PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Trao đổi về y học, võ thuật, văn hóa, phong tục, tín ngưỡng
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Như vậy, những nguyện của chúng ta cần phải có những mục tiêu nội dung thoả mãn:

1/ Yêu thương bình đẳng..v..v (từ bi) - phải phù hợp tánh tâm chân như và thoả điều kiện: Không phân biệt lại diệt sự yêu ghét, hận thù, sân si, quan điểm ta/tôi, đúng sai.v.v.

2/ Phải hướng về giải thoát để thoả điều kiện: Xả bỏ tham dục cầu ở thế. - Nên đây luôn là nguyện xuyên từ đầu đến cuối của bất kỳ ai từ các vị cổ xưa tới giờ và mãi mai sau.

3/ Phải làm sao xả được cái hữu - cái này mang nặng cái tôi, cái của tôi. Cái đang có. Nhưng nếu nguyện “gắt quá” khả năng sẽ rất khó thực hành - mỗi người phải tự lượng sức mình, xem căn cơ của mình mà nguyện.

4/ Phải không chấp. Rất rõ, từ khi trang nghiêm về sau, dù được hay mất, được nghiệp phước hay mất nghiệp phước ở đời, được bất cứ cái gì, mất bất cứ cái gì… phải không chấp vào cái được mất này nữa - an trú vào thọ vô lượng Phật.

5/ Phải hướng đến cấp sự hạnh Phật để nâng cấp và thực hành được hạnh nguyện đã nguyện, nói cách khác: Thứ không thể thiếu ở đây là Đạo Lực: Chúng ta xem, vị nào cũng có điều này như Bồ Tát Quán Thế Âm thì thần thông gì, Vô Lượng Thọ Phật thì thần thông gì. Vì thực hiện nguyện chúng ta phải có những thần thông này, và để có những thần thông này thì chúng ta phải tu tập theo đúng hệ thống giới kinh. Có nghĩa, không thể dùng khả năng đời để giải quyết nguyện Đạo. Nhưng chúng ta nên nhớ: Bánh xe sẽ chệch đường và gây nghiệp nặng nề khi chúng ta dùng thần thông để giải quyết sự đời. Vì thế, những cái này mới phải ở trong nguyện để GIỚI. Thần thông, là hệ quả của việc tu tập đúng Chánh Pháp Phật. Nhưng nếu không ở trong nguyện, người hành giả rất dễ sa ngã và ma Đạo. Vì lẽ đó, các Chư Vị Tôn Đức rất cẩn trọng đề phòng nghiêm ngặt như vậy.



…..
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Mục tiêu bản chất của nguyện hạnh là vô ngã. Nội dung của nguyện là ngay sau khi nguyện là phải thực hành được (dùng các Pháp trợ Đạo hành được). Bởi thế, không cần nguyện nhiều (vì có thể thêm bất cứ lúc nào mà) nhưng phải đủ độ khó để đạt được mục tiêu.

(Ngoài nguyện giải thoát là hải đăng, ai cũng có rồi)

Ví dụ:

1/ Nguyện nói lời hoan hỉ vô lượng chúng sinh sẽ thành Phật - Chúng ta biết rất rõ ví dụ về Ngài Thường Bất Khinh đã nói. - Cứ thấy chúng sinh (chúng pháp sinh ra trong đầu -mọi khách trần vào nhà trọ (nhà tâm)) là hoan hỉ nói…
2/ Tham khảo nguyện của Quán Thế Âm Bồ Tát và Ngài Pháp Tạng về nguyện cứu độ chúng sinh: - Chúng ta có thể nguyện cụ thể hơn và rút xuống mấy bậc để phù hợp với cấp cửa Đạo.
3/ Nguyện, nhóm nguyện nào cũng phải chứa/ tinh tu “trí tuệ bát nhã” (Ba La Mật) - (có nghĩa bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ). Hoặc có chứa nhiều cấp hoặc Đi từ thấp lên cao, bố thí bao giờ cũng trước tiên, trí tuệ là cấp chánh đẳng giác).

Bố thí ba la mật: Phải nhớ (nói lại) tập trung vào nhóm chúng sinh (chúng khách trần sinh ra đi vào tâm ta) - cần gì cho nấy, xả hết cái hữu như các vị Phật, Bồ Tát. Nhưng ở cấp ban đầu có thể rút xuống 1 vài cấp để làm độ giảm sóc cho căn cơ. Không được ức chế tâm - là thứ lý chúng ta phải nhớ. Không ức chế tâm mới sinh ra cực lạc thọ.

Ví dụ: Nguyện xả (bố thí) hết mọi thứ có khi thấy chúng sinh cầu. Con và chúng sinh không ai đau khổ cùng chung cực lạc. - Điều này sẽ giảm cấp cho chúng ta khi nếu còn thấy thọ khổ (hoặc không thấy thọ lạc) thì không cần hành.

Tuy nhiên, nguyện này có thể làm cho chúng ta buông lơi, chấp thủ hữu vì “động cái gì xả đi cũng thấy cảm giác khó chịu, không lạc hỉ”… thì lại thành: Không tu được gì.

Nó phải dựa trên căn cơ. Người đang có rất nhiều thứ thì cần xả từ từ - thì tâm nó mới bình yên an lạc - mới thấy thọ cực lạc. Chứ đang thủ hữu rất nhiều, đùng 1 cái xả sạch, lại tan nát thế giới cực lạc, bao nhiêu thời gian sau mới tìm lại được (điều hoà lại tâm). Người mà chẳng có gì thì cũng tự biết, có mấy thứ còn là hữu thủ để mà chấp nữa, vậy thì còn uý kị gì mà không xông pha.

