vào hành công!
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
(Tiếp)
Chỉ có 1 pháp NHẪN để người thực tập Đạo Đức Thế Tôn tự thấy được một cách rõ ràng rằng: Bản thân đã cụ túc 2 pháp trên (giới và trí). Giới cụ túc là cái nền tảng. Trí cụ túc là cái kết quả - có sự cụ túc này thì định đương nhiên cũng đã cụ túc bởi vì giới mới có định, định mới có tuệ. Gọi là cụ túc - tức là đủ điều kiện để điểm Đạo.
Nhẫn là một pháp để chứng sự cụ túc của 2pháp. Nhẫn đến vô lượng, nhẫn nhẫn nhẫn, dù đã thấy cụ túc mà vẫn tiếp tục nhẫn, đã nhẫn và thấy cụ túc lại vẫn tiếp tục nhẫn, đã thấy cụ túc và nhẫn lại vẫn tiếp tục nhẫn. Trong Đại Kinh Pháp Hoa còn nêu: Vô sanh pháp nhẫn. Tức là nhẫn tới chúng sanh vô sanh - có nghĩa là vòng nhân duyên luân hồi đã được chặt đứt ở mắt xích “sinh”. Cũng như ở phía trước có nói, tuỳ pháp vô niệm… - khi nhẫn được tiếp cận tới “vô sanh” - như vậy mà vẫn nhẫn tiếp chưa chịu chứng Đạo.
Lúc này, do tác pháp và quán pháp - mọi thứ đều đã được quán chiếu tiếp cận với phía trước cửa Đạo. Dù đi bởi bất cứ phương tiện phương pháp tu hành nào, khi giới hạnh tiếp cận cụ túc, trí quán tiếp cận cụ túc (thế gian), nhẫn tiếp cận vô sanh, tuỳ tiếp cận vô niệm, định lúc này dù có là pháp tu phương tiện chính hay không thì cũng đã tiếp cận vô lượng định thành: định vô lậu, định niệm, định thân, định tinh thần, định hành, định thức.v.v. - không cần phải thực tập gì gì khổ công mà định cũng như mọi cảnh tập khác đã tiến tới cửa Đạo.
Phía trước nói, hành công phá cửa Đạo, không phải là 1 ngày, vài ngày… khả năng cũng có thể kéo dài rất lâu, nhiều năm, tuỳ vào việc chuẩn bị như đã nói. (kể từ khi thấy 2 pháp giới - tuệ cụ túc - từ đó Nhẫn (không chứng Đạo ngay mà tiếp tục nhẫn) được đến đâu, bao lâu nữa thì thời gian hành công phá cửa và các sự việc ở đó sẽ khác nhau.
***
Theo đúng như trong hệ thống giới kinh - lúc này đừng làm gì “dại dột” theo kiểu “sáng chế phương tiện”.
Ngồi xuống (kiết già), chánh niệm để trước mặt, quán. (Nhớ đọc kỹ kinh sa môn quả)
+ Đây là thiền
+ Chánh niệm để trước mặt để 1 lát sau bắt đầu quán thì cái vị trí chánh niệm đó chính là luân số 6. Đừng dại mà tự phương tiện “ma đạo” ra ở chỗ này: Đọc Kinh và ai cũng rõ: ĐỨC THẾ TÔN BẢO ĐẶT CHÁNH NIỆM TRƯỚC MẶT. Chớ có đi tự nghĩ ra những gì ma Đạo như: Đặt chánh niệm trước mũi, huyệt nhân trung, hay theo thở…
Đức Thế Tôn truyền pháp: Bảo đặt chánh niệm trước mặt thì chúng ta cứ theo Đức Thế Tôn mà làm. Chớ có tự nghĩ là mình giỏi hơn đấng Đạo Sư: Tạo ra những cái phương tiện gì gì…như đặt ở mũi, ở nhân trung, ở hơi thở.v.v.v
Quán:
Trong Kinh sa môn quả chỉ nêu về 1 pháp tu cho người cư sĩ khi họ đến hỏi Quả. Đức Thế Tôn, cho người này cái phương tiện chỗ này là: Quán 5 sợi dây triền cái.
Người tu phương tiện khác thì khi này Quán chính cái phương tiện mà bản thân chánh tu từ đầu. Ví dụ: Vô thường, vô ngã, Bồ Tát, Kim cang, hơi thở, niệm, tánh nghe tánh thấy, tâm, không, sắc, thọ, thức, hành, (không có tưởng), tuỳ, tác, bất tịnh, tịnh, tịch, Phật, .v.v.v. - Vô lượng pháp, mọi pháp tu… cái gì cũng được , người đó đã từng nói tu pháp gì, tu gì thì dùng pháp này để QUÁN VÀO ĐẠO.
