PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Tiểu luận 307:
Tham do duyên khởi nào?
- Tham do duyên khởi thọ lạc. Vì có thọ lạc nên duyên khởi ra tham.
Sân do duyên khởi nào?
- Sân do duyên khởi thọ khổ. Vì có thọ khổ nên duyên khởi ra sân.
Si do duyên khởi nào?
- Si do duyên khởi thọ không lạc không khổ. Vì có thọ không khổ không lạc nên duyên khởi ra si.
Thiểu dục tri túc là duyên khởi cho quá trình đoạn diệt tham sân si.
Một thế giới vô thường luôn trải qua 4 giai đoạn bao gồm: Sinh thành hoại diệt hay sinh lão bệnh tử hay sinh trụ dị diệt…v..v - Tức là giai đoạn khởi sinh (do các nhân do các duyên khởi lên đã hợp hội đủ). Nó sẽ sinh, hay sẽ hiện diện, (khi điều này được phản ánh vào ở trong đầu gọi là pháp). Ngôn ngữ hiện đại là cụm từ (sự vật, sự việc, hiện tượng, thế giới). Thành là quá trình tồn tại ổn định, thường ít biến đổi về hình thức. Hoại (bệnh, dị) là quá trình tồn tại có biến đổi về bên ngoài, mất đi những sự ổn định cả bên trong lẫn bên ngoài vốn có ở trong giai đoạn “thành”. Diệt là giai đoạn phản ánh quá trình biến đổi về bên trong cho đến khi hoàn toàn “biến chất” - theo ngôn ngữ hiện đại.
Thiểu dục tri túc sẽ thúc đẩy quá trình hoại diệt của pháp. Đây là duyên khởi cho quá trình hoại diệt pháp. Pháp là thế giới vô thường được phản ánh ở trong đầu - theo ngôn ngữ hiện đại - nó là thứ ở trong đầu, cái gọi là thế giới chủ quan. - Cái bàn là cái bàn, là thế giới khách quan. Khi cái bàn được phản ánh trong đầu chúng sinh thì cái ảnh đó được gọi là thế giới chủ quan của chúng sinh - xưa Đức Thế Tôn gọi là Pháp.
Chúng ta đi đến đây đều biết rõ: Thứ chúng ta - đối tượng chúng ta tác động là pháp. Có nghĩa là gì? - Có nghĩa là chúng ta tu pháp, tác động pháp, biến đổi pháp để rồi pháp là pháp không nên thấy được tâm chân như từ đây giải thoát khỏi thế giới. Không phải chúng ta tu là tác động vào thế giới khách quan, biến thế giới khách quan bên ngoài về không, để từ đây đạt tâm chân như giải thoát. - Dù chúng ta được biết, thế giới nói chung và thế giới khách quan nói riêng, bản chất rốt ráo cuối cùng là “không vô biên xứ”.
Như vậy, thiểu dục tri túc là pháp duyên khởi cho giai đoạn hoại, diệt được sớm hình thành.
Chúng ta đang hưởng dục lạc nhưng chúng ta luôn biết đủ (tri túc). Chúng ta luôn cho rằng sự đang hưởng này ( sự thọ hưởng ở giây phút hiện tại này) là đủ: Chúng ta sẽ không tham, sẽ chế ngự được tham, sẽ dễ dàng an trú vào sự an lạc và khinh an của (ly dục ly ác pháp).
Khi chúng ta thiểu dục - tức là sự mong cầu ít - bao gồm cả sự mong cầu các thọ lạc đang thọ dụng, đang hưởng - không mong cầu mong muốn kéo dài mãi (thường hằng) sự thọ lạc này -như vậy, chúng ta thiểu dục. Khi chúng ta thiểu dục chúng ta chế ngự được quả thọ khổ. Thọ khổ sẽ bị khởi duyên đoạn diệt.
Ví dụ: Khi chúng ta đang thọ dụng người vợ, người chồng với cái gọi là tình cảm, tình yêu, hạnh phúc, lạc, dù chỉ là sự lạc của 1 cặp vợ chồng hạnh phúc, không cần vật chất, không đề cao tình dục nhưng vì sự thọ hưởng lạc này mà chúng ta không muốn mất đi cảm giác hạnh phúc. Chúng ta muốn nó kéo dài mãi cả cuộc đời chúng ta. Đây là dục, là tham dục. Khi chúng ta không đạt được (và chắc chắn là không đạt được rồi vì cái gì cũng vô thường) - một ngày người vợ, người chồng mất đi (họ ly hôn, họ thay đổi tình cảm, họ già chết) - lúc này chúng ta sẽ đau khổ, đau buồn khôn nguôi - chúng ta đã thấy thọ khổ là đây.
Giả sử chúng ta không có người vợ, người chồng để thọ dụng để hưởng cái lạc như vừa kể trên nhưng chúng ta lại nhìn (nghe, 6 căn) thấy những người khác có những sự thọ hưởng này, trong khi chúng ta cũng muốn như vậy mà không được. Đây là dục, là tham dục. Khi chúng ta muốn mà không được, thấy người khác được, chúng ta sẽ duyên khởi đố kị, ghen ghét, than thở, chán nản, buồn và khổ. Vậy là chúng ta thọ khổ là đây.
Khi chúng ta thọ khổ, chúng ta sẽ than (dù than bằng lời cho người khác nghe hay than bằng ý cho chính bản thân nghe) - sự than thở này là biểu hiện của sân, hay biểu hiện của thọ khổ.
Nếu chúng ta ít mong cầu, không mong cầu gọi là thiểu dục. Dù chúng ta đang hưởng lạc cũng không mong cầu gì về nó, về những cái lạc sẽ kéo dài mãi (như thọ vợ, thọ chồng, thọ con, thọ cha mẹ) và mọi cái lạc khác về vật chất hay tinh tình cảm khác - dù có đang thọ lạc nhưng chúng ta cũng không mong cầu thọ mãi cái lạc này. Thấu hiểu lý vô thường của vạn vật thế giới. Chúng ta thiểu dục.
Khi chúng ta thiểu dục như vậy, nếu những cái thọ lạc mà chúng ta đang thọ có vô thường (mất đi) chúng ta cũng sẽ không đau khổ (thọ khổ) vì chúng ta hiểu lẽ vô thường và không có truy cầu điều gì mãi mãi - kể cả là tình cảm, tình yêu, máu mủ hay cái thân, các xác, cái hơi thở.
Khi chúng ta thiểu dục - chúng ta sẽ không truy cầu những cái lạc mà chúng ta thấy ở người khác đang thọ dụng. Vì lẽ đó, chúng ta sẽ không khởi lên than thở, than vãn, ghen ghét, đố kỵ từ ở trong ý lần ngoài lời lẫn thân hành. Như vậy, chúng ta chế ngự được sân.
