PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Trao đổi về y học, võ thuật, văn hóa, phong tục, tín ngưỡng
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Như vậy, đến đây, chúng ta phân biệt một cách đã chứng tri và chân lý: Cái thọ mới là cái hình thành nên cái tôi, cái ngã tôi giây phút hiện tại. Không phải cái tưởng, cái thức (tưởng ấm, thức ấm)


Bao nhiêu đời nay, năm nay: Rất nhiều người chúng ta đi lý giải cái thọ ở thức, thọ ở tưởng, thọ ở sắc… - Sai ngay lý Đức Thế Tôn từ đầu dẫn tới lý giải sai về ngã tôi ở thế này là do đâu.

Chính vì lý giải sai nên mới:

1/ Nhầm tưởng, ngã tôi do thức nên lúc nào cũng tác động vào thức: Vô ngã, vô ngã, không có ngã, ngã là điên đảo.v.v.v - tu thế này liệu có chứng tri, an trú và Đạo quả?

2/ Nhầm tưởng, ngã tôi do tưởng, nên cũng lúc nào cũng tác động vào tưởng: Không được tưởng (niệm) về tôi. Không có tôi, cái tôi là điên đảo.v.v. - tu thế này liệu có chứng tri, an trú và Đạo quả?


3/ Nhầm tưởng, ngã tôi do sắc, nên lúc nào cũng: Phải thấu hiểu lý vô thường để diệt ngã tôi. Không có gì là thường, nên không có ngã tôi..v.v.v - Tu thế này, liệu có quả rốt ráo thù thắng?


Cái 3/ sao lại có câu hỏi tu từ khác với cái 1/ 2/?

- Vì: Sắc hay sắc ấm hay sắc uẩn - là thứ được thắt nút sau nút thắt thọ (nói cách khác, sắc sinh sau thọ). Điều này có nghĩa là gì?

- Là chính là ngã tôi là cái phía trước, cái làm ra điên đảo vọng tưởng sắc. Nếu chúng ta cởi hết điên đảo vọng tưởng sắc - chúng ta cũng có thể hiểu về ngã tôi (vô ngã). Vì lúc này, khi sắc được cởi thì thọ trơ ra. Vì thọ hiện trơ ra, nên chúng ta thấy thọ, lúc đó cũng thấy cái bản ngã tôi ở thế là gì và từ đó hiểu vô ngã là gì và làm sao đạt được.


Như vậy, vô thường - lý này ai cũng rõ, nhiều người chứng, nhưng chứng được mà không đạt vô ngã. - Khi này tự cho là vô ngã thôi - vì cứ nghĩ chứng được lý vô thường thì sẽ đạt được vô ngã… nên đi cãi nhau ầm ầm với cả đồng môn, đồng đạo về việc: Ngươi mới là sai, ta đúng, ngươi theo sách tà ma viết, còn ta mới là theo sách chánh pháp.v.v.v rồi chuyên đi lý luận: Cái gì đúng, cái gì sai.v.v.v.


- Chúng ta nhớ: Khi còn ở thế, cấp cao nhất là chứng được vô ngã. Còn không thể hoàn toàn an trú trong đây. An trú chân chánh chỉ khi niết bàn chân chánh hoặc dùng hoá sinh, pháp thân, hoá thân. Còn nếu vẫn ở sắc thân ở thế thì: vẫn đang trú trong ngã. Nhưng nhớ, ngã này là ngã đã chứng tri, có thể an trú trong vô ngã bất cứ lúc nào tuỳ thích.




Bởi vậy, chúng ta đã rõ: Cái thọ được chất lên - nó ra cái ngã tôi.

Vì thế, cái ngã tôi có cảm giác: Thọ lạc, thọ khổ, thọ không lạc không khổ.

Nếu chúng ta chứng tri về khổ đế hay chứng tri được: Cái thọ ở thế là cái thọ tánh khổ hay bản tánh thế điên đảo này là tánh khổ - gì gì cũng khổ..v.v.v. - thì chúng ta phá xong thọ ấm. Cởi ra nút thọ.
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Chúng ta không rõ tốc độ cước tác này là nhanh hay chậm với tất cả chúng ta, nhưng nó là realtime và chúng ta đều rõ khả năng nhanh thì cũng hàng chục năm với tốc độ cước này mới đến được nơi đó - đấy là có nhẫn mà đi được. Nên có người đi nhanh, người đi chậm, dù sao, cước tác là phản ánh 1 realtime với mẫu: Ngu nhất trần đời và nặng nghiệp nhất trần thế - người gõ phím (dân mạng thời hiện đại gọi là: Anh hùng bàn phím đó).



Cái chính của chúng ta, không phải là văn trí, là tri kiến, là văn sở ngộ… Cái chính là “tu hành” thực tế của chúng ta.


Chúng ta dù có thể phía trước đó chưa hoàn toàn chứng tri được “khổ đế” nhưng chúng ta trang nghiêm tâm đến vô lượng thọ Phật - cần phải cố gắng đạt được sự “hoát nhiên đại ngộ về khổ”… - Như trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ - Vị Vi Đề Hi kém văn hơn chúng ta mà đã ngay lập tức đại ngộ khi được nghe pháp: Quán Vô Lượng Thọ.