Chứng và trú:
Với trí tuệ cụ túc, với chánh niệm được đặt trước mặt, với Quán pháp bất tư nghì… chánh niệm này (chính là niệm quán về cái pháp tu vừa kể đó, mỗi người 1 pháp đó) bắt đầu từ từ ở trước mặt dịch chuyển lên giữa trán, phía trên 2 con mắt, giữa 2 mày.
Khi chánh niệm lên đến đây, vẫn tiếp tục quán sâu vào nữa (tức là không để mất chánh niệm, không để thất niệm này): Niệm dần dần tụ lại thành 1 đám và giống như kiểu 1 người đi xuyên không khi dùng niệm đó cứ thế đi về phía trước ở trước mặt.
Khi bắt đầu thấy: Ánh sáng màu chàm trong không gian tối đen đó thì dừng lại. Dừng niệm quán. Dừng luôn. Thực tập vô niệm.
Mất, lại thực hiện lại. Cứ vậy.
Khi ánh sáng màu chàm bắt đầu phân bố thứ lớp, xoay như 1 cơn bão hay xoáy nước (tức là có mắt bão), nhưng chuyển động rất chậm (quay ý) - vẫn tiếp tục làm như trên.
Ánh sáng màu chàm bắt đầu từ hình dạng xoáy nước (bão) phân hoá thành 2 nửa, đồng thời ánh sáng có thêm những tia tím. Tím chàm đan xen như phân làm 2 xoay. - vẫn tiếp tục làm như trên.
Thực tế: Trong quá trình thực hiện Nhẫn pháp - vẫn có thể dùng Quán Pháp làm đến bước này.
Tuyệt đối: Không được hấp tấp vội vàng tiến thêm ( ta dùng niệm quán để đi mà) nên cứ thấy các hiện trạng đó mà không công chỉ đến nhìn - tức là dừng cả niệm để chỉ THẤY đó. .
Lúc này, tự cái Thấy nó đi, thấy đến đâu thì đi đến đấy. Không dùng niệm quán để đi nữa. Dùng niệm quán là hỏng. Khi thấy cửa Đạo là phải dùng cái THẤY TỊCH TỊNH đó để đi vào. Thấy được đến đâu thì vào được đến đấy.
Vì thời gian rất dài nên mỗi lần như vậy là phải quán tưởng xem: Vì lẽ gì cái thấy nó tiến triển chậm, không tiến triển, hay tiến triển nhanh.
Trong thời gian này (kể cả khi kiết già lẫn khi xả bỏ kiết già) - thời thời khắc khắc: Thấy cái gì - đây đều là ma sự hết. Phải duy trì và rất rõ tỉnh thức này
Bất cứ 1 cái gì, đến trong lúc kiết già quán hay lúc khác bởi sắc tưởng hành thức pháp trần v.v. - Là ma sự hết.
Ta không chứng không trú không thấy không đạt một cái gì cả.
Cứ mặc kệ các ma sự này.
Từ khi này, đã chỉ còn: Dùng niệm quán đi vào đến cửa kia rồi cứ nhìn cái cửa đó (không phải nhìn bằng mặt thịt sắc nhé, nó nhắm mà). Mà nhìn trân trân cái cửa này, cũng bỏ luôn niệm quán (nhớ, chứ lúc này còn hành gì nữa). Chỉ thấy cái đó.
Chúng ta không thể 1 lần vào được luôn, trăm lần vào được luôn.
Cứ như thế, vừa trải qua ma sự, vừa chỉ thấy hay nhìn cái đó (không được làm bất cứ cái gì như: Quán cái cửa, tiến lên hay niệm gì hay bất cứ hành tưởng hành niệm hành quán gì… không tương tác. Bỏ pháp tác đi. Dùng pháp tác ở đây là hỏng. Chỉ có thấy
Khi nào cánh cửa mở ra. Chứng: Không còn niệm gì nữa. Không còn hơi thở, không còn bất cứ cái gì nữa. Chỉ còn cái đó. Đó. Cái mà ai cũng biết rồi: Tâm chân như thường hằng à? - Ánh sáng vô lượng màu à?…. Cái gì thì mở ra mới tự thấy chứ tôi cũng biết đâu mà nói.
Nhưng ma sự là phải diệt hết trước khi cánh cửa kia mở ra. Tức là trước khi cánh cửa đó mở ra: Mọi cái thấy hay cầm nắm đạt chứng được thủ sở tri..v.v. - Đều là ma sự hết. Nhớ.
