PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Thế gian đại địa lại rung chuyển lần nữa - những Chư Vị Tôn Đức nào sẽ trở lại tiếp theo đây... Thực sự các Ngài quyết định mở thịnh hội “Đại Giới Đàn Pháp Hoa” ở thời này sao…
Vậy Con xin phép đi chuẩn bị!
…
Hết chuyện!
p/s: À! Tại sao mọi người lại không tin, bản thân cũng có thể sở hữu 1 tấm vé vào cái Giới Đàn này mấy nữa: Quán vào Đạo…..
Vĩnh biết tất cả chúng ta!
Thế gian đại địa lại rung chuyển lần nữa - những Chư Vị Tôn Đức nào sẽ trở lại tiếp theo đây... Thực sự các Ngài quyết định mở thịnh hội “Đại Giới Đàn Pháp Hoa” ở thời này sao…
Vậy Con xin phép đi chuẩn bị!
…
Hết chuyện!
p/s: À! Tại sao mọi người lại không tin, bản thân cũng có thể sở hữu 1 tấm vé vào cái Giới Đàn này mấy nữa: Quán vào Đạo…..
Vĩnh biết tất cả chúng ta!
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Như vậy, đến hôm nay, ai cũng đã thấy trong mấy ngày qua hàng chục trận động đất ở khắp nước Việt Nam xảy ra 1 cách nhẹ nhàng… dù người bình thường thì vốn cho rằng chuyện này cũng không có gì bất thường. Còn ở trong tập luận này, chúng ta đều rất rõ tác giả đã nhắc đi nhắc lại chuyện thiên rung địa chuyển có nghĩa như thế nào với nội dung tập luận ký tác này…
À. Nhỏ chỉ là kẻ trước tác chuyện ra đây. Nhỏ không “nghĩ” câu chuyện này là một tập thuyết giảng. Nhỏ còn đang “nghĩ” phần thịnh hội “Đại Giới Đàn Pháp Hoa” diễn ra như thế nào, viết như thế nào đây.
Nhưng hai sự kiện đang diễn ra, một là thiên tượng, hai là nhân tượng… đảm bảo phần “Đại Giới Đàn Pháp Hoa” này sẽ “thú vị” với nhân gian…
À. Nhỏ chỉ là kẻ trước tác chuyện ra đây. Nhỏ không “nghĩ” câu chuyện này là một tập thuyết giảng. Nhỏ còn đang “nghĩ” phần thịnh hội “Đại Giới Đàn Pháp Hoa” diễn ra như thế nào, viết như thế nào đây.
Nhưng hai sự kiện đang diễn ra, một là thiên tượng, hai là nhân tượng… đảm bảo phần “Đại Giới Đàn Pháp Hoa” này sẽ “thú vị” với nhân gian…
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Xin kính lễ gửi lời thăm hỏi đến toàn bộ các Chư Vị Tôn Đức, các Chư Hộ Pháp, Chư Bồ Tát, Chư Thiên Ma… đã từ “xa xôi” trở về dự thịnh hội!
Cùng nguyện cầu, các Chư Vị không thất vọng khi trở về Chứng Minh sự kiện “Đại Giới Đàn Pháp Hoa” này - một đại giới đàn bất khả tư nghì mà ở thế gian “không thể có” - chỉ có thể có ở “chuyện tưởng” như này.
Danh sách “người nhập Đạo” hay “Bảng Phong” đến nay mới bắt đầu được mở ra để cập nhật. . .
Cùng nguyện cầu, các Chư Vị không thất vọng khi trở về Chứng Minh sự kiện “Đại Giới Đàn Pháp Hoa” này - một đại giới đàn bất khả tư nghì mà ở thế gian “không thể có” - chỉ có thể có ở “chuyện tưởng” như này.
Danh sách “người nhập Đạo” hay “Bảng Phong” đến nay mới bắt đầu được mở ra để cập nhật. . .
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Tiểu luận 72
Rốt cục, sự an trú tâm vào chánh niệm đơn giản đến mức không thể đơn giản hơn, dù với kết quả này, chúng ta chưa hẳn là đã minh tâm thực sự là thứ gì. Tuy nhiên, an trú tâm vào chánh niệm là một trong những kết quả đầu tiên thiết thực hiện hữu mà người thực hành Đạo Đức Thế Tôn thấy.
Nếu một ngày, chúng ta có rất nhiều niệm hành (chánh niệm) - điều này, chúng ta thấy chúng ta vẫn còn nhiều niệm dù các niệm vọng đã giảm thiểu do tâm thường được an trú vào chánh niệm.
Nếu một ngày chúng ta chỉ có 1 niệm định (định thân) thì khi tâm an trú vào chánh niệm, cả ngày chúng ta đã gần như tiến tới vô niệm. Tuy nhiên, điều này là lý thuyết vì ở thế, không bao giờ duy trì được một niệm như này.
Chúng ta có thể có vài (một số) niệm trong một ngày. Đây là điều kiện lý tưởng để hành công. Dù vậy, để làm được điều này, không hề dễ. Nếu chúng ta định thân trước (ngồi định hành thân) để rồi tu tập ý niệm đưa về cơ số ít niệm - điều này, dường như không mang đến kết quả thù thắng nếu như không muốn nói - khả năng gặp ma sự (tẩu hoả nhập ma) là rất lớn.
Thời Đức Thế Tôn - luôn luôn yêu cầu tất cả Tăng đoàn lẫn chính Ngài phải luôn luôn động thân - hay còn gọi là di chuyển hay còn gọi bằng cái tên kinh hành. Dù là độc cư, an cư, trước khi phá cửa Đạo, sau khi thành Đạo… thì niệm động thân là yêu cầu bắt buộc cùng với an trú tâm vào chánh niệm.
Chỉ khi hành công mới không cần động thân (niệm thân hành) nhưng điều này chỉ là giai đoạn, thời điểm.
Dù Đức Thế Tôn sau khi thành Đạo luôn an trú tâm trong cảnh giới không, nhưng chúng ta cần hiểu rất rõ: An trú tâm trong chánh niệm mới chính là thứ Đức Thế Tôn giảng… có làm được như thế này sau này, ở những cảnh giới thâm sâu bất khả tư nghì mới có thể rõ “không” là gì để mà phấn đấu cấp cảnh an trú tâm trong không.
Khi chúng ta an trú tâm trong chánh niệm, theo thời gian thực tập, chánh niệm sẽ dần dần tiến đến cơ số ít (cứ thực tiễn được điều này là chứng thấy điều này). Khi này, người thực tập đã rất rõ bản thân: Tâm đã gần như rút về vào trong thân và nó đã hầu như không bị sắc trần cảnh hay vọng tưởng lôi kéo đi tứ tung, lan man.
Sự cô đọng tâm lúc này đã thấy thiết thực hiện hữu, nhưng do hành giả vẫn chưa kiết già chứng và trú nên hình tướng thể hiện ra bên ngoài vẫn là hình tướng động và tâm chưa thực sự được cô đọng.
Hành công:
Lúc này, với các sự cụ túc như đã chuẩn bị. Hành giả ngồi kiết già hành công, cô đọng tâm, chứng và trú:
Hành giả an trú tâm vào trong chánh niệm - lúc này chánh niệm chỉ còn là niệm: Quán niệm hơi thở. - Chúng ta luôn luôn đã được nhớ từ đầu đến giờ: Mọi con đường vào Đạo Định đều là qua Quán. Và con đường thênh thang cũng như được sử dụng nhiều nhất khi chỗ này là: Quán niệm hơi thở. Tại sao?
Vì: Có cái hơi thở dẫn dắt. Kể cả lỡ lầm lạc, vô phương vô hướng, chỉ cần còn tỉnh thức lúc đó, nương theo hơi thở là sẽ lại trở về thân. .
Kết quả ở đây: Dù không phá vào cửa Đạo nhưng tâm đã cô đọng, như viên bi. Đủ 6 giác quan sẽ nằm ở trong cái tụ “bi” này. Trong phạm vi thân của mình hành giả có thể hướng tâm chạy khắp toàn thân. Hành giả muốn viên bi tâm này ở đâu trên thân nó sẽ chạy đến đó - tất nhiên hành giả thấy rất rõ vị trí viên bi tâm này hay thấy chính tâm giác của mình. Hành giả đưa bi tâm lên mũi sẽ thấy hơi thở, đưa bi tâm vào tim sẽ thấy nhịp đập, đưa ra chân, tay đầu..v.v. Sẽ thấy chỗ đó…
Bi tâm này chưa vào Đạo nên không có sáng. Cũng đừng dại gì mà “hướng” nó đi đâu ra ngoài thân.
