PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Trao đổi về y học, võ thuật, văn hóa, phong tục, tín ngưỡng
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

(Trích Kinh Giáo Thọ Thi Ca La Việt - HT Thích Minh Châu Việt dịch)


“… Đại Tạng Kinh Việt Nam
KINH TRƯỜNG BỘ
Dìgha Nikàya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt - Phật Lịch 2535 - 1991

31. Kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt
(Sigàlovàda sutta)
Như vậy tôi nghe.

1. Một thời Thế Tôn sống ở Ràjagaha (Vương Xá thành), tại Veluvana (Trúc Lâm), Kalandakanivàpa (chỗ tìm ăn của loài sóc). Lúc bấy giờ, Singàlaka (Thi-ca-la-việt), gia chủ tử, dậy sớm, ra khỏi thành Vương Xá, với áo thấm nước, với tóc thấm nước, chấp tay đảnh lễ các phương hướng, hướng Đông, hướng Nam, hướng tây, hướng Bắc, hướng Hạ, hướng Thượng.

2. Rồi Thế Tôn buổi sáng đắp y, cầm y bát vào thành Vương Xá khất thực. Thế Tôn thấy Singàlaka, gia chủ tử, dậy sớm, ra khỏi thành Vương Xá, với áo thấm nước, với tóc thấm nước, chấp tay đảnh lễ các phương hướng, hướng Đông, hướng Nam, hướng Tây, hướng Bắc, hướng Hạ, hướng Thượng. Thấy vậy Ngài nói với Singàlaka, gia chủ tử:

- Này Gia chủ tử, vì sao Ngươi dậy sớm, ra khỏi thành Vương Xá, với áo thấm ướt, với tóc thấm ướt chấp tay đảnh lễ các phương hướng, hướng Đông... hướng Thượng?

- Bạch Thế Tôn, thân phụ con khi gần chết có dặn con: "Này con thân yêu, hãy đảnh lễ các phương hướng". Bạch Thế Tôn, con kính tín, cung kính, tôn trọng, đảnh lễ lời nói của thân phụ con, buổi sáng dậy sớm, ra khỏi thành Vương Xá, với áo thấm ướt, với tóc thấm ướt, chấp tay đảnh lễ các phương hướng, hướng Đông... hướng Thượng.

- Này Gia chủ tử, trong luật pháp của bậc Thánh, lễ bái sáu phương không phải như vậy.

- Bạch Thế Tôn, trong luật pháp của bậc Thánh, thế nào là lễ bái sáu phương? Bạch Thế Tôn, trong luật pháp của bậc Thánh, đảnh lễ sáu phương phải như thế nào? Lành thay! Thế Tôn hãy giảng pháp ấy cho con!

- Này Gia chủ tử, hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Singàlaka, gia chủ tử vâng lời Thế Tôn. Thế Tôn giảng như sau:

3. - Này Gia chủ tử, đối với vị Thánh đệ tử, bốn nghiệp phiền não được diệt trừ, không làm ác nghiệp theo bốn lý do, không theo sáu nguyên nhân để phung phí tài sản. Vị này, nhờ từ bỏ mười bốn ác pháp, trở thành vị che chở sáu phương; vị này đã thực hành để chiến thắng hai đời, vị này đã chiến thắng đời này và đời sau. Sau khi thân hoại mạng chung, vị này sanh ở thiện thú, Thiên giới.

Thế nào là bốn nghiệp phiền não đã được diệt trừ? Này Gia chủ tử, đó là nghiệp phiền não sát sanh, nghiệp phiền não trộm cắp, nghiệp phiền não tà dâm, nghiệp phiền não nói láo. Bốn nghiệp phiền não này đã được trừ diệt.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

4. Thiện thệ thuyết giảng xong, bậc Đạo Sư lại giảng thêm:

Sát sanh và trộm cắp,
Nói láo, lấy vợ người,
Kẻ trí không tán thán,
Những hạnh nghiệp như vậy.

5. Thế nào là không làm ác nghiệp theo bốn lý do? Ác nghiệp làm do tham dục, ác nghiệp làm do sân hận, ác nghiệp làm do ngu si, ác nghiệp làm do sợ hãi. Này Gia chủ tử, vì thị Thánh đệ tử không tham dục, không sân hận, không ngu si, không sợ hãi, nên không làm ác nghiệp theo bốn lý do.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

6. Thiện Thệ thuyết giảng xong, bậc Đạo Sư lại giảng thêm:

Ai phản lại Chánh pháp,
Vì tham, sân, bố, si,
Thanh danh bị sứt mẻ
Như mặt trăng đêm khuyết.
Ai không phản Chánh pháp,
Vì tham, sân, bố, si,
Thanh danh được tròn đủ,
Như mặt trăng đêm đầy.

7. Thế nào là không theo sáu nguyên nhân phung phí tài sản? Này Gia chủ tử, đam mê các loại rượu là nguyên nhân phung phí tài sản. Du hành đường phố phi thời là nguyên nhân phung phí tài sản. La cà đình đám hí viện là nguyên nhân phung phí tài sản. Đam mê cờ bạc là nguyên nhân phung phí tài sản. Giao du ác hữu là nguyên nhân phung phí tài sản. Quen thói lười biếng là nguyên nhân phung phí tài sản.