Cánh cửa kia mở, các luân phía dưới phải tự nhiên đồng loạt mở hết. Nó tự mở - vì chúng ta cũng không quan tâm nhưng khi này sẽ thấy rõ vì sao lại vậy… vì vô lượng màu đơn lẻ ánh sáng đơn lẻ … đến lúc này cần phải tụ họp lại thành thứ ánh sáng duy nhất thường hằng chân như chứa vô lượng màu. Chỉ có 1 màu chứa vô lượng màu ánh sáng. Nhớ, có 7 ánh sáng đơn sắc mắt nhìn thấy khi hợp lại còn thành 1 màu trắng thì vô lượng màu ánh sáng đơn sắc khi này hợp lại thành 1 màu, gọi là màu ánh sáng “nhiệm màu”- màu Phật. Màu vô lượng quang. Minh. Trí. Giải thoát..v.v..v
Nó là gì thì vào đó, mở ra mới thấy!
Chúc cho chúng sinh ta lành sự, vượt qua hết ma sự!
Chỉ có 1 pháp NHẪN để người thực tập Đạo Đức Thế Tôn tự thấy được một cách rõ ràng rằng: Bản thân đã cụ túc 2 pháp trên (giới và trí). Giới cụ túc là cái nền tảng. Trí cụ túc là cái kết quả - có sự cụ túc này thì định đương nhiên cũng đã cụ túc bởi vì giới mới có định, định mới có tuệ. Gọi là cụ túc - tức là đủ điều kiện để điểm Đạo.
Nhẫn là một pháp để chứng sự cụ túc của 2pháp. Nhẫn đến vô lượng, nhẫn nhẫn nhẫn, dù đã thấy cụ túc mà vẫn tiếp tục nhẫn, đã nhẫn và thấy cụ túc lại vẫn tiếp tục nhẫn, đã thấy cụ túc và nhẫn lại vẫn tiếp tục nhẫn. Trong Đại Kinh Pháp Hoa còn nêu: Vô sanh pháp nhẫn. Tức là nhẫn tới chúng sanh vô sanh - có nghĩa là vòng nhân duyên luân hồi đã được chặt đứt ở mắt xích “sinh”. Cũng như ở phía trước có nói, tuỳ pháp vô niệm… - khi nhẫn được tiếp cận tới “vô sanh” - như vậy mà vẫn nhẫn tiếp chưa chịu chứng Đạo.
Lúc này, do tác pháp và quán pháp - mọi thứ đều đã được quán chiếu tiếp cận với phía trước cửa Đạo. Dù đi bởi bất cứ phương tiện phương pháp tu hành nào, khi giới hạnh tiếp cận cụ túc, trí quán tiếp cận cụ túc (thế gian), nhẫn tiếp cận vô sanh, tuỳ tiếp cận vô niệm, định lúc này dù có là pháp tu phương tiện chính hay không thì cũng đã tiếp cận vô lượng định thành: định vô lậu, định niệm, định thân, định tinh thần, định hành, định thức.v.v. - không cần phải thực tập gì gì khổ công mà định cũng như mọi cảnh tập khác đã tiến tới cửa Đạo.
Phía trước nói, hành công phá cửa Đạo, không phải là 1 ngày, vài ngày… khả năng cũng có thể kéo dài rất lâu, nhiều năm, tuỳ vào việc chuẩn bị như đã nói. (kể từ khi thấy 2 pháp giới - tuệ cụ túc - từ đó Nhẫn (không chứng Đạo ngay mà tiếp tục nhẫn) được đến đâu, bao lâu nữa thì thời gian hành công phá cửa và các sự việc ở đó sẽ khác nhau.
***
Theo đúng như trong hệ thống giới kinh - lúc này đừng làm gì “dại dột” theo kiểu “sáng chế phương tiện”.
Ngồi xuống (kiết già), chánh niệm để trước mặt, quán. (Nhớ đọc kỹ kinh sa môn quả)
+ Đây là thiền
+ Chánh niệm để trước mặt để 1 lát sau bắt đầu quán thì cái vị trí chánh niệm đó chính là luân số 6. Đừng dại mà tự phương tiện “ma đạo” ra ở chỗ này: Đọc Kinh và ai cũng rõ: ĐỨC THẾ TÔN BẢO ĐẶT CHÁNH NIỆM TRƯỚC MẶT. Chớ có đi tự nghĩ ra những gì ma Đạo như: Đặt chánh niệm trước mũi, huyệt nhân trung, hay theo thở…
Đức Thế Tôn truyền pháp: Bảo đặt chánh niệm trước mặt thì chúng ta cứ theo Đức Thế Tôn mà làm. Chớ có tự nghĩ là mình giỏi hơn đấng Đạo Sư: Tạo ra những cái phương tiện gì gì…như đặt ở mũi, ở nhân trung, ở hơi thở.v.v.v
Quán:
Trong Kinh sa môn quả chỉ nêu về 1 pháp tu cho người cư sĩ khi họ đến hỏi Quả. Đức Thế Tôn, cho người này cái phương tiện chỗ này là: Quán 5 sợi dây triền cái.