Với bi tâm này, hành giả sẽ khám phá ra rất nhiều diệu dụng. Dù sao, vẫn có câu: Nhẫn đến vô sanh nhẫn. Đây là bước dễ nhất nhưng đó không là cái gì cả, cũng đừng vội vàng xông lên như kiểu thiêu thân vào lửa… cần thời gian để hiểu về cái viên bi tâm này.
Không cô đọng ra bi tâm thì chẳng bao giờ tiến tới chỗ kia, nói gì vào Đạo.
Nhưng có bi tâm, khả năng có vé Pháp Hoa…
Rốt cục, sự an trú tâm vào chánh niệm đơn giản đến mức không thể đơn giản hơn, dù với kết quả này, chúng ta chưa hẳn là đã minh tâm thực sự là thứ gì. Tuy nhiên, an trú tâm vào chánh niệm là một trong những kết quả đầu tiên thiết thực hiện hữu mà người thực hành Đạo Đức Thế Tôn thấy.
Nếu một ngày, chúng ta có rất nhiều niệm hành (chánh niệm) - điều này, chúng ta thấy chúng ta vẫn còn nhiều niệm dù các niệm vọng đã giảm thiểu do tâm thường được an trú vào chánh niệm.
Nếu một ngày chúng ta chỉ có 1 niệm định (định thân) thì khi tâm an trú vào chánh niệm, cả ngày chúng ta đã gần như tiến tới vô niệm. Tuy nhiên, điều này là lý thuyết vì ở thế, không bao giờ duy trì được một niệm như này.
Chúng ta có thể có vài (một số) niệm trong một ngày. Đây là điều kiện lý tưởng để hành công. Dù vậy, để làm được điều này, không hề dễ. Nếu chúng ta định thân trước (ngồi định hành thân) để rồi tu tập ý niệm đưa về cơ số ít niệm - điều này, dường như không mang đến kết quả thù thắng nếu như không muốn nói - khả năng gặp ma sự (tẩu hoả nhập ma) là rất lớn.
Thời Đức Thế Tôn - luôn luôn yêu cầu tất cả Tăng đoàn lẫn chính Ngài phải luôn luôn động thân - hay còn gọi là di chuyển hay còn gọi bằng cái tên kinh hành. Dù là độc cư, an cư, trước khi phá cửa Đạo, sau khi thành Đạo… thì niệm động thân là yêu cầu bắt buộc cùng với an trú tâm vào chánh niệm.
Chỉ khi hành công mới không cần động thân (niệm thân hành) nhưng điều này chỉ là giai đoạn, thời điểm.
Dù Đức Thế Tôn sau khi thành Đạo luôn an trú tâm trong cảnh giới không, nhưng chúng ta cần hiểu rất rõ: An trú tâm trong chánh niệm mới chính là thứ Đức Thế Tôn giảng… có làm được như thế này sau này, ở những cảnh giới thâm sâu bất khả tư nghì mới có thể rõ “không” là gì để mà phấn đấu cấp cảnh an trú tâm trong không.
Khi chúng ta an trú tâm trong chánh niệm, theo thời gian thực tập, chánh niệm sẽ dần dần tiến đến cơ số ít (cứ thực tiễn được điều này là chứng thấy điều này). Khi này, người thực tập đã rất rõ bản thân: Tâm đã gần như rút về vào trong thân và nó đã hầu như không bị sắc trần cảnh hay vọng tưởng lôi kéo đi tứ tung, lan man.
Sự cô đọng tâm lúc này đã thấy thiết thực hiện hữu, nhưng do hành giả vẫn chưa kiết già chứng và trú nên hình tướng thể hiện ra bên ngoài vẫn là hình tướng động và tâm chưa thực sự được cô đọng.
Hành công:
Lúc này, với các sự cụ túc như đã chuẩn bị. Hành giả ngồi kiết già hành công, cô đọng tâm, chứng và trú:
Hành giả an trú tâm vào trong chánh niệm - lúc này chánh niệm chỉ còn là niệm: Quán niệm hơi thở. - Chúng ta luôn luôn đã được nhớ từ đầu đến giờ: Mọi con đường vào Đạo Định đều là qua Quán. Và con đường thênh thang cũng như được sử dụng nhiều nhất khi chỗ này là: Quán niệm hơi thở. Tại sao?
Vì: Có cái hơi thở dẫn dắt. Kể cả lỡ lầm lạc, vô phương vô hướng, chỉ cần còn tỉnh thức lúc đó, nương theo hơi thở là sẽ lại trở về thân. .
Kết quả ở đây: Dù không phá vào cửa Đạo nhưng tâm đã cô đọng, như viên bi. Đủ 6 giác quan sẽ nằm ở trong cái tụ “bi” này. Trong phạm vi thân của mình hành giả có thể hướng tâm chạy khắp toàn thân. Hành giả muốn viên bi tâm này ở đâu trên thân nó sẽ chạy đến đó - tất nhiên hành giả thấy rất rõ vị trí viên bi tâm này hay thấy chính tâm giác của mình. Hành giả đưa bi tâm lên mũi sẽ thấy hơi thở, đưa bi tâm vào tim sẽ thấy nhịp đập, đưa ra chân, tay đầu..v.v. Sẽ thấy chỗ đó…
Bi tâm này chưa vào Đạo nên không có sáng. Cũng đừng dại gì mà “hướng” nó đi đâu ra ngoài thân.
Với bi tâm này, hành giả sẽ khám phá ra rất nhiều diệu dụng. Dù sao, vẫn có câu: Nhẫn đến vô sanh nhẫn. Đây là bước dễ nhất nhưng đó không là cái gì cả, cũng đừng vội vàng xông lên như kiểu thiêu thân vào lửa… cần thời gian để hiểu về cái viên bi tâm này.
Không cô đọng ra bi tâm thì chẳng bao giờ tiến tới chỗ kia, nói gì vào Đạo.
Nhưng có bi tâm, khả năng có vé Pháp Hoa…
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Theo mô tả về viên bi tâm phía trên, có lẽ sẽ nhiều người chứng thấy - đặc biệt những người hay ngồi thiền định và có người chỉ bảo. Tuy nhiên, không phải tất cả đều sẽ là viên bi tâm trong Đạo Đức Thế Tôn.
1/ Phải có Giới Hạnh đầy đủ (cụ túc). Ai cũng rõ rồi, có Giới mới có Định. Không có giới, chỉ sử dụng những phương tiện đặc thù nào đó sẽ tạo ra một viên bi tâm không đầy đủ - viên bi tâm này xuất hiện khi người thực hành thiền định ức chế tâm tạm thời dứt hết các dính mắc trần, được nhiếp vào, nén lại khi thực hành thiền định thâm sâu, người thực hành khả năng cũng thấy được viên bi tâm này. Dù chứng được vậy, nhưng do không có Giới hoặc Giới không đầy đủ cụ túc nên không thể an trú biên bi tâm này. Khi người này xả định, ra ngoài thế, lập tức tâm lại bị lôi kéo và tản mát.
Người thực tập ở trường hợp này hầu như rơi vào ma sự. Đoạ ma. Họ nếu không bị ảo tưởng đã Chứng Đắc nọ kia thì cũng sẽ dùng khả năng này để thoả mãn 5 món ngũ dục lạc ở đời… rồi kết cục cũng như nhau cả.
2/ Dụng công quá mức - có nghĩa là suy nghĩ việc chứng đắc Quả Phật dễ như ăn kẹo, muốn tiến bước tiến thần tốc nên dù giới hạnh có đầy đủ thì tâm vẫn chưa được điều hoà một cách đúng cách - có nghĩa vừa thực hiện thọ giới cụ túc đã cho rằng điều này là đủ mà đâu biết rằng việc tho giới cụ túc muốn chứng và trú trong giới cụ túc cần một thời gian rất dài mới chứng thấy và trú được. Bằng không người thực hiện thọ giới cụ túc 3 ngày cũng như người đã giới hạnh cụ túc 30 năm sao? . Như vậy, chưa chứng trú giới hạnh cụ túc nhưng đã vội vàng đã thực hiện tốt giới cụ túc bèn dụng công cô đọng tâm. Do tâm chưa được điều hoà và bởi thế có vào được định cũng không thể nào thấy được diệu dụng của viên bi tâm.
Hoặc dùng nó bắn ra bên ngoài thân một cách vô minh - còn gọi là hướng tâm diệu dụng trong vô minh - chẳng đạt được kết quả gì.
