PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Trao đổi về y học, võ thuật, văn hóa, phong tục, tín ngưỡng
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Thực tế, cái vũ trụ ta bà kiểu này - nó rất giản đơn, thuộc loại cấp thấp nhất rồi. Thật “đau khổ” là chúng ta lại ở đây, không thể thoát ra.


Lấy ngôn ngữ khoa học để tiếp tục nói rõ hơn về những điều đang nói: Thế giới này, khi được con người “nhận thức” - con người đã dùng những “hệ quy chiếu” không đúng với bản chất của chính thế giới để mô tả, quy chiếu, nhận thức về thế giới - nên mới sinh ra ngày nay như hiện tại.

Giống như: Con người muốn dùng khoa học (hệ quy chiếu) để nhận thức về thực tại thế giới, đáng lẽ phải dùng cái gương (hệ quy chiếu) là cái 4 chiều đồng nhất tánh để mô tả. Nhưng con người lại chiếu thế giới này lên những hệ quy chiếu 3 chiều không gian, 1 chiều thời gian, 2 chiều, 1 chiều… - chính vì lẽ này, ảnh của thế giới được mô tả (nhận thức) - hoàn toàn khác xa với thực tại của thế giới. - Lẽ đó, chúng ta vô minh là vậy.



Anh Tanh bước 1 chân vào tưởng thức - dù bằng phương tiện gì chúng ta chưa cần bàn. - Người sau này đã phải thốt lên những câu cảm thán về Chúa và Phật bất tư nghì. - Ngài cũng chưa thể nào dùng ngôn ngữ của loài người hiện tại mà mô tả thế giới này. - Đơn giản vì đây, chưa phải thứ cuối cùng!


Nếu như ngài khi đó, bỏ đi chấp kiến về thời gian, xây dựng một trường năng lượng từ trước khi khai sinh (toạ độ âm) tới khi khai sinh (toạ độ 0) tới tương lai (toạ độ +), không phụ thuộc vào thời gian, không gian… trường năng lượng này chính là trường “sáng thế” - ngài đã đưa một tia minh toả khắp thế giới bằng “khoa học”.

Vì lẽ, làm gì có những thứ này: Không gian, thời gian.


Một tập hợp điểm năng lượng (điểm lượng tử)… hình thành nên các vật cụ thể của thế giới.

Lựa chọn hình thành nên thế giới tại giây phút hiện tại.

Vậy thôi.


Linh hồn - khi này có mà cũng không có.


Mỗi một tập hợp những rắc rối lượng tử, sụp đổ lượng tử, liên kết lượng tử.v.v. - Trong cái đầu của mỗi người - Chẳng phải nó cũng chẳng phụ thuộc vào cái thân này sao?


Dù sao - Các Ngài đi theo Chúa Thuyết - Cái Ngài cứ tiếp tục tìm kiếm cái gọi là “linh hồn” trước ánh sáng khoa học - hiện giờ các Ngài cũng đã có nhiều giả thuyết khoa học lắm rồi. - Còn với Đạo Đức Thế Tôn - Mọi thứ thật Như Như, đều rõ ràng, đơn giản.


Tuy vậy, thế mà chẳng có mấy ai tin. Những người dù có theo Đạo Đức Thế Tôn - đa phần là mê tín cả. Họ tin mù quáng, mê tín thôi. Chứ nếu tin thật, họ đã HÀNH ĐỘNG để thoát ra khỏi cái “thế giới điên đảo” này.


Kỳ lạ…
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Như vậy, đến đây, chúng ta đã tiếp cận tới những tri kiến chánh kiến về:


+ Vi trần và nhỏ hơn vi trần: Trong Đạo Đức Thế Tôn là gì.
+ Thế giới chân như, thế giới định tĩnh, tâm chân như, định tĩnh là gì.
+ Hợp duyên là gì - trên khía cạnh hợp duyên tại sắc tướng, hình tướng như hợp duyên tạo nên thân, nên trái đất, nên nhà cửa, cây, vật - đó là (tập hợp điểm lượng tử trong thế giới chân như (thế giới 4 chiều chân thực định tĩnh) - cũng như thế với mọi vấn đề đang được nói.


Tập hợp điểm lượng tử tại giây phút hiện tại là thứ duy nhất tạo nên mọi thứ. Khi tập hợp là hợp duyên, khi phân rã, sụp đổ là hoá duyên. Tuy nhiên, điểm lượng tử thì không bao giờ suy suyển biến đổi vì… nó là trường thế giới (4 chiều chân như thường hằng).


Quá khứ, vị lai, hiện tại: Chỉ là lựa chọn tập hợp điểm này thế nào thì như thế…



Đạo Đức Thế Tôn thật đơn giản vậy thôi.
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Và chúng ta cũng từ đây thấy rõ: Nhiệm màu hay siêu năng lực, siêu khả năng - kể cả từ góc nhìn khoa học của cái gọi là điểm lượng tử hay tập hợp điểm lượng tử khi được chúng ta nhận thức thực tại nó. Khi nhận thức được nó, trở về nó - mọi khả năng “thần thông” lẫn những thứ bất tư nghì trong hệ thống giới Kinh đều… là lẽ tất nhiên là vậy.




Nên, Đức Thế Tôn - Một con người bất tư nghì - vĩ đại đến mức không thể tưởng tượng nổi ở thế giới này xưa, nay và mai sau. Những thứ, dù có niềm tin siêu tưởng đến mấy ở hệ thống giới kinh, cũng khó có thể tin là THẬT. Ấy vậy mà, nó lại là sự tồn tại chân thực, chân như, thường hằng.



Con người hay khoa học vẫn còn đang nghĩ “đau đầu” về vận tốc ánh sáng (theo thuyết tương đối) và rắc rối lượng tử (nếu 2 lượng tử vướng víu cách nhau hàng chục tỷ năm ánh sáng) và kể cả việc ứng dụng khoa học “xuyên không, xuyên thời, xuyên thế”… - Đều đã được 1 con người đưa ra giải quyết từ mấy chục thế kỷ nay và nói lại rõ ràng cho tất cả.


Kỳ lạ thay…
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Tiểu luận 037


Hôm nay, chúng ta bắt đầu tu tập hơi thở số 3, số 4, số 5, số 6 trong Pháp tu căn cơ Quán Niệm Hơi Thở.


Tất nhiên, có rất nhiều pháp tu căn cơ để vào định, chúng ta cho rằng: Có một số thứ (Pháp) trong Đạo Đức Thế Tôn, ai cũng có thể tu. . Và sau này, ở nơi đó, chúng ta sẽ thấy rõ ràng rằng: Thì ra chỉ là do chúng sinh chúng ta lúc đó cảm thấy thích hay không thôi chứ không phải là do pháp khó hay dễ . Bởi pháp cũng là do chúng ta tưởng ra, nó vô thường, biến hoại. Chúng sinh chúng ta ở trong điên đảo vô minh mê mờ, lấy cái thích làm lạc, lấy cái dục làm vui… khi tiếp cận 1 pháp (1 pháp gì đó xuất hiện trong đầu) … bèn lấy “tri kiến” hay “thói quen” lựa chọn từ vô thỉ đời đến nay để tự gán ghép cho pháp (phân biệt) nên mới có tri kiến tiếp theo trong đầu: Pháp này đúng, pháp này sai, pháp này đẹp, pháp này xấu, pháp này đem đến lạc, pháp này mang tới khổ….. Cũng như vậy, chúng sinh chúng ta khi tiếp cận 1 pháp Phật cũng tự “lựa chọn” rằng nó: dễ, khó, hợp căn cơ, không hợp, đúng, sai, thù thắng hành được hoặc không, kết quả rốt ráo to hoặc nhỏ .v.v..v


Sau này, (có thể là vô lượng đời kiếp sau), chúng ta đều sẽ thấy: Ồ! Thì ra, tất cả đều như nhau vậy thôi.





Trích Kinh Quán Niệm Hơi Thở (Bản Làng Mai dịch)

“… Này đây, quý vị khất sĩ! Người hành giả đi vào rừng hoặc tới một gốc cây, nơi vắng vẻ, ngồi xuống trong tư thế hoa sen, giữ thân cho thẳng và đặt vững chánh niệm trước mặt mình. Thở vào, người ấy biết rằng mình thở vào; thở ra, người ấy biết rằng mình thở ra.

1. Thở vào một hơi dài, người ấy biết: Ta đang thở vào một hơi dài. Thở ra một hơi dài, người ấy biết: Ta đang thở ra một hơi dài.

2. Thở vào một hơi ngắn, người ấy biết: Ta đang thở vào một hơi ngắn. Thở ra một hơi ngắn, người ấy biết: Ta đang thở ra một hơi ngắn.