Ví dụ: Đang có vợ, có chồng, có người đến xin. Chúng ta phải biết rõ chúng ta có hành được hay không… nhiều cái nữa, chúng ta phải quán. - Chúng ta yên tâm là, bây giờ thì vậy chứ ở tương lai với những cấp hạnh nào đó, chữ tình dục không còn trong tâm… có khi lại mong người đến xin chồng/ vợ … để có thêm nhiều người được vui, bởi vì ở chỗ này chúng ta an trú sâu vào cực lạc thì chỉ mong ai cũng vui (dù biết là cái vui/ hạnh phúc của chúng sinh là ảo tưởng, vô thường). . Còn bây giờ chúng ta có làm được không? - Chúng ta phải quán. Thấy gần chạm thì có lẽ hợp, nhưng thấy rất xa thì… tốt hơn hết là: Mình tự lui, có hại ai đâu. Đi dần dần chậm nhưng chắc. Nhẫn. Vội lại hoá ra hỏng.

Xả hữu thủ, tham dục cầu..v.v. Mọi thứ khác cũng vậy. Đều phải từ từ và lượng sức căn cơ. Nguyện hành được rồi, có hạnh nguyện rồi lại nguyện tiếp… vô lượng nguyện… vô lượng thọ.

Chớ ham giải thoát đoạ Ma - nguyện những thứ không thể hành được hoặc nguyện xong không hành hoặc hành mãi mà không ra hạnh. Đây là hành nghiệp chứ không phải hành nguyện.

Đừng lo nguyện nhỏ.
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Như vậy, vô lượng nguyện dù nhỏ nhưng hành ra kết quả thì ra vô lượng hạnh, từ đó sẽ thọ vô lượng lạc - gọi là cực lạc. Tâm chúng ta lúc này khẳng định chứng thấy, cảm ứng Phật Quang. - Đã vào Hiện tại an lạc trú lúc nào không hay.


Nhưng nhỏ nhắt quá thì suốt ngày chỉ quán nguyện. Bởi vì, nó có nhóm nguyện, chúng ta không thể lúc nào cũng suy nghĩ về nguyện nào nguyện nào - lúc này lại rơi vào chấp pháp nguyện. Chúng ta sớm muộn phải nhóm hợp các nhóm nguyện để điều này trở thành: sự Giác vốn như vậy.


Tuy nhiên, khi mới bắt đầu vào trang nghiêm tâm ở phía tới. Chúng ta chưa chứng thấy bất cứ một sự gì. Lý có thể chứng lõm bõm, nhưng sự chưa chắc đã chứng được gì. Bởi thế, không thể hành trong sự vô minh chưa chứng thấy những hành nguyện lớn lao. Như đã nói cái hỉ lạc phần lớn đến ở giai đoạn hành chứ không tập trung chỉ ở chỗ quả - đối với những con đường dài (sự nguyện lớn, dài), được thực hành ngay từ lúc đầu, lâu mới kết quả sẽ khả năng làm nhụt chí, tăng khả năng nghi ngờ khi cảm giác thọ lạc không đủ nhiều. Tại sao lúc này lại vậy và chúng ta thì gặp vậy mà người khác, khi khác lại không? - Bởi vì, chưa có sự chứng thấy, tự ở trong tâm điên đảo vốn có của chúng ta sẽ không thấy lạc… được gọi là hôn trầm truỵ miên, hoặc trạo cử mạn hối - tức là mê mờ.

Như vậy, lúc ban đầu phải hành những nguyện giảm sóc, kết quả nhanh, khởi động từ từ rồi mới dần dần tăng tốc…

Hành 1 cái sớm ra quả ngay - được gọi là mục tiêu nhỏ, ngắn - trong ngôn ngữ phương tây hiện đại về lập kế hoạch thực hiện mục tiêu trong công việc. Cái quả nhỏ xíu ra ngay này sẽ mang cái thọ lạc hỉ ngay, cũng nhỏ, vô thường cũng nhanh…

Chúng ta phải chứng được cái lạc và cái nguyện hành, cái hạnh nguyện mang lại cái lạc. Sau đó mới đến việc chứng thấy: Hành hạnh nguyện lớn (thời gian dài) thì thời gian hành nguyện cũng mang lại lạc hỉ thọ.



Dù sao, kết quả đến rất nhanh khi thực hành đúng phương pháp.
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Tiểu luận 226


Cuối cùng, chúng ta phải tự chứng được khổ đế. Phải tự chứng thấy khổ đế thì phía trước, phía sau, mọi thứ mới thành. Không chứng được khổ đế, mới chỉ là văn trí trong đầu, mới chỉ là tưởng niệm, mới chỉ là tưởng quán, như vậy khổ đế vẫn mới chỉ ở mức lý tưởng. Phải quán qua sự, từ sự mới chứng thấy toàn vẹn khổ đế - bao gồm lý và sự. Từ đó, mới chuyên tâm tu tìm giải thoát.



Hoát nhiên ngộ khổ, sẽ hoát nhiên biết cách dứt khổ. Từ đây, những vọng niệm mới không còn:

1/ Những vọng niệm về tìm phương cách để thọ dục lạc ở tương lai:

Thọ Danh: Được mọi người biết đến - dưới bất cứ hình thức nào. . - Khi còn những vọng niệm về danh, người thực hành Đạo vẫn còn tơ tưởng muốn hưởng dục lạc danh.

Thọ Sắc: - Đạt được những mỹ miều - dưới bất cứ hình thức nào. . - Khi còn những vọng niệm về mỹ, người thực hành Đạo vẫn còn tơ tưởng muốn hưởng dục lạc sắc đẹp: - Cái đẹp là thứ cuốn hút con người chìm ở trong dục lạc. Âm thanh êm ái, cảm giác ấm êm, cảnh sắc tường hoà, mỹ nhân nam nữ, mỹ sắc rung thần.v.v. - những vọng niệm này thể hiện người thực hành vẫn còn dây tơ sắc lạc.