Nếu như, vẫn chưa hoát nhiên đại ngộ về sự khổ - tức là chưa thực chứng thấy được khổ đế. Chúng ta trang nghiêm tâm vô lượng thọ cực lạc sẽ sớm rơi vào ma sự: - Sự lạc nào cũng coi là sự lạc (vì nó là lạc thì chả bảo là lạc, chẳng lẽ lại chối đi bảo khổ). Khi chúng ta không phân biệt được, tức là mất tỉnh thức, sớm trở về với những tri kiến: Tu sướng, tu đầy lạc, đầy tiền, đầy phước. Quả đây chứ đâu…v.v. - Tất nhiên, chúng ta sẽ vẫn an trú trong điều này, nhưng chúng ta phải rõ lý mới có thể sau đó đi tiếp ra được. Bằng không, chẳng lẽ, không an trú trong hỉ lạc lại an trú trong khổ? - Không những vô lượng thọ Cực Lạc. Ở Kinh về lý cũng đã nói rất nhiều lý pháp: Khi vào thiền sơ, thiền 2… chúng ta đều ở trong lạc. Nên không được vì những điều chứng khổ đế hay sợ bị tà ma hãm lạc mà lại cho rằng: Không được trú trong lạc thì càng sai. Không trú trong lạc ở mấy cấp này, trú trong đâu?


Vì từ xưa đến giờ: Chúng ta tu trong mù đường nên mới thấy chỗ kinh này nói thế này, chỗ kia nói ngược lại thế kia.v.v. Không biết đâu mới là đúng. Bây giờ chúng ta đã dần biết: Đúng với sai không hai. Chỉ là thời (giây phút hiện tại). Hợp thời hay không. Hợp thì trú, sai thời thì ly (xả). Vậy thôi. Không cần giữ chấp phân biệt đúng sai.
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Để trang nghiêm tâm cực lạc vô lượng thọ Phật - từ khi lập Đạo Tràng trang nghiêm tâm - Nó chính xác là giới đàn trong tâm.


Tại sao lại gọi là giới đàn? - Vì nó chính là 1 cái đàn tràng giới (nhốt, phạm vi, giới hạn) tâm của chúng ta. Nó không phải cái đàn tràng hình tướng ở ngoài đời, vì cái đàn tràng này lại giới được tâm chúng ta?

Chỉ có mỗi chúng ta tự lập giới đàn trong tâm của chúng ta thì mới giới được tâm của chúng ta. Giới là gì? - Chính là Giới Pháp Phật đó.

Có giới đàn này, chúng ta mới ở trong giới, mới tu được giới. Không phải hình tướng, hình thức.


Vậy truyền giới? - Đại giới đàn chúng ta chưa nói đến. Tiểu giới đàn, đều tự làm được ở trong tâm mỗi người.


Khi chúng ta lập Đạo Tràng trang nghiêm tâm thọ bát quan trai lần đầu tiên. Nếu thành giới đàn, từ đây tâm trang nghiêm được hình thành - tức là tu hành giữ được cái tâm mà người này đang trang nghiêm.

Về lý: Nó là giới đàn nên phải giữ được giới thì mới không bị vỡ đàn hay hỏng tâm đã trang nghiêm.

Giới đàn to nhỏ là do mỗi người. Không có quy định cụ thể về mặt bản chất - vì 1 lẽ là chỉ có đạt được cụ túc giới cấp nào thì mới có Đạo Hạnh cấp đó, nên bất kỳ ai muốn đạt tới Đạo hạnh cấp nào rồi cũng phải cụ túc giới cấp đó. Có nguyện và thực hành Đạo Đức Thế Tôn chánh Pháp - là đã ở trong giới. - Phá giới thì tự thiệt thôi chứ có ai thiệt?


Dù vậy, đã gọi là giới đàn trang nghiêm tâm thì để hữu thực, số tối thiểu nhất, phải là 1 giới. Nếu Một giới này bắt buộc phải là không sát sinh.


Điều này có nghĩa, kể cả là 1 “đại ác ma” tội nghiệp đầy người và đang hành đại ác ma. Chỉ cần phát nguyện, và vì căn tánh bản tính vẫn đang là đại ác ma thì cái giới đàn của người này dù có gọt bỏ đi cách nào cũng phải trước tiên: Không sát sinh.


Rồi dần dần theo các lần trai giới và thời gian tu tập, chúng ta sẽ nâng lên thành cụ tục giới. Sám hối phạm giới nhiều thì sẽ thấy cụ túc giới nhanh hơn. Người mà ít nhận ra phạm giới và sám hối, thời gian cụ túc giới bị kéo dài và lâu. Tuy nhiên, sám hối đi rồi lại sám hối lại cùng những lỗi giống nhau thì: Không ổn. Cần phải thiết lập chuyên tâm dứt trừ. (Tứ chánh cần)

..
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Tiểu luận 256: Sám hối và hổ thẹn


Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật: Con xin sám hối về điều đã viết sai với chánh Pháp của Ngài ở đây…



Tự thấy hổ thẹn về những hành của mình là một trong những pháp thực hành tinh tấn đem lại kết quả khó nghĩ bàn. Người mà chưa hoặc ít thấy hành (hành động) của bản thân tạo ra ác nghiệp thì vẫn chưa thể rốt ráo tinh tấn.

Khi bằng 1 cách nào đó, dù là tự tưởng ra, tự quán ra, được nhắc, được chỉ.v.v. - Hành của bản thân đang là những hành tác nghiệp (lý và sự). - Chỉ khi chúng ta tự thấy hổ thẹn, tự cảm giác hổ thẹn với tâm - lúc này chúng ta mới chứng


Vì lẽ thực chứng, nên chúng ta sẽ sám hối, vì lẽ tu là sửa, tu hành là thực hành sửa đổi thân tâm. Nên khi thấy được sự tự hổ thẹn và sám hối về những hành tác nghiệp. - Chúng ta sẽ tinh tấn tu sửa thân tâm rất nhanh - Chẳng mấy chốc mà đạt vô lượng thọ cực lạc - hiện tại an lạc trú.




Bởi vậy, chúng ta tự hổ thẹn và sám hối vì đã (nói), trước tác sai Chánh Pháp ở đây, ít nhất là diễn giải sai về nội dung và cả mặt ngữ nghĩa. - Đây là vi phạm giới cấm cơ bản “không nói láo trong 5 giới”.