Hoặc cho rằng viên bi tâm này là kết quả thù thắng nhất rồi. Bèn thực hiện hướng tâm làm cho viên bi tâm định lại - vì rõ viên bi tâm này khi cô đọng ra muốn cho nó chạy đâu trong thân thì nó chạy đó - (nó có thể chạy hơn khỉ và nhanh như suy nghĩ)… cho rằng đây là “tâm khỉ nhảy nhót vọng tưởng” - phải định lại là đạt kết quả thù thắng… nên bèn coi đây như một tụ điểm tâm tưởng, rồi tìm cách định niệm để đạt định diệt thọ tưởng …
Viên bi tâm này, chắc chắn không thể tự sáng bởi vì nó còn chưa đạt được tuệ dù có minh hay không. Dù vậy, viên bi tâm này có những diệu dụng vi diệu, người chứng thấy, an trú được tự đi khám phá.
Viên bi tâm chỉ vô khuyết khi: Giới hạnh của người thực hành là cụ túc và có chứa trong đó tia minh (tia sáng đèn/đuốc). Ở một góc độ ngôn từ khác, viên bi tâm này là tính thấy/giác của lục căn. Nó không chứa tưởng cũng chẳng chứa cái gì… làm nhiều người lầm nghĩ đây là tâm chân như rốt ráo thù thắng cuối cùng.
Sau khi nhẫn đến vô sinh nhẫn, người thực hành đã hiểu rõ về viên bi tâm này. Khả năng sẽ có người thực hành một ý tưởng “vi diệu” rằng: Đưa viên bi tâm này lên quán chiếu luân 6 và hướng nó đi phá màng ngăn cách dĩ thái của luân này như nói phía trước… - khả năng biết đâu nó lại sáng thật…
Dù vậy, một “chủng tử” mầm sen như được truyền lưu đến đây đã có vẻ thấy “nguồn gốc” : Viên Bi tâm và tia minh dính ở trên nó như là một phôi thai hoàn hảo, sắc thân này như là nơi nuôi dưỡng. .
1/ Phải có Giới Hạnh đầy đủ (cụ túc). Ai cũng rõ rồi, có Giới mới có Định. Không có giới, chỉ sử dụng những phương tiện đặc thù nào đó sẽ tạo ra một viên bi tâm không đầy đủ - viên bi tâm này xuất hiện khi người thực hành thiền định ức chế tâm tạm thời dứt hết các dính mắc trần, được nhiếp vào, nén lại khi thực hành thiền định thâm sâu, người thực hành khả năng cũng thấy được viên bi tâm này. Dù chứng được vậy, nhưng do không có Giới hoặc Giới không đầy đủ cụ túc nên không thể an trú biên bi tâm này. Khi người này xả định, ra ngoài thế, lập tức tâm lại bị lôi kéo và tản mát.
Người thực tập ở trường hợp này hầu như rơi vào ma sự. Đoạ ma. Họ nếu không bị ảo tưởng đã Chứng Đắc nọ kia thì cũng sẽ dùng khả năng này để thoả mãn 5 món ngũ dục lạc ở đời… rồi kết cục cũng như nhau cả.
2/ Dụng công quá mức - có nghĩa là suy nghĩ việc chứng đắc Quả Phật dễ như ăn kẹo, muốn tiến bước tiến thần tốc nên dù giới hạnh có đầy đủ thì tâm vẫn chưa được điều hoà một cách đúng cách - có nghĩa vừa thực hiện thọ giới cụ túc đã cho rằng điều này là đủ mà đâu biết rằng việc tho giới cụ túc muốn chứng và trú trong giới cụ túc cần một thời gian rất dài mới chứng thấy và trú được. Bằng không người thực hiện thọ giới cụ túc 3 ngày cũng như người đã giới hạnh cụ túc 30 năm sao? . Như vậy, chưa chứng trú giới hạnh cụ túc nhưng đã vội vàng đã thực hiện tốt giới cụ túc bèn dụng công cô đọng tâm. Do tâm chưa được điều hoà và bởi thế có vào được định cũng không thể nào thấy được diệu dụng của viên bi tâm.
Hoặc dùng nó bắn ra bên ngoài thân một cách vô minh - còn gọi là hướng tâm diệu dụng trong vô minh - chẳng đạt được kết quả gì.
Hoặc cho rằng viên bi tâm này là kết quả thù thắng nhất rồi. Bèn thực hiện hướng tâm làm cho viên bi tâm định lại - vì rõ viên bi tâm này khi cô đọng ra muốn cho nó chạy đâu trong thân thì nó chạy đó - (nó có thể chạy hơn khỉ và nhanh như suy nghĩ)… cho rằng đây là “tâm khỉ nhảy nhót vọng tưởng” - phải định lại là đạt kết quả thù thắng… nên bèn coi đây như một tụ điểm tâm tưởng, rồi tìm cách định niệm để đạt định diệt thọ tưởng …
Viên bi tâm này, chắc chắn không thể tự sáng bởi vì nó còn chưa đạt được tuệ dù có minh hay không. Dù vậy, viên bi tâm này có những diệu dụng vi diệu, người chứng thấy, an trú được tự đi khám phá.
Viên bi tâm chỉ vô khuyết khi: Giới hạnh của người thực hành là cụ túc và có chứa trong đó tia minh (tia sáng đèn/đuốc). Ở một góc độ ngôn từ khác, viên bi tâm này là tính thấy/giác của lục căn. Nó không chứa tưởng cũng chẳng chứa cái gì… làm nhiều người lầm nghĩ đây là tâm chân như rốt ráo thù thắng cuối cùng.
Sau khi nhẫn đến vô sinh nhẫn, người thực hành đã hiểu rõ về viên bi tâm này. Khả năng sẽ có người thực hành một ý tưởng “vi diệu” rằng: Đưa viên bi tâm này lên quán chiếu luân 6 và hướng nó đi phá màng ngăn cách dĩ thái của luân này như nói phía trước… - khả năng biết đâu nó lại sáng thật…
Dù vậy, một “chủng tử” mầm sen như được truyền lưu đến đây đã có vẻ thấy “nguồn gốc” : Viên Bi tâm và tia minh dính ở trên nó như là một phôi thai hoàn hảo, sắc thân này như là nơi nuôi dưỡng. .
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Ai mà đã từng cô ra viên bi tâm này - chắc là “sướng rơn rơn”… ngày mất ăn, đêm mất ngủ.. nhưng nó không là gì cả - đối với Đạo Đức Thế Tôn. Trong Đạo Đức Thế Tôn vẫn được truyền lưu: Đừng có cầm nắm, cho rằng đây là Quả rốt ráo… rồi đi si mê, không buông bỏ được là tự nhiên chấp vào nó không thoát ra được.
Viên bi tâm chắc chắn đã chứa rất nhiều tính chất nhiệm màu - bởi vì thực tế không thiếu người chứng thấy, an trú được vào đây nên chúng ta sẽ rất rõ các tài liệu được truyền lưu theo kiểu “bí ẩn” nào đó có vẻ rất “huyền bí” về viên bi tâm này.
Tuy nhiên, viên bi tâm thực tế chỉ là nơi 6 giác quan thông nhau. Giống như chiếc khăn được thắt 6 nút thì giờ đây được cởi ra. Nó vẫn là chiếc khăn vậy thôi. Trước không thấy chiếc khăn chỉ thấy chiếc khăn bị thắt 6 nút, giờ thì thấy chiếc khăn. Không khác nhau. Cho rằng, cởi ra 6 nút là chiếc khăn tức là giải thoát thì đúng là chưa có tia minh dính ở đó.
Nhưng dù sao, đây là cấp độ còn ở đời, nên khả năng sẽ có nhiều người mang khăn đi làm “nhà ảo thuật” … hưởng 5 món dục lạc… (Dù sao, đời mà…)
Người đã phát nguyện giải thoát và có tia minh dính vào - hẳn sẽ không dừng lại ở đây.
Dù vậy, nếu như để thiên ma xâm nhập (theo như đã trích ở đây hay trong hệ thống giới kinh) - viên bi tâm rất dễ dàng bị thiên ma lôi kéo.
Đến đây chúng ta đã hoàn toàn rõ: Pháp Tác khác Pháp Hướng ra sao. Tác là như lý tác ý - tức là còn ý, chủ động dùng ý tác theo đúng lý đã quán ra. Còn hướng là hướng tâm. Chủ động hướng tâm - mà để hướng tâm có diệu dụng thì ít nhất tâm phải cô đọng được về như viên bi tâm này. Lúc đó hướng tâm tới đâu, nơi đó tâm đến.
Tuy nhiên, đừng dại. Một người đã phát chí nguyện Đạo giải thoát. Khi chưa minh tâm hoàn toàn thì dùng hướng tâm như 1 con dao 2 lưỡi. Hướng đi đâu đó, rồi nó ở đấy luôn không nhiếp được về thì sao? - Bởi vậy, các diệu dụng của bi tâm chỉ dùng để tu Đạo… chứ dùng vào việc gì nữa khi này?