Thọ Tài: - Đạt được vật chất hoặc tinh thần - dưới bất kỳ hình thức nào. . - Khi còn những vọng niệm về tài vật, tài năng, người thực hành Đạo vẫn còn tơ tưởng muốn hưởng dục lạc tài.

Qua ba cái thọ này đến 2 cái thọ vô vi:

Thọ Thực: - Đạt được cảm giác ngon miệng - dưới bất kỳ hình thức nào. . Khi còn những vọng niệm này, người hành giả còn đang bị thực dục níu kéo.

Thọ Thuỳ: - Đạt được cảm giác yên lành khi ngủ - dưới bất kỳ hình thức nào. . Khi còn những vọng niệm này, người hành giả còn đang bị Thuỳ miên níu kéo.


Khi dứt thô được 3 cái thọ phía đầu thì 2 cái thọ phía sau mới nổi lên vai trò. Người hành giả ở đời thế, thiếu tỉnh thức cho rằng: Bản thân khả năng đã đạt được cấp vô vi. Mặc kệ thây đời, ta ăn ta ngủ… và chìm vào đây, buông lung tinh tấn. Khi chưa dứt thô 3 sợi dây dục ban đầu thì người hành giả gần như không chứng thấy vai trò 2 dục phía sau vì nó sẽ không nổi lên mạnh mẽ.




Xét một cách tường tận:

Dục lạc là do cảm giác của 6 căn mang lại. Cái thọ phải đi qua 6 căn là vậy (gọi là xúc). Xúc này nghĩa là chạm (không phải ý chỉ căn thân xúc chạm). - Có sự xúc chạm giữa 6 căn với 6 trần, mang lại cảm giác.



Khi đã chứng thấy khổ đế. Duyên sinh và tứ chánh cần “dục như ý túc” - Người hành giả cần phải thấy “nhàm chán” với sự dục lạc đang thọ hưởng. - “Bố thí đi sự thọ dục lạc đang hưởng chính là sự hành ba la mật lớn nhất, duy nhất.”. Không được bố thí sự khổ. Bố thí sự khổ, phước không tới mà nghiệp lại tràn ra.


Chúng ta phải thấy khổ đế, mới thấy sự khổ là gì:

1/ Muốn là khổ: Tôi muốn, bạn muốn, con muốn, bố mẹ muốn… những cái sự muốn cầu này là sự khổ. Bởi thế, ở phía sau, khi bắt đầu trang nghiêm tâm, hành nguyện mà lại cứ vẫn giữ thói quen: ví dụ:

- Ba mẹ muốn con phải thế này, phải thế nọ..v.v. Hay ba mẹ chẳng muốn gì từ con chỉ muốn con phải thế này, thế nọ.v.v. - hành (nói) những thứ này thật vô minh.

Với bố mẹ, với vợ chồng, người thân, người quen, người lạ, … là con người: Cũng đều như vậy. - hành vô minh.


Cái muốn là cái khổ. Đã biết rồi mà cứ hành muốn nọ kia, dù là không cầu cho mình nhưng lại cứ cầu cho người khác, bắt người khác phải muốn, phải đạt..v..v. - Đây là hành vô minh. Khổ!


2/ Khi chúng sinh (nói 1 cách cụ thể là những người ở trên) đi vào trong tâm ta qua 6 căn và nói: Tôi muốn điều này… - Chúng ta giờ đây chỉ có (nếu có) là các sự thọ dục lạc, nên nếu bố thí hay cứu độ, cứu giúp - tức là chỉ dùng cái sự thọ dục lạc của ta đang có mà bố thí, xả cho họ. Không được duyên sinh ra sự khổ để bố thí cho họ.


Ví dụ: Hôm nay con nó thông qua điện thoại nói: Con muốn đổi cái điện thoại này thành ip15, 16. Bây giờ đi đâu, ai cũng dùng. Mình dùng cái điện thoại cũ này, quê quá. Nhiều khi muốn mang ra quay lại bài giảng của giảng viên ở giảng đường để về xem lại mà mắc cỡ, không dám mang ra dùng. . .


Nếu chúng ta mang cái sự thọ khổ ra để bố thí cho con là vừa sai nguyện, vừa tạo nghiệp. Cái sự thọ khổ gì? - Chỉ có người chứng thấy cái khách trần này mới rõ cụ thể, nhưng chúng ta có thể quán: ví dụ:

- Nghe vậy, trong thân tâm nổi xung lên. Nhà còn bao việc, vợ thì này nọ, con nhỏ thì ẩm ương, con lớn thì học chẳng biết thế nào, suốt ngày chỉ tiền tiền… - thế là bố thí cho 1 bài pháp. Tất nhiên, vì là người lớn, có học, có được nhiều thứ, đầy kinh nghiệm nên một bài pháp dạy con ở trường hợp này sẽ không sai với lý đời: Con phải thế này, con phải thế kia…. - Đây là bố thí sự khổ.


Thế nhưng chúng ta đang không có sự thọ lạc dục: Ví dụ: Không có đủ tiền để cho con nhưng lại lầm tưởng rằng: Ta giờ đây đang tu Bồ Tát, là cha mẹ thì thà chết cho con hết khi con cần, nên: Đi “vay” ở người khác cho con, ví dụ: Bắt vợ chuyển tiền cho con trong khi vợ bảo không cho, nó đua đòi, hoặc vay mượn bạn bè người thân…: … - Đây là bố thí sự khổ. Không phải Bồ Tát cứu độ niết bàn cực lạc vô lượng chúng sinh.