Tất nhiên rồi: Chúng ta nói láo khi đã trước tác tới 3 lần với hàm ý có thể được hiểu rằng: “Giữ tối thiểu 1 giới không sát sinh”.


Chúng ta biết rất rõ: Nếu chỉ phát nguyện giữ một giới thì Đạo Tràng trang nghiêm tâm không thể thành Giới Đàn trang nghiêm tâm, dù cụ túc giữ được 1 giới (không sát sinh) thời thời khắc khắc đã là giới Niết Bàn - nhưng điều này không thể thực hiện được ở đời vì ai cũng vẫn luôn thở và ăn. - Bởi vậy, nói như này khác gì nói thứ trên trời, phá giới cơ bản khi lập giới đàn trang nghiêm tâm trong tâm.

Năm giới cơ bản - rất nhiệm màu - là giới cụ túc đầu tiên cơ bản nhất - cũng như giới sát sinh - Giới Phật, năm giới cơ bản nếu được cụ túc - thành giới Bồ Tát. Chúng ta ở đời cũng không thể thực hiện được cụ túc 5 giới này thời thời khắc khắc. Bồ Tát cũng vậy! Nhưng nhờ thực tập an trú trong 5 giới này, người tu thực hành sẽ dễ dàng đạt các giới khác.

Có thể nói:

Giới Phật là giới cao nhất, toàn vẹn và nghiêm chỉnh, duy nhất: Nhưng dù có thực hành thì ở đời không thể chứng trú được giới này thời thời khắc khắc vì đây là giới xuất thế gian.

Lùi xuống 1 cấp, 5 giới cơ bản cho chúng ta nhiều “khoảng không” để tu thực hành giới hơn. Nó cụ thể hơn, tính chứng thấy và đạt được dễ dàng hơn. Tuy nhiên 5 giới này cũng chỉ là bản lề để triển khai vô lượng giới còn lại.

Giới đàn trang nghiêm tâm, cần được gìn giữ với 5 giới cơ bản. Bởi vậy, liên tục thấy hổ thẹn và sám hối là thứ pháp sử dụng tứ chánh cần tinh tấn nhanh nhất trên bước đường tinh tấn mà Đức Đức Thế Tôn đã nói rõ trong hệ thống giới kinh.


Cũng như giới sát sinh, 5 giới này chỉ có phạm giới hay không phạm giới: Không thể bỏ hay cho rằng không cần 1 giới nào, hay tu trước tu sau.v.v. mà vẫn có thể cụ túc giới. Đạt được giới hạnh toàn vẹn sau này.



Như vậy, chúng ta biết: Pháp tự hổ thẹn và sám hối chính là pháp sử dụng pháp tứ chánh cần tinh tấn. Pháp này, được tuyên ở đâu thì đọc/nghe đủ nhiều trong hệ thống giới kinh chúng ta sẽ thấy và khi thực hành sử dụng pháp tự hổ thẹn và sám hối để tinh tấn tứ chánh cần - chính người thực hành tự chứng thấy rằng: Điều này là đúng! Và sẽ an trú trên con đường tu ở sự tỉnh thức luôn luôn thấy hổ thẹn và sám hối. - Kết quả nhiệm màu!



Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Đến đây, nhờ vào văn tu tư, nhờ vào nhẫn, nhờ vào Quán Pháp, chúng ta đã nhận ra, con đường giải thoát, thì ra đơn giản đến như vậy, dễ dàng đến như vậy… nó chỉ khó khi tất cả chúng ta đã tự xới tung lên, làm rối ren mọi thứ lên từ bao giờ đời nay đến giờ.

Chúng ta không cần văn vô lượng trí, tu vô lượng nhẫn, tư (quán) vô lượng tận mới nhận ra điều này. Chúng ta chỉ cần văn tu tư đủ để chứng thấy điều mà Đức Thế Tôn đã nói trong kinh Pháp:

- Do đã luân hồi vô lượng kiếp mà mỗi chúng ta như một chiếc khăn đã bị thắt vô lượng nút. Bây giờ muốn thoát ra để trở về tâm chân như thường hằng vốn có thì chẳng có cách nào ngoài cách: Cởi nút bên ngoài trước.. lần lần vào đến nút bên trong cùng. Vô lượng nút này đã được Đức Thế Tôn hệ thống lại thành 5 nút cơ bản:

+ Nút đầu tiên cần cởi là nút sắc ấm
+ Tiếp theo là nút thọ ấm
+ Tiếp theo là nút tưởng ấm
+ Tiếp theo là nút hành ấm
+ Cuối cùng mới là nút thức ấm

(Điều này đã được giới thiệu ở Kinh Đảnh Thủ Lăng Nghiêm phía trước, tới đây nhắc lại)


Làm gì có chuyện, cởi nút thức hay nút hành mà không cởi nút sắc đầu tiên, nút thọ, nút tưởng.v.v..v

Vì thế, chúng ta bao đời, bao năm qua mới: Ức chế tâm (tác động thức) để tu hành. Vậy là kết quả ở hiện đời đã được chứng minh rất rõ, dự báo rất rõ bởi Đức Thế Tôn - làm như này không ra kết quả. Dù có hiểu lý (trí kiến) nhưng không thể chứng sự, giải quyết sự, dẫn đến vô quả thù thắng rốt ráo.

Chúng ta phải cởi lần lượt từng nút là vậy!



Ai cũng biết, vì tâm dính mắc nên mới không giải thoát, không tự do. Nhưng làm sao để không dính mắc? - Ai cũng biết là đừng chấp cái gì nữa. Đừng chấp vào cái gì nữa thì tự nhiên giải thoát, tự do thôi. Nhưng làm thế nào để đừng chấp? - Ai cũng biết, không thể không chấp nếu như vẫn còn bản ngã (cái tôi). Chỉ có vô ngã mới có thể đừng chấp. Nhưng làm thế nào để vô ngã? - Vậy là có vô vàn cách thức được phiên tác ra.v.v. Trong khi Đạo Đức Thế Tôn đủ đầy mọi phương tiện thù thắng lẫn chỉ rõ cách sử dụng … thì lại bị lãng quên.