Viên bi tâm chắc chắn đã chứa rất nhiều tính chất nhiệm màu - bởi vì thực tế không thiếu người chứng thấy, an trú được vào đây nên chúng ta sẽ rất rõ các tài liệu được truyền lưu theo kiểu “bí ẩn” nào đó có vẻ rất “huyền bí” về viên bi tâm này.
Tuy nhiên, viên bi tâm thực tế chỉ là nơi 6 giác quan thông nhau. Giống như chiếc khăn được thắt 6 nút thì giờ đây được cởi ra. Nó vẫn là chiếc khăn vậy thôi. Trước không thấy chiếc khăn chỉ thấy chiếc khăn bị thắt 6 nút, giờ thì thấy chiếc khăn. Không khác nhau. Cho rằng, cởi ra 6 nút là chiếc khăn tức là giải thoát thì đúng là chưa có tia minh dính ở đó.
Nhưng dù sao, đây là cấp độ còn ở đời, nên khả năng sẽ có nhiều người mang khăn đi làm “nhà ảo thuật” … hưởng 5 món dục lạc… (Dù sao, đời mà…)
Người đã phát nguyện giải thoát và có tia minh dính vào - hẳn sẽ không dừng lại ở đây.
Dù vậy, nếu như để thiên ma xâm nhập (theo như đã trích ở đây hay trong hệ thống giới kinh) - viên bi tâm rất dễ dàng bị thiên ma lôi kéo.
Đến đây chúng ta đã hoàn toàn rõ: Pháp Tác khác Pháp Hướng ra sao. Tác là như lý tác ý - tức là còn ý, chủ động dùng ý tác theo đúng lý đã quán ra. Còn hướng là hướng tâm. Chủ động hướng tâm - mà để hướng tâm có diệu dụng thì ít nhất tâm phải cô đọng được về như viên bi tâm này. Lúc đó hướng tâm tới đâu, nơi đó tâm đến.
Tuy nhiên, đừng dại. Một người đã phát chí nguyện Đạo giải thoát. Khi chưa minh tâm hoàn toàn thì dùng hướng tâm như 1 con dao 2 lưỡi. Hướng đi đâu đó, rồi nó ở đấy luôn không nhiếp được về thì sao? - Bởi vậy, các diệu dụng của bi tâm chỉ dùng để tu Đạo… chứ dùng vào việc gì nữa khi này?
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Như vậy, chúng ta đã thấy tầm quan trọng của việc an trú tâm trong chánh niệm. - Điều mà hầu như các vị giảng sư nào xưa nay đều nhắc đến cho môn sinh đệ tử… nhưng liệu có mấy ai thực sự hiểu và hành trì được?
Nếu không an trú tâm trong chánh niệm thì chánh niệm để làm gì? - Nên việc người thực tập từ xưa đến nay ngộ nhận về chánh niệm - họ ngộ nhận bản thân biết chánh niệm, đang chánh niệm… nhưng thực tế là: Hành trong Vô minh.
Chánh niệm trước tiên phải là một niệm hành. Chánh niệm không thể là một niệm tưởng. Kể cả Ý hành cũng khác với ý tưởng. Trong đó, ý hành có chứa chánh niệm, còn ý tưởng chỉ là một niệm vọng tưởng.
Ví dụ: Khi tôi ăn cơm, tôi biết tôi đang ăn cơm hay khi làm việc A tôi biết tôi đang làm việc A thì các niệm khác khi đang thực hành niệm chánh niệm trên nếu xuất hiện đều là niệm vọng tưởng kể cả là niệm Phật. Như vậy, để tâm an trú trong chánh niệm, không phải là một việc dễ. Nó cần sự thực hành (tu tập) và thời gian kiên trì thực tập.
- Khi tôi Quán, tôi biết tôi đang Quán. - Vậy là lúc này đang chánh niệm ý hành. Rất rõ, niệm Quán hay ý hành khác hoàn toàn với ý tưởng, hay niệm vọng tưởng.
Tiếp ví dụ: Khi ăn cơm tôi biết tôi đang ăn cơm. Trong quá trình thực hiện hành này, với người mới bắt đầu thực tập sẽ thấy vô lượng các niệm sẽ xuất hiện trong quá trình hành (ăn cơm) dù không muốn nghĩ, tưởng, ý, không muốn các niệm khác xuất hiện… nhưng nó vẫn xuất hiện một cách “vô thức”. - Đơn giản vì thế giới điên đảo này là vậy, vì thế mới là tù ngục, mới là luân hồi, mới là không giải thoát. Người thực tập, lúc này dù có hiểu biết, tri kiến về an trú tâm trong chánh niệm nhưng vẫn rất khó làm cho tâm an trú định lạc trong chánh niệm (ăn).
Muốn có bước tiến khi đã tri kiến về việc tâm an trú trong chánh niệm thì người thực tập phải quán thấy (nhận thấy) điều trên - tức là khi ta thực hành một chánh niệm ăn nhưng trong lúc đó dù có cố gắng an trú tâm vào chánh niệm này thế nào chăng nữa thì nó vẫn cứ bị lôi kéo đi miên man đủ các loại kiểu niệm: - Dòng suy nghĩ gì đó miên man (ý tưởng). Sắc trần lôi kéo (như nghe ai đó nói, nghe đài, ti vi… rồi tâm bị kéo theo xuất hiện niệm vọng, như nhìn cảnh khi ăn, đồ ăn thức uống, vị trí, hành động của người khác, vật khác… rồi tâm bị lôi kéo theo xuất hiện niệm vọng, như đồ ăn hương vị ra sao hay trong lúc ăn bị hương vị sắc trần lôi kéo… xúc chạm cũng vậy, có cái gì đó xúc chạm vào thân , vị trí đang ngồi… - tâm đều bị lôi kéo theo..) - Rất khó để an trú tâm trong chánh niệm.
Như vậy, để hoá duyên độ hoá các niệm vọng, hay để các niệm vọng không khởi sinh hoặc hạn chế khởi sinh khi an trú tâm trong chánh niệm - người thực tập phải có phương pháp.
Bao nhiêu ngàn năm nay, chúng ta đều biết: Các bài giảng thì rất dễ tìm, rất dễ nghe, đọc để nhớ… nhưng tìm ở trong bài giảng cái phương pháp để làm được thứ mà bài giảng nói thì lại hầu như rất khó.
Ví dụ: Giả sử chúng ta đang giảng bài hay được nghe giảng bài về: An trú tâm trong chánh niệm, rất hay, rất hợp lý, rất Đạo, rất thần diệu…. Nhưng nào có ai áp dụng nổi ra kết quả rốt ráo? - Các bài giảng pháp khác thường cũng như này.
Do thế tri kiến, hiểu biết chỉ là 1 thứ, chỉ là 1 duyên cần (điều kiện cần). Muốn có được kết quả hiện hữu thiết thực, người thực tập còn phải kiên trì vô lượng (nhẫn vô sanh nhẫn) thực hiện cái phương pháp mà bản thân đã nhận thấy là phù hợp với căn tánh bản thân.
Giống như hiểu biết về con đường từ vị trí tới đích đến. Rõ về phương tiện đi là ô tô. Còn phải biết lái ô tô hay biết dùng phương tiện.
Ở đây, chúng ta thấy có đủ tri thức về việc các giảng sư xưa nay ngàn đời nói về các phương tiện và tôi cũng tin rằng chúng ta - những người đọc được tập luận tác này đều ít nhiều biết rất nhiều về các phương tiện (pháp tu) - không phải nhờ tập luận này giới thiệu mà đã từ lâu người đọc đã hiểu rõ chân tơ kẽ tóc về nó nhờ nhiều cách thức khác nhau.
Nhưng tri kiến, hiểu biết, nắm rõ phương tiện tu là 1 chuyện. Còn việc sử dụng nó thế nào là một việc khác hoàn toàn mà chúng ta thấy rất rõ: Khả năng kể cả giảng sư lần vô lượng người từ xa xưa đến nay - dù hiểu biết rất rõ về phương tiện nhưng cũng không biết dùng.
Chúng ta ngộ nhận bao đời bao năm với nhau rằng: An trú tâm trong chánh niệm là một pháp phương tiện và cùng ngộ nhận với nhau rằng: Chúng ta phải thực tập điều này, phải làm điều này, phải miên mật siêng năng làm điều này…v.v. - Đúng vậy, nhưng có phải ai cũng làm được? - Dù đã hiểu biết tri kiến hết về điều này.
Vậy sử dụng phương tiện: An trú tâm trong chánh niệm như thế nào?