Khi chúng ta trầm cảm, chán đời, chúng ta chẳng muốn một cái gì, đến cái đời chúng ta cũng không muốn. Không có cái gì làm chúng ta cảm thấy hứng thú, thấy cần phải … (tức là hành dục). Chúng ta chẳng phản ứng 1 chút gì để hành dục, dù chúng ta có thể có dục hoặc không. Chúng ta rơi vào trạng thái tâm thần (theo ngôn ngữ hiện đại) còn xưa được gọi là “một cảm thọ không khổ không lạc”. - Chúng ta không có cảm giác khổ, không có cảm giác lạc, chúng ta “chán” hết - Đây chính là khởi duyên của hôn trầm thuỵ miên - vô minh hay si mê.
Khi ở trạng thái này, chúng ta không có bất kỳ sự tỉnh thức nào, không phân biệt được thế giới do (không muốn phân biệt, không cần phân biệt - lý luận của người ở trạng thái này), không phân biệt được thế giới nên cũng không phân biệt được pháp vì không phân biệt được pháp nên không phân biệt được thiện ác, đúng sai, nên hay không nên, phải thời hay không phải thời. Đây là trạng thái “tẩu hoả nhập ma” còn thế giới hiện đại gọi chung là điên (hay bệnh tâm thần). - Ở trạng thái này, chúng ta vô minh, tức là si mê, mê mờ.
…
Tham do duyên khởi nào?
- Tham do duyên khởi thọ lạc. Vì có thọ lạc nên duyên khởi ra tham.
Sân do duyên khởi nào?
- Sân do duyên khởi thọ khổ. Vì có thọ khổ nên duyên khởi ra sân.
Si do duyên khởi nào?
- Si do duyên khởi thọ không lạc không khổ. Vì có thọ không khổ không lạc nên duyên khởi ra si.
Thiểu dục tri túc là duyên khởi cho quá trình đoạn diệt tham sân si.
Một thế giới vô thường luôn trải qua 4 giai đoạn bao gồm: Sinh thành hoại diệt hay sinh lão bệnh tử hay sinh trụ dị diệt…v..v - Tức là giai đoạn khởi sinh (do các nhân do các duyên khởi lên đã hợp hội đủ). Nó sẽ sinh, hay sẽ hiện diện, (khi điều này được phản ánh vào ở trong đầu gọi là pháp). Ngôn ngữ hiện đại là cụm từ (sự vật, sự việc, hiện tượng, thế giới). Thành là quá trình tồn tại ổn định, thường ít biến đổi về hình thức. Hoại (bệnh, dị) là quá trình tồn tại có biến đổi về bên ngoài, mất đi những sự ổn định cả bên trong lẫn bên ngoài vốn có ở trong giai đoạn “thành”. Diệt là giai đoạn phản ánh quá trình biến đổi về bên trong cho đến khi hoàn toàn “biến chất” - theo ngôn ngữ hiện đại.
Thiểu dục tri túc sẽ thúc đẩy quá trình hoại diệt của pháp. Đây là duyên khởi cho quá trình hoại diệt pháp. Pháp là thế giới vô thường được phản ánh ở trong đầu - theo ngôn ngữ hiện đại - nó là thứ ở trong đầu, cái gọi là thế giới chủ quan. - Cái bàn là cái bàn, là thế giới khách quan. Khi cái bàn được phản ánh trong đầu chúng sinh thì cái ảnh đó được gọi là thế giới chủ quan của chúng sinh - xưa Đức Thế Tôn gọi là Pháp.
Chúng ta đi đến đây đều biết rõ: Thứ chúng ta - đối tượng chúng ta tác động là pháp. Có nghĩa là gì? - Có nghĩa là chúng ta tu pháp, tác động pháp, biến đổi pháp để rồi pháp là pháp không nên thấy được tâm chân như từ đây giải thoát khỏi thế giới. Không phải chúng ta tu là tác động vào thế giới khách quan, biến thế giới khách quan bên ngoài về không, để từ đây đạt tâm chân như giải thoát. - Dù chúng ta được biết, thế giới nói chung và thế giới khách quan nói riêng, bản chất rốt ráo cuối cùng là “không vô biên xứ”.
Như vậy, thiểu dục tri túc là pháp duyên khởi cho giai đoạn hoại, diệt được sớm hình thành.
Chúng ta đang hưởng dục lạc nhưng chúng ta luôn biết đủ (tri túc). Chúng ta luôn cho rằng sự đang hưởng này ( sự thọ hưởng ở giây phút hiện tại này) là đủ: Chúng ta sẽ không tham, sẽ chế ngự được tham, sẽ dễ dàng an trú vào sự an lạc và khinh an của (ly dục ly ác pháp).
Khi chúng ta thiểu dục - tức là sự mong cầu ít - bao gồm cả sự mong cầu các thọ lạc đang thọ dụng, đang hưởng - không mong cầu mong muốn kéo dài mãi (thường hằng) sự thọ lạc này -như vậy, chúng ta thiểu dục. Khi chúng ta thiểu dục chúng ta chế ngự được quả thọ khổ. Thọ khổ sẽ bị khởi duyên đoạn diệt.
Ví dụ: Khi chúng ta đang thọ dụng người vợ, người chồng với cái gọi là tình cảm, tình yêu, hạnh phúc, lạc, dù chỉ là sự lạc của 1 cặp vợ chồng hạnh phúc, không cần vật chất, không đề cao tình dục nhưng vì sự thọ hưởng lạc này mà chúng ta không muốn mất đi cảm giác hạnh phúc. Chúng ta muốn nó kéo dài mãi cả cuộc đời chúng ta. Đây là dục, là tham dục. Khi chúng ta không đạt được (và chắc chắn là không đạt được rồi vì cái gì cũng vô thường) - một ngày người vợ, người chồng mất đi (họ ly hôn, họ thay đổi tình cảm, họ già chết) - lúc này chúng ta sẽ đau khổ, đau buồn khôn nguôi - chúng ta đã thấy thọ khổ là đây.
Giả sử chúng ta không có người vợ, người chồng để thọ dụng để hưởng cái lạc như vừa kể trên nhưng chúng ta lại nhìn (nghe, 6 căn) thấy những người khác có những sự thọ hưởng này, trong khi chúng ta cũng muốn như vậy mà không được. Đây là dục, là tham dục. Khi chúng ta muốn mà không được, thấy người khác được, chúng ta sẽ duyên khởi đố kị, ghen ghét, than thở, chán nản, buồn và khổ. Vậy là chúng ta thọ khổ là đây.
Khi chúng ta thọ khổ, chúng ta sẽ than (dù than bằng lời cho người khác nghe hay than bằng ý cho chính bản thân nghe) - sự than thở này là biểu hiện của sân, hay biểu hiện của thọ khổ.
Nếu chúng ta ít mong cầu, không mong cầu gọi là thiểu dục. Dù chúng ta đang hưởng lạc cũng không mong cầu gì về nó, về những cái lạc sẽ kéo dài mãi (như thọ vợ, thọ chồng, thọ con, thọ cha mẹ) và mọi cái lạc khác về vật chất hay tinh tình cảm khác - dù có đang thọ lạc nhưng chúng ta cũng không mong cầu thọ mãi cái lạc này. Thấu hiểu lý vô thường của vạn vật thế giới. Chúng ta thiểu dục.