Chúng ta phải luôn nhớ: Bố thí (xả) vô lượng sự thọ lạc mà chúng ta đang có cho chúng sinh nếu chúng sinh cầu muốn với ta. Ví dụ: Cánh tay, máu, mạng sống (những cái này khi không còn cha mẹ. Nếu còn cha mẹ, phải nhớ dù cha mẹ sinh ra ta, bố thí cho ta rồi, nhưng ta không được dùng lại của bố thí để bố thí cho người khác nếu người bố thí ban đầu cho ta chưa cho phép), ngôi nhà của ta, tiền của ta, những tri kiến (pháp) của ta… những cái mà làm ta lạc, ta có, ta đang lạc - ở đời. Đây là những cái tôi, cái của tôi - bố thí đi thì rồi một ngày cái tôi cái của tôi sẽ không còn. Nhưng nhớ, chỉ bố thí sự thọ lạc.

Vì chúng ta bây giờ trang nghiêm tâm vô lượng thọ Phật - tức là tâm vô lượng thọ cực lạc - nên không có một sự khổ nào để có mà bố thí đi. Chỉ còn sự thọ lạc. Chúng ta bố thí hêt sự thọ lạc dục thì chỉ còn một sự thọ vô lượng thọ Cực Lạc giải thoát.



Ở trường hợp trên, chúng ta sẽ thế nào: - Nếu ta không có, thường thì chúng sinh sẽ không đến xin. Hoặc chúng sinh không biết, đến xin nhưng ta không có, và khi chúng sinh biết ta không có thứ chúng sinh cần - không có chúng sinh nào sẽ thù oán hay sẽ làm hại ta. - Mỗi chúng ta phải chứng thấy những điều đơn giản này.

Chúng ta không có mà chúng ta cứ “loè bịp” chúng sinh là chúng ta có để chúng sinh đến cầu xin - thì chúng ta sớm nghiệp. Ở trường hợp này, chúng sinh sẽ hại ta - chúng ta tạo nghiệp thì chúng ta tự nhận quả thôi. - Như vậy, chúng ta mới biết: 5 giới cơ bản của Bồ Tát nó nhiệm màu ra sao.


Chúng ta có mà chúng ta “loè bịp” chúng sinh để không cho… chúng ta cũng đã thấy sớm nghiệp và quả ở đời là thế nào.


Chúng ta cho chúng sinh nhiều hơn cái chúng sinh cần: Ví dụ: Chúng sinh xin cầu ngần này nhưng lại ép chúng sinh lấy nhiều hơn dù cùng tánh vật.. điều này cũng như trên, dù kết quả ở đây đã tốt, nhưng cái hơn chưa chắc đã hơn phước hạnh. Ví dụ trên, Vì lo cho con: Chúng ta cho con xong kèm thêm một số đồ vật: Một hay nhiều bài pháp về giáo huấn đời cho con. Ở trường hợp này, kết quả hành nguyện là đã có nhưng chúng ta lưu ý: Cho nhiều hơn tức là chúng ta vẫn còn dính mắc nhiều ở đời.

Cho ít hơn cũng vậy. Nếu chúng ta có nhiều hơn mà cho ít hơn thì cũng không phải ba la mật. Cho ít hơn rồi lại cho thêm những thứ khác để bù vào thì cần xét tính chất xem có bị lệch mong muốn cầu xin của chúng sinh không. Thứ chúng sinh không cầu xin mà chúng ta cứ nhét - không hề đơn giản dễ làm.


Bây giờ đến việc: Chúng ta không có nhưng chúng sinh cứ ngỡ, cứ tin là có. - Chúng ta nói pháp (giải thích, dạy dỗ, giáo huấn, trình bày, khi này) ít thôi. Hãy bảo chúng sinh đến và nếu thấy thì cứ lấy, muốn cái gì mà thấy thì cứ lấy. - Chỉ 3 lần chúng ta điều chỉnh 1 người con trôi nổi ở đời về ít nhất là khuôn mực đạo đức đời … và đó mới là cái phước tu của ta truyền thế cho xung quanh và dòng họ hay tất cả… vì chúng ta là gương. Dù chúng ta cũng đang soi gương Phật, Gương Pháp, gương Tăng. .

Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Với người đã xuất gia - tức là cái thủ cái hữu - cái tôi có, cái của tôi có - giờ đây đã ít lắm rồi. Chúng ta biết và chắc chắn là đúng: 3 sợi dây thô về lạc dục phía đã được mài thành tơ tinh (lúc này chưa dứt hẳn đâu). Hai sợi dây sau, theo thực tế biểu hiện sẽ biết người này đã thực sự mài thô 5 sợi dây dục lạc hay chưa. . Như vậy, bây giờ, ở trường hợp này chúng ta có gì để bố thí?

- Chỉ còn cái thân tâm bố thí. Chính là cái gương hạnh. - chúng ta vẫn đang hành bố thí - cấp độ đã lên cấp độ bố thí pháp mà không cần nói pháp “lảm nhảm” nhiều.

Cấp độ bố thí gương mới lên mang đến cái phước “ngồn ngộn” - vô lượng không thể nào có thể ước lường được.


Ví dụ ở đoạn trên, khi còn ở trong gia đình. Chúng ta chỉ cần bố thí cái gương của ta. 1 lần, 2 lần, tối đa 3 lần: Chúng sinh kia sẽ thay đổi cho đúng như cái gương tâm thân của chúng ta. - Chúng ta chứng được ngay những sự này vì ở thực tế đời chúng ta kiểm chứng luôn. Không chứng, tất cả chỉ là tưởng. Mà chứng có dễ không, quá đơn giản. Đâu có cầu kỳ gì và khó gì. - Đặc biệt, đây là phước cho chính bản thân, gia đình, những người mình đang loé tâm từ bi. - Đơn giản nhất là vậy, rồi hãy nghĩ đến chứng những cái lớn lao hơn…


Phước - huệ cũng phải bòn từng chút một là vậy. Tu cũng phải lần lần bước từng bước chân trần là vậy. Không có gì có chuyện tưởng ngồi “đĩa bay” và xuyên không nhất thời đắc Đạo.
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Nếu như gặp một chúng sinh “đại ác ma” - Cùng lắm là giống như dẫn đề Kinh Quán Vô Lượng Thọ mà thôi. Làm gì mà còn một chúng sinh đại ác ma nào ở đời hơn được cái ví dụ gương hiện hữu ở Quán Vô Lượng Thọ nữa?