Đơn giản là: Khi đã nhận ra chánh niệm, an trú tâm vào chánh niệm đó thì lúc này, trong khi chánh niệm: Hãy Quán về chánh niệm này. Thế thôi, đơn giản không.
Mọi phương tiện khác cũng thế.
Quán về chánh niệm là thế nào?
Ví dụ: Chánh niệm khi tôi ăn tôi biết tôi đang ăn.
Khi tâm an trú ở trong chánh niệm này. Để không thất niệm, để tâm được an trú hãy: Quán chánh kiến về ăn, chánh tư duy về ăn, Hãy quán chánh ngữ về ăn, chánh thân về ăn, chánh nghiệp về ăn: Tức là hãy để dòng niệm trong hành ăn phục vụ việc quán tưởng ăn. Ý giác được tỉnh thức trong hành ăn, tức là chúng ta chỉ có những niệm quán phục vụ cái hành hiện thời (ở đây là niệm hành ăn). Chúng ta không cho ý chạy ra bên ngoài làm cái gì nữa thì các niệm vọng tưởng của ý nằm ngoài nhóm niệm quán về ăn nó có còn xuất hiện?
Thực tập điều này, có vẻ là hơi “buồn cười” với thường thức. - Thường được nghe và biết: Vô niệm - tức là đừng nghĩ, niệm gì mới là Đạo. Vậy mà, ở đây lại nói khi an trú tâm trong chánh niệm thì hãy cứ quán tưởng (hay dòng suy nghĩ tư duy) về hành đang diễn ra.
Vậy, chúng ta cũng sẽ thấy: Tại sao nói định mà từ Đức Thế Tôn tới tất cả đệ tử sau này thực tập theo đều: Đi (động)?
Chỉ người thực tập được điều trên mới thấy kết quả hiện hữu thiết thực.
Như vậy: Khi bắt đầu an trú tâm được trong chánh niệm, dù mới chỉ là tập toẹ những bước đầu tiên hay chập chững nhận biết, phân biệt về chánh niệm và an tâm vào niệm hành này… thì người thực tập phải thấy kết quả hiện hữu thiết thực ngay: Tâm tình bình hoà dần (tức được bình ổn, an lạc hơn, đỡ động hơn), các việc hay vật (sắc trần) đã bắt đầu khó lôi kéo tâm tình người này chạy theo một cách vô thức, người này điềm tĩnh dần. Đứng đắn oai nghi dần… các cảm thọ do sắc trần, danh sắc mang đến bắt đầu nhạt nhoà dần và dần dần thấy nó thật bình thường vô vị… các tưởng ý hay ý tưởng hay suy nghĩ miên man.. dần dần không còn nhiều nữa…
Tại sao, Quán (dù lúc này là dùng Quán Tưởng - tức là suy nghĩ, tìm tòi, tư duy, niệm niệm niệm) về cái niệm hành (chánh niệm) đang diễn ra tiếp diễn đó lại là an trú tâm trong chánh niệm - và mang đến kết quả trên. Không những thế, nhờ sự quán chiếu thường xuyên và sâu sắc tới cùng như vậy… mà cái “trí huệ” giải thoát lại ngày càng sáng bừng lên.
Chỉ có thực hành (tu) mới thấy được chứ ngồi tưởng thì tưởng thêm rất lâu cũng vẫn không làm sao thấy được ánh sáng nhiệm màu.
Đó là tỉnh giác.
Nếu không an trú tâm trong chánh niệm thì chánh niệm để làm gì? - Nên việc người thực tập từ xưa đến nay ngộ nhận về chánh niệm - họ ngộ nhận bản thân biết chánh niệm, đang chánh niệm… nhưng thực tế là: Hành trong Vô minh.
Chánh niệm trước tiên phải là một niệm hành. Chánh niệm không thể là một niệm tưởng. Kể cả Ý hành cũng khác với ý tưởng. Trong đó, ý hành có chứa chánh niệm, còn ý tưởng chỉ là một niệm vọng tưởng.
Ví dụ: Khi tôi ăn cơm, tôi biết tôi đang ăn cơm hay khi làm việc A tôi biết tôi đang làm việc A thì các niệm khác khi đang thực hành niệm chánh niệm trên nếu xuất hiện đều là niệm vọng tưởng kể cả là niệm Phật. Như vậy, để tâm an trú trong chánh niệm, không phải là một việc dễ. Nó cần sự thực hành (tu tập) và thời gian kiên trì thực tập.
- Khi tôi Quán, tôi biết tôi đang Quán. - Vậy là lúc này đang chánh niệm ý hành. Rất rõ, niệm Quán hay ý hành khác hoàn toàn với ý tưởng, hay niệm vọng tưởng.
Tiếp ví dụ: Khi ăn cơm tôi biết tôi đang ăn cơm. Trong quá trình thực hiện hành này, với người mới bắt đầu thực tập sẽ thấy vô lượng các niệm sẽ xuất hiện trong quá trình hành (ăn cơm) dù không muốn nghĩ, tưởng, ý, không muốn các niệm khác xuất hiện… nhưng nó vẫn xuất hiện một cách “vô thức”. - Đơn giản vì thế giới điên đảo này là vậy, vì thế mới là tù ngục, mới là luân hồi, mới là không giải thoát. Người thực tập, lúc này dù có hiểu biết, tri kiến về an trú tâm trong chánh niệm nhưng vẫn rất khó làm cho tâm an trú định lạc trong chánh niệm (ăn).
Muốn có bước tiến khi đã tri kiến về việc tâm an trú trong chánh niệm thì người thực tập phải quán thấy (nhận thấy) điều trên - tức là khi ta thực hành một chánh niệm ăn nhưng trong lúc đó dù có cố gắng an trú tâm vào chánh niệm này thế nào chăng nữa thì nó vẫn cứ bị lôi kéo đi miên man đủ các loại kiểu niệm: - Dòng suy nghĩ gì đó miên man (ý tưởng). Sắc trần lôi kéo (như nghe ai đó nói, nghe đài, ti vi… rồi tâm bị kéo theo xuất hiện niệm vọng, như nhìn cảnh khi ăn, đồ ăn thức uống, vị trí, hành động của người khác, vật khác… rồi tâm bị lôi kéo theo xuất hiện niệm vọng, như đồ ăn hương vị ra sao hay trong lúc ăn bị hương vị sắc trần lôi kéo… xúc chạm cũng vậy, có cái gì đó xúc chạm vào thân , vị trí đang ngồi… - tâm đều bị lôi kéo theo..) - Rất khó để an trú tâm trong chánh niệm.
Như vậy, để hoá duyên độ hoá các niệm vọng, hay để các niệm vọng không khởi sinh hoặc hạn chế khởi sinh khi an trú tâm trong chánh niệm - người thực tập phải có phương pháp.
Bao nhiêu ngàn năm nay, chúng ta đều biết: Các bài giảng thì rất dễ tìm, rất dễ nghe, đọc để nhớ… nhưng tìm ở trong bài giảng cái phương pháp để làm được thứ mà bài giảng nói thì lại hầu như rất khó.
Ví dụ: Giả sử chúng ta đang giảng bài hay được nghe giảng bài về: An trú tâm trong chánh niệm, rất hay, rất hợp lý, rất Đạo, rất thần diệu…. Nhưng nào có ai áp dụng nổi ra kết quả rốt ráo? - Các bài giảng pháp khác thường cũng như này.
Do thế tri kiến, hiểu biết chỉ là 1 thứ, chỉ là 1 duyên cần (điều kiện cần). Muốn có được kết quả hiện hữu thiết thực, người thực tập còn phải kiên trì vô lượng (nhẫn vô sanh nhẫn) thực hiện cái phương pháp mà bản thân đã nhận thấy là phù hợp với căn tánh bản thân.
Giống như hiểu biết về con đường từ vị trí tới đích đến. Rõ về phương tiện đi là ô tô. Còn phải biết lái ô tô hay biết dùng phương tiện.
Ở đây, chúng ta thấy có đủ tri thức về việc các giảng sư xưa nay ngàn đời nói về các phương tiện và tôi cũng tin rằng chúng ta - những người đọc được tập luận tác này đều ít nhiều biết rất nhiều về các phương tiện (pháp tu) - không phải nhờ tập luận này giới thiệu mà đã từ lâu người đọc đã hiểu rõ chân tơ kẽ tóc về nó nhờ nhiều cách thức khác nhau.
Nhưng tri kiến, hiểu biết, nắm rõ phương tiện tu là 1 chuyện. Còn việc sử dụng nó thế nào là một việc khác hoàn toàn mà chúng ta thấy rất rõ: Khả năng kể cả giảng sư lần vô lượng người từ xa xưa đến nay - dù hiểu biết rất rõ về phương tiện nhưng cũng không biết dùng.