Khi thực hiện được không còn chấp dính thì cái tâm nó đâu còn bị vướng cái gì nữa. Khi này người hành giả có thể “đứng” mà hô: Tâm thu vào… là có khi nó cũng tự thu vào, phát sáng. - Cũng thế, với tâm này, khi ngồi kiết già vào định, mới có thể hướng tâm, tạo tác…

Nên chúng ta rõ: Không phải định để làm ra sự vô chấp, để chặt dính mắc. Mà chặt dính mắc, vô chấp để vào định (gọi là chánh định).


Tâm chúng ta vô lượng dính mắc. Nó bị lôi kéo bởi vô lượng trần và khách trần (cả bên ngoài lẫn bên trong). Vì thế, không phải chỉ chặt 1 sự, chặt trăm sự là đã xong. Không phải chỉ diệt (sự) là đã xong. Lý nhân duyên chỉ rõ rồi: Nó vô thường nhưng nó luân hồi nên có diệt nó, vô lượng diệt dính mắc, sớm muộn nó sẽ lại duyên sinh trở lại vì cái gì cũng luân hồi, vô thường..v.v.


Bởi thế, phải dùng Phương tiện Đạo Đức Thế Tôn, mới có thể chặt sự đi, mà không cho nó duyên sinh trở lại… lúc này mới là giải quyết được dính chấp với sự đó.


Làm gì có chuyện dễ như ăn kẹo: Không chấp là tác động vào thức, hành, tưởng (niệm): Tôi không chấp sự này, tôi không chấp sự này, tôi không chấp.v.v. - mà có thể tu ra tâm không còn dính mắc. Ở thực tế, ai cũng chứng thấy rồi. Bởi thế, phải có pháp Đạo Đức Thế Tôn mới thấy kết quả tu hành thiết thực rốt ráo.



Muốn không chấp, hay muốn chứng những cái gọi là tâm không dính măc, tâm không chấp, vô ngã, ngã…v.v.:

Trước tiên phải ở trong giới.

Muốn tâm ở trong giới, phải có cái giới đàn để giới tâm. Đã gọi là giới đàn trang nghiêm tâm hay gọi ngắn là trang nghiêm tâm.

Tại sao phải có giới đàn trang nghiêm tâm? - Để chặt được sự nào, chặt được cái dính mắc nào, dù sự này nhỏ hơn hạt cát, nhỏ như vi trần thì ngay lập tức, thu tâm chỗ đó lại, cho nó vào trong giới đàn, không cho nó buông lung rong ruổi ở bên ngoài nữa, chúng ta rào chắn chỗ vừa chặt được sự dính mắc đó, không cho nó dính mắc lại.

Cái “vòng” cái “khung” cái giới hạn mà chúng ta cho “những phần tâm đã chặt được dính mắc ở đời” ở trong đó. Vùng đó chính là vùng giới đàn trang nghiêm tâm. Chỉ cho nó ở trong đó thôi.

Như vậy, hàng rào giới đàn càng vững chặc khi giới được thực hiện nghiêm trang và thời thời được soi xét và tứ chánh cần (tu sửa và bảo dưỡng) - tự thẹn, tự xấu hổ và sám hối… liên tục tăng lên sự vững chắc của giới. Đến một lúc dù sự lớn, lớn bằng cả thế giới, đã chặt, nhốt vào mà giới đàn trang nghiêm tâm vẫn bình yên vô sự, không rung động mảy may.



Không có một cách nào tu được vô chấp nếu như không dùng Đạo Đức Thế Tôn ( giới đàn trang nghiêm tâm). Và pháp này phải được hiện đúng Chánh Pháp. Không phải là cái giới đàn hình thức, hình tượng, cái lời nguyện hành cho có chứ không hành, cái sám hối chỉ bằng lời mà không có sự tự hổ thẹn và cảm thấy tự xấu hổ trong tâm trang nghiêm…. - Muốn có những thiết thực nhiệm màu. Phải hành đúng chánh pháp là vậy.



Như vậy, giới và hạnh nguyện là 2 thứ luôn phải đi cùng với nhau.

Hạnh nguyện là cái kết quả của hành nguyện tạo ra cho người hành thọ lạc khi đạt hạnh nguyện và cái sự thực tế ở đời chính là: Chặt sự này ra rồi.

Giới lúc này chính là để người đó - khi đạt hạnh nguyện (dù nhỏ như hạt cát) thì ngay ở đó, vô nhân, vô phước, vô chấp, vô quả, vô tướng, vô ngã.v..vv. - Giới ngay cái chỗ đó lại, không cho dính mắc trở lại sự gì nào nữa.


Nếu không có giới, chúng ta giống như 1 người lấm toàn thân keo dính và dính xung quanh vô số các vật, lại có rất nhiều các vật tiếp tục được lao vào phía chúng ta. Chúng ta có cởi ra bao nhiêu vật dính trên thân thì vẫn có các vật tiếp tục được dính trên thân ta. - Không những thế, nó còn kéo ta đi vô định là vậy.



Như vậy, giới đàn trang nghiêm tâm mới có thể sớm đạt vô lượng thọ Phật - Cực Lạc.
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

(256 tiếp)


Tự thấy hổ thẹn với mình - chính là 1 pháp dùng để thực hành các pháp tu tinh tấn rất thâm sâu, nhiệm màu.


Tại sao chỉ khi tinh tấn mới thấy được pháp này nhiệm màu?