Thế mà ở Kinh, một người chứng ngay A Na Hàm, một người chứng ngay vô sinh pháp nhẫn.



Chúng ta, đã ở thế, đọc được truyện sáng tác này đến đây: Chắc chắn phước đang có nhiều hơn 2 vị ở trong Kinh kia. Đây là điều khẳng định vì kinh lấy 2 vị “vô phước” đến mức không còn gì để nói nữa rồi. Mà vào Pháp Phật, còn ngay lập tức chuyển mệnh - há gì chúng ta lại không làm được???





Nên, hiện tại an lạc trú - Cực Lạc - ai cũng có thể chứng, trú ở ngay đời hiện thế! bất kể đang tại gia, xuất gia, căn cơ, nghiệp phước đang ra sao, thế nào.
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

197 tiếp


Trước tiên, chúng ta thực hiện phép quán mặt trời. Các phép khác tuỳ căn cơ sau này tính sau, nhưng phép quán đầu tiên này: Chúng ta phải rốt ráo thực hiện ngay từ bữa sớm như với các pháp tu học lý sự khác (văn). Phép này, nhiệm màu. Là gia lực của Chư Phật và Chư Vị Tôn Đức, Bồ Tát.

Có phép này, mọi tà ma tiểu tốt bình thường trôi nổi ở đời mới tránh lui. Chúng ta biết rồi: Tâm của chúng ta là tâm gì, chúng ta đâu có sanh tâm giết hại gì nữa - kể từ khi bắt đầu trang nghiêm tâm. Như vậy, từ trước đến giờ chúng ta luôn sống với tất cả (vô hình, hữu hình)… khi chúng ta bắt đầu trang nghiêm tâm… các chúng sinh sẽ vô tình hay cố tình quấy nhiễu. Chính nhờ, sự gia trì hộ pháp của Chư Phật mà chúng ta được yên tâm. Các chúng sinh khác, khi ở trong trường này cũng đều an vị lại… và sau này, “ họ sẽ hưởng thành quả”.


Khi quán mặt trời, khả năng sẽ xuất hiện ảo giác: Ảo giác thường thấy nhất là nếu tâm dục còn nhiều thì sẽ thấy dương vật. - Điều này, mỗi người tự thấy và vượt qua. Không để cho sự ảo lôi kéo.


Về mặt nhiệm màu: Chúng ta đã biết rõ: Luân 6 là gì, ở phía trước chúng ta khả năng còn đã tự thử nghiệm bằng nhiều cách khác nhau đi tìm cái luân 6 này và thấy nhiều thứ như: Vòng xoáy sắc màu, không gian chàm tím, “cửa đạo” hình âm dương xoay chữ “vạn”.v.v. - nhưng chúng ta không đuổi theo bất cứ cái gì, chúng ta lùi lại nhẫn.

Khi bắt đầu tiếp cận Chánh Pháp phép Quán mặt trời chúng ta đã biết: Đây là gì. - Đây chính là phép thực hành (sử dụng) để mở luân 6.


Chúng ta là người thường ở đời. Đi từ từ, đừng ảo tưởng quá. Toàn đoạ ma cả. Phải luôn luôn tỉnh thức, nhẫn… mà kết quả thì đó là sự chứng đạt chứng thấy, giải quyết thực tiễn sự dính mắc ở đời của chúng ta chứ không phải là: Tri kiến để ảo tưởng, vọng tưởng, vọng niệm. Tất cả đều là từng chậm rãi tự chứng thấy và giải quyết sự đời tiến tới không còn dính mắc - giải thoát.


Đây chính là gia lực, là tha lực Phật… là thứ mà chúng ta sau này sẽ rõ: Thì ra mọi thứ đều là thật. Không phải ảo tưởng. Chính thế giới mới là thế giới điên đảo là vậy.


Quán mặt trời đơn giản. Chúng ta cần không phải là chứng mà an trú vào phép quán này. Việc chứng thấy thì đơn giản rồi. An trú tức là: Sau đó, thường thường quán, an trú niệm vào đây. - Chúng ta đã thêm được những phương pháp an trú tâm vào chánh niệm mà chỉ cần mấy phương pháp đó, chúng ta đã thấy nhiệm màu:

1/ An trú tâm vào chánh niệm hành (để lao động, làm việc, giải quyết sự)
2/ An trú tâm vào chánh niệm Phật (Để lập tức thủ hộ 6 căn khi ở đời chúng ta gặp rất nhiều sự trần đến quấy nhiễu, bất kỳ lúc nào, trạng thái nào).
3/ An trú tâm vào chánh niệm Quán Nhật ( để trí huệ bắt đầu mở ra, để Chư Phật gia trì, để cảm ứng trường lực Phật)


3 thứ trên, đầy đủ chúng ta trang nghiêm tâm lúc đầu.
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Chúng ta phải nhớ: Khi bắt đầu dùng Đạo Đức Thế Tôn hành sự đời của chúng ta - chúng chỉ hành sự đời cho chính chúng ta để chúng ta đạt sự Đạo. Nếu chúng ta cho rằng: Chúng ta đã đạt gì đó, mang ra đời, loè đời - chúng ta vừa vô minh vừa tự chịu nghiệp quả. - Lạc phước thì nhỏ nhoi mà nghiệp quả thì nặng nề.