Khi chúng ta thiểu dục như vậy, nếu những cái thọ lạc mà chúng ta đang thọ có vô thường (mất đi) chúng ta cũng sẽ không đau khổ (thọ khổ) vì chúng ta hiểu lẽ vô thường và không có truy cầu điều gì mãi mãi - kể cả là tình cảm, tình yêu, máu mủ hay cái thân, các xác, cái hơi thở.
Khi chúng ta thiểu dục - chúng ta sẽ không truy cầu những cái lạc mà chúng ta thấy ở người khác đang thọ dụng. Vì lẽ đó, chúng ta sẽ không khởi lên than thở, than vãn, ghen ghét, đố kỵ từ ở trong ý lần ngoài lời lẫn thân hành. Như vậy, chúng ta chế ngự được sân.
Khi chúng ta trầm cảm, chán đời, chúng ta chẳng muốn một cái gì, đến cái đời chúng ta cũng không muốn. Không có cái gì làm chúng ta cảm thấy hứng thú, thấy cần phải … (tức là hành dục). Chúng ta chẳng phản ứng 1 chút gì để hành dục, dù chúng ta có thể có dục hoặc không. Chúng ta rơi vào trạng thái tâm thần (theo ngôn ngữ hiện đại) còn xưa được gọi là “một cảm thọ không khổ không lạc”. - Chúng ta không có cảm giác khổ, không có cảm giác lạc, chúng ta “chán” hết - Đây chính là khởi duyên của hôn trầm thuỵ miên - vô minh hay si mê.
Khi ở trạng thái này, chúng ta không có bất kỳ sự tỉnh thức nào, không phân biệt được thế giới do (không muốn phân biệt, không cần phân biệt - lý luận của người ở trạng thái này), không phân biệt được thế giới nên cũng không phân biệt được pháp vì không phân biệt được pháp nên không phân biệt được thiện ác, đúng sai, nên hay không nên, phải thời hay không phải thời. Đây là trạng thái “tẩu hoả nhập ma” còn thế giới hiện đại gọi chung là điên (hay bệnh tâm thần). - Ở trạng thái này, chúng ta vô minh, tức là si mê, mê mờ.
…
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Với một trong tứ đại tôn thần - tứ như ý túc - chỉ cần một dục như ý túc - dục giải thoát. Chúng ta sẽ tự phân biệt được về trạng thái tâm thần của thọ không khổ không lạc - chán đời với trạng thái dục như ý túc - chỉ có 1 dục giải thoát. Chúng ta có dục này nên có lạc. Dục này là dục giải thoát, gọi là dục mà lại không phải là dục. Vì chúng ta có dục này nên chúng ta sẽ hành (bằng thân khẩu ý) - hay còn gọi là tu hành - chúng ta sẽ hành để đạt cái dục này, vì lẽ đó chúng ta có lạc (khi đạt được những kết quả đầu tiên - ví dụ vào sơ thiền). Khi có lạc này, chúng ta hưởng lạc gọi là lạc mà lại không phải là lạc (của dục khác). - Nên dục mà không phải dục, lạc mà không phải lạc - dù cùng được Đức Thế Tôn gọi bằng từ ngữ đồng âm (dục và lạc).
Biểu hiện của lạc (của dục như ý túc) rất giống với trạng thái “thọ không khổ không lạc” nhưng khác nhau hoàn toàn về bản chất.
Một thứ là do chán đời mà thọ không khổ không lạc. Một thứ là do chán đời mà tu dục như ý túc nên thọ lạc (lạc giải thoát, lạc của dục như ý túc như các thiền khi vào đó an trú). - Biểu hiện đều là chán đời nhưng bản chất khác nhau hoàn toàn.
Chúng thế với người đạt dục như ý túc thì họ minh - tức là biết rõ mọi thứ, phân biệt được mọi thứ và biết rõ phải thời, không phải thời, nên hay không nên (hành)…. Nhưng họ không dính mắc, vướng bận, quan tâm bất cứ điều gì dù đó là thiện ác chính tà hay mẹ cha con cái.v.v - họ không quan tâm dính mắc đủ các sự đó nhưng họ lại thấy rõ, biết rõ cái gì nên hay không nên, phải thời hay không phải thời, thấy khi nào cần hành hay không. Ngược lại, người bệnh tâm thần cũng có những biểu hiện như trên nhưng hoàn toàn ở trong mê mờ và hoàn toàn không có tỉnh thức, không phân biệt được gì… dù có khi họ rất thông minh, giỏi, tri thức…. - nhưng họ bị ”bệnh tâm thần” - không phải bản chất của “không dính mắc đời” và tâm chân như từ bi.
- Chúng ta phải thực sự tỉnh thức về thọ không khổ không lạc bởi vì nó chính là 1 ngã rẽ của người tu Đạo. “Tẩu hoả nhập ma” nên lầm mê chỗ này.
Muốn không bị lầm mê, chỉ có thứ Đức Thế Tôn đã nói: Phải có ánh đèn, đuốc, tia minh tâm. Ở đây, chúng ta đã rõ, tia từ bi.
Làm gì có chuyện, chúng ta tu (dù biết rất rõ chỉ ở được giai đoạn cư sĩ - tại gia) - không thể vào cửa Đạo. Nhưng làm gì có chuyện tu Đạo Đức Thế Tôn mà lại thấy khổ hơn hay thấy người khác (liên quan) khổ hơn vì mình..v.v. - Đây là lầm.
Chúng ta dứt, chúng ta không dính mắc, chúng ta không truy cầu, chúng ta buông bỏ nhưng không thể nào thọ khổ hay làm người thọ khổ vì những hành này (hành tu) của chúng ta. - Cần phải nhớ. - Người không tu phước lạc ở đời còn có thể lớn như chúng ta thấy thì khi chúng ta tu rốt ráo, một tâm hành dục như ý túc - không thể nào mà lại không thấy lạc. Lại chỉ thấy bản thân tràn ngập: Toàn Đạo lý, rao giảng Đạo lý, nhìn người này ngứa mắt vì họ không đúng Đạo, nhìn người kia khinh rẻ vì họ không đúng Đạo, nhìn đâu cũng thấy đám người đáng ghét vì không đúng Đạo… rồi lại than hoặc tự than trong tâm ý: Sao mà giỏi về Đạo thế rồi… mà lại vẫn không thấy hết phiền não. Nay bực bội chuyện này, mai suy nghĩ tham cầu điều kia , rồi lại kiếm nơi xả - cho rằng đây là xả tâm, giải trí… và khoe mẽ văn trí..v.v. - Tất cả những thứ này là biểu hiện của khổ, và khi mà không tìm được cái lạc của dục như ý túc - những người này sớm muộn rơi vào cái gọi là stress - bệnh tâm thần - và nếu là người tu Đạo nữa thì lại càng nguy hiểm - rơi vào si mê, mê mờ, hôn trầm thuỵ miên sâu nặng. - Đây là do không có tia minh tâm nên cứ tu thì càng hãm vô minh.
Biểu hiện của lạc (của dục như ý túc) rất giống với trạng thái “thọ không khổ không lạc” nhưng khác nhau hoàn toàn về bản chất.