- Bởi vì, ở phía trước giai đoạn tinh tấn, chúng ta luôn sống trong u mê vô minh. Khi có được chút trí, chút văn, chút kiến giải (dù nhiều hay ít, đúng hay sai, được vỗ mông khen ngợi hay chẳng được con ruồi nào để ý tới…) thì chúng ta đã luôn cho rằng: Cái mình này là đúng, cái tôi này là thế, nếu có gì sai thì cũng đâu phải 1 mình tôi sai, ai chả có cái sai,v.v. - chúng ta có rất ít sự hổ thẹn với chính mình. Nếu có, khả năng là hổ thẹn việc gì đó với người. - Thật khó cho khi đó, chúng ta thấy cái hành của chúng ta đáng hổ thẹn đến mức nào.


- Tuy nhiên, khi đến chỗ này, đã lập giới đàn trang nghiêm tâm thì: Không thể không sử dụng phương tiện nhiệm màu này để tu sửa.


Chúng ta có thể từng đặt câu hỏi trong tứ chánh cần:

Làm sao ta biết được cái thiện để trau dồi, để khởi sinh, biết được cái ác để diệt độ để ngăn ngừa?, hoặc: Trong 1 ngày có vô lượng hành, niệm hành… có rất nhiều sự đột ngột.. đâu phải lúc nào cũng đủ thời gian cho chúng ta Quán Lý để mà lựa chọn..v.. v.

- Vì lẽ đó, chúng ta mới thấy sự nhiệm màu của phép tự thẹn, tự sám hối.



Nếu như chúng ta lúc nào cũng bằng lòng với việc: Mình đang tu tốt rồi, đang thấy đầy kết quả đây….v..v - Bản ngã sẽ lại được nuôi ở những hình tướng, vấn sự khác, chứ không hề bị mài đi.

Chỉ khi chúng ta thấy: Chúng ta càng tu mà lại càng thấy hổ thẹn với tâm trang nghiêm của mình. Chúng ta từ ngẩng đầu ở đời mà tự nhiên một cách tự tại thành cúi đầu. Vì sao?

- Vì tu hành được càng vào sâu thì càng thấy: Vĩ đại, bất tư nghì, “không có khả năng tưởng tượng được”.v.v. - càng lúc càng thấy bản thân quá nhỏ nhoi trước những sự nhiệm màu của điều tu hành chứng thấy. Đó là chúng ta lại biết, điều chứng thấy, nhỏ hơn hạt cát trên sa mạc…. - Thế thì còn gì để mà không cúi đầu?

Vì lẽ đó, bản ngã sẽ dần nhỏ dần tới vi trần là vậy. (Chưa biến mất được hẳn).


Chỉ có hiểu điều trên, chứng tri điều này và thực hành điều này, an trú trong đó: Người tu hành chúng ta mới có cơ hội tinh tấn rất nhanh ở giai đoạn này.

Nếu không tự thấy sự hổ thẹn vì những hành động sai trái tự tạo nghiệp thì chẳng bao giờ chúng ta tu sửa rốt ráo vì có biết tu ở đâu đâu. (Tu là sửa mà). Không rõ, chỗ nào cần sửa. Chỉ rõ bằng văn trí rằng: Tu là sửa, chúng ta đang ở vô minh nên hành gì cũng tạo nghiệp. Giờ phải tu trả nghiệp, giải thoát… - Tu trong vô minh thì kết quả cũng vẫn ở trong vô minh - Đây là chân lý bất biến!. Không có chuyện tu trong vô minh mà kết quả lại ở ngoài vô minh được. - Còn nếu nói: “Tôi tu trong minh. Vì tu trong minh nên mọi thứ minh hết rồi, vì lẽ đó, tôi thấy tôi có gì sai. Sao phải hổ thẹn, sao phải sám hối. Tôi minh nên tôi đều hành thiện, hành đúng, không có gì phải sám hối…. - Vậy là rõ ràng: Chúng ta như này, tu mà không còn có gì phải sửa nữa. - Như vậy, có còn là tu? - Rất rõ là Phật rồi còn gì nữa mà vẫn “ngồi” ở đời “luyên thuyên” được, đúng không? (*)


Như vậy, mới thấy pháp tự thẹn, tự xấu hổ vì làm sai, làm ác, sám hối - Mới là pháp tinh tấn nhiệm màu.


Còn nếu tu trong minh mà rơi vào lý luận như trên (*) thì: Ma nhập rồi!
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Khi nào, chúng ta tự thấy lúc nào chúng ta cũng cảm thấy tự xấu hổ, tự thẹn với tâm trang nghiêm của mình - lúc ấy chúng ta có thể chứng tri: Chúng ta đã bước vào đoạn tinh tấn


Đạo Đức Thế Tôn rất nhiều phương tiện và phương tiện lớn nào cũng có giai đoạn tinh tấn. Từ bát chánh Đạo của hàng Thanh Văn tới Bồ Tát Đạo của hàng Bồ Tát… đều có giai đoạn tinh tấn.


Giai đoạn tinh tấn chính là giai đoạn phía liền sau của giai đoạn phía trước - giai đoạn được gọi là tu hành trong vô mình - tìm cầu pháp, tìm cầu Đạo, học Pháp, học Đạo (lý), văn tu tư, nhìn rõ con đường, lựa chọn pháp tu..v.v. Tất cả những thứ này đều cần thử nghiệm, cần thực hành, cầm lên bỏ xuống, thay đổi…. - Nên được gọi là giai đoạn sơ khởi, vẫn ở trong vô minh.


Điểm đánh dấu việc người tu hành thấy được tia minh, con đường và quyết chí..v..v - Đây gọi là bước vào giai đoạn tinh tấn. Giai đoạn này được đánh dấu bởi điều trên: Người hành giả chúng ta chứng tri và an trú trong tâm hổ thẹn, hối lỗi, xấu hổ với chính tâm trang nghiêm của chúng ta vì - nhìn cái gì cũng thấy chúng ta sai Đạo Đức Thế Tôn. Những cái hành được trong Đạo Đức Thế Tôn thì nhỏ bé, ít ỏi, bòn tích mãi từng ly từng tý một… trong khi nhan nhan các hành của chúng ta là ác nghiệp.