Người tu phương tiện khác thì khi này Quán chính cái phương tiện mà bản thân chánh tu từ đầu. Ví dụ: Vô thường, vô ngã, Bồ Tát, Kim cang, hơi thở, niệm, tánh nghe tánh thấy, tâm, không, sắc, thọ, thức, hành, (không có tưởng), tuỳ, tác, bất tịnh, tịnh, tịch, Phật, .v.v.v. - Vô lượng pháp, mọi pháp tu… cái gì cũng được , người đó đã từng nói tu pháp gì, tu gì thì dùng pháp này để QUÁN VÀO ĐẠO.
Chứng và trú:
Với trí tuệ cụ túc, với chánh niệm được đặt trước mặt, với Quán pháp bất tư nghì… chánh niệm này (chính là niệm quán về cái pháp tu vừa kể đó, mỗi người 1 pháp đó) bắt đầu từ từ ở trước mặt dịch chuyển lên giữa trán, phía trên 2 con mắt, giữa 2 mày.
Khi chánh niệm lên đến đây, vẫn tiếp tục quán sâu vào nữa (tức là không để mất chánh niệm, không để thất niệm này): Niệm dần dần tụ lại thành 1 đám và giống như kiểu 1 người đi xuyên không khi dùng niệm đó cứ thế đi về phía trước ở trước mặt.
Khi bắt đầu thấy: Ánh sáng màu chàm trong không gian tối đen đó thì dừng lại. Dừng niệm quán. Dừng luôn. Thực tập vô niệm.
Mất, lại thực hiện lại. Cứ vậy.
Khi ánh sáng màu chàm bắt đầu phân bố thứ lớp, xoay như 1 cơn bão hay xoáy nước (tức là có mắt bão), nhưng chuyển động rất chậm (quay ý) - vẫn tiếp tục làm như trên.
Ánh sáng màu chàm bắt đầu từ hình dạng xoáy nước (bão) phân hoá thành 2 nửa, đồng thời ánh sáng có thêm những tia tím. Tím chàm đan xen như phân làm 2 xoay. - vẫn tiếp tục làm như trên.
Thực tế: Trong quá trình thực hiện Nhẫn pháp - vẫn có thể dùng Quán Pháp làm đến bước này.
Tuyệt đối: Không được hấp tấp vội vàng tiến thêm ( ta dùng niệm quán để đi mà) nên cứ thấy các hiện trạng đó mà không công chỉ đến nhìn - tức là dừng cả niệm để chỉ THẤY đó. .
Lúc này, tự cái Thấy nó đi, thấy đến đâu thì đi đến đấy. Không dùng niệm quán để đi nữa. Dùng niệm quán là hỏng. Khi thấy cửa Đạo là phải dùng cái THẤY TỊCH TỊNH đó để đi vào. Thấy được đến đâu thì vào được đến đấy.
Vì thời gian rất dài nên mỗi lần như vậy là phải quán tưởng xem: Vì lẽ gì cái thấy nó tiến triển chậm, không tiến triển, hay tiến triển nhanh.
Trong thời gian này (kể cả khi kiết già lẫn khi xả bỏ kiết già) - thời thời khắc khắc: Thấy cái gì - đây đều là ma sự hết. Phải duy trì và rất rõ tỉnh thức này
Bất cứ 1 cái gì, đến trong lúc kiết già quán hay lúc khác bởi sắc tưởng hành thức pháp trần v.v. - Là ma sự hết.
Ta không chứng không trú không thấy không đạt một cái gì cả.
Cứ mặc kệ các ma sự này.
Từ khi này, đã chỉ còn: Dùng niệm quán đi vào đến cửa kia rồi cứ nhìn cái cửa đó (không phải nhìn bằng mặt thịt sắc nhé, nó nhắm mà). Mà nhìn trân trân cái cửa này, cũng bỏ luôn niệm quán (nhớ, chứ lúc này còn hành gì nữa). Chỉ thấy cái đó.
Chúng ta không thể 1 lần vào được luôn, trăm lần vào được luôn.