Quán mặt trời - là chúng ta đã phải có chí nguyện giải thoát. Chí nguyện này mãi mãi không được quên nữa. - Vì thế mới đủ sơ cơ và nhân duyên lập “Đạo Tràng trong tâm” và Đạo Tràng mới Chánh Pháp nhiệm màu, có tác dụng.



Chúng ta, phải chuẩn bị, không được vội vàng hấp tấp, chín chắn.


Về phương pháp lập Đạo Tràng trang nghiêm tâm: - Nếu chúng ta không có sự thành kính, thành tâm thì ngay từ đầu chúng ta đã đâu có thành kính, trang nghiêm, thực tâm nguyện giải thoát. Các Chư Phật, Phật lực thừa đủ có linh để biết rõ điều này. Dù chúng ta có làm giả cái bộ cảm ứng như thật và màu mè, hoành tráng thì… trường Phật lực tự có linh mà có đến cảm ứng hay không.

Không phải cứ to lớn, màu mè, giả như thật mà…. Các Chư Phật sẽ cảm ứng!

Nên nhớ. Thành kinh, trang nghiêm và thành tâm : Là tiên quyết. Những điều làm khi lập Đạo Tràng trang nghiêm tâm - chỉ là biểu hiện, hiện tượng, sự thể hiện bề ngoài của sự thành kính, trang nghiêm, thành tâm nguyện của chúng ta. Nên cũng không cần cầu kỳ, màu mè, to lớn hay sao sao… có sao dùng vậy. Nhớ! Có sao dùng vậy, hoàn cảnh sao thì ngay tại đó như vậy… không cần phải nhọc công suy nghĩ gì gì… vì vốn các Chư Phật, chưa bao giờ phải “suy nghĩ” cái gì.


1/ Phải có sự chứng minh đồng ý của ít nhất 1 người. Tức là phải có ít nhất 1 người biết và đồng ý. Người này được gọi là bậc trên. Còn cha mẹ thì nên lấy luôn cha mẹ, cha mẹ đồng ý thì không còn gì phải suy nghĩ. Không lựa chọn huynh đệ, anh em bằng vai phải lứa. Không thì phải nhờ 1 vị tỳ kheo đã thọ giới - nghe ta trình bày điều nguyện và chứng minh cho ta. Cả 2 đều không được thì lùi xuống 1 cấp, đợi thời. Tuy nhiên, vị tỳ kheo nào cũng sẽ hoan hỷ đồng ý thôi, chủ yếu chúng ta làm như thế nào.

2/ Phải trước tượng Phật, ảnh Phật (cũng được). Đèn nhang hương nến hoa quả nước đủ cả.

3/ Nhớ 5 giới và thêm 3 giới:

Giới thứ 6: Không thụ hưởng dục lạc vật chất như: Làm đẹp (bao gồm trang điểm, trang sức, hưởng cái lạc gì đó (bỏ danh sắc tài)
Giới thứ 7: Không ngủ trên giường, nệm (đây là bỏ thuỳ dục)
Giới thứ 8: Không ăn phi thời. Ăn một bữa, trước 12 giờ, ăn chay. (Bỏ thực dục)

Nhớ 8 giới này để làm gì: Để khi thực hiện mở Đạo Tràng Trang Nghiêm Tâm: Chúng ta bát quan trai (thứ mà ai cũng biết rồi).


4/ Chúng ta đã quán mặt trời nên khi bắt đầu mở Đạo Tràng trang nghiêm tâm: Chúng ta sẽ hành công quán tưởng mặt trời trước tượng (ảnh) Phật - lúc này mới có hiệu nghiệm và sau này mọi người mới thấy sự khác nhau và kết quả thiết thực hiện hữu.

Bằng không, có lẽ nhiều người từng đặt câu hỏi: Các giới đàn xưa nay cho giới tại gia… làm thế nào để cảm ứng Phật trong tâm… để biết: Ak, Quy Y tam bảo, đã được chứng điệp.


5/ Lời nguyện:Trước tiên là nguyện trai giới 8 giới trên ở 1 khoảng thời gian nhất định. Tối thiểu 24 giờ trai giới 8 giới này. - Không làm được trong ít nhất 24 giờ, chúng ta thấy rất khó để hành nguyện.

6/ Lời nguyện: Lời nguyện trên là lời nguyện chung và nó đơn giản đến mức thế thôi. Chúng ta cần thêm 1 số lời nguyện mà chúng ta đã chuẩn bị từ trước cho chính chúng ta để chúng ta sẽ nguyện - đây mới là những nguyện hành sau này khi xả trai giới.

7/ Trong thời gian trai giới, phải chia làm các thời, ít nhất thoả mãn các thời:

Vào đảnh lễ.
Mở lời về: Lý do vì sao lại có buổi khai Đạo Tràng trang nghiêm tâm hôm nay (hệ thống giới kinh đều ghi chỗ này: Phải có duyên gặp Pháp Phật… từ đó hoát ngộ..v.v.)… và kính mong các Chư Phật đến chứng minh quy y.
Phát lời sám hối: Tức là kể lể ra càng nhiều càng tốt các việc đã làm mà bản thân thấy là ác nghiệp, mang lại nhiều khổ đau cho bản thân, mọi người: Càng nhiều càng tốt.
Phát lời nguyện.
Hành công (nếu chia được làm 3 thời, bao gồm 1 thời niệm Phật (nhất tâm niệm Phật), một thời Quán tưởng mặt trời, một thời quán niệm hơi thở). - Không cần dài. Cái chính là nhất niệm hay còn gọi là nhiếp tâm vào niệm. - sau này chúng ta ngày tuỳ thuộc vào căn cơ mà thực hành việc này, nên cũng không cần vội vã.
Vào đảnh lễ, xin Chư Phật chứng minh, phát lại lời nguyện (các nguyện sau khi xả trai vẫn sẽ hành), xả trai giới…v.v.v