8. Này Gia chủ tử, đam mê các loại rượu có sáu nguy hiểm: Tài sản hiện tại bị tổn thất, đấu tranh tăng trưởng, bệnh tật dễ xâm nhập, thương tổn danh dự, để lộ âm tàng, và thứ sáu là trí lực tổn hại. Này Gia chủ tử, đam mê các loại rượu có sau nguy hiểm như vậy.

9. Này Gia chủ tử, du hành đường phố phi thời có sáu nguy hiểm: Tự mình không được che chở hộ trì, vợ con không được che chở hộ trì, tài sản không được che chở hộ trì, bị tình nghi là tác giả các ác sự, nạn nhân các tin đồn thất thiệt, tự rước vào thân nhiều khổ não. Này Gia chủ tử, du hành đường phố phi thời có sáu nguy hiểm như vậy.

10. Này Gia chủ tử, la cà đình đám hý viện có sáu nguy hiểm: Luôn luôn tìm xem chỗ nào có múa, chỗ nào có ca, chỗ nào có nhạc, chỗ nào có tán tụng, chỗ nào có nhạc tay, chỗ nào có trống. Này Gia chủ tử, la cà đình đám hý viện có sáu nguy hiểm như vậy.

11. Này Gia chủ tử, đam mê cờ bạc có sáu nguy hiểm: Nếu thắng thì sanh oán thù, nếu thua thì tâm sanh sầu muộn, tài sản hiện tại bị tổn thất, tại hội trường (pháp đình) lời nói không hiệu lực, bằng hữu đồng liêu khinh miệt, vấn đề cưới gả không được tín nhiệm vì người đam mê cờ bạc không xứng để có vợ. Này Gia chủ tử, đam mê cờ bạc có sáu nguy hiểm như vậy.

12. Này Gia chủ tử, thân cận các ác hữu có sáu nguy hiểm: Những kẻ cờ bạc, loạn hành, nghiện rượu, những kẻ trá ngụy, lường gạt, bạo động là những người bạn, là những thân hữu của người ấy. Này Gia chủ tử, thân cận ác hữu có sáu nguy hiểm như vậy.

13. Này Gia chủ tử, quen thói lười biếng có sáu nguy hiểm: "quá lạnh", không làm việc; "quá nóng", không làm việc; "quá trễ" không làm việc; "quá sớm", không làm việc; "tôi đói quá", không làm việc; "tôi quá no", không làm việc. Trong khi những công việc phải làm lại không làm. Tài sản chưa có không xây dựng lên, tài sản có rồi bị tiêu thất. Này Gia chủ tử, quen thói lười biếng có sáu nguy hiểm như vậy. Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

14. Thiện Thệ thuyết giảng xong, bậc Đạo Sư lại giảng thêm:

Có bạn gọi bạn rượu,
Có bạn, bạn bằng mồm,
Bạn lúc thật hữu sự,
Mới xứng danh bạn bè.
Ngủ ngày, thông vợ người,
Ưa đấu tranh, làm hại,
Thân ác hữu, xan tham,
Sáu sự não hại người.
Ác hữu, ác bạn lữ,
Ác hạnh, hành ác xứ,
Đời này cả đời sau,
Hai đời, người bị hại.
Cờ bạc và đàn bà,
Rượu chè, múa và hát
Ngủ ngày, đi phi thời
Thân ác hữu, xan tham,
Sáu sự não hại người.
Chơi xúc xắc, uống rượu
Theo đuổi đàn bà người,
Lẽ sống của người khác,
Thân cận kẻ hạ tiện,
Không thân cận bậc trí,
Người ấy tự héo mòn,
Như trăng trong mùa khuyết.
Rượu chè không tiền của,
Khao khát, tìm tửu điếm,
Bị chìm trong nợ nần,
Như chìm trong bồn nước,
Mau chóng tự hại mình,
Như kẻ mất gia đình.
Ai quen thói ngủ ngày,
Thức trọn suốt đêm trường,
Luôn luôn say sướt mướt,
Không thể sống gia đình.
Ở đây ai hay than:
Ôi quá lạnh, quá nóng,
Quá chiều, quá trễ giờ,
Sẽ bỏ bê công việc.
Lợi ích, điều tốt lành,
Bị trôi dạt một bên.
Ai xem lạnh và nóng,
Nhẹ nhàng hơn cỏ lau,
Làm mọi công chuyện mình,
Hạnh phúc không từ bỏ.
…”
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

(Trích Kinh - tiếp)


“… 15. Này Gia chủ từ, có bốn hạng người phải xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn: Người vật gì cũng lấy phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn; người chỉ biết nói giỏi phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn; người khéo nịnh hót phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn; người tiêu pha xa xỉ phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn.

16. Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp người vật gì cũng lấy phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn: Người vật gì cũng lấy, cho ít xin nhiều, vì sợ mà làm, làm vì mưu lợi cho mình. Này Gia chủ tử, như vậy là bốn trường hợp người vật gì cũng lấy phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn.

17. Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người chỉ biết nói giỏi phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn: Tỏ lộ thân tình việc đã qua; tỏ lộ thân tình việc chưa đến; mua chuộc cảm tình bằng sáo ngữ; khi có công việc, tự tỏ sự bất lực của mình. Này Gia chủ tử, như vậy là bốn trường hợp, người chỉ biết nói giỏi phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn.

18. Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, kẻ nịnh hót phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn: Đồng ý các việc ác; không đồng ý các việc thiện; trước mặt tán thán; sau lưng chỉ trích. Này Gia chủ tử, như vậy là bốn trường hợp kẻ nịnh hót phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn.

19. Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người tiêu pha xa xỉ phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn: Là bạn khi mình đam mê các loại rượu; là bạn khi mình du hành đường phố phi thời; là bạn khi mình la cà đình đám hý viện; là bạn khi mình đam mê cờ bạc. Này Gia chủ tử, như vậy có bốn trường hợp, người tiêu pha xa xỉ phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

20. Thiện Thệ thuyết giảng xong, bậc Đạo Sư lại giảng thêm:

Người bạn gì cũng lấy,
Người bạn chỉ nói giỏi,
Người nói lời nịnh hót,
Người tiêu pha xa xỉ.
Cả bốn, không phải bạn,
Biết vậy, người trí tránh,
Như đường đầy sợ hãi.

21. Này Gia chủ tử, bốn loại bạn này phải được xem là bạn chân thật: Người bạn giúp đỡ phải được xem là bạn chân thật; người bạn chung thủy trong khổ cũng như trong vui phải được xem là bạn chân thật; người bạn khuyên điều lợi ích phải được xem là bạn chân thật; người bạn có lòng thương tưởng phải được xem là bạn chân thật.

22. Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người bạn giúp đỡ phải được xem là bạn chân thật: Che chở cho bạn khi bạn vô ý phóng dật, che chở của cải cho bạn khi bạn vô ý phóng dật, là chỗ nương tựa cho bạn khi bạn sợ hãi, khi bạn có công việc sẽ giúp đỡ cho bạn của cải gấp hai lần những gì bạn thiếu. Này Gia chủ tử, như vậy có bốn trường hợp, người bạn giúp đỡ phải được xem là người bạn chân thật.

23. Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người bạn chung thủy trong khổ cũng như trong vui phải được xem là người bạn chân thật: Nói cho bạn biết điều bí mật của mình; giữ gìn kín điều bí mật của bạn; không bỏ bạn khi bạn gặp khó khăn; dám hy sinh thân mạng vì bạn. Này Gia chủ tử, như vậy có bốn trường hợp, người bạn chung thủy trong khổ cũng như trong vui phải được xem là người bạn chân thật.

24. Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người bạn khuyên điều lợi ích phải được xem là người bạn chân thật: Ngăn chận bạn không làm điều ác; khuyến khích bạn làm điều thiện; cho bạn nghe điều bạn chưa nghe; cho bạn biết con đường lên cõi chư Thiên. Này Gia chủ tử, như vậy có bốn trường hợp, người bạn khuyên điều lợi ích phải được xem là người bạn chân thật.

25. Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người bạn thương tưởng phải được xem là người bạn chân thật: Không hoan hỷ khi bạn gặp hoạn nạn; hoan hỷ khi bạn gặp may mắn; ngăn chận những ai nói xấu bạn; khuyến khích những ai tán thán bạn. Này Gia chủ tử, như vậy có bốn trường hợp, người bạn thương tưởng phải được xem là người bạn chân thật.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

26. Thiện thệ thuyết giảng xong, bậc Đạo Sư lại giảng thêm:

Bạn sẵn sàng giúp đỡ,
Bạn chung thủy khổ vui,
Bạn khuyến khích lợi ích,
Bạn có lòng thương tưởng.
Biết rõ bốn bạn này,
Người trí phục vụ họ,
Như mẹ đối con ruột.
Người trí giữ giới luật,
Sáng như lửa đồi cao.
Người tích trữ tài sản,
Như cử chỉ con ong.
Tài sản được chồng chất,
Như ụ mối đùn cao,
Người cư xử như vậy,
Chất chứa các tài sản,
Vừa đủ để lợi ích
Cho chính gia đình mình.
Tài sản cần chia bốn
Để kết hợp bạn bè:
Một phần mình an hưởng,
Hai phần dành công việc,
Phần tư, phần để dành,
Phòng khó khăn hoạn nạn.

27. Này Gia chủ tử, vị Thánh đệ tử hộ trì sáu phương như thế nào? Này Gia chủ tử, sáu phương này cần được hiểu như sau: Phương Đông cần được hiểu là cha mẹ. Phương Nam cần được hiểu là sư trưởng. Phương Tây cần được hiểu là vợ con. Phương Bắc cần được hiểu là bạn bè. Phương Dưới cần được hiểu là tôi tớ, lao công. Phương Trên cần được hiểu là Sa-môn, Bà-la-môn.

28. Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người con phải phụng dưỡng cha mẹ như phương Đông: "Được nuôi dưỡng, tôi sẽ nuôi dưỡng lại cha mẹ; tôi sẽ làm bổn phận đối với cha mẹ; tôi sẽ gìn giữ gia đình và truyền thống; tôi bảo vệ tài sản thừa tự; tôi sẽ làm tang lễ khi cha mẹ qua đời". Này Gia chủ tử, được con phụng dưỡng như phương Đông, theo năm cách như vậy, cha mẹ có lòng thương tưởng đến con theo năm cách: Ngăn chận con làm điều ác; khuyến khích con làm điều thiện; dạy con nghề nghiệp, cưới vợ xứng đáng cho con; đúng thời trao của thừa tự cho con.