Cứ như thế, vừa trải qua ma sự, vừa chỉ thấy hay nhìn cái đó (không được làm bất cứ cái gì như: Quán cái cửa, tiến lên hay niệm gì hay bất cứ hành tưởng hành niệm hành quán gì… không tương tác. Bỏ pháp tác đi. Dùng pháp tác ở đây là hỏng. Chỉ có thấy
Khi nào cánh cửa mở ra. Chứng: Không còn niệm gì nữa. Không còn hơi thở, không còn bất cứ cái gì nữa. Chỉ còn cái đó. Đó. Cái mà ai cũng biết rồi: Tâm chân như thường hằng à? - Ánh sáng vô lượng màu à?…. Cái gì thì mở ra mới tự thấy chứ tôi cũng biết đâu mà nói.
Nhưng ma sự là phải diệt hết trước khi cánh cửa kia mở ra. Tức là trước khi cánh cửa đó mở ra: Mọi cái thấy hay cầm nắm đạt chứng được thủ sở tri..v.v. - Đều là ma sự hết. Nhớ.
Cánh cửa kia mở, các luân phía dưới phải tự nhiên đồng loạt mở hết. Nó tự mở - vì chúng ta cũng không quan tâm nhưng khi này sẽ thấy rõ vì sao lại vậy… vì vô lượng màu đơn lẻ ánh sáng đơn lẻ … đến lúc này cần phải tụ họp lại thành thứ ánh sáng duy nhất thường hằng chân như chứa vô lượng màu. Chỉ có 1 màu chứa vô lượng màu ánh sáng. Nhớ, có 7 ánh sáng đơn sắc mắt nhìn thấy khi hợp lại còn thành 1 màu trắng thì vô lượng màu ánh sáng đơn sắc khi này hợp lại thành 1 màu, gọi là màu ánh sáng “nhiệm màu”- màu Phật. Màu vô lượng quang. Minh. Trí. Giải thoát..v.v..v
Nó là gì thì vào đó, mở ra mới thấy!
Chúc cho chúng sinh ta lành sự, vượt qua hết ma sự!
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
95 tiếp
Sau khi đã Nhẫn vô lượng lần thực hiện điều trên mà vẫn nhẫn không mở cửa Đạo: Người “tu sĩ” phát hiện ra - Cái thấy thực sự - “Quay đầu là bờ” - “Nhiếp Tâm” Thành Đạo. Chứng và trú.
Ghi nhớ:
+ Nếu không đến đó không bao giờ nhiếp tâm được. Vô lượng người thực hành Đạo Đức Thế Tôn từ đó đến nay và mãi mai sau: Họ không tới được đó, cứ thực hiện nhiếp tâm: - Kết quả: Không thể nào nhiếp tâm được. Nếu có dùng ý chí và nguyện lực lớn lao (tác ý) hay ức chế tâm nhiếp tâm vào thì cũng chỉ là: Một đám tối thui - không thấy ánh sáng vô lượng quang cũng không thấy cái đám tối thui này tự toả ra ánh sáng vô lượng quang. Đây là sự thực ở thế giới này bao năm qua - như vậy, đâu có phải là Kết Quả Phật
+ Nếu đến đó mà mở cửa này ra, dù đã nhẫn vô lượng lần và thấy vô lượng thứ, cũng như đủ các nhiệm màu - Khả năng lớn: Vẫn đang ở trong ma sự. - Dù với cấp bậc này: Đạo hạnh đã thực sự hiển hiện, thâm sâu.
Tại sao lại vậy? - Điều này, chỉ thực sự người tu sĩ này tự chứng thấy hoặc người đạt cảnh tu sĩ mới nhìn thấy: Nếu mở cửa đó ra bằng cách tiến lên khi đến đó thì hầu như - Tâm người tu sĩ không tự phát sáng ánh sáng vô lượng màu. Người này mới chỉ bước vào cái “thế giới ánh sáng này” thấy được mọi thứ nhiệm màu nhưng do tâm chưa phát sáng nên vẫn sẽ gặp ma sự. Dù vậy, đây là cấp cảnh rất thâm sâu, Đạo hạnh lực đã rất lớn. Nếu vẫn giữ được tỉnh thức thì sớm muộn sẽ tự thấy: “Quay đầu là bờ” - Ý nói là nhiếp tâm. Tuy nhiên, việc chữa trị thứ này, thật lâu…
Lời nói ở đây, không thể đầy đủ. Tuy nhiên, ai đến đó mà NHẪN được đến vô lượng lần đều sẽ tự thấy rõ
Cầm lên là “chết” - trong Giới Kinh có lẽ cũng có nhiều Kinh nhắc. Bao nhiêu đời kiếp công phu mới đi được tới đây. Thấy rõ đây là cửa Đạo, cái thấy này là cái thấy Minh - thấy thực chứ không phải thấy tưởng, thấy mọi thứ chân như thường hằng, mọi bản chất, mọi thứ đều thấy rõ chân như hết rồi… Mà không tác niệm bước vào (dù khả năng lúc này đã ở trạng thái tiệm cân vô niệm - kể cả các niệm cơ như niệm hơi thở…) - Ai có thể bỏ được Quả?