3. Ta đang thở vào và có ý thức về toàn thân ta. Ta đang thở ra và có ý thức về toàn thân ta. Người ấy thực tập như thế.

4. Ta đang thở vào và làm cho toàn thân an tịnh. Ta đang thở ra và làm cho toàn thân an tịnh. Người ấy thực tập như thế.

5. Ta đang thở vào và cảm thấy mừng vui. Ta đang thở ra và cảm thấy mừng vui. Người ấy thực tập như thế.

6. Ta đang thở vào và cảm thấy an lạc. Ta đang thở ra và cảm thấy an lạc. Người ấy thực tập như thế…”



Với hơi thở số 3, 4 - chúng ta sẽ rất nhanh vào sâu trong sơ thiền thôi. Chúng ta nếu còn chưa rõ kết quả biến thứ 1 phía trước thì việc thực hành hơi số 3,4 sẽ thúc đẩy chúng ta tiến tới kết quả sớm hơn.


Với những người đã vào sơ thiền như kết biến 1. Sẽ tập trung hành công hơi số 5, số 6.. Với sự tác ý “thần diệu” của Quán Niệm Hơi Thở - Chẳng mấy chốc mà mọi chúng ta đều chứng vào sơ thiền và sớm tiến lên viên mãn sơ thiền - Thành một Thánh Nhân. (Tất nhiên, đừng mừng húm. Còn phải tác ý tu tập vô lượng Pháp mới có Đạo Hạnh và nhiệm màu)



Chúng ta tuyệt đối nhớ rõ: Đức Thế Tôn nói thế nào, chúng ta y lời của Ngài. Không tự biên ra phương tiện, không nghe dùng phương tiện mới từ một ai. Chỉ dùng phương tiện của ĐỨC THẾ TÔN.



Do chúng ta đã bỏ đi hẳn toàn bộ những sự ngờ ngệch ngô nghê vô minh của bao đời kiếp nay đi diễn giải, giảng giải kinh pháp ý gì. Nhờ việc tu hơi số 1, số 2 mà chúng ta đã biết: Pháp tu thực sự đơn giản

Nó đơn giản không khác gì pháp “Niệm Phật: A Di Đà Phật” chẳng hạn. - Chẳng qua tất cả các pháp mất đi tác dụng chỉ vì “chúng ta thi nhau đi giải nghĩa, giảng giải và thực tế chúng ta đi học về nghĩa lý do chúng ta giảng giải chứ chúng ta không tu. Chúng ta tu 10 phút niệm nhưng có khi mất 10000 phút đi nghe về lý, về nghĩa về nọ kia lọ chai - vô ích không?


Ở đây, cũng vậy:


Khi chúng ta ngồi thiền (tư thế).

Hơi số 3: Chúng ta niệm (tác ý) khi: “Ta đang thở vào và có ý thức về toàn thân ta” - khi chúng ta đang hành thế này tức là: Mũi ta đang thở vào, ta đang cảm giác về toàn thân và trong ý (niệm) của ta xuất hiện câu: “ta đang thở vào và có ý thức về toàn thân ta”. Thở ra cũng vậy.


Hơi số 4 cũng như thế.

Hơi số 5, số 6: Đây là tác ý mạnh rồi. Chúng ta cần thêm “tứ chánh cần” - tức là duyên sinh (duyên khởi) ra cảm giác vui mừng, an lạc.


Khi thực hành hơi số 3, 4 thì nên qua khoảng 5 lần thực tập lại hơi số 1,2 rồi mới bắt đầu thực tập hơi số 3,4.


Khi nào phải có được “cảm giác vào sơ thiền” như ở biến thứ 1. Chúng ta mới chuyển sang tu hơi số 5,6 để chứng và trú và làm viên mãn sơ thiền.


Chắc khoảng nửa đời thôi. Niệm A Di Đà Phật: Có 4 từ mà bao đời kiếp diễn giải đến bây giờ: Nghe, đọc, học cả đời diễn giải, lý giải, giải nghĩa, chú thích cũng có khi cũng không hết giảng giải. Trong khi có mỗi 4 từ. - Vì thế mới mất cả đời tu niệm này mà không thấy kết quả gì (như thấy vô lượng Quang = Phật A Di Đà hay thấy trí tuệ mở ra..v.v.v). Còn niệm hơi thở, nếu chúng ta rút ra những bài học sai lầm của ngàn đời nay về niệm A Di Đà Phật. Chúng ta cứ: Đức Thế Tôn nói thế nào, làm y thế, nhất tâm làm (an trú tâm vào chánh niệm): Không cần đến nửa đời, ai cũng vào Đạo hết khi luận này tới chỗ vô lượng “tiểu luận” sau này.


Vậy thôi, đơn giản vậy thôi.
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Chúng ta nhớ, chúng ta còn cách xa vô lượng năm ánh sáng mới có thể Quán phép quán thứ 2 trong Quán Vô Lượng Phật. Chúng ta còn chưa thực sự vào giai đoạn tinh tấn thì còn thấy mọi thứ nó rối rắm và như “mê trận”. Khi tới được giai đoạn này, chúng ta thừa sức hiểu những việc như:

Chúng ta mất 30 năm để có văn trí mà thực ra… phí thời gian
Chúng ta nghi ngờ đôi “tông đất” - Niệm A Di Đà Phật nên mất nửa đời, 1 đời hoặc nhiều đờn hơn chỉ để: Nghe kinh nghe giảng Pháp Phật, kể cả nghe giảng về 4 từ này.v..v. Mà không biết rằng nếu ngay từ đầu dùng 4 từ này thì: “Đường vốn làm gì có, vì đi nên thành đường” - ta đã sớm đi đến giai đoạn đường khác rồi.

Tất nhiên, rất nhiều chúng ta, không cần phải đi đoạn đường tông đất vì đã trả giá ở chỗ “văn trí” bao nhiêu đời trước và mấy chục năm đời này..v.v tuy vậy, hãy nhớ, không đi tông thì đi chân đất - đoạn nào sau này cũng vậy thôi.


Bởi vậy, phép vào định của Đức Thế Tôn cũng rất đơn giản - QUÁN. Tất nhiên, ai cũng phải tu, mới có cơ hội Quán. Cũng như ai cũng phải tu (hoặc tông đất, hoặc cái phương tiện gì đó) thì mới đi qua đoạn đường rừng (đoạn không lối đi ở đời) - mới tự tạo ra cái gọi là “dục như ý túc” - mới có thể đi tới được đầu những đoạn đường rõ ràng hơn (khi trí đã mở ra chút, có được tý lực..v.v.) để đi những đoạn tiếp theo bước ra khỏi đời.


Ở đây, chúng ta trình văn trí về Thất giác chi - nhóm trợ Đạo tiếp theo.
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Thất giác tri bao gồm:


+ Niệm giác tri: Thứ này chính là thứ trợ Đạo về niệm. Dùng để chúng ta tự phân biệt được: Thế nào là niệm, thế nào là chánh niệm, tà niệm, ý niệm, niệm hành, niệm vọng.v.v. Khi chúng ta đã rõ ràng giác ngộ về niệm, chúng ta tự hiểu hết mọi thứ khi từ “niệm” trong mọi pháp.

Ví dụ: Từ đầu tập luận đến giờ, từ niệm được dùng đi dùng lại với đủ mọi ý nghĩa, văn cảnh. Khi chúng ta giác ngộ về “niệm là gì” (gọi là niệm giác tri), chúng ta đọc/nghe được về nó, chúng ta tự thấy thấu rõ nghĩa lý của pháp có từ niệm này.

Nên gọi là niệm giác tri là vậy. Một trợ Đạo diệu kỳ.


+ Trạch Pháp giác tri: Tất nhiên rồi, chỉ khi thấu rõ về “như lý tác ý” là gì thì chúng ta mới rõ được mức độ trọng yếu của những “câu chữ” mà chúng ta niệm ra để “tác ý”.

Ví dụ: Chúng ta muốn có tiền để làm “bố thí”. - Nghe có vẻ rất “như lý tác ý”. Nhưng chúng ta “trạch pháp” bằng những pháp có nội dung như: Hãy đem tiền tới đây, tiền ơi tới đây..v.v.v - Khả năng “túp lều tranh vách đất” của chúng ta sẽ “sập” vì “chúng sinh đem tiền đến cúng dường”.v.v.v

Như vậy, chúng ta phải hiểu được như lý tác ý, biết dùng, biết nhiệm màu, thấy rõ. Điều này chúng ta phải có giác ngộ về pháp. Để chúng ta “trạch pháp” - tức là sáng tác pháp để tác ý.

Giác ngộ về Pháp tức là nắm được rõ, ngộ được rõ: Pháp thiện, pháp ác, pháp nội hàm.v.v.v

Tuy nhiên: Thất giác chi là một trong những trợ Đạo cấp “thần thông” rất mạnh, không kém “tứ thần túc” mà kết quả của 1 vài “tôn thần” nơi đây rất mạnh. Bởi thế, không đủ lực, không dùng được. Tức là, chưa đủ “trí tuệ” hay minh để có thể “trạch pháp”. Vì cấp sáng tác trạch pháp, là cấp liền ngay phía trước của cấp “Thuyết tác Pháp Phật”.