Chúng ta ngộ nhận bao đời bao năm với nhau rằng: An trú tâm trong chánh niệm là một pháp phương tiện và cùng ngộ nhận với nhau rằng: Chúng ta phải thực tập điều này, phải làm điều này, phải miên mật siêng năng làm điều này…v.v. - Đúng vậy, nhưng có phải ai cũng làm được? - Dù đã hiểu biết tri kiến hết về điều này.
Vậy sử dụng phương tiện: An trú tâm trong chánh niệm như thế nào?
Đơn giản là: Khi đã nhận ra chánh niệm, an trú tâm vào chánh niệm đó thì lúc này, trong khi chánh niệm: Hãy Quán về chánh niệm này. Thế thôi, đơn giản không.
Mọi phương tiện khác cũng thế.
Quán về chánh niệm là thế nào?
Ví dụ: Chánh niệm khi tôi ăn tôi biết tôi đang ăn.
Khi tâm an trú ở trong chánh niệm này. Để không thất niệm, để tâm được an trú hãy: Quán chánh kiến về ăn, chánh tư duy về ăn, Hãy quán chánh ngữ về ăn, chánh thân về ăn, chánh nghiệp về ăn: Tức là hãy để dòng niệm trong hành ăn phục vụ việc quán tưởng ăn. Ý giác được tỉnh thức trong hành ăn, tức là chúng ta chỉ có những niệm quán phục vụ cái hành hiện thời (ở đây là niệm hành ăn). Chúng ta không cho ý chạy ra bên ngoài làm cái gì nữa thì các niệm vọng tưởng của ý nằm ngoài nhóm niệm quán về ăn nó có còn xuất hiện?
Thực tập điều này, có vẻ là hơi “buồn cười” với thường thức. - Thường được nghe và biết: Vô niệm - tức là đừng nghĩ, niệm gì mới là Đạo. Vậy mà, ở đây lại nói khi an trú tâm trong chánh niệm thì hãy cứ quán tưởng (hay dòng suy nghĩ tư duy) về hành đang diễn ra.
Vậy, chúng ta cũng sẽ thấy: Tại sao nói định mà từ Đức Thế Tôn tới tất cả đệ tử sau này thực tập theo đều: Đi (động)?
Chỉ người thực tập được điều trên mới thấy kết quả hiện hữu thiết thực.
Như vậy: Khi bắt đầu an trú tâm được trong chánh niệm, dù mới chỉ là tập toẹ những bước đầu tiên hay chập chững nhận biết, phân biệt về chánh niệm và an tâm vào niệm hành này… thì người thực tập phải thấy kết quả hiện hữu thiết thực ngay: Tâm tình bình hoà dần (tức được bình ổn, an lạc hơn, đỡ động hơn), các việc hay vật (sắc trần) đã bắt đầu khó lôi kéo tâm tình người này chạy theo một cách vô thức, người này điềm tĩnh dần. Đứng đắn oai nghi dần… các cảm thọ do sắc trần, danh sắc mang đến bắt đầu nhạt nhoà dần và dần dần thấy nó thật bình thường vô vị… các tưởng ý hay ý tưởng hay suy nghĩ miên man.. dần dần không còn nhiều nữa…
Tại sao, Quán (dù lúc này là dùng Quán Tưởng - tức là suy nghĩ, tìm tòi, tư duy, niệm niệm niệm) về cái niệm hành (chánh niệm) đang diễn ra tiếp diễn đó lại là an trú tâm trong chánh niệm - và mang đến kết quả trên. Không những thế, nhờ sự quán chiếu thường xuyên và sâu sắc tới cùng như vậy… mà cái “trí huệ” giải thoát lại ngày càng sáng bừng lên.
Chỉ có thực hành (tu) mới thấy được chứ ngồi tưởng thì tưởng thêm rất lâu cũng vẫn không làm sao thấy được ánh sáng nhiệm màu.
Đó là tỉnh giác.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Các Chư Vị Tôn Đức!
Thừa oai lực Đức Thế Tôn, để “Đại Giới Đàn Pháp Hoa” được sớm thành lập, kính mong các Chư Vị Hộ Pháp trong hai mươi mốt ngày tới nhiếp phục hết tất cả các chư ma đang gây náo loạn, điều phục hết tất cả các ma vương, thiên ma, để đợi thời thịnh hội, ánh sáng muôn màu sẽ tịnh hoá phổ độ muôn ma.
Các Chư Vị Tôn Đức!
Thừa oai lực Đức Thế Tôn, để “Đại Giới Đàn Pháp Hoa” được sớm thành lập, kính mong các Chư Vị Hộ Pháp trong hai mươi mốt ngày tới nhiếp phục hết tất cả các chư ma đang gây náo loạn, điều phục hết tất cả các ma vương, thiên ma, để đợi thời thịnh hội, ánh sáng muôn màu sẽ tịnh hoá phổ độ muôn ma.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
(72 tiếp)
An trú tâm và tâm đâu mà an? - Hai thứ này luôn đi song hành với nhau. Nếu như biết rõ được tâm là gì hay tìm được tâm ở đâu để mà an thì đã “đắc Đạo” rồi. Những thứ tâm điên đảo vọng tưởng - đó không phải là đối tượng an tâm - cần phải nhớ, bởi vì: Vốn dĩ nó đã điên đảo vọng tưởng, lại còn đi an được?
Nên không thể an được cái gọi là tâm điên đảo vọng tưởng - chính xác là cái tâm của tự mỗi người đang thấy đó - những cái thấy này đều là điên đảo vọng tưởng hế. Tâm yêu tâm ái tâm nọ tâm kia.v.v. Đều là những cái thấy điên đảo vọng tưởng cả. Nên không phải an cái tâm này.
An cái tâm nào? - An cái tâm không gì cả. Nói như này rất dễ sợ khi bị hiểu theo nghĩa tâm diệu không, duy không. Nhưng vốn dĩ cái tâm này, không chứa gì mà, như đã nói phía trước, nếu cô đọng nó ra viên bi tâm đã nói kia thì rõ là cái viên bi đó “rỗng tênh” không gì cả.
Ví dụ: Chúng ta đang đi đường. Khi chúng ta đang đi, chúng ta suy nghĩ về món ăn buổi trưa, buổi tối, nào là ăn cái gì, mua cái gì, nấu ra sao hay ra hàng ra quán hay làm sao làm sao.v.v. Đến bữa ăn, trong mâm cơm gia đình, chúng ta nói chuyện về chuyện đi đường hôm nay, gặp tắc đường, gặp bọn ba trợn, gặp nọ gặp kia.v.v.v . Mọi người có thấy buồn cười và điên đảo không?
Rất rõ sự điên đảo hàng ngày hàng giờ hàng phút ở chúng ta. Nhưng chúng ta lại cho rằng: Điều này là hiển nhiên. Kỳ không?
Ví dụ trên còn chưa đánh vào sâu thẳm cái sự điên đảo của tâm tưởng luân hồi như: Khi ăn cơm thì dạy dỗ con ( dù dạy điều đúng nhé). Khi con ngồi học thì nói chuyện cô giáo nhắn tin phê bình con chểnh mảng rồi một lô xích xông các lời nói gì gì về chuyện đe nẹt thúc ép con…
Khi 2 vợ chồng/gia đình ngồi xem phim thì nói chuyện nhà hàng xóm, khi đi ngủ thì lại nói chuyện thu chi, khi ở nơi làm việc làm việc thì lại nói chuyện gia đình..v.v
Chẳng lẽ chúng ta không thấy buồn cười và điên đảo?
Những điều này đều là điên đảo và thế giới này vốn là vậy. Vì là vậy nên mới được Đức Thế Tôn gọi là lao tù - thế giới ta bà - mới là luân hồi, không giải thoát.
Chúng ta cứ nghĩ rằng chúng ta đang làm việc nhưng lại nghĩ về con là lo cho con là tâm yêu thương con, dành hết tất cả cho con - điều này thật hoang đường và điên đảo. Cũng vậy, với mọi đối tượng (chúng sinh khác). Kể cả là nghĩ về chính bản thân khi làm việc - nó cũng hoang đường điên đảo biết bao nhiêu.
Một ngày chúng ta có 24 giờ. Tạo hoá cho chúng ta và chúng sinh một sự công bằng - ít nhất là ở mặt thời gian này.
Chúng ta điên đảo ở chỗ: Thời điểm a làm việc A nhưng lại nghĩ hoặc (nói) về việc B. Có nghĩa ý hành khẩu hành thân hành của chúng ta có KHỚP nhau đâu - chả gây nghiệp?