8/ Vì trai giới trang nghiêm tâm nên trong thời gian trai giới này: Tốt nhất là hành ít thôi. Khi hành ít thì chúng ta duy trì được an trú tâm trong chánh niệm, không phạm giới. (Hành là thân hành, khẩu hành, ý hành). Vì lẽ đó, nên chuẩn bị mấy cuốn sách Phật Pháp để đọc là tốt nhất. (Nên thu vào, đừng phát ra: Vậy nghe, đọc, ít nói, ít hành, ít thể hiện ra..)… chúng ta cũng biết tâm là nhiếp tâm mà, thu tâm lại, cô đọng tâm thành viên bi, nó không dính mắc. Còn cứ để tâm nó toả ra… sẽ càng dính mắc.

9/ Các sinh hoạt thực hiện trong 8 giới như trên.


Sau này, cố gắng theo thời gian sẽ thực hiện trai giới với mức phù hợp tuỳ căn tánh.


Ở đây, quan trọng nhất là: Giữ giới, nguyện và hành nguyện.

Chúng ta thấy: Ở ngày lập trai giới Đạo Tràng trang nghiêm tâm: Chúng ta nguyện ở trong 8 giới và phải hành được nguyện này. Tuy nhiên, khi xả trai giới: Chúng ta tiếp tục hành những nguyện đã nguyện: Có nghĩa chúng ta luôn luôn thực hành nguyện, vì các nguyện khác nhau, sự khác nhau… chứ không phải trai giới xong là ngày nào cũng như ngày nào. Trừ khi chúng ta nguyện từ đây: Mãi ở trong giới này, giới kia và chỉ thế này, thế kia..v.v Thì ngày nào cũng phải thực hiện nguyện đó.


Hành công, ngày nào cũng phải chuyên cần vì nó mới mang đến Phật Lực tu tập cho chúng ta giải quyết nguyện…





Như vậy, Đạo Tràng Trang Nghiêm Tâm đã bắt đầu được lập. Từ đây, các sự hành cần phải ở trong nguyện. Cứ ở trong nguyện là ở trong giới. - Không tin, mọi người cứ thử quán xem có đúng không. Đại nguyện càng lớn thì giới là vô lượng giới, giới gì cũng sẽ ở trong đó. Tiểu nguyện nhỏ thì khi hành cũng chỉ ở trong 1 số giới nhất định. Tuy nhiên, chúng ta không phạm giới khi hành nguyện. Thấy phạm giới là phải niệm Phật sám hối.

5 giới cơ bản: Phải có ít nhất 1 giới là Nguyện xuyên suốt, như nguyện giải thoát: Không sát sinh. Phải giữ được giới này thì Đạo tràng trang nghiêm tâm mới vững, mới sơ thành, ổn định. Nếu có vô tình, phải sám hối. Luôn tỉnh thức điều này, phải ở trong giới này.

Như vậy chúng ta sau này sẽ sám hối liên tục - Rất tốt!


Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

197 tiếp


Về pháp quán mặt trời sắp lặn: Chúng ta phải xem ở trong kinh. Còn chúng ta không tự trước tác ra bất kỳ phương tiện nào. Trong hệ thống giới kinh đã có đủ mọi phương tiện và cách sử dụng.


Tuy pháp quán này đơn giản nhưng nhiệm màu thì khó nghĩ bàn, tuy nhiên, cũng sẽ thiêu đốt hết những “bất chính”, mang theo đó là rất nhiều “hệ quả”. Bởi vậy, chúng ta nên tự lượng sức.


Đầu tiên, muốn quán được thì tâm phải thanh tịnh - bước thanh tịnh thân tâm. Cũng giống như những cơ bản đầu tiên mà chúng ta đã xây dựng từ đầu đến giờ. Có vậy, mới quán được chứ không thì sẽ có rất nhiều hệ quả.

Tất nhiên rồi: Thứ gì ưa ở “bóng tối” thì sẽ khó quán được mặt trời. Bởi vì, mặt trời soi sáng - vô lượng quang. Chiếu khắp. Xua “bóng tối”.


Như vậy, người bình thường chúng ta càng phải cẩn trọng. Không nên quán khi mặt trời còn ở trên cao. Không nên quán quá lâu lúc ban đầu..v.v và một số “tác dụng phụ” như cảm nắng, đau đầu.v.v. Cần phải được xem xét dưới góc độ sức khoẻ và góc độ thân tâm: Đã thực sự chánh chưa.


Quán mặt trời lặn là chánh pháp nhưng vì là chánh pháp hành sự dụng công thâm sâu nhiệm màu Đạo Đức Thế Tôn nên chính bản thân người tu Đạo cần phải Chánh mới dùng được.

Nên tà ma không bao giờ dùng được. Cố dùng thì có khi sớm xảy ra hậu quả - ai dám nhìn mặt trời?

Chúng ta, thân tâm đầy ô uế khí trược, dù đã sơ dụng văn tu tư, học pháp, thực tập 1 thời gian dài điều hoà tâm về thanh tịnh: Tự có thấy tia từ bi, tự có thấy dục như ý túc, nhiếp tâm chánh niệm, đã thực tập quán tưởng, quán niệm và nhiều pháp môn khi tu học văn trí.v.v. - Bây giờ dụng công quán mặt trời vẫn có thể có những tác dụng phụ (do ánh sáng vô lượng quang thiêu đốt một số nhiễm trược ở thân tâm) - nhưng sẽ nhanh chóng hết. Và sớm thấy nhiệm màu.