Như đã nói ở phía đầu luận. Kinh Pháp Cú cung cấp cho chúng ta rất nhiều câu trạch pháp để như lý tác ý hỗ trợ tu Đạo. Còn việc “sáng tác trạch pháp” - Chúng ta nghĩ hiện giờ: Chưa nên mơ vì chúng ta sẽ chưa thể có được “trạch pháp tri” viên mãn.


+ Tinh tấn giác tri: Cái cốt lõi của cái này là chúng ta giác ngộ được về tinh tấn tu Đạo là gì.


Chúng ta đừng nghĩ đơn giản kiểu: Đi ngồi nghe ở Đạo Tràng, thầy giảng pháp nói 1 thôi 1 hồi 1 buổi hay 10 buổi. Nói xong, thầy nói: Như vậy chúng ta đã rõ về… - chúng ta giờ đây về nhà, về cuộc sống chúng ta phải tinh tấn tu tập để mau mau.v.v.v

- Đây là tinh tấn? - Không!


Khi chúng ta giác về tinh tấn cũng là lúc chúng ta bước vào giai đoạn tinh tấn tu Đạo.


Ví dụ: Có 1 phương tiện (ô tô), ở bến đỗ, chúng ta trèo lên, mở máy, rồi xoay hướng vô lăng, lùi, tiến, tiến, lùi, dừng.v.v. Rồi rút nó ra khỏi chỗ đỗ. Lại lái nó qua khỏi sân đỗ, qua cửa, qua cổng, qua ngõ, qua đường nhỏ.v.v. - Chúng ta vẫn chưa cách vị trí ban đầu của chúng ta là mấy. Nếu chỉ đến đây, có lẽ chúng ta đi bộ chắc chắn thuận tiện và nhanh hơn là đi ô tô. Khi lên cao tốc (chẳng hạn) chúng ta mới “max chân ga” và ổn “định” tốc độ chẳng hạn.v.v.


Hình tượng như vậy là để nói rằng: Đa phần chúng ta tu cả đời mà không bước vào được giai đoạn tinh tấn. Có khi tu cả đời rất chăm chú - kiểu như chỉ ngồi trên ô tô, vẫn nổ máy (ý nói tu) rồi lùi đi tiến lại để đánh lái cái đầu ô tô ra khỏi chỗ đỗ xe.

Chúng ta tu mà không tiến thì làm sao đến được giai đoạn tinh tấn.


Như vậy, giác ngộ về tinh tấn cũng là một trợ Đạo mạnh để chúng ta bước vào giai đoạn tinh tấn.


Không phải chúng ta “ngồi” im hết ngày nọ ngày kia là tinh tấn đâu. Cũng thế, không phải cứ nói tu rồi “xoè thời gian tu” đã 3 năm, 5 năm, 10 năm là tinh tấn… Dù vậy, nếu chuyên tâm tu quàng tu đại thì thời gian cũng là 1 thông số để xác định việc giác ngộ tinh tấn. Tuy rằng sẽ khó đạt đến tinh tấn giác tri viên mãn.


Chúng ta giác ngộ về tinh tấn là khi: Chúng ta đã rõ con đường, rõ mọi thứ về chính chúng ta. Đây là giác ngộ về tinh tấn.

- Tại sao lại kỳ vậy? - Đơn giản là khi giác ngộ rõ (tri) về chính chúng ta, người tu, và với con đường rõ ràng: Người ta mới đủ “Dũng” để “tinh tấn tu” đạt Quả (thật chứ không phải là tưởng, ảo)



Các giác tri còn lại:


+ Hỉ giác tri
+ Khinh an giác tri
+ Định giác tri
+ Xả giác tri
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Chúng ta trích một bài luận trong luận tạng về “thất giác tri”. Dù đây là một bài luận “vẽ rồng vẽ rắn” và chắc chắn là làm “rối rắm” thêm đường tu Đạo. Nhưng hàm lượng “văn trí” về Đạo Đức Thế Tôn là rất lớn. - Chỉ tiếc là: Với hàm lượng văn trí như này, người ta càng không chịu tu, mà chỉ đọc, học để có “văn trí” và nếu có người tu - họ đều tu lầm bởi văn trí là văn trí chứ không phải là vô thượng trí tuệ - thứ gọi là tuệ, huệ. - Vì không Quán thì không tu ra kết quả gì.

Bởi vậy, chúng ta dùng Quán để tu chứ không phải dùng mắt (đọc), dùng tai (nghe), dùng ý (tưởng nghĩ).v.v. Để tu học, hành. - Dùng được Quán thì cũng chẳng cần đọc truyện trước tác này làm gì cho bẩn người thêm.


“ 1/ Niệm giác chi: Theo A-tỳ-đạt-ma Uẩn túc luận 9 thì Niệm giác chi trong Thất giác chi, khi hành giả muốn tu tập thì phải dùng đến pháp quán Tứ niệm trụ (Tứ niệm xứ), Theo đức Đạo sư thì đệ tử của bậc Thánh đối trong thân, ngoài thân, trong ngoài thân phải trụ vào thân mà quán. Nếu ở đây chánh cần, chánh tri, chánh niệm đầy đủ thì, sẽ trừ được tham ưu thế gian, cùng nội ngoại của Thọ, tâm, pháp cũng đầy đủ như thân thì, sẽ có được sự tương ưng giữa vô lậu và tác ý. Các niệm theo niệm, chuyên niệm, ức niệm, không quên không mất, không trái, không lọt, không mất pháp tánh, tâm sáng tánh ghi nhớ, tất cả nói chung đều là niệm, cũng gọi là niệm căn, cũng gọi là niệm lực, cũng gọi là giác chi, cũng gọi là chánh niệm, chúng có khả năng chấm dứt khổ.

Các bậc hữu học đối với các hành như sở kiến của mình mà tư duy quán sát sẽ đạt cứu cánh, đối trong các hành thấy rõ lỗi lầm, đối niết-bàn vĩnh viễn thấy rõ công đức. Nếu là A-la-hán cùng tâm giải thóat, tư duy qúan sát, khiến đạt cứu cánh và sẽ có được sự tương ưng giữa vô lậu và tác ý, các niệm tùy niệm, cho đến tâm minh, tánh nhớ đó gọi là Niệm giác chi. Khi hành giả đã nhờ Tứ niệm trụ quán sát thân, thọ, tâm và pháp trong ngoài bằng vào chánh cần chánh tri, chánh niệm biết rõ được bộ mặt thật của các pháp, nên vấn đề tu tập phải có sự lựa chọn tiếp theo đó trong pháp tu của hành giả.

2/ Trạch pháp giác chi: Tiếp theo là đệ tử của bậc Thánh, phải thường biết như thật pháp nào thiện, pháp nào bất thiện; pháp nào có tội, pháp nào không tội; pháp nào đáng tu, pháp nào không đáng tu; pháp nào hạ liệt, pháp nào thắng diệu; pháp nào đen, pháp nào trắng; pháp đối địch, pháp duyên sinh. Nếu ở đây hành giả biết tất cả pháp là như thật, pháp nào thiện, pháp nào bất thiện cho đến pháp duyên sinh thì sẽ có được sự tương ưng giữa vô lậu và tác ý; đối với sự lựa chọn đến chỗ kỳ cùng, không còn lựa chọn được nữa; hiểu rõ, tỏ gần tỏ xa, thông đạt tất cả, quán sát thông tuệ, tuệ hạnh sáng tỏ, gọi chung là tuệ, cũng gọi là tuệ căn, cũng gọi là tuệ lực, cũng gọi là trạch pháp giác chi, cũng gọi là chánh kiến.

Đối với Thánh đệ tử chúng có khả năng diệt hết khổ; đối với các hàng hữu học các hành như sở kiến của mình mà tư duy quán sát sẽ đạt cứu cánh; đối trong các hành thấy rõ lỗi lầm, đối niết-bàn vĩnh viễn thấy rõ công đức. Nếu là A-la-hán cùng tâm giải thóat, tư duy quán sát, khiến đạt cứu cánh và sẽ có được sự tương ưng giữa vô lậu và tác ý, đối các pháp lựa chọn, cho đến Tỳ-bát-xa-na (vipaśyanā: quán pháp) là dùng trí tuệ nhất tâm quán pháp, đó gọi là Trạch pháp giác chi. Sau khi hành giả đã lựa chọn pháp tu cho mỗi người rồi thì, cần phải có sự siêng năng nổ lực trong pháp tu của mình.