Điều này, đọc thì dễ, nhớ thì dễ mà nếu có đến một kiếp nào tới cái cửa đó… Ai có thể NHẪN nổi - Nhiếp Tâm trở về…
…
Vậy là: Đã CHỨNG VÀ AN TRÚ NIẾT BÀN HIỆN TẠI
Sau khi đã Nhẫn vô lượng lần thực hiện điều trên mà vẫn nhẫn không mở cửa Đạo: Người “tu sĩ” phát hiện ra - Cái thấy thực sự - “Quay đầu là bờ” - “Nhiếp Tâm” Thành Đạo. Chứng và trú.
Ghi nhớ:
+ Nếu không đến đó không bao giờ nhiếp tâm được. Vô lượng người thực hành Đạo Đức Thế Tôn từ đó đến nay và mãi mai sau: Họ không tới được đó, cứ thực hiện nhiếp tâm: - Kết quả: Không thể nào nhiếp tâm được. Nếu có dùng ý chí và nguyện lực lớn lao (tác ý) hay ức chế tâm nhiếp tâm vào thì cũng chỉ là: Một đám tối thui - không thấy ánh sáng vô lượng quang cũng không thấy cái đám tối thui này tự toả ra ánh sáng vô lượng quang. Đây là sự thực ở thế giới này bao năm qua - như vậy, đâu có phải là Kết Quả Phật
+ Nếu đến đó mà mở cửa này ra, dù đã nhẫn vô lượng lần và thấy vô lượng thứ, cũng như đủ các nhiệm màu - Khả năng lớn: Vẫn đang ở trong ma sự. - Dù với cấp bậc này: Đạo hạnh đã thực sự hiển hiện, thâm sâu.
Tại sao lại vậy? - Điều này, chỉ thực sự người tu sĩ này tự chứng thấy hoặc người đạt cảnh tu sĩ mới nhìn thấy: Nếu mở cửa đó ra bằng cách tiến lên khi đến đó thì hầu như - Tâm người tu sĩ không tự phát sáng ánh sáng vô lượng màu. Người này mới chỉ bước vào cái “thế giới ánh sáng này” thấy được mọi thứ nhiệm màu nhưng do tâm chưa phát sáng nên vẫn sẽ gặp ma sự. Dù vậy, đây là cấp cảnh rất thâm sâu, Đạo hạnh lực đã rất lớn. Nếu vẫn giữ được tỉnh thức thì sớm muộn sẽ tự thấy: “Quay đầu là bờ” - Ý nói là nhiếp tâm. Tuy nhiên, việc chữa trị thứ này, thật lâu…
Lời nói ở đây, không thể đầy đủ. Tuy nhiên, ai đến đó mà NHẪN được đến vô lượng lần đều sẽ tự thấy rõ
Cầm lên là “chết” - trong Giới Kinh có lẽ cũng có nhiều Kinh nhắc. Bao nhiêu đời kiếp công phu mới đi được tới đây. Thấy rõ đây là cửa Đạo, cái thấy này là cái thấy Minh - thấy thực chứ không phải thấy tưởng, thấy mọi thứ chân như thường hằng, mọi bản chất, mọi thứ đều thấy rõ chân như hết rồi… Mà không tác niệm bước vào (dù khả năng lúc này đã ở trạng thái tiệm cân vô niệm - kể cả các niệm cơ như niệm hơi thở…) - Ai có thể bỏ được Quả?
Điều này, đọc thì dễ, nhớ thì dễ mà nếu có đến một kiếp nào tới cái cửa đó… Ai có thể NHẪN nổi - Nhiếp Tâm trở về…
…
Vậy là: Đã CHỨNG VÀ AN TRÚ NIẾT BÀN HIỆN TẠI
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Một lần nữa, nhắc lại: Cái tập luận này chỉ là câu chuyện thế gian, 1 câu chuyện tưởng. Một thể loại truyện luận ký, không hơn!
Như vậy, đọc đến đây chúng ta đã thấy vì lý do gì phía trước đã nói chẳng mấy ai đạt kết quả Phật - Một sự thật: Rất nhiều người đã nhiếp tâm được vào bên trong bằng rất nhiều phương tiện trong Đạo Đức Thế Tôn. Nhưng có mấy ai, kim cổ đông tây bao nhiêu năm qua thấy (tự thấy): Cái tâm đã nhiếp đó phát sáng. Hay chỉ lờ mờ 1 đám lờ nhờ, minh không thấy đâu chỉ thấy chẳng thấy gì, có gì???