Này Gia chủ tử, như vậy là cha mẹ được con phụng dưỡng như phương Đông theo năm cách và cha mẹ có lòng thương tưởng con theo năm cách. Như vậy phương Đông được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.

29. Này Gia chủ tử, có năm cách, đệ tử phụng dưỡng các bậc sư trưởng như phương Nam: Đứng dậy để chào, hầu hạ thầy, hăng hái học tập, tự phục vụ thầy, chú tâm học hỏi nghề nghiệp. Này Gia chủ tử, được đệ tử phụng dưỡng như phương Nam theo năm cách như vậy, các bậc sư trưởng có lòng thương tưởng đến các đệ tử theo năm cách: Huấn luyện đệ tử những gì mình đã được khéo huấn luyến; dạy cho bảo trì những gì mình được khéo bảo trì; dạy cho thuần thục các nghề nghiệp; khen đệ tử với các bạn bè quen thuộc; bảo đảm nghề nghiệp cho đệ tử về mọi mặt.

Này Gia chủ tử, như vậy là bậc sư trưởng được đệ tử phụng dưỡng như phương Nam theo năm cách và sư trưởng có lòng thương tưởng đến đệ tử theo năm cách. Như vậy phương Nam được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.

30. Này Gia chủ tử, có năm cách, người chồng phải đối xử với vợ như phương Tây: Kính trọng vợ, không bất kính đối với vợ; trung thành với vợ; giao quyền hành cho vợ; sắm đồ nữ trang với vợ; Này Gia chủ tử, được chồng đối xử như phương Tây theo năm cách như vậy, người vợ có lòng thương tưởng chồng theo năm cách: Thi hành tốt đẹp bổn phận của mình; khéo tiếp đón bà con; trung thành với chồng; khéo gìn giữ tài sản của chồng; khéo léo và nhanh nhẹn làm mọi công việc.

Này Gia chủ, người vợ được người chồng đối xử như phương Tây theo năm cách và người vợ có lòng thương tưởng chồng theo năm cách. Như vậy phương Tây được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.

31. Này Gia chủ tử, có năm cách vị thiện nam tử đối xử với bạn bè như phương Bắc: Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, không lường gạt. Này Gia chủ tử, được vị thiện nam tử đối xử như phương Bắc theo năm cách như vậy, bạn bè có lòng thương kính vị thiện nam tử theo năm cách: Che chở nếu vị thiện nam tử phóng túng; bảo trì tài sản của vị thiện nam tử nếu vị này phóng túng; trở thành chỗ nương tựa khi vị thiện nam tử gặp nguy hiểm; không tránh xa khi vị thiện nam tử gặp khó khăn; kính trọng gia đình của vị thiện nam tử.

Như vậy các bạn bè được vị thiện nam tử đối xử như phương Bắc theo năm cách và bạn bè có lòng thương tưởng vị thiện nam tử theo năm cách. Như vậy phương Bắc được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.

32. Này Gia chủ tử, có năm cách một vị Thánh chủ nhân đối xử với hạng nô bộc như phương Dưới: Giao việc đúng theo sức lực của họ; lo cho họ ăn uống và tiền lương; điều trị cho họ khi bệnh hoạn; chia xẻ các mỹ vị đặc biệt cho họ; thỉnh thoảng cho họ nghỉ phép. Này Gia chủ tử, các hàng nô bộc được Thánh chủ nhân đối xử như phương Dưới với năm cách như kia, có lòng thương tưởng đối với vị chủ nhân theo năm cách như sau: Dậy trước khi chủ dậy; đi ngủ sau chủ; tự bằng lòng với các vật đã cho; khéo làm các công việc; đem danh tiếng tốt đẹp cho chủ.

Này Gia chủ tử, các hàng nô bộc được vị Thánh chủ nhân đối xử như phương Dưới với năm cách, có lòng thương tưởng đối với Thánh chủ nhân theo năm cách. Như vậy phương Dưới được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.

33. Này Gia chủ tử, có năm cách vị thiện nam tử đối xử với các vị Sa-môn, Bà-la-môn như phương Trên: Có lòng từ trong hành động về thân; có lòng từ trong hành động về khẩu; có lòng từ trong hành động về ý; mở rộng cửa để đón các vị ấy; cúng dường các vị ấy các vật dụng cần thiết. Này Gia chủ tử, các vị Bà-la-môn, Sa-môn được vị thiện nam tử đối xử như phương Trên theo năm cách như vậy, có lòng thương tưởng vị thiện nam tử ấy theo năm cách sau đây: Ngăn họ không làm điều ác; khuyến khích họ làm điều thiện; thương xót họ với tâm từ bi, dạy họ những điều chưa nghe; làm cho thanh tịnh điều đã được nghe; chỉ bày con đường đưa đến cõi Trời.

Này Gia chủ tử, các vị Sa-môn, Bà-la-môn được thiện nam tử đối xử như phương Trên với năm cách, và các vị Sa-môn, Bà-la-môn có lòng thương tưởng vị thiện nam tử theo năm cách. Như vậy phương Trên được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.