3/: Tinh tấn giác chi: Tiếp đến đệ tử bậc Thánh, sau khi đã biết lựa chọn, biết pháp nào thiện pháp nào ác rồi trong thực hành chỉ ác hành thiện thì phải tinh tấn dùng phương pháp Tứ chánh cần để tu tập. Vì muốn đọan trừ các pháp ác, bất thiện đã sinh ra, nên siêng năng tinh tấn kiểm sóat tâm, giữ gìn tâm. Vì muốn cho các pháp ác bất thiện chưa sinh sẽ không sinh, nên phải khởi lòng siêng năng tinh tấn kiểm sóat tâm, giữ gìn tâm. Vì muốn pháp lành chưa sinh khiến sinh, nên phải khởi lòng siêng năng tinh tấn trong việc khởi lên ý nghĩ nên hay không nên và, đem áp dụng vào trong việc làm nên hay không nên trong việc kiểm sóat tâm và giữ gìn tâm.

Vì muốn những việc thiện đã phát sinh trong việc nuôi lớn vững bền thêm không khiến tâm quên, và muốn làm tăng trưởng rộng lớn trí tuệ tác chứng nên hành giả phát khởi lòng mong muốn siêng năng nổ lực tinh tấn kiểm sóat tâm mình, giữ gìn tâm mình lúc nào cũng thanh tịnh. Khi hành giả theo pháp tu Tứ chánh cần thì sẽ có được sự tương ưng giữa vô lậu và tác ý; những nổ lực tinh tấn, mạnh mẽ, kiên cường, hừng hực khó kiềm, gắng ý không dừng, tất cả đều gọi là tinh tất cả, cũng gọi là tinh tấn căn, cũng gọi là tinh tấn lực, cũng gọi là tinh tấn giác chi, cũng gọi là chánh cần.

Đối với Thánh đệ tử chúng có khả năng diệt hết khổ; đối với các hàng hữu học, các hành như sở kiến của mình mà tư duy quán sát sẽ đạt cứu cánh; đối trong các hành thấy rõ lỗi lầm, đối Niết-bàn vĩnh viễn thấy rõ công đức. Nếu là A-la-hán cùng tâm giải thóat, tư duy qúan sát, khiến đạt cứu cánh và sẽ có được sự tương ưng giữa vô lậu và tác ý, mọi nổ lực tinh tấn, cho đến gắng ý không dừng nghỉ, đó gọi là Tinh tấn giác chi.

4/ Hỷ giác chi: Khi Thánh đệ tử đã nổ lực tinh tấn thực hành những pháp mà mình đã chọn rồi qua chỉ ác hành thiện rồi nhờ lúc cùng nhau niệm Phật như vậy thì tham không trói buộc tâm, sân không trói buộc tâm, si không trói buộc tâm. Đối với Như lai, tâm hành giả ngay thẳng thì sẽ đạt được nghĩa và pháp oai thế; đối với Như lai có khả năng dẫn khởi hân hoan, nhờ hân hoan nên sinh tâm hoan hỉ; khi được hoan hỉ thì thân an; thân an thì sẽ hưởng lạc; được an lạc nên tâm định. Khi tâm hành giả định rồi thì đối với các loài hữu tình không bình đẳng sẽ trụ vào bình đẳng, đối với các loài hữu tình có não hại sẽ trụ vào không não hại và, sẽ được dự vào dòng pháp mà tu tập tùy theo niệm đối với chư Phật, cho đến tác chứng cứu cánh Niết-bàn.

Lại nữa hành giả khi cùng nhau niệm chánh pháp, tức là chỉ cho chánh pháp của Phật khéo nói hiện tại, mát mẻ đúng thời, hướng dẫn trực quán khiến bậc trí giả nội chứng; hành giả nhờ đó lúc cùng nhau niệm pháp như vậy thì tham không trói buộc tâm, sân không trói buộc tâm, si không trói buộc tâm. Đối với chánh pháp tâm hành giả ngay thẳng, nhờ tâm ngay thẳng nên được nghĩa và pháp oai lực; đối với chánh pháp có khả năng dẫn khởi hớn hở, nhờ hớn hở nên sinh tâm hoan hỉ; nhờ hoan hỉ nên thân an; nhờ thân an nên hưởng lạc; nhờ an lạc nên tâm định. Khi tâm hành giả định rồi thì đối với các loài hữu tình không bình đẳng sẽ trụ vào bình đẳng, đối với các loài hữu tình có não hại sẽ trụ vào không não hại và, sẽ được dự vào dòng pháp. Đối với chánh pháp, nhờ tu tập tùy niệm nên cho đến có thể tác chứng cứu cánh Niết-bàn.

Lại nữa, hành giả khi cùng nhau niệm Tăng già, tức là chỉ cho đệ tử của đức Phật đã thọ cụ túc giới, đầy đủ diệu hạnh, hành động chất trực, thực hành như lý, thực hành pháp theo pháp Phật dạy, thực hành hòa kính. Hơn nữa đệ tử của Phật có hướng đến dự lưu, có quả dự lưu, có quả nhất lưu, có hướng đến không trở lại (bất hòan), có quả bất hòan, có hướng đến A-la-hán, có quả a-la-hán. Như vậy gồm có Tứ song, Bát chích, Bổ-đặc-già-la. Cũng vậy Tăng già, đầy đủ giới, đầy đủ định, đầy đủ tuệ, đầy đủ giải thóat, đầy đủ giải thóat tri kiến, đáng thỉnh đáng đê đầu, đáng cung kính ruộng phước vô thượng, nơi đởi nên cúng dường.

Đệ tử của bậc Thánh nhờ lúc cùng nhau niệm Tăng như vậy thì tham không trói buộc tâm, sân không trói buộc tâm, si không trói buộc tâm. Đối với Tăng già tâm hành giả ngay thẳng, nhờ tâm ngay thẳng nên được nghĩa và pháp oai lực; đối với chánh pháp có khả năng dẫn khởi hớn hở, nhờ hớn hở nên sinh tâm hoan hỉ; nhờ hoan hỉ nên thân an; nhờ thân an nên hưởng lạc; nhờ an lạc nên tâm định. Khi tâm hành giả định rồi thì đối với các loài hữu tình không bình đẳng sẽ trụ vào bình đẳng, đối với các loài hữu tình có não hại sẽ trụ vào không não hại và, sẽ được dự vào dòng pháp. Đối với Tăng già nhờ tu tập tùy niệm, nên cho đến có thể tác chứng cứu cánh Niết-bàn.

Lại nữa, hành giả khi cùng nhau niệm giới, tức là chỉ cho hành giả giữ giới thanh tịnh, không khuyết không thủng, không tạp không nhơ, có thể nhận sự cúng dường không rõ ràng, khéo cứu cánh, khéo thọ trì, được người trí khen ngợi, thường không hủy báng. Đệ tử bậc Thánh nhờ lúc cùng nhau niệm giới như vậy thì tham không trói buộc tâm, sân không trói buộc tâm, si không trói buộc tâm. Đối với giới tâm hành giả ngay thẳng; nhờ tâm ngay thẳng nên được nghĩa và pháp oai lực; đối với chánh pháp có khả năng dẫn khởi hớn hở, nhờ hớn hở nên sinh tâm hoan hỉ; nhờ hoan hỉ nên thân an; nhờ thân an nên hưởng lạc; nhờ an lạc nên tâm định. Khi tâm hành giả định rồi thì đối với các loài hữu tình không bình đẳng sẽ trụ vào bình đẳng, đối với các loài hữu tình có não hại sẽ trụ vào không não hại và, sẽ được dự vào dòng pháp. Đối với giới nhờ tu tập tùy niệm, nên cho đến có thể tác chứng cứu cánh Niết-bàn.

Lại nữa, hành giả khi cùng nhau niệm Bố thí, tức là hiện tại hành giả khéo được thắng lợi, tuy sống vô lượng nơi cáu bẩn triền phược trong chúng sanh, nhưng tâm xa lìa tất cả cáu bẩn, có thể thực hành bố thí. Tuy ở tại gia, nhưng có thể không đắm nhiễm vào của cải châu báu; ra tay bố thí, làm tế tự lớn, cúng dường ruộng phước, ban ân đầy đủ, ban vui khắp cả. Đệ tử bậc Thánh nhờ lúc cùng nhau niệm bố thí như vậy thì tham không trói buộc tâm, sân không trói buộc tâm, si không trói buộc tâm. Đối với giới tâm hành giả ngay thẳng; nhờ tâm ngay thẳng nên được nghĩa và pháp oai lực; đối với bố thí có khả năng dẫn khởi hớn hở, nhờ hớn hở nên sinh tâm hoan hỉ; nhờ hoan hỉ nên thân an; nhờ thân an nên hưởng lạc; nhờ an lạc nên tâm định. Khi tâm hành giả định rồi thì đối với các loài hữu tình không bình đẳng sẽ trụ vào bình đẳng, đối với các loài hữu tình có não hại sẽ trụ vào không não hại và, sẽ được dự vào dòng pháp. Đối với bố thí nhờ tu tập tùy niệm, nên cho đến có thể tác chứng cứu cánh Niết-bàn.