Một thứ là do chán đời mà thọ không khổ không lạc. Một thứ là do chán đời mà tu dục như ý túc nên thọ lạc (lạc giải thoát, lạc của dục như ý túc như các thiền khi vào đó an trú). - Biểu hiện đều là chán đời nhưng bản chất khác nhau hoàn toàn.
Chúng thế với người đạt dục như ý túc thì họ minh - tức là biết rõ mọi thứ, phân biệt được mọi thứ và biết rõ phải thời, không phải thời, nên hay không nên (hành)…. Nhưng họ không dính mắc, vướng bận, quan tâm bất cứ điều gì dù đó là thiện ác chính tà hay mẹ cha con cái.v.v - họ không quan tâm dính mắc đủ các sự đó nhưng họ lại thấy rõ, biết rõ cái gì nên hay không nên, phải thời hay không phải thời, thấy khi nào cần hành hay không. Ngược lại, người bệnh tâm thần cũng có những biểu hiện như trên nhưng hoàn toàn ở trong mê mờ và hoàn toàn không có tỉnh thức, không phân biệt được gì… dù có khi họ rất thông minh, giỏi, tri thức…. - nhưng họ bị ”bệnh tâm thần” - không phải bản chất của “không dính mắc đời” và tâm chân như từ bi.
- Chúng ta phải thực sự tỉnh thức về thọ không khổ không lạc bởi vì nó chính là 1 ngã rẽ của người tu Đạo. “Tẩu hoả nhập ma” nên lầm mê chỗ này.
Muốn không bị lầm mê, chỉ có thứ Đức Thế Tôn đã nói: Phải có ánh đèn, đuốc, tia minh tâm. Ở đây, chúng ta đã rõ, tia từ bi.
Làm gì có chuyện, chúng ta tu (dù biết rất rõ chỉ ở được giai đoạn cư sĩ - tại gia) - không thể vào cửa Đạo. Nhưng làm gì có chuyện tu Đạo Đức Thế Tôn mà lại thấy khổ hơn hay thấy người khác (liên quan) khổ hơn vì mình..v.v. - Đây là lầm.
Chúng ta dứt, chúng ta không dính mắc, chúng ta không truy cầu, chúng ta buông bỏ nhưng không thể nào thọ khổ hay làm người thọ khổ vì những hành này (hành tu) của chúng ta. - Cần phải nhớ. - Người không tu phước lạc ở đời còn có thể lớn như chúng ta thấy thì khi chúng ta tu rốt ráo, một tâm hành dục như ý túc - không thể nào mà lại không thấy lạc. Lại chỉ thấy bản thân tràn ngập: Toàn Đạo lý, rao giảng Đạo lý, nhìn người này ngứa mắt vì họ không đúng Đạo, nhìn người kia khinh rẻ vì họ không đúng Đạo, nhìn đâu cũng thấy đám người đáng ghét vì không đúng Đạo… rồi lại than hoặc tự than trong tâm ý: Sao mà giỏi về Đạo thế rồi… mà lại vẫn không thấy hết phiền não. Nay bực bội chuyện này, mai suy nghĩ tham cầu điều kia , rồi lại kiếm nơi xả - cho rằng đây là xả tâm, giải trí… và khoe mẽ văn trí..v.v. - Tất cả những thứ này là biểu hiện của khổ, và khi mà không tìm được cái lạc của dục như ý túc - những người này sớm muộn rơi vào cái gọi là stress - bệnh tâm thần - và nếu là người tu Đạo nữa thì lại càng nguy hiểm - rơi vào si mê, mê mờ, hôn trầm thuỵ miên sâu nặng. - Đây là do không có tia minh tâm nên cứ tu thì càng hãm vô minh.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Tiểu luận 317:
Tình yêu có phải là tia từ bi?
- Không.
Thương xót có phải là tia từ bi?
- Không.
Vui vẻ, hạnh phúc có phải tia từ bi?
- Không.
Ai, những chúng sinh nào, người nào thì có tia từ bi?
- Ai cũng có, chúng sinh hữu tình nào cũng có tia từ bi. Tia từ bi là tự tánh.
Khi nào thì một chúng sinh hữu tình thể hiện được tia từ bi vốn có?
- Là giúp, cứu một người, một chúng sinh khi chúng sinh, người đó đang cầu sự giúp đỡ, hành động này dựa trên tình yêu và sự thương sót được thể hiện ra hành động nhưng không cầu mong bất cứ kết quả nào từ hành động đang làm. Vô cầu mong kết quả cho cả mình (người hành) lẫn người cầu (người thọ hành). - Chỉ đơn giản là hành vì tự tâm thấy cần hành, nên hành, phải thời hành… do vậy, đây chính là khi tia từ bi thể hiện ra.
Ví dụ: Một người bị tai nạn trên đường. Chúng ta đi đến và gặp thời người đấy đang kêu cầu sự giúp đỡ họ đưa tới bệnh viện chẳng hạn. - Chúng ta làm, chúng ta hành tới nơi tới chốn và thoả mãn hết (trong điều kiện, khả năng của người giúp) những lời kêu cầu muốn của người bị nạn.
A/ Nếu là người không thân quen, xa lạ thì sau khi hành như này: Một trạng thái (cảm thọ) lạc nổi lên trong chúng ta. Đây là trạng thái ly dục, ly ác pháp, trạng thái lạc của dục như ý túc (dù kể cả người thực hành không tu Đạo), nhưng cái lạc này vẫn hiện lên, người hành cảm thọ được. Một sự lạc, khó diễn tả, nếu nó thời thời được người hành an trú trong đây - người giải thoát. Vì đây là TÂM TỪ BI MINH CHIẾU
B/ Cùng là tất cả những sự trên, nhưng đây là người ruột thịt (cha mẹ, con). - Một trạng thái lo, khổ hiện lên.v.v.v - Do đâu mà không phải tia từ bi minh chiếu, dù khả năng ở trường hợp này, người hành còn hành nhiều hơn, thương yêu hơn, chu đáo hơn, cẩn thân hơn… nhưng vẫn đau khổ, vẫn lo lắng và vẫn ở vô minh, không thấy tia từ bi minh chiếu. - Bởi vì hành mà cầu kết quả. Dù không cầu cho bản thân nhưng lại cầu cho người thọ nhận.
Ở trường hợp A. Tia từ bi minh chiếu bởi vì cái hành này là hành vô cầu, vô mong cho cả bản thân lẫn người thọ nhận hành. Nhưng ở trường hợp B - tưởng rằng, lòng từ bi nó phải lớn hơn, tốt hơn… nhưng không phải vì nó mang trong đó sự cầu của hành hay sự dục. Trường hợp B không phải là từ bi.
A và B mang đến hai thọ khác nhau, một thứ mang đến lạc giải thoát cho cả 2 (người hành, người thọ nhận hành) còn một thứ mang đến khổ đau. Về kết quả của sự cuối cùng, cả A Và B đều chung kết quả của ví dụ: Hoặc người bị nạn tai qua nạn khỏi hoặc chết hoặc abc.v.v. xyz. Nhưng kết quả chỉ là 1 dù là trường hợp A hay B thì kết quả cũng chỉ có 1 và dù là kết quả nào (vì nó là trần sắc) thì A vẫn là A và B vẫn là B. A vẫn thọ lạc, B vẫn thọ khổ.