34. Thiện thệ thuyết giảng xong, bậc Đạo Sư lại giảng thêm:

Cha mẹ là phương Đông,
Sư trưởng là phương Nam,
Vợ chồng là phương Tây,
Bạn bè là phương Bắc,
Nô bộc là phương Dưới,
Sa-môn, Bà-la-môn,
Có nghĩa là phương Trên.
Cư sĩ vì gia đình,
Đảnh lễ phương hướng ấy.
Kẻ trí giữ Giới, Luật,
Từ tốn và biện tài,
Khiêm nhường và nhu thuận,
Nhờ vậy được danh xưng.
Dậy sớm không biếng nhác,
Bất động giữa hiểm nguy,
Người hiền, không phạm giới,
Nhờ vậy được danh xưng.
Nhiếp chúng, tạo nên bạn,
Từ ái, tâm bao dung,
Dẫn đạo, khuyến hóa đạo,
Nhờ vậy được danh xưng.
Bố thí và ái ngữ,
Lợi hành bất cứ ai,
Đồng sự trong mọi việc,
Theo trường hợp xử sự.
Chính những nhiếp sự này,
Khiến thế giới xoay quanh,
Như bánh xe quay lăn,
Vòng theo trục xe chính.
Nhiếp sự này vắng mặt,
Không có mẹ hưởng thọ,
Hay không cha hưởng thọ,
Sự hiếu kính của con.
Do vậy bậc có trí,
Đối với nhiếp pháp này,
Như quán sát chấp trì,
Nhờ vậy thành vĩ đại,
Được tán thánh, danh xưng.

35. Khi được nghe vậy, Singàlaka, gia chủ tử bạch Thế Tôn: "Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Bạch Thế Tôn, nay con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và chúng Tỷ-kheo. Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.“
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Với văn trí đã có và từ đầu tập luận đến giờ: Chúng ta thừa sự nhận biết chứng thấy: Kinh này hàm nghĩa vô lượng vi diệu thế nào.


Đây là cái lý của Năm giới cơ bản Bồ Tát. Chúng ta ở trong giới không phải là “cầm tù”, lao ngục, “mất tự do tự tại”. - Chúng ta vì hành nguyện giải thoát mà chúng ta hành sự cung kính, lễ bái, cúng dường, thủ hộ (an lạc và cứu độ, độ hoá - cứu cánh) - 6 phương tâm như Kinh. - Và đây chính là: Cơ bản Giới Bồ Tát


Đơn giản vậy thôi. Nguyện gì thì cũng xoay quanh 6 phương này trước tiên, khi chúng ta còn ở thế, ở đời. Nhiệm màu, vi diệu, Đạo Đức!
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Chúng ta tu hành Đạo Đức Thế Tôn, trang nghiêm hay không trang nghiêm tâm, khi còn ở đời thế, ngay giây phút hiện tại: Nếu không thủ hộ các phương trên, chúng ta chẳng bao giờ dứt được các sợi dây tham sân si mạn nghi. - Cứ như thường lệ, dùng văn trí để tưởng: - Đã đi tu là phải bỏ hết, dứt bỏ hết tức là dứt hết tham sân si nghi mạn. Dứt hết để tu…. - Thực tế, dứt được hết, thì đã Chứng Đạo rồi.


Ví dụ: Dù cha mẹ có cho phép cạo đầu đi tu thì cái phương này vẫn là 1 sự. Chỉ khi cái phương này hết sự hoặc được thủ hộ chặt chẽ, thời khắc thì mới có thể nói là “yên tâm, đã thủ hộ, không còn lo sợ suy nghĩ gì ở phương này” - Chứ định dứt sự (suy nghĩ về) bằng cách nào? - Tu vô tình Đắc Đạo Phật? - Mà để không vô tình thì rất rõ, sự chỉ hết khi không còn phải thủ hộ gì nữa hoặc đã thủ hộ kín kẽ, không còn thấy phải lo sợ suy nghĩ về bất cứ sự gì - tức là không còn người/sự cần thủ hộ - Như phần cuối của kinh, Đức Thế Tôn đã nói: Khi cha mẹ chết, không thọ nữa, thì mới là hết sự không cần thủ hộ. Mới xong 1 phương, còn ngược lại, phải thủ hộ cho kỹ.


Như vậy, chúng ta hiện có những phương nào vẫn còn “chúng sinh/đối tượng” thọ sự thủ hộ thì cần phải thủ hộ. Nếu không thủ hộ sẽ sinh ra lo sợ. Một người tu hành mà có 1 tia lo sợ, uý ki, nghi sợ gì đó - Không đạt được kết quả gì.


Phương nào không còn, phương đó đã xong. (Đừng duyên ra lại, khi ở trong giới đàn trang nghiêm tâm sẽ không duyên sinh ra thêm).


Vậy là chúng ta cũng biết: Hành nguyện Bồ Tát, bố thí balamat, trì giới, nhẫn nhục.v.v.v. - Đầu tiên đi từ 6 phương cơ bản này.