Lại nữa, hành giả khi cùng nhau niệm chư Thiên, tức là chỉ cho Tứ đại vương chúng thiên, trời Ba mươi ba, Dạ-ma-thiên, Đổ-sử-đa thiên, Lạc biến hóa thiên, Tha hóa tự tại thiên. Chư thiên như vậy, thành tựu tín, giới, văn, xả, tuệ nên mất từ chỗ này được sinh về những cõi trời kia hưởng mọi sự khoái lạc. Hành giả chúng ta cũng có tín, giới, văn, xả, tuệ, cũng sẽ được sinh về những chỗ kia, cùng các thiên chúng đồng hưởng khoái lạc. Các hành giả đệ tử của bậc Thánh nhờ cùng nhau niệm Thiên như vậy thì tham không trói buộc tâm, sân không trói buộc tâm, si không trói buộc tâm.

Đối với giới tâm hành giả ngay thẳng; nhờ tâm ngay thẳng nên được nghĩa và pháp oai lực; đối với chư thiên có khả năng dẫn khởi hớn hở, nhờ hớn hở nên sinh tâm hoan hỉ; nhờ hoan hỉ nên thân an; nhờ thân an nên hưởng lạc; nhờ an lạc nên tâm định. Khi tâm hành giả định rồi thì đối với các loài hữu tình không bình đẳng sẽ trụ vào bình đẳng, đối với các loài hữu tình có não hại sẽ trụ vào không não hại và, sẽ được dự vào dòng pháp. Đối với chư thiên nhờ tu tập tùy niệm, nên cho đến có thể tác chứng cứu cánh Niết-bàn.

Hành giả lúc tu tập lục tùy niệm như vậy rồi thì sẽ được sở hữu tương ưng giữa vô lậu và tác ý, tâm hân hoan tột cùng, hân hoan hiện hữu, tính loại hân hoan, thích ý vui ý; tính loại hoan hỷ vui hòa hợp không còn phân biệt ... tất cả gọi chung đều là hỉ, cũng gọi là hỉ giác chi. Đối với Thánh đệ tử chúng có khả năng diệt hết khổ; đối với các hàng hữu học, các hành như sở kiến của mình mà tư duy quán sát sẽ đạt cứu cánh; đối trong các hành thấy rõ lỗi lầm, đối Niết-bàn vĩnh viễn thấy rõ công đức. Nếu là A-la-hán cùng tâm giải thóat, tư duy qúan sát, khiến đạt cứu cánh và sẽ có được sự tương ưng giữa vô lậu và tác ý, tâm hoan hỉ tột cùng, cho đến tánh hoan hỉ thì đó gọi là Hỉ giác chi.

5/ Khinh an giác chi: Tiếp tục hành giả nhờ tâm tánh hoan hỉ đang hiện có, hành giả nhập vào sơ thiền, ngôn ngữ lúc bấy giờ dừng nghỉ. Nhờ duyên này mà các pháp khác cũng yên nghỉ, đó gọi là trạng thái thuận khinh an thứ nhất; khi nhập vào đệ nhị thiền, tầm và từ (giác, quán) yên nghỉ, nhờ duyên này mà các pháp khác cũng yên nghỉ, đó dọi là trạng thái thuận khinh an thứ hai; khi hành giả nhập vào đệ tam thiền; các hỉ ở đây bấy giờ cũng yên nghỉ, nhờ duyên này các pháp khác cũng lặng yên, đó là trạng thái thuận khinh an thứ ba; khi nhập vào đệ tứ thiền, hơi thở ra vào lặng yên, nhờ duyên này các pháp khác cũng an nghỉ, đó là trạng thái thuận khinh an thứ tư; tiếp tục lúc nhập vào diệt thọ tưởng định, ở đây tưởng thọ vắng bặt nhờ duyên này mà các pháp khác cũng không hiện hữu, đó gọi là trạng thái thuận khinh an thứ năm và, cũng có khinh an thượng diệu thứ sáu là tối thắng tối thượng.

Khinh an này là tối thượng tói diệu không có khinh an nào khác vượt qua nó. Vì sao vậy? Vì tâm từ tham lìa nhiễm mà giải thóat và, từ sân, si lìa khỏi nhiễm mà giải thóat, nên gọi đây là trạng thái thuận khinh an thứ sáu. Hành giả tư duy về trạng thái này thì sẽ sở hữu được mọi sự tương ưng giữa vô lậu và tác ý, tâm nhẹ nhàng, tánh nhẹ nhàng loại nhẹ nhàng, gọi chung là khinh an, cũng gọi là khinh an giác chi. Đối với Thánh đệ tử chúng có khả năng diệt hết khổ; đối với các hàng hữu học, các hành như sở kiến của mình mà tư duy quán sát sẽ đạt cứu cánh; đối trong các hành thấy rõ lỗi lầm, đối Niết-bàn vĩnh viễn thấy rõ công đức. Nếu là A-la-hán cùng tâm giải thóat, tư duy qúan sát, khiến đạt cứu cánh và sẽ có được sự tương ưng giữa vô lậu và tác ý; thân, tâm, tính, loại khinh an, đó gọi là khinh an giác chi.

6/ Định giác chi: Khi hành giả nhờ vào sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ và Diệt tận định thì sẽ diệt trừ tận gốc rễ của các lậu. Vì khi hành giả an trú vào sơ thiền thì trước hết nhờ vào tướng trạng các hành mà xa lìa pháp dục ác bất thiện, có tầm có từ và, nhờ xa lìa này mà hỉ lạc sinh ra. Nếu ở sơ thiền mà hành giả an trụ đầy đủ thì hành giả sẽ không còn tư duy về tướng trạng các hành nữa mà chỉ tư duy về chỗ đạt được, chỗ hướng về sắc, thọ, tưởng, hành và, thức mà thôi. Ở đây các pháp này não hại chúng sanh như là bệnh họan, như ung nhọt, như tên độc, chúng là vô thường, khổ, không, phi ngã. Hành giả đối với pháp này tâm vừa ghét vừa lo sâu xa, sợ hãi đình chỉ, sau đó nhiếp tâm đưa về giới vức cam lồ, tư duy cõi này là tịch tĩnh vi diệu, xả bỏ tất cả trên nền tảng ái hết lìa nhiễm, vĩnh viễn tịch diệt Niết-bàn.

Giống như xạ sư giỏi, hay học trò của ông, trước hết học bắn người bằng cỏ, đất bùn ở gần; sau đó mới có thể bắn vật kiên cố lớn ở xa được. Hành giả cũng vậy, trước phải nhờ tướng trạng các hành như vậy mà xa lìa pháp dục ác bất thiện, có tầm có từ; nhờ xa lia nên hỉ lạc sinh. Nếu hành giả an trụ vào sơ thiền đầy đủ thì sẽ không tư duy về các tướng trạng các hành như vậy mà chỉ tư duy về chỗ đạt được, chỗ hướng về sắc, thọ, tưởng, hành và, thức mà thôi. Ở đây các pháp này não hại chúng sanh như là bệnh họan, như ung nhọt, như tên độc, chúng là vô thường, khổ, không, phi ngã.

Hành giả đối với pháp này tâm vừa ghét vừa lo sâu xa, sợ hãi không tạo tác nhân, sau đó nhiếp tâm đưa về giới vức cam lồ, tư duy cõi này là tịch tĩnh vi diệu, xả bỏ tất cả trên nền tảng ái hết lìa nhiễm, vĩnh viễn tịch diệt Niết-bàn. Khi hành giả biết như vậy, thấy như vậy liền từ tâm dục lậu được giải thóat, cũng từ hữu lậu và vô minh lậu tâm được giải thóat; đã giải thóat rồi thì có thể tự nhận thức rằng: Ta được giải thóat, sự sanh của ta đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc cần đã làm xong, không còn tái sinh đời sau nữa. Ở đây đề cập về an trụ nhị thiền thì, trước hết cũng nhờ vào tướng trạng các hành, nhưng tầm từ trở nên tịch tĩnh, bên trong tâm tịnh một mực hướng về tự tánh, lúc này không còn tầm từ nữa, nhờ định là hỉ lạc sinh ra.

Nếu an trụ đầy đủ vào nhị thiền thì bấy giờ hành giả không còn tư duy về tướng trạng các hành nói cũng giống như trên cho đến vô sở hữu xứ. Khi hành giả nhập vào vô sở hữu và an trụ đầy đủ vào vô sở hữu xứ thì lúc này không còn tư duy về tướng trạng các hành, mà chỉ tư duy về chỗ đạt được, chỗ hướng về thọ, tưởng, hành và, thức mà thôi, cho đến nói đầy đủ như trên và, đến tưởng định có thể hòan thành xong những việc đáng nên làm như vậy. Tiếp đến là Phi tưởng phi phi tưởng xứ cùng Diệt tận định, việc xuất nhập định trong tu tập của hành giả cũng như bảy định trên, lúc này cũng sẽ có được sự tương ưng giữa vô lậu và tác ý, an trụ tâm, an trụ bình đẳng cho đến tâm chỉ còn duy nhất một tánh cảnh, gọi chung là định, cũng gọi là định căn, cũng gọi là định lực, cũng gọi là định giác chi, cũng gọi là chánh định.