Vào tinh tấn, chúng ta có thể vào sơ thiền (vào thôi chứ chưa chứng và càng không thể gọi là trú)
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

(256 tiếp)


Khi chúng ta đã thực tập được phép Quán mặt trời lặn có tiểu thành. Chúng ta đã có thể tưởng thấy mặt trời. Nói chung phép này là dễ nhất rồi. Không tu hành được nổi thì giả dụ với phép: Tứ niệm xứ - Quán thân ngoại thân: Tức tưởng ra thân người chết rồi quán tới xương trắng rồi quán tới ánh sáng..v.v.v - Thì không biết các nhà hành giả chuyên tu tiểu thừa - phế bỏ Đại Thừa tu kiểu gì để ra được ánh sáng khi mà tu phép tứ niệm xứ vào ĐẠO.


Có như vậy, chúng ta mới càng tu hành (thực chứng lý, sự) mới càng thấy: Đạo Đức Thế Tôn sâu xa nhiệm màu. Mới càng tu càng thấy rõ: Trang nghiêm là gì, và vì sao, lý ở tiểu thừa mà hành sự lại mang Đại Thừa ra tu.


Chắc chắn khi quán thấy mặt trời lặn, quán tưởng được mặt trời - người tu hành đã có thể tự nhiều điều mà có nghĩ tưởng cũng chưa nghĩ tưởng ra. Nhiều khi đọc ở đâu đó, cứ nghĩ đó là những gì sâu xa lắm..v.v.v


Đó là những hiện tượng rất đỗi bình thường, tuỳ từng người có thể có những hiện tượng khác nhau nhưng tựu chung đều sẽ: Mở 2 mắt mà tập trung nhìn gì, tưởng mặt trời là thấy mặt trời. Nhắm mắt, tập trung nhìn, tưởng mặt trời thì thấy mặt trời ở vị trí luân 6. (Các hiện tượng khác, thấy cũng đừng đuổi theo, kệ, đừng chấp).


(Tất nhiên, với những điều chúng ta đã có từ đầu tới đây, chứ không phải chỉ là văn trí trong đầu) thì:


Khi này, chúng ta ngồi xuống 1 cách tự nhiên. Kiết già cũng tốt, yên tĩnh, thông thoáng càng tốt (vì thế Đức Thế Tôn mới nói ở gốc cây, lùm cây.v.v. Chứ không phải trong thất). Ngồi xuống và nhắm mắt quán tưởng mặt trời:

1/ Khi quán tưởng sâu mặt trời (người đã đạt tự biết không gian khi quán tưởng mặt trời màu gì) thì lúc này, không gian luân 6 hiện ra. Vì điều này cũng có văn. Không gian này màu chàm và do thực tập đúng chánh pháp - chúng ta thấy hình con mắt. Trong đó con mắt màu chàm lai tím. Chúng ta muốn đưa mặt trời chúng ta quán được đó và làm đồng tử của con mắt. Như vậy, con mắt chia làm 3 phần trong hình dạng con mắt: Phần bên ngoài, phần con ngươi, phần đồng tử.

Tuy nhiên: Vô ích - nó cứ sụp đổ và sự tranh đấu giữa màu (màu của luân 6 và màu của quán tưởng mặt trời) - làm cho con mắt không thể định hình và định lại, không bị sụp.


2/ Lúc này, người thực tập chúng ta bắt đầu dùng pháp hành căn cơ:

Duy trì trạng thái muốn hoà hợp như trên (nhưng chưa được), quán niệm hơi thở: Chỉ quán hơi số 1, hơi số 2 như đã trình ở phía trước - chớ tự tưởng ra phương tiện ức chế tâm như bao đời năm qua. Không gian màu chàm thắng thì quán Niệm Phật (Vô lượng quang Phật hộ trì: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô Chư Phật mười phương, Nam Mô Chư Bồ Tát, Nam Mô Các Chư Vị Tôn Đức Thánh Tăng). Màu của ánh sáng nhiệm màu (mặt trời) lại vươn ra.


3/ Có 1 sơ hợp khi thực hiện 2. Lúc này người hành giả chúng ta hoàn toàn tỉnh táo, tỉnh thức và biết hết tất cả, phải đảm bảo:

+ Cảm giác được toàn thân, chứ không phải ức chế tâm, thu tâm, thu hết tri giác về. Mà phải cảm giác được toàn thân mình trong khi vẫn đang quán thấy (nhìn 2/). Trong khi cảm giác toàn thân là thấy thoải mái chứ không hề có tý đau nhức, lợn cợn ở đâu dù ngồi lâu hay mới. Cảm giác thân rất thả lỏng, thư thái…

+ Một trong các hiện tượng tự nhiên tự nhiên như: Sấm nhỏ ì ùng (chứ chắc chưa có sét đâu), gió thổi rào rào… hoặc các hiện tượng tự nhiên bình thường khác mà lúc trước chưa có bây giờ tự nhiên có - Đây là biểu hiện của: Thiên địa Cảm ứng và giao thoa năng lượng thiên địa do chúng ta tạo ra. Nó rất bình thường thôi vì cái điều chúng ta đạt được đây rất nhỏ nếu so với sự huyền diệu của vũ trụ và Đạo.

+ Khi thấy các điều trên, thấy rõ, chắc chắn, chúng ta không trợ lực niệm quán nữa, dừng lại nhưng quán thấy vẫn còn - tức là cái chúng ta đang nhìn thấy vẫn còn, không bị vỡ, mất. Chúng ta không niệm gì như 2/ nữa. - Chúng ta vẫn rất rõ mọi thứ.