Tình yêu, tình ái, làm người ta khổ.
Từ bi làm người ta hạnh lạc.
Chúng ta bị điên đảo vì ở thế giới điên đảo và luôn cho rằng B là từ bi là thứ đúng… nhưng sao khổ?
Tình yêu có phải là tia từ bi?
- Không.
Thương xót có phải là tia từ bi?
- Không.
Vui vẻ, hạnh phúc có phải tia từ bi?
- Không.
Ai, những chúng sinh nào, người nào thì có tia từ bi?
- Ai cũng có, chúng sinh hữu tình nào cũng có tia từ bi. Tia từ bi là tự tánh.
Khi nào thì một chúng sinh hữu tình thể hiện được tia từ bi vốn có?
- Là giúp, cứu một người, một chúng sinh khi chúng sinh, người đó đang cầu sự giúp đỡ, hành động này dựa trên tình yêu và sự thương sót được thể hiện ra hành động nhưng không cầu mong bất cứ kết quả nào từ hành động đang làm. Vô cầu mong kết quả cho cả mình (người hành) lẫn người cầu (người thọ hành). - Chỉ đơn giản là hành vì tự tâm thấy cần hành, nên hành, phải thời hành… do vậy, đây chính là khi tia từ bi thể hiện ra.
Ví dụ: Một người bị tai nạn trên đường. Chúng ta đi đến và gặp thời người đấy đang kêu cầu sự giúp đỡ họ đưa tới bệnh viện chẳng hạn. - Chúng ta làm, chúng ta hành tới nơi tới chốn và thoả mãn hết (trong điều kiện, khả năng của người giúp) những lời kêu cầu muốn của người bị nạn.
A/ Nếu là người không thân quen, xa lạ thì sau khi hành như này: Một trạng thái (cảm thọ) lạc nổi lên trong chúng ta. Đây là trạng thái ly dục, ly ác pháp, trạng thái lạc của dục như ý túc (dù kể cả người thực hành không tu Đạo), nhưng cái lạc này vẫn hiện lên, người hành cảm thọ được. Một sự lạc, khó diễn tả, nếu nó thời thời được người hành an trú trong đây - người giải thoát. Vì đây là TÂM TỪ BI MINH CHIẾU
B/ Cùng là tất cả những sự trên, nhưng đây là người ruột thịt (cha mẹ, con). - Một trạng thái lo, khổ hiện lên.v.v.v - Do đâu mà không phải tia từ bi minh chiếu, dù khả năng ở trường hợp này, người hành còn hành nhiều hơn, thương yêu hơn, chu đáo hơn, cẩn thân hơn… nhưng vẫn đau khổ, vẫn lo lắng và vẫn ở vô minh, không thấy tia từ bi minh chiếu. - Bởi vì hành mà cầu kết quả. Dù không cầu cho bản thân nhưng lại cầu cho người thọ nhận.
Ở trường hợp A. Tia từ bi minh chiếu bởi vì cái hành này là hành vô cầu, vô mong cho cả bản thân lẫn người thọ nhận hành. Nhưng ở trường hợp B - tưởng rằng, lòng từ bi nó phải lớn hơn, tốt hơn… nhưng không phải vì nó mang trong đó sự cầu của hành hay sự dục. Trường hợp B không phải là từ bi.
A và B mang đến hai thọ khác nhau, một thứ mang đến lạc giải thoát cho cả 2 (người hành, người thọ nhận hành) còn một thứ mang đến khổ đau. Về kết quả của sự cuối cùng, cả A Và B đều chung kết quả của ví dụ: Hoặc người bị nạn tai qua nạn khỏi hoặc chết hoặc abc.v.v. xyz. Nhưng kết quả chỉ là 1 dù là trường hợp A hay B thì kết quả cũng chỉ có 1 và dù là kết quả nào (vì nó là trần sắc) thì A vẫn là A và B vẫn là B. A vẫn thọ lạc, B vẫn thọ khổ.
Tình yêu, tình ái, làm người ta khổ.
Từ bi làm người ta hạnh lạc.
Chúng ta bị điên đảo vì ở thế giới điên đảo và luôn cho rằng B là từ bi là thứ đúng… nhưng sao khổ?
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Cùng là ví dụ trên:
C/ Với người lạ: Chúng ta ban đầu thực hành rất vô tư nhưng sau đó trong tâm lại duyên khởi pháp: Muốn được sự báo đáp nên không cắt duyên mà giúp xong rồi lại đợi, lại liên lạc, lại chờ người đó hoặc người nhà người đó báo đáp, hoặc là lời nói hoặc là vật chất.v.v. - Chúng ta rơi vào tham cầu. Khi điều này không được thoả mãn, chúng ta sẽ không thể thấy cảm giác thọ lạc giải thoát của tia từ bi mà chỉ thấy cảm giác thọ khổ (do sân hận, do dính mắc, do bực bội).v.v..
D/ Với người thân thịt: Do là ruôt thịt nên vốn dĩ bản thân nhiều chúng ta đã không có cầu mong lại gì cho chúng ta như trường hợp C. Chúng ta chỉ cầu mong cho người thọ nhận - nhưng lẽ này chúng ta lại thọ khổ như B. Khi chúng ta ở trạng thái như B mà vượt ra khỏi như mong cầu cho người thọ nhận. Chúng ta lại thấy cảm giác thọ an lạc. Vì lúc này, chúng ta đã nhận ra sở cầu cũng không được (bác sĩ đã nói rất rõ) và bản thân người hành đã nhận thức thấu đáo. Lúc này lại trở về sự an lạc… không vì cái tình ái dục lạc đời mà đau khổ. Dù người thọ hành có khi sắp chết.
Như vậy, chúng ta thấy, chúng ta thọ khổ do con cái, chồng vợ, người thân, người quen, người lạ..v.v. - Có phải là vô minh?
Trong khi cũng vẫn những sự đó, ta hoàn toàn có thể thọ lạc, lại là an lạc, không những thế còn toả sáng, làm cho nhiều người xung quanh trong vòng ánh sáng đó cùng được an lạc.
Sự khác nhau ở chỗ: Thế giới là vô thường. Nó phản ánh vào đầu mỗi chúng ta gọi là pháp. Cái chúng ta tu không phải để thay đổi thế giới. Cái chúng ta tu là để thay đổi pháp trong đầu chúng ta.
Chỉ là 1 sự kiện (theo đúng quy luật), không hề có sự sai khác nhưng pháp ở trong đầu là A, B,C hay D là do chính chúng ta lựa chọn..
Nếu chúng ta chấp sự, chấp pháp cho rằng: Phải thế này, phải thế kia, sự này phải thế này, sự kia phải thế kia. Người lạ thì phải thế này, hay người lạ thì mới cảm thấy thế được, còn người thân sao thế được.v.v.v - Đây là chúng ta phân biệt trong vô minh mà không biết rằng tia minh - tia từ bi thực ra: Vẫn luôn tồn tại, ai cũng có.