Đối với Thánh đệ tử chúng có khả năng diệt hết khổ; đối với các hàng hữu học, các hành như sở kiến của mình mà tư duy quán sát sẽ đạt cứu cánh; đối trong các hành thấy rõ lỗi lầm, đối Niết-bàn vĩnh viễn thấy rõ công đức. Nếu là A-la-hán như tâm giải thóat, tư duy qúan sát, khiến đạt cứu cánh và sẽ có được sự tương ưng giữa vô lậu và tác ý, tâm an trụ bình đẳng, cho đến tâm chỉ còn tánh cảnh duy nhất, thì đó gọi là định giác chi.

7/ Xả giác chi: Đến đây, hành giả nhờ tư duy về đọan giới, ly giới, diệt giới trong những định trên và, cũng nhờ tâm phát khởi tính bình đẳng, tâm trở nên tánh chính trực, tâm không còn kỉnh giác mà an trụ vào tính tịch tĩnh. Lúc bấy giờ hành giả tự nghĩ: “nay ta nên đối với các pháp thuận tham, thuân sân, thuận si mà xa lìa tham, sân, si, nhờ tâm phát khởi tính bình đẳng, tâm trở nên tính chánh trực, tâm không còn kỉnh giác nữa, mà an trụ vào tính tịch tĩnh.“ Lại tự nghĩ: “Nay ta nên đối với các pháp tham, sân, si, tâm không còn nhiếp thọ; do tâm phát khởi tính bình đẳng, tâm trở nên tính chánh trực, tâm không cảnh giác mà an trụ vào tính tịch tĩnh.“

Ở đây hành giả nhờ xem xét tư duy sáu pháp thuận xả mà có được sự tương ưng giữa vô lậu và tác ý, tâm trụ vào tính bình đẳng, tâm trụ vào tính chánh trực, tâm không còn cảnh giác mà trụ vào tính tịch tĩnh, ở đây gọi chung là xả, cũng gọi là xả giác chi. Đối với Thánh đệ tử chúng có khả năng diệt hết khổ; đối với các hàng hữu học, các hành như sở kiến của mình mà tư duy quán sát sẽ đạt cứu cánh; đối trong các hành thấy rõ lỗi lầm, đối Niết-bàn vĩnh viễn thấy rõ công đức. Nếu là A-la-hán như tâm giải thóat, tư duy qúan sát, khiến đạt cứu cánh và sẽ có được sự tương ưng giữa vô lậu và tác ý, tâm trụ vào tính bình đẳng, tâm trụ vào tính chánh trực, tâm không còn kỉnh giác mà trụ vào tính tịch tĩnh thì, đó gọi là xả giác chi.”
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Tiểu luận 047

Trạng thái vào sơ thiền là 1 trạng thái đánh dấu sự biến đổi “tâm sinh lý” - nói theo cách đời thường hiện đại của người tu hành. Không tới được trạng thái sơ thiền, mọi thứ khác đều “vô tác dụng”.

Vào được trạng thái sơ thiền, người hành giả mới có thể chìm vào trong Đạo Đức Thế Tôn, mới có thể tinh tấn và mới có thể đạt được 1 kết quả gì đó hiện hữu thiết thực trong việc giải thoát. Vì sao?

- Vì chỉ khi vào được trạng thái sơ thiền, người tu hành mới thấy rõ cảm giác lạc của dục như ý túc. Cái lạc này mới làm tiêu vong hết mọi dục lạc khác, không trỗi dậy, vĩnh viễn lìa xa và định hiện tại an lạc trú.


Nên, người tu hành phải miên mật duyên khởi, miên mật tứ chánh cần cái Lạc của dục như ý túc. Phải vào sơ thiền, phải làm cho sơ thiền viên mãn, phải chứng và trú. Phải bước lên đỉnh của thế, mới có cơ hội bước đi xa hơn. Chớ viển vông cho rằng, một bước có thể bước ra khỏi thế này.



Chúng ta phải nhớ: Lạc của dục như ý túc sẽ không thể “kèm” bất kỳ một pháp ác, pháp dục nào khác ở trong đầu. Đưng tự viển vông: Cho rằng: - Đây chính là lạc của dục như ý túc, trong khi ở trong đầu hiện ra một lô những mỹ nam, mỹ nhân hay những “suy nghĩ” - pháp kích thích dục lạc bằng cách tự tưởng. - Đây chỉ là trầm luân mà thôi.



Cảm giác (thọ) hưng lạc sơ thiền khi vào bắt buộc: Không có pháp dục trong đầu, pháp ác trong đầu - tức là gì: Không có suy nghĩ, hình ảnh, niệm về trần và khách trần (bao gồm cả tưởng tượng) - cái đội tượng xúc chạm tới thân xác hay tinh thần. Không hề có. Như vậy là cái thọ ly dục, ly ác pháp.


Còn cảm giác thọ lạc này có giống cảm giác thọ lạc khi: Hưởng dụng đồ ăn uống, khi hát hò, nghe hát nhạc, khi làm tình, khi thủ hữu tiền, vàng, vật chất.v.v. hay không? - Điều này người tu tự chứng thấy vì mỗi người sẽ có những cách tri kiến về cảm giác thọ lạc là khác nhau. Tuy nhiên, không có một thọ dục lạc nào (kể cả là lạc thọ làm tình) có thể đem đến cảm giác lạc hơn cái lạc do dục như ý túc này mang lại.



Về kỹ thuật tứ chánh cần lạc thọ dục như ý túc (hay vô lượng thọ cực lạc). Hệ thống giới kinh Đức Thế Tôn đã nói rất chi tiết ở nhiều kinh bản. Đặc biệt, trong ví dụ về sơ thiền như đã trích. Kỹ thuật thấm nhuần thọ lạc này để đạt CỰC LẠC không thể nào được mô tả bằng ngôn từ dễ hiểu và chi tiết hơn ví dụ Đức Thế Tôn đã nêu về nó.

Khi chứng về cực lạc, chúng ta sẽ rất rõ, những trạng thái cực đỉnh của dục lạc - cũng không khác gì rơm khô. Vì lẽ này: Người tu hành phải luôn luôn tỉnh thức để không rơi vào ma sự ái nhiễm cùng cực như Đức Thế Tôn đã nói.


Chính vì có trạng thái lạc khi vào trạng thái sơ thiền, người tu hành chúng ta mới tự thấy rõ sự biến đổi về “tâm sinh lý” bản thân và mới rõ hơn về tinh tấn giác tri là gì. Bước vào tinh tấn.



Để làm rõ về kỹ thuật thấm nhuần lạc dục như ý túc toàn thân là thế nào, chúng ta cần hiểu 1 số mấu chốt:


1/ Lạc thọ của dục như ý túc cũng giống như mọi cái lạc khác ở chỗ: Con người sẽ không biết về nó (cảm giác này) trước khi thọ nó. Nếu thọ 1 cách qua qua, con người dễ dàng có thể ép tâm bỏ đi. Nhưng khi thọ sâu và trải qua vài lần thọ… con người sẽ không thể rời xa được cảm giác thọ lạc này. Giống như việc làm tình hay hút chất gây nghiện: Một người bình thường, trẻ chưa va vào thì có thể không va vào và nghĩ muốn nhưng có thể kìm hãm lại, tuy nhiên đã va vào vài lần và hưởng thụ nó: Sẽ khó có thể kìm hãm sự “không hưởng thọ nó nữa” trong những điều kiện bình thường của hiện tại..

Cái lạc thọ của dục như ý túc cũng vậy. Chính vì như vậy, ý nghĩa về: Chỉ một dục này (dục giải thoát) là đầy đủ là như vậy. Khi thọ cái lạc này, sẽ chẳng còn một ai muốn bất kỳ một cái lạc thọ nào khác. Như vậy, chúng ta mới có điều kiện chặt dính mắc rời xa đời được.


2/ Lạc thọ của dục như ý túc không thể, ngay lập tức hư không đến từ tinh thần. Có nghĩa là: Chúng ta không có phép tu hay bất kỳ phương tiện Chánh Pháp Đạo Đức Thế Tôn nào mà lập tức làm cho cái thọ lạc dục như ý túc xuất hiện ở trong đầu để rồi đẩy nó lên cực đỉnh, cực lạc.

Đơn giản, Đức Thế Tôn đã nói rõ: Thọ phải từ xúc chạm duyên ra. Không có xúc chạm thì…. Nó sinh ra kiểu gì?