Đến thời điểm b làm (gặp) việc B thì lại đang nghĩ/nói về việc A. - Điên đảo không?
Nếu chúng ta sắp xếp lại thân khẩu ý - thời điểm nào làm việc nào thì cả thân khẩu ý chỉ tập trung vào việc đó - gọi là tỉnh giác. Xong cái việc này rồi thì đã đến thời điểm khác, lại đến việc khác thì lại cho thân khẩu ý chỉ tỉnh giác vào việc tiếp diễn này thôi…
Vẫn là 24 giờ, vẫn là ngần đó việc (ngần đó pháp trần, hành trần), làm gì có thiếu, làm gì có thừa… nhưng sự khác nhau sẽ rất nhiều - thực tế là biết. Khó đó, tu tập chán mới làm được.
Sân si tham mạn nghi nó nổi lên, tích luỹ lên ở cái chỗ thân khẩu ý nó đá nhau như chính sự đấu đá của cái ta. Vậy thôi.
Trong góc độ khoa học hiện đại.
Nếu x là sự kiện. Như đã nói phía đầu tập luận. Một hàm số f(x) mang theo biến t (tức biến thời gian trôi) sẽ là hàm 2 ẩn số f(x,t). Trong đó, x là tập sự kiện (hay gọi là tập pháp/tập nghiệp), t là thời gian (quá khứ hiện tại vị lai).
Vì x là tập sự kiện nên x không mang hệ số mũ.
Nếu sử dụng Đạo Hàm hàm số f(x,t) theo x thì ta sẽ có hàm đạo hàm là f’(t).
Rất rõ ràng, hàm f’(t) không phụ thuộc vào sự kiện x. Nếu thay t bằng thời điểm hiện tại hay giây phút hiện tại thì trị số của hàm f’(t) luôn là 1 trị số không đổi với mọi sự kiễn hay hàm f’(t) là không đổi (thường hằng) với vô lượng pháp (x) dù nó là sự kiện gì đã đến, đang đến, chưa đến…
Như vậy, từ Đạo Hàm trong toán học mà nói theo ngôn ngữ Việt - đưa vào đây, khả năng giải nghĩa thành: Hàm nghĩa của Đạo.
Rõ ràng, ai cũng biết: Ta hay tâm ta mà ta nào cũng đang thấy đây là 1 tập hợp các sự kiện quá khứ, hiện tại, tương lai (suy nghĩ, dự định, ý tưởng, mục tiêu..v..v. Về tương lai). Vậy mà, như trên, đạo hàm cái thứ này thì tất cả lại là thường hằng với giây phút hiện tại.
Vậy, rất rõ, các sự kiện (pháp) có cái gì là quan trọng?
Cái quan trọng mà ai cũng đang tìm nhưng thực tế nó ngay trong mỗi người: Cái thấy giây phút hiện tại.
An trú tâm và tâm đâu mà an? - Hai thứ này luôn đi song hành với nhau. Nếu như biết rõ được tâm là gì hay tìm được tâm ở đâu để mà an thì đã “đắc Đạo” rồi. Những thứ tâm điên đảo vọng tưởng - đó không phải là đối tượng an tâm - cần phải nhớ, bởi vì: Vốn dĩ nó đã điên đảo vọng tưởng, lại còn đi an được?
Nên không thể an được cái gọi là tâm điên đảo vọng tưởng - chính xác là cái tâm của tự mỗi người đang thấy đó - những cái thấy này đều là điên đảo vọng tưởng hế. Tâm yêu tâm ái tâm nọ tâm kia.v.v. Đều là những cái thấy điên đảo vọng tưởng cả. Nên không phải an cái tâm này.
An cái tâm nào? - An cái tâm không gì cả. Nói như này rất dễ sợ khi bị hiểu theo nghĩa tâm diệu không, duy không. Nhưng vốn dĩ cái tâm này, không chứa gì mà, như đã nói phía trước, nếu cô đọng nó ra viên bi tâm đã nói kia thì rõ là cái viên bi đó “rỗng tênh” không gì cả.
Ví dụ: Chúng ta đang đi đường. Khi chúng ta đang đi, chúng ta suy nghĩ về món ăn buổi trưa, buổi tối, nào là ăn cái gì, mua cái gì, nấu ra sao hay ra hàng ra quán hay làm sao làm sao.v.v. Đến bữa ăn, trong mâm cơm gia đình, chúng ta nói chuyện về chuyện đi đường hôm nay, gặp tắc đường, gặp bọn ba trợn, gặp nọ gặp kia.v.v.v . Mọi người có thấy buồn cười và điên đảo không?
Rất rõ sự điên đảo hàng ngày hàng giờ hàng phút ở chúng ta. Nhưng chúng ta lại cho rằng: Điều này là hiển nhiên. Kỳ không?
Ví dụ trên còn chưa đánh vào sâu thẳm cái sự điên đảo của tâm tưởng luân hồi như: Khi ăn cơm thì dạy dỗ con ( dù dạy điều đúng nhé). Khi con ngồi học thì nói chuyện cô giáo nhắn tin phê bình con chểnh mảng rồi một lô xích xông các lời nói gì gì về chuyện đe nẹt thúc ép con…
Khi 2 vợ chồng/gia đình ngồi xem phim thì nói chuyện nhà hàng xóm, khi đi ngủ thì lại nói chuyện thu chi, khi ở nơi làm việc làm việc thì lại nói chuyện gia đình..v.v
Chẳng lẽ chúng ta không thấy buồn cười và điên đảo?
Những điều này đều là điên đảo và thế giới này vốn là vậy. Vì là vậy nên mới được Đức Thế Tôn gọi là lao tù - thế giới ta bà - mới là luân hồi, không giải thoát.
Chúng ta cứ nghĩ rằng chúng ta đang làm việc nhưng lại nghĩ về con là lo cho con là tâm yêu thương con, dành hết tất cả cho con - điều này thật hoang đường và điên đảo. Cũng vậy, với mọi đối tượng (chúng sinh khác). Kể cả là nghĩ về chính bản thân khi làm việc - nó cũng hoang đường điên đảo biết bao nhiêu.
Một ngày chúng ta có 24 giờ. Tạo hoá cho chúng ta và chúng sinh một sự công bằng - ít nhất là ở mặt thời gian này.
Chúng ta điên đảo ở chỗ: Thời điểm a làm việc A nhưng lại nghĩ hoặc (nói) về việc B. Có nghĩa ý hành khẩu hành thân hành của chúng ta có KHỚP nhau đâu - chả gây nghiệp?
Đến thời điểm b làm (gặp) việc B thì lại đang nghĩ/nói về việc A. - Điên đảo không?
Nếu chúng ta sắp xếp lại thân khẩu ý - thời điểm nào làm việc nào thì cả thân khẩu ý chỉ tập trung vào việc đó - gọi là tỉnh giác. Xong cái việc này rồi thì đã đến thời điểm khác, lại đến việc khác thì lại cho thân khẩu ý chỉ tỉnh giác vào việc tiếp diễn này thôi…
Vẫn là 24 giờ, vẫn là ngần đó việc (ngần đó pháp trần, hành trần), làm gì có thiếu, làm gì có thừa… nhưng sự khác nhau sẽ rất nhiều - thực tế là biết. Khó đó, tu tập chán mới làm được.
Sân si tham mạn nghi nó nổi lên, tích luỹ lên ở cái chỗ thân khẩu ý nó đá nhau như chính sự đấu đá của cái ta. Vậy thôi.
Trong góc độ khoa học hiện đại.
Nếu x là sự kiện. Như đã nói phía đầu tập luận. Một hàm số f(x) mang theo biến t (tức biến thời gian trôi) sẽ là hàm 2 ẩn số f(x,t). Trong đó, x là tập sự kiện (hay gọi là tập pháp/tập nghiệp), t là thời gian (quá khứ hiện tại vị lai).
Vì x là tập sự kiện nên x không mang hệ số mũ.
Nếu sử dụng Đạo Hàm hàm số f(x,t) theo x thì ta sẽ có hàm đạo hàm là f’(t).
Rất rõ ràng, hàm f’(t) không phụ thuộc vào sự kiện x. Nếu thay t bằng thời điểm hiện tại hay giây phút hiện tại thì trị số của hàm f’(t) luôn là 1 trị số không đổi với mọi sự kiễn hay hàm f’(t) là không đổi (thường hằng) với vô lượng pháp (x) dù nó là sự kiện gì đã đến, đang đến, chưa đến…
Như vậy, từ Đạo Hàm trong toán học mà nói theo ngôn ngữ Việt - đưa vào đây, khả năng giải nghĩa thành: Hàm nghĩa của Đạo.