Ví dụ 1 sự như vậy, và sự nào cũng như thế. Không khác đâu. Từ việc dạy con, nuôi con, cầu mong con.v.v.v đến mọi sự đời…v.v. - Đều vậy.
C/ Với người lạ: Chúng ta ban đầu thực hành rất vô tư nhưng sau đó trong tâm lại duyên khởi pháp: Muốn được sự báo đáp nên không cắt duyên mà giúp xong rồi lại đợi, lại liên lạc, lại chờ người đó hoặc người nhà người đó báo đáp, hoặc là lời nói hoặc là vật chất.v.v. - Chúng ta rơi vào tham cầu. Khi điều này không được thoả mãn, chúng ta sẽ không thể thấy cảm giác thọ lạc giải thoát của tia từ bi mà chỉ thấy cảm giác thọ khổ (do sân hận, do dính mắc, do bực bội).v.v..
D/ Với người thân thịt: Do là ruôt thịt nên vốn dĩ bản thân nhiều chúng ta đã không có cầu mong lại gì cho chúng ta như trường hợp C. Chúng ta chỉ cầu mong cho người thọ nhận - nhưng lẽ này chúng ta lại thọ khổ như B. Khi chúng ta ở trạng thái như B mà vượt ra khỏi như mong cầu cho người thọ nhận. Chúng ta lại thấy cảm giác thọ an lạc. Vì lúc này, chúng ta đã nhận ra sở cầu cũng không được (bác sĩ đã nói rất rõ) và bản thân người hành đã nhận thức thấu đáo. Lúc này lại trở về sự an lạc… không vì cái tình ái dục lạc đời mà đau khổ. Dù người thọ hành có khi sắp chết.
Như vậy, chúng ta thấy, chúng ta thọ khổ do con cái, chồng vợ, người thân, người quen, người lạ..v.v. - Có phải là vô minh?
Trong khi cũng vẫn những sự đó, ta hoàn toàn có thể thọ lạc, lại là an lạc, không những thế còn toả sáng, làm cho nhiều người xung quanh trong vòng ánh sáng đó cùng được an lạc.
Sự khác nhau ở chỗ: Thế giới là vô thường. Nó phản ánh vào đầu mỗi chúng ta gọi là pháp. Cái chúng ta tu không phải để thay đổi thế giới. Cái chúng ta tu là để thay đổi pháp trong đầu chúng ta.
Chỉ là 1 sự kiện (theo đúng quy luật), không hề có sự sai khác nhưng pháp ở trong đầu là A, B,C hay D là do chính chúng ta lựa chọn..
Nếu chúng ta chấp sự, chấp pháp cho rằng: Phải thế này, phải thế kia, sự này phải thế này, sự kia phải thế kia. Người lạ thì phải thế này, hay người lạ thì mới cảm thấy thế được, còn người thân sao thế được.v.v.v - Đây là chúng ta phân biệt trong vô minh mà không biết rằng tia minh - tia từ bi thực ra: Vẫn luôn tồn tại, ai cũng có.
Ví dụ 1 sự như vậy, và sự nào cũng như thế. Không khác đâu. Từ việc dạy con, nuôi con, cầu mong con.v.v.v đến mọi sự đời…v.v. - Đều vậy.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Để tiến tới phá hành ấm và phá thức ấm. Chúng ta bắt buộc phải trở thành (tu thành) nhà triết học (tên gọi thời đại) hay nhà thông thái (tên gọi ngoại Đạo) hay vô thượng trí tuệ (Đạo Đức Thế Tôn). Khi đẩy triết học (đẩy sự thông thái, đẩy trí huệ) lên đến tiếp cận vô hạn của triết học - chính là trả lời câu hỏi: Như Lai còn tồn tại sau khi chết? Như lai không còn tồn tại sau khi chết? Như Lai vừa còn vừa không còn sau khi chết, Như Lai vừa không còn vừa không không còn sau khi chết? - Chính là những câu hỏi tận cùng và cuối cùng của (ngôn ngữ hiện đại) Vật chất có trước hay ý thức có trước, cái nào sinh (quyết định) cái nào và con người có nhận thức được thế giới hay không (Giải thoát)?.
Để phá được hành ấm và thức ấm, chúng ta phải chứng thấy và có khả năng an trú (dùng/sử dụng) một vũ trụ kiến thức khổng lồ, tri thức khổng lồ, thông tin khổng lồ…v.v. - Theo ngôn ngữ Đạo Đức Thế Tôn chính là Thức vô biên xứ.
Chúng ta phải tiến được vào thức vô biên xứ (không phải duy thức), mà là thức vô biên xứ. Nhưng thức vô biên xứ là gì? - Khi không vô biên xứ - khi dùng ngôn ngữ hiện đại và phải buông bỏ mọi chấp kiến về Đạo (các từ ngữ khái niệm và cách giải thích siêu hình, vô minh, mập mờ, cách hiểu theo kiểu “niềm tin mê tín” chứ không phải là niềm tin chứng thấy) - Chúng ta đã biết: Không vô biên xứ là chỉ cái “không thời gian” vô biên xứ. (Không thời gian với khái niệm 4 chiều, hấp dẫn, tương đối).
Vậy thức vô biên xứ? - Chúng ta lại chỉ có thể quay lại sử dụng lý thuyết sự lựa chọn có văn trí trước khi dùng quán để thấy thức vô biên xứ là gì.
Chúng ta đã biết, não bộ chúng ta hoạt động bởi: Quá trình hoá học, quá trình lượng tử, quá trình cơ học.v.v. - Thực tế chỉ là 1 quá trình biến đổi “lượng năng” phức tạp. - Ngoài ra, không còn ngoài ra.
Cái “chúng ta” đang ngồi viết, đọc mấy dòng chữ này đây cũng chỉ là 1 ảnh lượng năng nhất định cụ thể mà lại chưa hề được duy trì cố định. Trong vật lý nhiệt động lực học hiện đại có khái niệm: Trạng thái và quá trình, chu trình thì sự (sinh thành hoại diệt) là 1 chu trình. Riêng một giai đoạn trung niên trưởng thành là 1 quá trình chẳng hạn thì giây phút hiện tại, hay ảnh giây phút hiện tại là 1 trạng thái cụ thể.
Khi chúng ta đã hiểu về lý thuyết sự lựa chọn ở phía trước. Rất rõ, tất cả đều chỉ là “lượng năng” - tràn ngập lượng năng… - Gọi là không vô biên xứ.
Nhưng lượng năng chỉ là lượng năng? - Hạt sóng lượng tử chỉ là hạt sóng lượng tử mang lượng năng?
- Máy tính lượng tử tại sao lại có thể là máy tính chứa rất nhiều thứ? Hay tại sao cái sóng điện thoại khi điện thoại chúng ta cộng hưởng thu được lại chứa rất nhiều thứ? .v..v. - Được gọi chung là thông tin?
Đầu chúng ta tại sao lại nhớ được hôm qua, hôm kia, và quá khứ.v.v. ? (- Lại nhớ được Pháp?)