+ Với sự rõ ràng này: Chúng ta dùng tầm tứ (tức là chúng ta không hề bị ức chế hay làm sao, ở trạng thái tỉnh thức rất cao và biết thấy đầu óc vẫn còn nghĩ tốt, tư duy tốt, không hề trì trệ, rất bình thường, không xao động hay hưng phấn gì, niệm từ “dục” - tức là dùng “tứ dục” - tứ trong hàm nghĩa tầm tứ đó, xuất hiện trong đầu ngay niệm đó là niệm: “ta ly dục rồi” hay tương tự nghĩa. Không cần phải niệm từ “ác” mà ngay khi có tứ “ ta ly dục rồi” thì tứ (niệm) -“ ta cũng không thấy ác nào nữa” . Từ đây, chúng ta tầm tứ toàn thân với cảm giác định lạc hiện đang có ngay tại giây phút đó.



Cùng ở trong trạng thái ngay lúc đó, giây phút này: Chúng ta chứng thấy: À, đã đọc bao nhiêu năm và nghe, thực tập đủ mọi pháp về tu thiền. Vào sơ thiền là “ly dục, ly ác pháp….” - Giờ đây mới chứng thấy “ly dục ly ác pháp là gì”

Bao nhiêu năm, bao nhiêu người giảng giải, bao nhiêu pháp - sơ thiền người nói dễ, người nói khó… mà giờ đây: Chánh Pháp của Đạo Đức Thế Tôn, ta chứng thấy là gì?


Trong trạng thái đó, chúng ta chứng:

Khi niệm (tứ) “dục”: - Chúng ta tìm khắp trong tư duy và đầu của chúng ta ngay khi đó, tìm kỹ vào: Không hề thấy 1 pháp dục nào hiện lên - không thấy tăm tích đâu cả. Kể cả pháp “tình dục” nó cũng lặn đâu mất… - Đây: Chúng ta chứng được trạng thái ly dục: Không còn pháp dục ở trong đầu. Không thấy, chúng ta biết, chúng ta ly rồi. Còn nếu, khi niệm từ dục mà các dục lạc, dục giới hiện lên, xong lại nghĩ ngợi tranh đấu, đi đi, đừng hiện lên, đừng nghĩ.v.vv. - thì chưa vào trạng thái.

Với “ác” cũng vậy. Như dục.


Với sự chứng thấy này, chúng ta biết, chúng ta đã vào sơ thiền đúng Chánh Đạo Đức Thế Tôn.





Không nên ở lâu, hãy cảm giác toàn thân xem cảm giác định tịch tĩnh trong khi thấy biết hết bên ngoài (hiện tượng) lẫn bên trong (tầm tứ) lẫn thấy tất cả mọi thứ xung quanh..v.v.

Chúng ta có muốn giữ lâu cũng không được. Đuổi theo là phạm kỵ (chấp). - Chúng ta nhớ, chúng ta không nắm giữ bất cứ cái gì.





Tuy nhiên, dù thế này, chúng ta chưa chứng được thiền 1 và viên mãn thiền 1 - có thể an trú tuỳ thích. Đây gọi là chúng ta sơ tu vào thiền sơ thôi. Để biết thôi, chứ chưa gọi là chứng và an trú sơ thiền (vào tu sĩ).


- Với sự thấy trên: Chúng ta biết, chúng ta chưa làm tràn cái cảm giác lạc định tịch tĩnh kia ra toàn thân - dù cảm giác toàn thân, chúng ta vẫn cảm giác được nhưng cái lạc nó chưa bung ra toàn thân.

Như vậy, chúng ta mới vào lý. Chúng ta chưa tu thân đủ thanh tịnh để có thể có được cái cảm giác lạc toàn thân như viên mãn sơ thiền đúng Chánh Đạo.

Đơn giản, bởi vì, đến bây giờ mới 100 ngày, chúng ta chưa thanh lọc được cơ thể, chưa thanh lọc được sắc thân. Chúng ta còn chưa đạt chay thực hoàn toàn 100% cơ mà, 5 giới vẫn còn thi thoảng phạm nọ kia và đặc biệt: Chúng ta chưa chặt dây tham, sân, si, mạn, nghi. - Chúng ta mới mài thô, nên mới có cơ hội vào được như vừa trình thôi.


Vậy, đây là thứ, chúng ta đã chứng thấy khi vào sơ thiền: Chúng ta vẫn đầy đủ giác quan, sức tỉnh thức rất lớn. Thấy đầy đủ xung quanh lẫn bên trong. Chúng ta tầm tứ dục nhưng không thấy, tầm tứ ác nhưng không thấy: Khẳng định là tạm ly nhờ pháp tu. Và cũng biết, đã tu được tới đây.


Còn khi chúng ta tầm, tứ dục, ác mà hiện lên pháp dục, ác thì… chưa ly nhé. - Dù đây là pháp tưởng hay pháp thật trần, pháp nhớ quá khứ hay ảo tưởng ra. Cứ tầm dục hay ác mà lại hiện ra (niệm) về nó thì: Rõ là chưa ly. Pháp nó vẫn ở trong đầu đó thôi.


Không hề ức chế tâm.
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Về mặt đối xử: Kinh nghiệm về chứng đạt và an trú chỉ có: Đệ tử trình cho sư trưởng. Sư trưởng xác nhận đúng hay không. Không nói sự, lý khi ở trạng thái (do nói ra thì khác gì vẽ trước). Tuy nhiên, về mặt thực tế: Các sự ở trạng thái chứng trú sẽ muôn hình muôn vẻ và nếu có sư trưởng thì về mặt lý thuyết và bản chất: Người sư trưởng phải tự thấy chứ không phải đợi đệ tử trình.


Ở đây, chúng ta trước tác chuyện đại đồng - không có ai là sư trưởng, chẳng ai là đệ tử. Mọi thứ đều là chuyện trước tác. Bởi vậy, trình lý cho chung ta có được một góc nhìn rõ về việc chứng đạt, an trú.