- Không có 1 ai có cái gọi là “tâm từ bi chân tánh” đi làm “từ thiện” cho người khác như trẻ nhỏ, người nghèo mà: Ở nhà lại quát mắng chửi con hoặc đối xử với vợ/chồng không có tình yêu, nghĩa, lời ái hoặc cãi lời, bất hiếu cha mẹ hoặc mặc kệ những mong mỏi của cha mẹ (bất cứ vấn đề gì) - Đây không phải tia từ bi chân tánh đâu. Họ khoác cái áo đó vì: LỢI ÍCH DỤC LẠC CỦA CHÍNH HÀNH CỦA HỌ - Hoặc đánh bóng tên tuổi lấy danh kiếm tiền, hoặc để lấy le, hoặc để tìm kiếm cảm tình hòng kiếm những món lợi lớn hơn ở nơi khác, người khác..v.v


- Chỉ có người đang trang nghiêm/ trang nghiêm được 6 phương tâm mà Đức Thế Tôn đã chỉ ra - đó mới là người đã qua được bước đặt viên móng sơ khởi cho tâm từ bi biến mãn 10 phương. Mới là người nếu tu hành Đạo Đức Thế Tôn mới có khả năng ra kết quả thù thắng rốt ráo.

- Tất nhiên, khi đã thủ hộ kín kẽ 6 phương tâm trên đầy đủ, không còn sơ hở, lo sợ gì… người này mà “hành bố thí với mãn phương” - sớm muộn: Người đời “vái” làm Bồ Tát - cũng xứng đáng nhận sự kính lễ.

Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Chúng ta chỉ có 2 cách để đạt được 1 phương giới:

1/ Hoặc không còn sự thọ - tức không có đối tượng thọ sự thủ hộ của chúng ra. Hết sự!
2/ Hoặc đã thực hiện nguyện hành thủ hộ kín kẽ và đủ đầy. Không còn sự gì cần phải thủ hộ ở đây nữa. Hoàn toàn đạt đến vô sự thủ hộ - dù đối tượng thọ vẫn hiện tồn nhưng không còn sự phải thủ hộ vì đã thủ hộ hết!


Đạt được như này, chúng ta mới thấy các tia tâm từ bi lúc này nó sáng rực ra sao (tự sáng) - có câu: Hữu xạ tự nhiên hương. Lúc này, chúng ta mới có thể “biến mãn khắp phương”.


Tuy nhiên, để thực hiện được 1/ 2/ là một hành trình dài. Không đơn giản. Nhẫn!
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Như vậy, chúng ta kết thúc biến thứ nhất. Tất cả đã được trình đầy đủ:

1/ Về kết quả Đạo Hạnh: Vào sơ thiền, vô hạn tiến tới khả năng chứng trú sơ thiền.

2/ Về sự: Giải quyết được sự thủ hộ hoàn hảo 6 phương. Đạt giới.

3/ Về lý: Chứng thấy con đường giải thoát. An trú vào biến thứ nhất như trên.


Về thọ ký:


1/ Giới đàn trang nghiêm tâm, ai là người truyền giới:

Trả lời: Giới Luật đã truyền giới. . Minh chứng, chứng thấy: Kinh Giáo Thọ Thi Ca La Việt. Như vậy, giới luật là thầy, đã thọ đúng đúng Chánh Pháp.

2/ Sư trưởng chứng minh:

Trả lời: Như đã nói phía trước về người chứng minh


3/ Chứng điệp

Trả lời: Chứng điệp này là thứ quan trọng nhất với người thọ giới:

+ Khi người tu hành vào được sơ thiền như đã trình phía trước, tự thấy đã vào được. Người hành giả đứng trước gương quan sát toàn thân, sẽ có 1 ấn ký trên thân khác biệt mà trước đó chưa từng được biết ở trên thân mình. Hãy quan sát tất cả các tượng Phật dù đó là tượng Đức Thế Tôn, tượng A Di Đà hay tượng các Vị Chư Phật, Chư Bồ Tát - tìm thấy: Ấn ký này. (Dù thời kỳ tượng Pháp đã qua, nhưng ấn ký này vẫn lưu truyền, phần lớn các tượng đều có lưu).

+ Từ ấn ký này thấy rõ, bản thân đã thọ ấn chứng điệp (vì sẽ thấy là 1)


Tuyệt đối không được nói ra - khác gì nhận cái tờ chứng điệp mà đã tưởng là bản thân chứng Thánh. Ngã mạn sẽ vùi dập. Thủ túc. Ma mà biết thì cũng không ổn đâu. Nên điều này phải nhớ. Vì lẽ đó, ở đây cũng không nói ấn chứng này là gì nhưng nếu đã chứng thấy từ đầu đến giờ và sau này bất cứ khi nào thấy thì sẽ tự thấy ấn chứng được nói đến này là gì.


4/ Vào Đạo, không ở đây. Ở biến sau. Hãy phải trang nghiêm tâm thật “hoàn hảo”. Chứng điệp chỉ là ấn chứng của “Chư vị Phật ấn chứng đã thọ giới để tu Đạo Đức Thế Tôn mà thôi”. - Có vé Pháp Hoa!


Con đường rất dài, sự nhiều vô kể. Một cái ấn chứng như hạt cát trong một công trình kỳ vĩ!


Hết biến!
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

BIẾN THỨ NHÌ: ĐẠO


Mở đầu

Tập luận trước tác thể loại ký này là một toàn văn. Bất cứ một phần, đoạn nào, nếu được lấy ra riêng lẻ sẽ không còn mang ý nghĩa của chính nó khi còn đang ở trong toàn văn.