- Có một số người có màu gì đó - nói thẳng cùng lắm thấy màu lục lam nhợt nhợt. - Thế gian này không thiếu những bậc Đại Nhân. Nhưng rồi chính họ mãi sau này cũng đã tự thấy: Đây chưa phải là quả thù thắng rốt ráo cuối cùng - Dù sao ở Đạo hạnh này, nhiếp được tâm, cao lắm. Đừng nghĩ không có màu hoặc là màu nhờ nhờ gì đó mà nghĩ là họ những người không tu ra gì. Đức hạnh của họ rất cao. Vì rất rõ, với tâm đã được nhiếp này, họ làm gì còn đau khổ, vướng mắc nữa?
Cũng thế, không thiếu người bằng một cách kỳ đặc nào đó (ngoại Đạo) - họ vẫn mở ra cánh cửa này. Tuy nhiên, đây không phải là Kết Quả Phật bởi vì thực tế đầy ví dụ rồi và 100% không có ai “giải thoát” cả.
Khi đọc ở phía trước, chúng ta đã hiểu: 5 luân phía dưới, màng đi thái ngăn cách có thể bị xuyên thủng bởi hoặc từ nội lực bên trong phá ra hoặc do “chiêu cảm” cái bên ngoài ập vào.
Cũng như thế, thứ đơn giản vẫn tồn tại chân như thường hằng bao nhiêu năm nay trong hệ thống giới kinh đều nói đến chi tiết, rõ ràng về ánh sáng vô lượng màu và minh.
- Bằng giới hạnh cụ túc và trí tuệ cụ túc, người thực tập vượt qua hết các ma sự đứng trước quả Đạo. Hoặc có thể phá (mở) ra bước vào - ĐẠT ĐƯỢC. Hoặc có thể “chiêu cảm” thứ bên ngoài phá cửa xuyên vào. .
1/ Người mà nhiếp tâm, không sáng (không tự minh - vì làm gì đã đủ trí Quán đi đến cửa Đạo): Họ giải thoát (hết khổ đau vướng mắc ở đời) - nhưng hệ thống giới kinh đã nói đi nói lại lý do gì, đây không phải là quả thù thắng rốt ráo.
2/ Người không những không nhiếp tâm, không có giới hạnh, tự đi mở cửa hoặc nhờ mở cửa - đây không ở trong Đạo Đức Thế Tôn và lịch sử tới hiện tại, ai ai cũng thấy: Không có ai giải thoát được bằng cách này cả.
3/ Người đủ giới hạnh, đủ trí tuệ đi đến cửa Đạo kia, trải qua các ma sự nhưng chưa đủ nhẫn, đã mở ra bước vào: Đây là một hướng, ai đi người đó biết.
4/ Người tới cửa Đạo, thấy rõ được mọi thứ, đã trải qua mọi ma sự. Lúc này, kéo tâm trở về (bởi vì đi đến bằng Quán niệm, khi đã trải qua đủ ma sự thì đã tới vô niệm rồi). Nhưng không dùng cái thấy đầy đủ đó đi tới mà trở về. Vì sự trở về này, gọi là nhiếp tâm. Do đã trải qua nhẫn vô lượng nên bên ngoài đã đủ duyên để trở thành quả tập, khi người đó nhiếp tâm trở về, với sự chiêu cảm: QUẢ ĐẠO tự phá giới gian mà tới.
Nhưng tâm người này khi này đã thấy mọi thứ nên khi nhiếp trở về, nó cô đọng nên một thứ: Tự phát sáng ánh sáng vô lượng màu. Gọi là tự minh (tức là tự phát sáng).
Thứ ánh sáng tự minh cùng với thứ ánh sáng gọi là Quả Đạo tự tới kia chính là đồng nhất một loại.
Nên: Câu hỏi: Như Lai còn sau khi chết? Như Lai không còn sau khi chết? Như Lai vừa còn vừa không còn hay vừa không còn vừa không không còn? - Nhờ sự tự chứng đạt (vượt qua những ma sự cuối mà Đức Thế Tôn đã nhắc trong Kinh) khác nhau như “nói pháp tưởng” của người viết phía trên mà: Người chứng đạt tự biết, tự thấy rõ bản thân.