Đầu tiên là vào sơ thiền, nếu vào được (chưa nói là chứng sơ thiền và an trú ở sơ thiền nhé):

+ Vì người hành giả lần đầu tiên vào được sơ thiền nên phải có hiện tượng cảm giao năng lượng - dù rằng rất bình thường, nhẹ nhàng và không hề khác biệt nhưng nếu tinh ý để ý sẽ thấy. Nếu trong thất kín bưng thì làm sao tự biết, tự thấy được.

+ Khi vào sơ thiền phải vẫn như lúc bình thường nếu không muốn nói là: Chính xác là các cảm giác thông nhạy hơn, các giác quan thông nhạy, tiếng nhỏ ở xa mà nghe như ầm ầm ở gần.v.v. Suy nghĩ, tư duy (tầm tứ) (hay lực quán): Phải tốt hơn, nhạy hơn, mạnh hơn chứ không phải trì trệ. Thân là phải thoải mái, cảm giác an lạc, thư thái và rất bình thường, không hề mỏi mệt, đau nhức, mất cảm giác..v.v

+ Đặc biệt: Tìm “dục” trong đầu không thấy pháp dục. Tìm “ác” trong đầu không thấy pháp ác. Không thấy 2 niệm (niệm về dục, niệm về ác) này thì rất rõ lý: Chúng ta đã ly ở trạng thái đó. - Chứ vào đây, niệm về dục, niệm về ác… xuất hiện ra cả vô lượng niệm về “chúng nó” - xong có khi lại bị kéo vào: - không niệm, không niệm, đừng nghĩ, ly, ly, diệt diệt, lìa lìa..v..v - thì sao là vào thiền với tầm và tứ.
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Tiểu luận 266


Đến đây, chúng ta đã chứng thấy được rất nhiều sự khác biệt và “sự thay đổi trong tâm thức” mà không lệ thuộc vào bất cứ 1 pháp nào, 1 hoàn cảnh, căn cơ nào. Tuy nhiên, khi vừa xây dựng nên giới đàn trang nghiêm tâm - Chúng ta chưa thể nào thấy quá nhiều thứ (sự, lý) ở xung quanh chúng ta (thế giới) thay đổi theo sự thay đổi tâm thức trong ta. Để đạt được những kết quả thiết thực hơn, chúng ta phải bắt tay vào tôn tạo (sửa chữa) giới đàn trang nghiêm tâm - vì lẽ này, nên mới được gọi là trang nghiêm.



Trước tiên, đến bây giờ chúng ta mới thấy được 1 mặt trời quán tưởng ở vị trí xa. Còn cái giới đàn trang nghiêm tâm là gì, ở đâu - chưa thấy, dù đã được biết: Nó ở trong thân tâm, chứ không phải hình tướng bên ngoài.

- Về mặt nghĩa lý: Dù nó ở đâu, hình tướng gì… chúng ta tu giới đàn trang nghiêm tâm cũng là để: Kéo nó về, vào trong thân tâm chúng ta, ở trong này thôi, không rong ruổi nữa.




1/ Phương Đông: Cha mẹ
2/ Phương Nam: Sư trưởng
3/ Phương Tây: Vợ con
4/ Phương Bắc: Bạn bè, huynh đệ, anh em
5/ Phương Dưới: Tôi tớ, người làm
6/ Phương Trên: Đạo, Phật


Đây là 6 phương cơ bản của một người cư sĩ chúng ta. Trước khi chúng ta nghĩ đến những 10 phương Chư Phật, hay vô lượng phương cõi Hoa Nghiêm.v.v. - Người cư sĩ chúng ta phải “thủ hộ trang nghiêm 6 phương cõi như trên”

Chúng ta chưa khi nào “bịa” ra một phương tiện. 6 phương cõi thủ hộ trang nghiêm này được trích trong kinh “tiểu thừa” Nikaya - Pali - Trường Bộ Kinh - Kinh Giáo Thọ Thi Ca La Việt.


Chính vì có Kinh như “Kinh Giáo Thọ Thi ca la việt” - Trong bộ lý mà chúng ta mới biết “phương hướng” trang nghiêm tâm - “demo” học theo các cách trang nghiêm Bồ Tát - Đại Thừa.

Không có những sự đối chứng và xác lập so sánh chứng chiếu pháp - làm sao chúng ta có thể chứng nhận bằng Quán rằng cái gọi là “tiểu thừa” và “đại thừa” là MỘT - không thể tách rời.



Cũng nhờ những kinh ở trong hệ pali - tiểu thừa - nikaya - Trường Bộ như, ví dụ: Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Sư Tử Hống, Kinh Đại Thiện Kiến Vương.v.v. - Rất nhiều, hàng chục Kinh - Chúng ta mới biết được trang nghiêm là gì, để mà tìm ở Đại Thừa. - Giống như Bố thí, trì giới, nhẫn nhục - Đã được xác quyết kể ra ở trong hệ kinh pali - nikaya - tiểu thừa thì chúng ta mới biết: Lý bố thí, trì giới, nhẫn nhục ở đường Bồ Tát Đạo là thế nào..v.v.




Ở đây, tại vị trí này, chúng ta có 6 phương phải trang nghiêm. Như vậy, giới đàn trang nghiêm tâm của chúng ta - dù là hành nguyện gì đi nữa thì trước tiên cũng phải: Thủ hộ, hộ trì, trang nghiêm đầy đủ (cụ túc) 6 phương như đã nêu.


Đạo Đức Thế Tôn không hề trên trời. Nó rất thực và người tu hành phải tự chứng thực, rất dễ, lần lần từng bước chứng thực. Còn văn trời biển mà vội vàng, không biết rõ đường - đều dậm chân 1-2-1 cả. Không đi đến đâu.
Đầu trang

Trả lời bài viết