Khi quán thấy mặt trời xong thì nên dành thời gian quán tưởng mặt trời sau đó để điều hoà tâm và đây chính là dụng công để tác động vào luân 6. (Khi quán tưởng mặt trời thì giống quán niệm bình thường, mắt nhắm thì niệm quán mặt trời sẽ vào luân 6. Quên các văn trí từng được tri kiến về luân 6, lúc này chỉ quán tưởng mặt trời, chúng ta sẽ thấy ánh sáng, sẽ thấy mặt trời như lúc quán mặt trời… và khi này đến mãi sau này chúng ta sẽ chứng thấy: Hình tướng chân thật của luân 6)



Cái chính của chúng ta là an trú trong quán tưởng mặt trời - đây mới là dụng công. Còn mặt trời thật, không phải của chúng ta. Nhờ quán mặt trời thật, rồi chúng ta lựa vào đó để quán tưởng ra mặt trời ở luân 6.


Khi đã đạt quán tưởng. Sự cảm ứng tự liên thông, chúng ta không cần nhìn mặt trời nữa, chỉ cần quán tưởng mặt trời ở luân 6 là đã kết nối trường năng lượng Phật.

Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Nên “tà ma” thì không bao giờ dùng được pháp tu dụng công Chánh Pháp đầu tiên Đạo Đức Thế Tôn. Không dám dùng. Còn nếu dùng được. Tà đã không còn là tà.


Chúng ta đều rõ, làm gì có chuyện người tu Đạo Đức Thế Tôn lại bị vài ba ma sự tiểu tốt cản bước ngay ở những bước đầu tiên. Chúng ta, những người tu Đạo Đức Thế Tôn theo đúng chánh pháp, bước đến đâu, nơi đó ánh sáng tràn đầy, tà ma nếu có kháng cự thì cũng chỉ chốt lát yếu ớt rồi tự lui hết vì “thứ ánh sáng này” - chứ không phải do người tu Đạo phải tác ý, động tâm đi nổi giận, sân si, đấu tránh, hơn thua… với tà ma… lúc đó thì: Tu gì khi tâm đầy sân si..v.v.


Nên chúng ta phải tự thấy kết quả ở đời thực chúng ta: Các loại “nhiễu sự” tu tập Đạo nó phải tự ít dần. - Đây là chúng ta đang hành công tu Đạo có bước tiến thực chất.

Còn càng tu, đã kiên trì nhẫn 1 thời gian dài mà các nhiễu sự nó vẫn cứ ập đến không như ý muốn làm nhiễu loạn việc tu tập… - Đây là chưa thực tinh tấn. Sự nhiễu sự cản trở bước đương tu chỉ đến ở 2 giai đoạn: Đầu và cuối mỗi cảnh. Còn giai đoạn giữa, ổn định tinh tấn trong cảnh đó… mọi thứ phải như được dẹp đường. Đến lúc chuẩn bị đột phá cảnh mới thì các sự nhiễu sự lớn mới lại tràn ra. Chúng ta vượt qua, lại thấy thông thoáng và mọi sự như được dọn đường..


Quán tưởng ra được mặt trời thì cứ thế mà quán, thời thời khắc mà quán trong khi hành nguyện.

(Chưa cần các phép quán tiếp theo, dù có nhớ văn rồi hay thử thực tập rồi, cứ để đó).


Nhiệm màu của quán tưởng mặt trời cần phải được khai phá và sử dụng triệt để và quán tận.




Như vậy, về giới đàn đầu tiên: Giới đàn bát quan trai - Chúng ta đã biết: Là giới đàn thiết lập Đạo Tràng Trang Nghiêm Tâm. Ai cũng phải có.

Giới đàn Đạo Tràng này ở đâu? - Ở bên ngoài?, ở tu viện, ở chùa? - Nó ở trong tâm mỗi chúng ta.

Đây là khởi đầu, Đạo Tràng trang nghiêm tâm này chỉ khác cơ bản ở quán mặt trời và nó được dựng ở trong thân tâm mỗi người.




Nói đến đây, chúng ta văn trí qua cái gọi là: Đại giới đàn mà nhiều người được biết ở đời.


Nếu đọc văn trí kỹ cách tạo dựng giới đàn xưa chúng ta sẽ thấy: Nào là hình dáng giới đàn hình bát giác, rồi treo cờ treo phướn, treo ảnh Phật, Bồ Tát.v.v., treo gương treo nọ kia, dựng đủ hoa quả, đồ cúng dường.v.v.v - Chúng ta sẽ thấy cái “đại giới đàn hình tướng giả này” - Y như hình tướng được Đức Thế Tôn mô tả về các pháp quán thâm sâu hơn ở Kinh Quán Vô Lượng Thọ.


Thực tế, giới đàn phải phải thiết lập trong thân tâm người hành giả và vì lẽ này mới cảm ứng được trường Phật lực, các vị Chư Phật…. Và đến 1 cấp mới thấy: Thì ra, đây mới là trang nghiêm tâm là như này, giới đàn thọ giới là như này, chứng điệp là thế này… kể cả là thọ ký thì ra là thế này.v.v.v.


Chứ cái giới đàn hình tượng ở ngoài đời, chúng ta thử hỏi: Ngàn năm nay, mấy ai làm người thọ trai giới ngồi ở giới đàn mà: Cảm ứng được trường Phật Lực, cảm ứng được Chư Phật, Bồ Tát?


Tất cả, đều đi từ 1 chỗ nhỏ nhất: Thiết lập giới đàn trang nghiêm tâm là ở tâm mỗi người và pháp quán mặt trời lặn là thứ đầu tiên chứng điệp sơ cơ lập được giới đàn thành và có thể trang nghiêm tâm từ đó (hành nguyện).
Đầu trang

Trả lời bài viết