- Nếu tất cả bản chất là Không Vô Biên Xứ là thế giới lượng năng thì cái gọi là “thông tin” là gì? - Không trả lời câu hỏi này, không biết sự thực, chúng ta rơi vào duy không, cho rằng “không có gì”. Dù cái có gì đó cũng là cái không.v.v. - bị rơi vào mê mờ.
Một hạt sóng lượng tử hay một lượng năng mang trong nó (độ rung, tần số, mức năng lượng)… nhưng không chỉ vậy.
Chúng ta đã biết hệ nhị phân của máy tính. Thông tin chỉ được ký hiệu bởi 0 và 1. Nói theo ngôn ngữ ngoại Đạo thì là âm và dương. (Lưỡng nghi).
Đối với thế giới lượng năng và Đạo Đức Thế Tôn - thế giới này, không phải được cấu trúc thông tin từ 2 mặt (lưỡng nghi hay 0,1). - Nó được cấu trúc bởi mức năng lượng của hạt sóng lượng tử - Lời của Đạo Đức Thế Tôn, đó là: Thức vô biên xứ!
Tại sao lại vậy?
Bản chất chân như của thế giới là cấu trúc tràn ngập lượng năng khắp mọi nơi (pháp thân A Di Đà Phật). Lượng năng này ngoài mang bản chất năng lượng thì nó còn bản chất: Chứa thông tin. Mỗi một lượng năng được xác định thì chứa một giá trị thông tin. Việc xác định trạng thái (mức năng lượng và giá trị thông tin cụ thể) lại dựa vào nguyên lý rắc rối lượng tử - tức là do sự vướng víu lượng tử mà chúng quy định cho nhau chứ không phải do con người hay ai hay tạo hoá siêu linh nào. Phản ánh những thứ này (thế giới) vào trong đầu chúng ta chính là Pháp. Thế giới vô thường nên pháp cũng vô thường. Nhưng thế giới là không vô biên xứ (tràn ngập lượng năng) và “chứa đầy tràn khắp thông tin” nên pháp phản ánh lượng năng và thông tin. Điều này, có nghĩa thứ ở trong đầu chúng ta là ảnh của lượng năng và thông tin - với những phần chúng ta thấy được về thế giới (qua 6 căn).
Như vậy, với sự hạn hẹp và gút mắc của 6 nút căn - chúng ta không thể thấy được toàn bộ thế giới - hay thấy chân như, thấy sự thường hằng, thấy thật như. . . - Không vô biên, thức vô biên.
Lượng tử chứa thông tin, hay lượng năng chứa thông tin và những thứ này không mất đi, cũng không được sinh ra..v.v. - Nó chỉ hoá hợp duyên (tứ đại, lục đại - Theo Đạo Đức Thế Tôn) hoặc biến đổi lưu trữ ở dạng này hay dạng khác (sắc, tướng, không). - Tức là thông tin cũng không mất đi, lượng năng cũng không mất đi. Nhưng nếu thông tin, lượng năng ở dạng mà 6 căn không xúc chạm được (dù nó vẫn đang ở ngay đây) thì… người thường chúng ta không thể thấy.
Tập hợp vô lượng trạng thái của một vi trần hạt sóng lượng tử… - Tạo nên một sắc, thức, tưởng, thọ, hành.v.v.v bất kỳ. Ví dụ: Mặt trời, trái đất, con chó, con người, cái cây.v.v.
Theo những quy luật hợp duyên khác nhau, hay cách thức xác định trạng thái hạt sóng vi trần lượng tử khác nhau mà chúng ta thấy sự khác nhau giữa mặt trời, trái đất, con người, con chó, cái cây.v.v.
Quy luật hợp duyên tạo nên vạn vật vô tình (vô cơ) thì để khoa học đăng bài nghiên cứu, khám phá hay để các ngài học giả đưa ra các thuyết như tiến hoá, thần linh, Chúa.v.v. - Với chúng ta, ở Đạo Đức Thế Tôn là: Duyên hợp vạn vật hiện.
Với vạn vật hữu tình (như con người, con vật): Theo Đạo Đức Thế Tôn chính là: Nghiệp phước nhân quả.
Vì thân chúng ta cũng là vật (sắc) nên chúng ta rõ quy luật: Duyên hợp duyên tan vạn vật nghiệp phước nhân quả - chính là tập hợp trạng thái hạt sóng vi trần lượng tử (tạo nên chúng ta hiện tại đang đọc, viết đây).
Với lẽ này: Thông tin luôn được rời đi khỏi chúng ta hoặc đến hợp với chúng ta… - Do chúng ta thời thời lựa chọn ảnh để an trú giây phút hiện tại. Nên thông tin có thể đến hoặc đi.
Khi thông tin đi (do không còn hạt sóng vi trần lượng tử quy định thông tin này hợp duyên ở trong ta - tức xác định trạng thái thông tin) - chúng ta gọi là quên.
Thông tin đến - gọi là nhận. - Chúng ta còn gọi là nhận thức.
Có thông tin trong ta là bởi: Sự xác lập trạng thái của hạt sóng vi trần lương tử. - Do chúng ta đã xác lập trạng thái hạt sóng này khi chúng ta lựa chọn ảnh ở giây phút hiện tại nào đó trong quá khứ và vẫn chưa hoá duyên nó đi (tức quên đi, trạng thái lượng tử này bị xoá, thay đổi).
Như vậy, pháp hay ảnh - cũng chỉ là những tập hợp của lượng năng và thông tin cụ thể - hay trạng thái của tập hợp hạt sóng vi trần lượng tử. - Hoàn toàn có thể thay đổi. Nhưng hoàn toàn cũng có thể xác lập tìm trở về.v.v.
Điều này có nghĩa, nếu biết cách xác lập trạng thái (hợp duyên, hoá duyên) của tập hợp các hạt sóng vi trần lượng tử - chúng ta muốn trạng thái nào thì chúng ta đều hoàn toàn có thể duyên ra. - Điều này, có vẻ ở cánh giới sáng thế (Chúa Trời, Phật).
Nhưng sự thực là vậy.
Khi chúng ta rõ về không vô biên xứ, thức vô biên xứ - chúng ta đã rõ về các tập hợp để xác lập trạng thái của 1 nhóm vô lượng hạt sóng vi trần lượng tử để tạo nên mặt trời, trái đất, ta, con chó hay cái cây.v.v.v
Tiến thêm vài cảnh nữa là hoàn toàn “có thể thích thế nào thì chỉ cần ý niệm” là ra…
Nhưng tất cả đều là chứng thấy và an trú (dụng, diệu dụng, dùng, sử dụng).
Để phá được hành ấm và thức ấm, chúng ta phải chứng thấy và có khả năng an trú (dùng/sử dụng) một vũ trụ kiến thức khổng lồ, tri thức khổng lồ, thông tin khổng lồ…v.v. - Theo ngôn ngữ Đạo Đức Thế Tôn chính là Thức vô biên xứ.