- Đây chính là lý do mà cũng hàng ngàn năm nay, bao nhiêu người tu chúng ta tu mãi mà chẳng thấy cái gì. Chúng ta cố gắng rời xa trần, khách trần, loại bỏ pháp (tưởng, niệm)… chúng ta cố gắng rời xa các trần, cac sắc, các tưởng… không cho những thứ này xúc chạm vào cái gọi là “tâm” (thân, tinh thần). - Vì thế chỉ có kết quả là thọ không lạc, không khổ, thọ không cảm giác..v.v chứ chưa bao giờ thấy cái thọ lạc nào do ly dục, ly ác pháp sinh ra.

Nhiều người, tu nhiều năm, rời xa quá nhiều thứ rồi mà không thấy lạc gì nên chán quá bèn “tự bịt tai chộm chuông” cho rằng:

+ Ta tu rời xa hết mọi thứ rồi, ta ca múa kỹ kịch nhạc vì tâm hồn ta được an lạc, được lạc khi ca múa kỹ kịch, và âm nhạc đem tâm hồn con người thành an lạc… - Vừa vi phạm giới, vừa chìm trong dục lạc mà lại cứ nghĩ bản thân vô vi, rời xa mọi thứ.

+ Ta tu rời xa hết mọi thứ rồi, giờ ta ngồi trên đàn cao trước hàng nghìn người: Kể chuyện vui, kể chuyện cho khắp tất cả cùng “há miệng thật to cười thật sảng khoái”. Đây không phải là lạc sao, làm gì có dục có ác ở đây… vậy đây là an lạc. - Vừa vi phạm giới, vừa chìm trong dục lạc mà lại cứ nghĩ bản thân vô vi, rời xa mọi thứ, mang tiếng cười an lạc đến thế giới.

+ Ta tu rời xa mọi thứ rồi. Giờ ta ngồi trên bàn cao giảng pháp cho bao ngàn người nghe. Họ đảnh lễ ta với danh xưng chân tu, thầy, đắc đạo.v.v. Họ cúng dường cho ta, ta hưởng thụ đầy đủ sự cúng dương của họ và vì họ cúng dường nhiều quá mà ta có mỗi 1 cái mồm, 1 cái thân - làm sao hưởng thụ hết được sự cúng dường lớn như vậy.v.v. - Nhưng vẫn nhận.v.v. Và bắt đầu chìm vào trong 5 món dục lạc ở đời. Từ đây, vừa phạm giới, vừa nghĩ bản thân đã vô vi, đang giảng pháp khiển cả thế giới an lạc theo.v.v.

…..


Tất cả, đều trầm luân vì: Ngay từ đầu đã không vào được trạng thái lạc của sơ thiền, chứng thấy trạng thái cực lạc là gì, chứng sơ thiền, trú sơ thiền là gì… nên tu nhiều chục năm rồi mà vẫn: LẤY CÁI LẠC DỤC Ở THẾ GIAN LÀM CÁI LẠC CỦA ĐẠO GIẢI THOÁT.



Lạc của Đạo Đức Thế Tôn là lạc của dục giải thoát. Nó đầu tiên phải:


3/ Cảm giác thọ lạc và viên mãn gọi là cực lạc: Nhưng lại không còn xúc chạm (với trần, với khách trần (pháp). Làm sao để làm được điều này, làm sao có cảm giác thọ mà lại không xúc chạm? (Theo lý nhân duyên, phải có xúc chạm mới có thọ)

- Giải bài toán này, chúng ta mới chặt đứt tan vòng kim cô luân hồi “lý nhân duyên” đã tù ngục ta ở đời. Ở đây, chúng ta đã được chứng thấy cách chặt của Đức Thế Tôn.

Rất rõ: Đức Thế Tôn đã dùng thân xúc chạm với tâm (tinh thần). Cho chính thân và tinh thần xúc chạm vào nhau, hoà quyện vào nhau để tạo ra cái cảm giác lạc thọ ly dục ly ác pháp. Kinh nói rõ vậy (như Kinh sa môn đã trích) và chúng ta đã sơ chứng được vậy (vào và nhận được cảm giác thọ này).

Chúng ta đã không dùng trần, sắc trần, khách trần (pháp) để xúc chạm để có thọ lạc. Chúng ta “nhiếp tâm” về, dùng chính nó xúc chạm với thân để tự tạo ra cái thọ lạc dục như ý túc.

Nghe đọc thì có vẻ “biến thái”. Nhưng bản chất chính là vậy.

Cái cực lạc này nó sẽ vượt qua mọi cực lạc khác, dù cực đỉnh của làm tình (về xúc chạm thân tâm) cũng chỉ là nhai cọng rơm khô khi so với cái thân với tâm tự xúc chạm hoà quyện nhau (nước cam lồ - thiền 2 là hình thành hồ nước rồi).


4/ Chúng ta tu là tỉnh giác chứ không phải tu vô tri vô giác. Bởi thế, chúng ta phải mở hết 6 giác từ mê mờ cho nó tỉnh lại. Nếu như mở tai, mắt thì tạo ra các “thần thông” và chúng ta đã có được tý ty dạng sơ khởi thần thông thì mở giác quan thân (xúc giác thân) cho nó tỉnh giác sẽ đạt được cái gọi là cực lạc. Vì thân là cơ quan chứa cơ quan xúc thức - xúc giác.


Làm sao, thân không xúc chạm với trần, sắc… mà lại có được cảm giác lạc và cực lạc. Chỉ khi “nhiếp tâm” đưa tinh thần vào “mơn trớn” toàn thân - cho mọi xúc giác của thân nó mở hết ra, rung động lên cực lạc thì sẽ đạt cực lạc, vậy thôi. Mơn trớn như ví dụ của Đức Thế Tôn đó.


5/ Nhưng chúng ta cần nhớ: Thân và tinh thần thôi. Chứ không có tưởng (bất cứ tưởng niệm gì, không có trần, không có sắc trần, pháp) - không có pháp nào khác xuất hiện ở đây. Mới là xa lìa xúc chạm trần gian. Mới là chúng ta đang tự rời bỏ trần gian, trở về.


6/ Như vậy, khi tu tập hơi số 5,6 hay kỹ thuật của sơ thiền Sa Môn Quả… chúng ta sẽ bắt đầu tứ chánh cần cái thọ lạc tý ty ở biến 1 (chớm vào sơ thiền) thành viên mãn hay đạt CỰC LẠC. Khi đạt cực lạc, chúng ta đã chứng và trú được sơ thiền. Bước vào tu sĩ, Đạo, xuất thế gian.


Lúc này, chúng ta có còn cần xúc chạm với thế giới trần gian này nữa? -Chúng ta có thể thoả mãn mọi thứ mà không cần xúc chạm gì với trần gian này rồi (dục như ý túc đạt cực lạc) thì còn gì phải xúc chạm gì nữa?


Tuy vậy, phải nhớ tia Từ Bi và giới đàn trang nghiêm tâm. Bằng không chúng ta sẽ đi nhầm sang hàng A La Hán hay hàng Bích Chi.




Con người là nam hay nữ?
Kinh khởi thế Nhân Bổn và các kinh liên quan khi Đức Thế Tôn giảng về khởi thế đã cho chúng ta thấy: Đức Thế Tôn - Con người bất tư nghì và vĩ đại.


Khi chúng ta đã có thể tự đạt cực lạc mà không cần xúc chạm gì… chúng ta mới thấy: Thế gian đúng là vô minh, trong đó chính chúng ta cũng vô minh bao đời kiếp nay, thật vô minh.



Còn, không có chứng thấy: Nói ra - thế gian bảo: Đồ “bệnh hoạn” đó.



Kỳ lạ thay…
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Cũng rất may, tình trạng cảm giác lạc (thọ lạc) của dục như ý túc không phụ thuộc vào tuổi tác và tình trạng sức khoẻ (thân thể).

Nhưng nó vẫn có những điều kiện nhất định mà chúng ta ở đây đã biết:


Nếu như các loại dục lạc khác yêu cầu phải có trần, khách trần, sắc, pháp (tưởng)..v.v. Đến xúc chạm với 6 căn thì dục như ý túc, cực lạc sơ thiền chỉ đến khi và chỉ khi: Tinh thần được nhiếp về, ly khỏi dục và ác pháp. An trú trong thân bằng cách “nhào nặn” với nhau. - Thế gian giới sẽ rất nhiều người hô lên: “không thể nào, quá bất tư nghì, bệnh hoạn.v.v.”


Tuy nhiên, chúng ta vốn không phải là 2. Chúng ta trước giờ, khi đản sinh ở thế giới (vũ trụ) này vốn chỉ là 1, tự phát hào quang, dù cái “chúng ta” lúc này có tuổi thọ “bất tư nghì”, hấp thu năng lượng để duy trì sự tồn tại không cần qua ăn mà hấp thu trực tiếp ánh sáng luôn (Kinh gọi là tự ăn cái hỉ (hào quang) phát ra), chỉ có hỉ, không có khổ, hoá sinh.v.v.v. , dù ở thế giới này lúc sinh về đây khi đó - cấp này vẫn là cấp thế gian nhưng không gọi là cõi nhân giới, Cùng gọi chung là cõi Dục giới.