Như vậy, đọc đến đây chúng ta đã thấy vì lý do gì phía trước đã nói chẳng mấy ai đạt kết quả Phật - Một sự thật: Rất nhiều người đã nhiếp tâm được vào bên trong bằng rất nhiều phương tiện trong Đạo Đức Thế Tôn. Nhưng có mấy ai, kim cổ đông tây bao nhiêu năm qua thấy (tự thấy): Cái tâm đã nhiếp đó phát sáng. Hay chỉ lờ mờ 1 đám lờ nhờ, minh không thấy đâu chỉ thấy chẳng thấy gì, có gì???
- Có một số người có màu gì đó - nói thẳng cùng lắm thấy màu lục lam nhợt nhợt. - Thế gian này không thiếu những bậc Đại Nhân. Nhưng rồi chính họ mãi sau này cũng đã tự thấy: Đây chưa phải là quả thù thắng rốt ráo cuối cùng - Dù sao ở Đạo hạnh này, nhiếp được tâm, cao lắm. Đừng nghĩ không có màu hoặc là màu nhờ nhờ gì đó mà nghĩ là họ những người không tu ra gì. Đức hạnh của họ rất cao. Vì rất rõ, với tâm đã được nhiếp này, họ làm gì còn đau khổ, vướng mắc nữa?
Cũng thế, không thiếu người bằng một cách kỳ đặc nào đó (ngoại Đạo) - họ vẫn mở ra cánh cửa này. Tuy nhiên, đây không phải là Kết Quả Phật bởi vì thực tế đầy ví dụ rồi và 100% không có ai “giải thoát” cả.
Khi đọc ở phía trước, chúng ta đã hiểu: 5 luân phía dưới, màng đi thái ngăn cách có thể bị xuyên thủng bởi hoặc từ nội lực bên trong phá ra hoặc do “chiêu cảm” cái bên ngoài ập vào.
Cũng như thế, thứ đơn giản vẫn tồn tại chân như thường hằng bao nhiêu năm nay trong hệ thống giới kinh đều nói đến chi tiết, rõ ràng về ánh sáng vô lượng màu và minh.
- Bằng giới hạnh cụ túc và trí tuệ cụ túc, người thực tập vượt qua hết các ma sự đứng trước quả Đạo. Hoặc có thể phá (mở) ra bước vào - ĐẠT ĐƯỢC. Hoặc có thể “chiêu cảm” thứ bên ngoài phá cửa xuyên vào. .
1/ Người mà nhiếp tâm, không sáng (không tự minh - vì làm gì đã đủ trí Quán đi đến cửa Đạo): Họ giải thoát (hết khổ đau vướng mắc ở đời) - nhưng hệ thống giới kinh đã nói đi nói lại lý do gì, đây không phải là quả thù thắng rốt ráo.
2/ Người không những không nhiếp tâm, không có giới hạnh, tự đi mở cửa hoặc nhờ mở cửa - đây không ở trong Đạo Đức Thế Tôn và lịch sử tới hiện tại, ai ai cũng thấy: Không có ai giải thoát được bằng cách này cả.
3/ Người đủ giới hạnh, đủ trí tuệ đi đến cửa Đạo kia, trải qua các ma sự nhưng chưa đủ nhẫn, đã mở ra bước vào: Đây là một hướng, ai đi người đó biết.
4/ Người tới cửa Đạo, thấy rõ được mọi thứ, đã trải qua mọi ma sự. Lúc này, kéo tâm trở về (bởi vì đi đến bằng Quán niệm, khi đã trải qua đủ ma sự thì đã tới vô niệm rồi). Nhưng không dùng cái thấy đầy đủ đó đi tới mà trở về. Vì sự trở về này, gọi là nhiếp tâm. Do đã trải qua nhẫn vô lượng nên bên ngoài đã đủ duyên để trở thành quả tập, khi người đó nhiếp tâm trở về, với sự chiêu cảm: QUẢ ĐẠO tự phá giới gian mà tới.
Nhưng tâm người này khi này đã thấy mọi thứ nên khi nhiếp trở về, nó cô đọng nên một thứ: Tự phát sáng ánh sáng vô lượng màu. Gọi là tự minh (tức là tự phát sáng).
Thứ ánh sáng tự minh cùng với thứ ánh sáng gọi là Quả Đạo tự tới kia chính là đồng nhất một loại.
Nên: Câu hỏi: Như Lai còn sau khi chết? Như Lai không còn sau khi chết? Như Lai vừa còn vừa không còn hay vừa không còn vừa không không còn? - Nhờ sự tự chứng đạt (vượt qua những ma sự cuối mà Đức Thế Tôn đã nhắc trong Kinh) khác nhau như “nói pháp tưởng” của người viết phía trên mà: Người chứng đạt tự biết, tự thấy rõ bản thân.