Bởi vậy: Bởi vậy, chỉ có đi qua trước tác được phần trước thì mới đến được phần này. Không còn một con đường nào khác mà “một bước vào “đọc trước tác chuyện” Đạo”.


Đây đã là truyện “Thần Tiên Phật ” được kể ở thế gian. Không phải là một kinh điển và không nên được coi là một kinh điển vì “hiện giờ chưa có một ai có khả năng và năng lực xác nhận (thọ ký) cho nó”. Nên được coi là một chuyện huyền huyễn ở thế gian.
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Tiểu luận 276


Trích đoạn 75,76 Kinh Sa Môn Quả - Nikaya-pali. HT. Thích Minh Châu Việt dịch


“… 75. Khi quán tự thân đã xả ly năm triền cái ấy, hân hoan sanh; do hân hoan nên hỷ sanh; do tâm hoan hỷ, thân được khinh an; do thân khinh an, lạc thọ sanh; do lạc thọ, tâm được định tĩnh. Tỷ-kheo ly dục, ly ác pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm, với tứ. Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần.

76. Này Đại vương, như một người hầu tắm lão luyện hay đệ tử người hầu tắm. Sau khi rắc bột tắm trong thau bằng đồng, liền nhồi bột ấy với nước, cục bột tắm ấy được thấm nhuần nước ướt, nhào trộn với nước ướt, thấm ướt cả trong lẫn ngoài với nước, nhưng không chảy thành giọt. Cũng vậy, này Đại vương, Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân hình với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần.

Này Đại vương, đó là quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, còn vi diệu thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn trước…”





Ở phía trước, chúng ta đã tập vào sơ thiền nhưng chưa thể chứng và trú do năm sợi dây triền cái lúc này mới được mài thô, chưa hoàn toàn được chặt đứt. Tuy nhiên, do sử dụng đúng Chánh Pháp “Giới Đàn Trang Nghiêm Tâm Cực Lạc” nên chúng ta đã gặp một trạng thái: Chưa vào chứng sơ thiền mà đã như vào thấy được sơ thiền. Đây là trạng thái mà chỉ có người thực hành Bồ Tát Đạo Trang nghiêm tâm vô lượng thọ Phật mới có thể đạt được. Còn nếu sử dụng Pháp thực hành hàng Thanh Văn, sẽ không có trạng thái này - Phải chặt đứt 5 sợi dây triền cái mới có thể thể ngộ trạng thái cảm giác sơ thiền như đã giới thiệu.


Về mặt tánh lý: Do người tu hành chúng ta tu tập theo Pháp Trang nghiêm vô lượng thọ Phật nên từ khi mở giới đàn trang nghiêm tâm: Trong tâm chỉ thọ lạc, chỉ hành lạc - bởi tia tâm từ bi và bố thí ba la mật cùng giới và 6 phương tâm…

Bởi thế, cái lạc của vô lượng thọ Phật (Cực Lạc) sinh ra - chính là nguồn gốc nhân duyên của cảm giác chứng vào sơ thiền. Dù người tu hành lúc này, vẫn chưa hoàn toàn chặt đứt được tham sân si mạn nghi nhưng bước tiến tại chỗ này rất nhanh, bởi đã đạt được ấn ký (dù khả năng lúc ban đầu nó mờ mờ đến mức khó mà nhận biết, nhưng nó sẽ rất nhanh rõ ràng lên thôi - theo sự tinh tấn tu hành).


Tuy nhiên, chúng ta cần phải luôn luôn tỉnh thức: Đây là con đường diệu kỳ (Đạo Phật) nhưng thực sự đầy rẫy cạm bẫy và đầy cái giá phải trả (ở đời) - ví dụ như rồi sẽ sớm phải trả đến vô sản, trả đến mức không còn cái dục lạc nào tới cho hưởng nữa..v.v. - Những cái giá rất đắt ở đời. Nên, ai “sợ” thì chớ đi liều. Đạo Đức Thế Tôn thực sự cần người vừa nhẫn vừa dũng mới đi được đến cuối cùng. - Đi tiếp, chúng ta sớm muộn “chẳng còn gì ở đời”. Nên chúng ta cần tỉnh thức và tự rất rõ. Đạo cũng không có chỗ cho “khôn lỏi” - không những trả giá đời mà còn “trả nghiệp” nặng nề nhiều kiếp.

Nhưng dù sao, khả năng cơ hội vô lượng kiếp chỉ có một..




Không một ai biết cảm giác hỉ lạc khi ly dục ly ác pháp - sơ thiền Đạo Đức Thế Tôn thực sự là như thế nào - Vì ai cũng vào sơ thiền sai thì làm sao mà biết được cảm giác thực.

Chúng ta đã rất rõ: Vào sơ thiền là phải còn tầm, tứ (tức là tư duy tìm kiếm suy nghĩ) vẫn đủ đầy. Vào đây rồi, mà tầm tứ không thấy pháp dục, không thấy pháp ác - thì mới là “đã vào”. - Chẳng có ai vào sơ thiền chánh pháp mà lại “định suy nghĩ” vì sợ suy nghĩ thì… suy nghĩ ra cả thế giới. Chúng ta nhớ, sơ thiền Chánh Pháp chưa phải là vào Chứng Chánh Định dù lúc đó đang thực tập Chánh Định rồi.