Nhưng tại sao bây giờ lại có trời dục giới, nhân giới.v..v?


Chính chúng ta, do sống “sướng” lâu quá nên “chán” đời mà tự tưởng ra những “niệm phân biệt” để rồi chúng ta “ăn” và để rồi chính chúng ta cũng phân thành hình nam và nữ và rồi… để thoả mãn những cái “sướng” - chúng ta lại “luyến ái hoà quyện 2 cái khác nhau vào làm 1”… v.v.v cứ thế (Đọc kinh thì cần văn trí tương đối lớn mới hiểu, nhưng khi thấy rõ thì mới biết Đạo Sư Thế Tôn của chúng ra là người “bất tư nghì” ra sao, thật là quá sức tưởng tượng từ hơn 26 thế kỷ qua)


Rồi bây giờ, người Nhật còn sắp mất cả “cảm giác” luyến ái hoà quyện nam nữ nữa rồi.v.v.v



Chúng ta đừng ảo tưởng sức mạnh kiểu: Tôi là thần. Tôi tu xuất thế gian đây. Tu. Tôi giải thoát rồi… - Quá ảo tưởng.


Chúng ta tu, nhưng phải bước đi từng bước 1. Chúng ta muốn giải thoát (xuất thế gian) - chúng ta phải tự biết: Ít nhất về được tới cảnh giới - vị trí lúc đầu chúng ta xuất hiện ở thế này, vì sao? - Vì đó là cảnh giới cao hơn cảnh giới hiện giờ.

Để về được cái trạng thái khi ta đản sinh ở thế giới này, là một quá trình tu tập ở thế rất dài.


Thật buồn cười khi có người: Chưa bao giờ chứng vào cực lạc, an trú cực lạc (tức là sơ thiền viên mãn thâm sâu)… nhưng lại thao thao về tứ thiền với cái gì gì định diệt thọ tưởng, phi tưởng phi phi tưởng.v.v.v



Giống như bài luận của “cổ nhân” phía trước: Nói hết về 7 giác tri rồi sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền.v.v.v nhưng ai đọc kỹ và hiểu thì lại thấy: Luận gì luận 1 hồi dường như cho hết các đề mục cần luận và rồi vẫn nói: Vào sơ thiền thâm sâu vẫn giải thoát, nhị thiền cũng vậy, tứ thiền cũng thế… Hoá ra, 4 thiền như nhau? -Có phải vẽ rắn thêm chân? - Không phải! - Mà bởi vì, người luận ở đây rất khả năng được nghe lại, truyền lại: Sơ thiền viên mãn là giải thoát rồi, mở ra Đạo rồi… nhưng họ cũng không chứng được, không biết làm sao, cấp sơ thiền lại có thể vậy… trong khi họ vẫn có thể “tu” nhị thiền, tam, tứ thiền, phi tưởng tưởng phi.v.v.


Bài luận này, giá trị văn trí lớn nhất ở chỗ: Hé lộ về sơ thiền. Bởi vì nó được viết gần khi Đức Thế Tôn hơn thế kỷ 20,21. Các Thánh Tăng, Chư Tôn Đức và Đệ Tử trực hệ của Đức Thế Tôn vẫn có thể sau nhiều trăm năm “kể” những thứ “thật” dù họ không chứng được.



Chúng ta sẽ cố gắng. Đường do đi mà có. Dù sao cũng 1 kiếp người!
Đầu trang

hathao207
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 570
Tham gia: 00:39, 18/01/14

TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Thực ra, chúng ta rất dễ để có thể “đốn ngộ” trong việc tu tập và thiết lập nên “giới đàn trang nghiêm tâm” hiện hữu - hay quán thành thực 16 quán trong Quán vô lượng thọ Phật.



Chúng ta nhìn thấy một “trần sắc” nào đó là do trần sắc đó đang tự phát sáng hoặc phản ánh chiếu ánh sáng. Cái “ảnh” chúng ta thấy được trần sắc đó tại giây phút hiện tại (gọi là To) được “rơi” trên võng mạc của chúng ta nên chúng ta thấy được trần sắc. Chúng ta tạm ký hiệu chúng ta tại giây phút này là (A) và trần sắc đang quan sát được là (a) (a và A ở rất gần nhau). Ở một nơi cách xa A, nơi mà cũng có thể quan sát thấy (cả a và A), gọi là C. C như một tấm gương có thể phản chiếu ánh sáng.

Bây giờ vị trí A cách vị trí C là 50 năm ánh sáng.

Tại thời điểm To thì A và a đối với C là tương lai vì C không có một thông tin gì về A và a cả.

Như vậy, sau 50 năm, những gì mà A nhìn thấy được về a thì lúc này C cũng thấy được về a, (ở thời điểm To ban đầu) và phản chiếu trở lại (vì C như tấm gương), và C phản chiếu cả a lẫn A (phản chiếu lại hình ảnh tại thời điểm To)

Sau 20 năm A quan sát miệt mài a như vậy thì A (vô thường). Tức là A chết chẳng hạn. Lúc này, giả sử rằng trần sắc a cũng vô thường biến đổi thành a’ - tức là ở vị trí giống nhau.

Chúng ta lúc này có 2 giả thiết ở đây: Hoặc A chết là hết (theo nhiều người không tin nhân quả). Hoặc A chết và luân hồi trở lại thành B (tức thành 1 đối tượng chúng ta khác, tại vị trí B có thể quan sát a’, nhưng B không nhớ gì về A và a’).


+ Trường hợp A chết là hết: Ở trường hợp này, giả dụ rằng, sau 100 năm sau thời điểm To có một người quan sát B’ đến vị trí của A ban đầu quan sát (gọi thời điểm này là T1). Người B’ này sẽ cùng quan sát được a’ đồng thời quan sát được A và a tại thời điểm To do hình ảnh C truyền tới. Sự khác nhau ở đây chỉ là B’ thấy a và A tại thời điểm To có vẻ “ở xa” hơn so với A thấy a ở thời điểm To đó, tức là B’ thấy a ở xa còn a’ ở gần hơn. Còn lại B’ vẫn thấy sự kiện a lẫn cả a’ như có vẻ cùng đang diễn ra tại thời điểm T1.

+ Trường hợp A luân hồi và thành B thì cũng như B’ phía trên. Chỉ khác nhau ở chỗ B quan sát chính mình ở “kiếp trước” mà “không hề biết”.


Và vũ trụ này là “vũ trụ hấp dẫn” nên ánh sáng theo đường cong, kể cả không cần có C thì “1 ngày nào đó, ánh sáng vẫn quay trở lại vị trí ban đầu”.

Cái chúng ta rút ra được từ đây rất nhiều, một số thứ:

1/ Hoá ra, tương lai, quá khứ, hiện tại: Đều là “ảnh” cả
2/ Ánh sáng nhìn thấy chỉ là 1 đoạn nhỏ xíu gọi là “khả kiến” đối với chúng ta. Thứ chúng ta hàng ngày ở trong đó (phát ra, thu vào, gặp qua) nhiều vô kể mà mắt ta “không biết”. Như vậy, cái chúng ta dính mắc - không phải chỉ là “cái nhìn của mắt” như vẫn thường nghĩ.

3/ Vậy đâu là thực?

4/ Bây giờ, nếu A cũng là 1 lượng tử, hoặc 1 nhóm lượng tử. Sau khi A tiếp nhận thông tin về a ở thời điểm To rồi A lại biến đổi thành B ở thời điểm T1 để rồi lại tiếp nhận a,a’,A và… cứ như thế mãi thì cái “lượng tử, nhóm lượng tử A” ban đầu này sẽ ra sao nhỉ?


5/ Chắc chắn khoa học hiện đại chưa đi đến tận cùng nhưng với những thứ khoa học đã biết, với vài điều trên, hơn 2600 năm trước đã có người chỉ ra. Chỉ là dùng từ ngữ ghi lại khác nhau thôi. Và Người này còn chỉ ra đủ mọi thứ “bất tư nghì” khác.






Từ “dính mắc” ý… nó ở ngôn ngữ hiện đại và khoa học, đang dùng chính là: Vướng mắc/rắc rối lượng tử.

Còn lượng tử là gì, khoa học khả năng còn chưa rõ hoàn toàn bản chất…




Chúng ta không nên vô minh - tức là chấp kiến, chấp pháp. Thứ vô minh chấp ở đây chính là: Đóng cọc cái ở trong đầu (pháp) là ”phải như vậy”.

Hãy quán cái chấp ở trong đầu. Bên ngoài thực ra chẳng có gì để quán để tu để đạt cả. .
Đầu trang

Trả lời bài viết