Rõ ràng, ai cũng biết: Ta hay tâm ta mà ta nào cũng đang thấy đây là 1 tập hợp các sự kiện quá khứ, hiện tại, tương lai (suy nghĩ, dự định, ý tưởng, mục tiêu..v..v. Về tương lai). Vậy mà, như trên, đạo hàm cái thứ này thì tất cả lại là thường hằng với giây phút hiện tại.
Vậy, rất rõ, các sự kiện (pháp) có cái gì là quan trọng?
Cái quan trọng mà ai cũng đang tìm nhưng thực tế nó ngay trong mỗi người: Cái thấy giây phút hiện tại.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Trong hệ thống giới Kinh như Kinh Đảnh Thủ Lăng Nghiêm có ví dụ về Chủ - Khách mô tả cho khái niệm: Tâm - Trần
Khi chúng ta coi chúng ta là chủ, cái chủ này không phải ngã hay tâm điên đảo vọng tưởng như ai cũng đang thấy. Nó là cái Tâm chân như thường hằng không chứa gì, được ông tổ thứ 6 trong Thiền Môn hay gọi là “rỗng tênh không Thánh” đó. Cái tâm này, không chứa gì, gọi là chủ, chính là hiện thân của 1 quán trọ có 6 cửa đón khách. 6 cửa này là 6 căn. Các trần đi vào tâm hay vào chủ hay vào quán trọ gọi là khách.
Chúng ta sống ở đời, không thể không tiếp khách vì chúng ta là tâm là chủ là hiện thân của “quán trọ”. Nên nếu không tiếp khách trần thì đây là cảnh giới xuất thế gian vì lúc này chỉ còn tiếp khách Thánh khách Thần. Đã ở đời thì khách trần sẽ đến, đã đến là phải tiếp. Đừng ảo mộng tới mức ở đời lại đi đóng được 6 cửa quán trọ, treo biển ở cửa không tiếp khách trần, chỉ tiếp khách Thánh khách Phật…
Vậy thì là cứ thế luân hồi?
Tu kiểu gì khi mà ông chủ là tâm là hiện thân của quán trọ, khách trần sẽ vào?
Có 1 thứ, chúng ta bị lầm lẫn hoặc là bị nghe giảng giải sai hoặc là tự kiến giải sai.
- Khách trần là trần cảnh - chắc ai cũng dễ hiểu.
Vấn đề: Ông chủ là ai.
Nhiều người có bản ngã to đùng - hay chưa hiểu 1 tý ty gì về vô ngã nên thấy ví dụ của Đức Thế Tôn trong Kinh bèn kiến giải rằng: Chúng ta là ông chủ của cái quán trọ này. Tức là có cái quán trọ 6 cửa, có ông chủ. Tức là có 2 thể ở đây. Một là cái quán trọ 6 cửa, hai là có ông chủ của cái quán trọ đó… tri kiến này đã lầm lạc so với chân như thường hằng thì làm sao giải thoát?
- Ông chủ là quán trọ 6 cửa. Quán trọ 6 cửa là ông chủ. Không có cái tôi, cái ta, cái ngã nào ở đây. Chỉ có cái tâm là cái quán trọ 6 cửa là ông chủ quán trọ. Vậy thôi. Ba thứ này là 1 mà là 3 cũng là 1 là 2 là bao nhiêu cũng là như vậy, là chủ.
Vì thế: Khi ở đời, chúng ta chưa thể đóng cửa không tiếp khách trần, mà 6 cửa vẫn mở rộng, nên ngày ngày khách trần họ vẫn vào quán trọ qua 6 cửa để ở trọ.
Khổ nỗi: Do cái vô minh niệm hành đầu tiên kia mà lại cho rằng: Có một thể thứ 2 là 1 thể độc lập với quán trọ 6 cửa, thể này là thể ông chủ của quán trọ. Chính vì sự chân như là làm gì có thể thứ 2 độc lập này nên “chúng sinh” đã tự vơ một đống khách trần vào nhóm lại thành 1 thứ gọi là ông chủ - tâm tôi/tôi/ta/của tôi. Và từ đây, tiễn tiến luân hồi, biến khách trần thành ông chủ.
Ông chủ làm gì có thể độc lập (tôi/ta). Ông chủ chính là quán trọ 6 cửa. Khi đóng được 6 cửa đón khách trần này thì cái quán trọ hoá sinh thành ông chủ… nói này thì ai cũng biết tâm là gì.
Không có 1 ông chủ là 1 thể riêng lẻ (hình tướng tượng) ngồi ở bên trong cái gọi là quán trọ 6 cửa.
Như vậy, chúng ta đã biết rõ về Cốt Tuỷ của Thiền Môn mà bao nhiêu nay đều bị lầm lạc: hoặc là ức chế tâm, hoặc là xua trần tu vô ký…
Khi chúng ta coi chúng ta là chủ, cái chủ này không phải ngã hay tâm điên đảo vọng tưởng như ai cũng đang thấy. Nó là cái Tâm chân như thường hằng không chứa gì, được ông tổ thứ 6 trong Thiền Môn hay gọi là “rỗng tênh không Thánh” đó. Cái tâm này, không chứa gì, gọi là chủ, chính là hiện thân của 1 quán trọ có 6 cửa đón khách. 6 cửa này là 6 căn. Các trần đi vào tâm hay vào chủ hay vào quán trọ gọi là khách.
Chúng ta sống ở đời, không thể không tiếp khách vì chúng ta là tâm là chủ là hiện thân của “quán trọ”. Nên nếu không tiếp khách trần thì đây là cảnh giới xuất thế gian vì lúc này chỉ còn tiếp khách Thánh khách Thần. Đã ở đời thì khách trần sẽ đến, đã đến là phải tiếp. Đừng ảo mộng tới mức ở đời lại đi đóng được 6 cửa quán trọ, treo biển ở cửa không tiếp khách trần, chỉ tiếp khách Thánh khách Phật…
Vậy thì là cứ thế luân hồi?
Tu kiểu gì khi mà ông chủ là tâm là hiện thân của quán trọ, khách trần sẽ vào?
Có 1 thứ, chúng ta bị lầm lẫn hoặc là bị nghe giảng giải sai hoặc là tự kiến giải sai.
- Khách trần là trần cảnh - chắc ai cũng dễ hiểu.
Vấn đề: Ông chủ là ai.
Nhiều người có bản ngã to đùng - hay chưa hiểu 1 tý ty gì về vô ngã nên thấy ví dụ của Đức Thế Tôn trong Kinh bèn kiến giải rằng: Chúng ta là ông chủ của cái quán trọ này. Tức là có cái quán trọ 6 cửa, có ông chủ. Tức là có 2 thể ở đây. Một là cái quán trọ 6 cửa, hai là có ông chủ của cái quán trọ đó… tri kiến này đã lầm lạc so với chân như thường hằng thì làm sao giải thoát?
- Ông chủ là quán trọ 6 cửa. Quán trọ 6 cửa là ông chủ. Không có cái tôi, cái ta, cái ngã nào ở đây. Chỉ có cái tâm là cái quán trọ 6 cửa là ông chủ quán trọ. Vậy thôi. Ba thứ này là 1 mà là 3 cũng là 1 là 2 là bao nhiêu cũng là như vậy, là chủ.
Vì thế: Khi ở đời, chúng ta chưa thể đóng cửa không tiếp khách trần, mà 6 cửa vẫn mở rộng, nên ngày ngày khách trần họ vẫn vào quán trọ qua 6 cửa để ở trọ.
Khổ nỗi: Do cái vô minh niệm hành đầu tiên kia mà lại cho rằng: Có một thể thứ 2 là 1 thể độc lập với quán trọ 6 cửa, thể này là thể ông chủ của quán trọ. Chính vì sự chân như là làm gì có thể thứ 2 độc lập này nên “chúng sinh” đã tự vơ một đống khách trần vào nhóm lại thành 1 thứ gọi là ông chủ - tâm tôi/tôi/ta/của tôi. Và từ đây, tiễn tiến luân hồi, biến khách trần thành ông chủ.
Ông chủ làm gì có thể độc lập (tôi/ta). Ông chủ chính là quán trọ 6 cửa. Khi đóng được 6 cửa đón khách trần này thì cái quán trọ hoá sinh thành ông chủ… nói này thì ai cũng biết tâm là gì.
Không có 1 ông chủ là 1 thể riêng lẻ (hình tướng tượng) ngồi ở bên trong cái gọi là quán trọ 6 cửa.
Như vậy, chúng ta đã biết rõ về Cốt Tuỷ của Thiền Môn mà bao nhiêu nay đều bị lầm lạc: hoặc là ức chế tâm, hoặc là xua trần tu vô ký…