Như vậy, cảm giác hỉ lạc khi vào sơ thiền là gì
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Chúng ta ở đời, nếu ai đã từng thực hành dâm dục (tình dục) thì khả năng nhớ rất rõ cảm giác thọ dục lạc này nó thế nào. Nó đến từ 2 cơ chế: Xúc chạm của thân và tinh thần tưởng.

Thọ dục lạc này có và chỉ có thể có khi: Phải có “đối tượng” để hành - điều này có nghĩa, phải có trần hoặc khách trần thì mới có được cái thọ dục lạc này. Nếu thiếu trần và khách trần, không một ai tạo ra được cái thọ dục lạc dâm dục này.

Kể cả, thủ dâm (tự hành): Vẫn phải có xúc chạm thân (tự xúc chạm hoặc dùng vật xúc chạm) và tưởng - tức là khách trần.

Đây là một trong những cảm giác thọ dục lạc mạnh mẽ và để lại ấn tượng ở “cái tôi/ cái ta” nhất. Ngoài đó, ma tuý là một chất kích thích gây nghiện. Xét về mức độ gây nghiện, khả năng ràng buộc hơn so với dâm dục. Tuy nhiên, dùng ví dụ về cảm giác thọ dâm dục có lẽ sẽ nhiều người đã có chứng - dù một số người chưa được chứng thì cũng có thể “tự tưởng”.





Khi chúng ta, tự thấy rõ bản thân khả năng thể ngộ vào trạng thái sơ thiền như đã nói phía trước. Lúc này, tinh thần của chúng ta rất an lạc tĩnh bình do tầm tứ pháp dục, ác đã không thấy trong đầu. Chúng ta thực tập theo đúng Chánh Pháp mà Đức Thế Tôn đã nói - tứ chánh cần - duyên khởi cảm giác hỉ lạc - loại hỉ lạc do ly dục, ly ác pháp. Chúng ta NIỆM VỀ cái cảm giác hỉ lạc này. Nó bắt đầu được duyên khởi ra.


Do toàn bộ thân lúc này rất thư thái và an yên. Chúng ta đưa niệm này cùng với toàn bộ tinh thần (không cần cố sức, cứ bình thường) mang niệm này “tầm soát” toàn thân. Đi từ từ thôi, và đi đến đâu, tinh thần niệm hỉ lạc đến đấy… thân chúng ta lúc này dù không có chạm xúc, được vật kích thích nhưng bắt đầu rung cảm sự kích thích và hưng phấn (như khi hưởng các dục lạc) mà thân vẫn an yên, không động, không kích động. Cảm giác lạc của thân truyền lại vào tinh thần, làm tinh thần cảm nhận được cảm giác lạc - một loại cảm giác mà người tu hành tu hành chúng ta lúc này chưa tìm thấy được ở đâu do: Không xuất hiện bất kỳ pháp dục, pháp ác nào mà lại vẫn thấy thọ lạc - loại thọ lạc này: Đúng! - Được gọi là hỉ lạc do ly dục, ly ác pháp.


Chúng ta dùng tinh thần “mơn trớn” toàn thân mà có xúc chạm gì không? - Không có bất cứ vật (trần) nào xúc chạm toàn thân. Xúc chạm từng điểm, từng vị trí, chi tiết, đi từ chỗ nào mà thân giảm giác lạc trước tới chỗ dần dần toàn thân đều cảm thấy lạc.. nhưng không có trần xúc chạm. Thân không động, vẫn an yên.


Tinh thần càng lúc càng lạc, được đẩy lên hoàn mỹ lạc, cao độ, duy trì sự lạc phải nói là CỰC LẠC mà không thất thố. Thân và tinh thần đều không hành gì. Khi này trong đầu vẫn không có bất cứ pháp dục, pháp ác nào hiện ra. Không nói về những hình ảnh khách trần pháp dâm dục, kể cả các khách trần (niệm/suy nghĩ) về ăn uống, ngủ nghỉ hay danh tiền tài hay các thứ khác) - vì sao? - Vì chúng ta đang thọ cảm giác cực lạc.



Sẽ đến một lúc: Thân và tinh thần hoà quyện vào nhau… thấm sâu vào hết bên trong (như đoạn trích kinh)… lúc này chúng ta gọi trạng thái cực lạc của chúng ta là: TÂM. - Chúng ta chứng sơ thiền…
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Khi thể ngộ trạng thái này, người tu hành chúng ta bắt đầu chán cái tình dục, dâm dục - dù trước đó khả năng nghĩ mãi không biết làm sao, ở tại gia, tại thế hồng trần mà lại bỏ được dâm dục, tình dục khi đã phang vào,.. trừ khi “bất lực”.

Nhưng khi thể ngộ nhiều lần cảm giác thọ Cực Lạc - chúng ta mới biết: Kinh không nói sai. Nếu cảm giác dục dâm lạc - khác gì hành mà như “nhai rơm”. Vô vị hết mức.


Từ đây, chúng ta biết rất rõ chúng ta sẽ “độ hoá” một trong những “sự lớn tại gia” bằng cách nào.


Tuy nhiên, chúng ta không được làm người khác khổ - vì nguyện hành tâm trang nghiêm. Kết sự như thế nào cho đúng Đạo - người đi được đến đây phải tự tuỳ vào sự của bản thân mà tự biết.
Đầu trang

Trả lời bài viết