Chúng ta phải tiến được vào thức vô biên xứ (không phải duy thức), mà là thức vô biên xứ. Nhưng thức vô biên xứ là gì? - Khi không vô biên xứ - khi dùng ngôn ngữ hiện đại và phải buông bỏ mọi chấp kiến về Đạo (các từ ngữ khái niệm và cách giải thích siêu hình, vô minh, mập mờ, cách hiểu theo kiểu “niềm tin mê tín” chứ không phải là niềm tin chứng thấy) - Chúng ta đã biết: Không vô biên xứ là chỉ cái “không thời gian” vô biên xứ. (Không thời gian với khái niệm 4 chiều, hấp dẫn, tương đối).
Vậy thức vô biên xứ? - Chúng ta lại chỉ có thể quay lại sử dụng lý thuyết sự lựa chọn có văn trí trước khi dùng quán để thấy thức vô biên xứ là gì.
Chúng ta đã biết, não bộ chúng ta hoạt động bởi: Quá trình hoá học, quá trình lượng tử, quá trình cơ học.v.v. - Thực tế chỉ là 1 quá trình biến đổi “lượng năng” phức tạp. - Ngoài ra, không còn ngoài ra.
Cái “chúng ta” đang ngồi viết, đọc mấy dòng chữ này đây cũng chỉ là 1 ảnh lượng năng nhất định cụ thể mà lại chưa hề được duy trì cố định. Trong vật lý nhiệt động lực học hiện đại có khái niệm: Trạng thái và quá trình, chu trình thì sự (sinh thành hoại diệt) là 1 chu trình. Riêng một giai đoạn trung niên trưởng thành là 1 quá trình chẳng hạn thì giây phút hiện tại, hay ảnh giây phút hiện tại là 1 trạng thái cụ thể.
Khi chúng ta đã hiểu về lý thuyết sự lựa chọn ở phía trước. Rất rõ, tất cả đều chỉ là “lượng năng” - tràn ngập lượng năng… - Gọi là không vô biên xứ.
Nhưng lượng năng chỉ là lượng năng? - Hạt sóng lượng tử chỉ là hạt sóng lượng tử mang lượng năng?
- Máy tính lượng tử tại sao lại có thể là máy tính chứa rất nhiều thứ? Hay tại sao cái sóng điện thoại khi điện thoại chúng ta cộng hưởng thu được lại chứa rất nhiều thứ? .v..v. - Được gọi chung là thông tin?
Đầu chúng ta tại sao lại nhớ được hôm qua, hôm kia, và quá khứ.v.v. ? (- Lại nhớ được Pháp?)
- Nếu tất cả bản chất là Không Vô Biên Xứ là thế giới lượng năng thì cái gọi là “thông tin” là gì? - Không trả lời câu hỏi này, không biết sự thực, chúng ta rơi vào duy không, cho rằng “không có gì”. Dù cái có gì đó cũng là cái không.v.v. - bị rơi vào mê mờ.
Một hạt sóng lượng tử hay một lượng năng mang trong nó (độ rung, tần số, mức năng lượng)… nhưng không chỉ vậy.
Chúng ta đã biết hệ nhị phân của máy tính. Thông tin chỉ được ký hiệu bởi 0 và 1. Nói theo ngôn ngữ ngoại Đạo thì là âm và dương. (Lưỡng nghi).
Đối với thế giới lượng năng và Đạo Đức Thế Tôn - thế giới này, không phải được cấu trúc thông tin từ 2 mặt (lưỡng nghi hay 0,1). - Nó được cấu trúc bởi mức năng lượng của hạt sóng lượng tử - Lời của Đạo Đức Thế Tôn, đó là: Thức vô biên xứ!
Tại sao lại vậy?
Bản chất chân như của thế giới là cấu trúc tràn ngập lượng năng khắp mọi nơi (pháp thân A Di Đà Phật). Lượng năng này ngoài mang bản chất năng lượng thì nó còn bản chất: Chứa thông tin. Mỗi một lượng năng được xác định thì chứa một giá trị thông tin. Việc xác định trạng thái (mức năng lượng và giá trị thông tin cụ thể) lại dựa vào nguyên lý rắc rối lượng tử - tức là do sự vướng víu lượng tử mà chúng quy định cho nhau chứ không phải do con người hay ai hay tạo hoá siêu linh nào. Phản ánh những thứ này (thế giới) vào trong đầu chúng ta chính là Pháp. Thế giới vô thường nên pháp cũng vô thường. Nhưng thế giới là không vô biên xứ (tràn ngập lượng năng) và “chứa đầy tràn khắp thông tin” nên pháp phản ánh lượng năng và thông tin. Điều này, có nghĩa thứ ở trong đầu chúng ta là ảnh của lượng năng và thông tin - với những phần chúng ta thấy được về thế giới (qua 6 căn).
Như vậy, với sự hạn hẹp và gút mắc của 6 nút căn - chúng ta không thể thấy được toàn bộ thế giới - hay thấy chân như, thấy sự thường hằng, thấy thật như. . . - Không vô biên, thức vô biên.
Lượng tử chứa thông tin, hay lượng năng chứa thông tin và những thứ này không mất đi, cũng không được sinh ra..v.v. - Nó chỉ hoá hợp duyên (tứ đại, lục đại - Theo Đạo Đức Thế Tôn) hoặc biến đổi lưu trữ ở dạng này hay dạng khác (sắc, tướng, không). - Tức là thông tin cũng không mất đi, lượng năng cũng không mất đi. Nhưng nếu thông tin, lượng năng ở dạng mà 6 căn không xúc chạm được (dù nó vẫn đang ở ngay đây) thì… người thường chúng ta không thể thấy.
Tập hợp vô lượng trạng thái của một vi trần hạt sóng lượng tử… - Tạo nên một sắc, thức, tưởng, thọ, hành.v.v.v bất kỳ. Ví dụ: Mặt trời, trái đất, con chó, con người, cái cây.v.v.
Theo những quy luật hợp duyên khác nhau, hay cách thức xác định trạng thái hạt sóng vi trần lượng tử khác nhau mà chúng ta thấy sự khác nhau giữa mặt trời, trái đất, con người, con chó, cái cây.v.v.
Quy luật hợp duyên tạo nên vạn vật vô tình (vô cơ) thì để khoa học đăng bài nghiên cứu, khám phá hay để các ngài học giả đưa ra các thuyết như tiến hoá, thần linh, Chúa.v.v. - Với chúng ta, ở Đạo Đức Thế Tôn là: Duyên hợp vạn vật hiện.
Với vạn vật hữu tình (như con người, con vật): Theo Đạo Đức Thế Tôn chính là: Nghiệp phước nhân quả.
Vì thân chúng ta cũng là vật (sắc) nên chúng ta rõ quy luật: Duyên hợp duyên tan vạn vật nghiệp phước nhân quả - chính là tập hợp trạng thái hạt sóng vi trần lượng tử (tạo nên chúng ta hiện tại đang đọc, viết đây).
Với lẽ này: Thông tin luôn được rời đi khỏi chúng ta hoặc đến hợp với chúng ta… - Do chúng ta thời thời lựa chọn ảnh để an trú giây phút hiện tại. Nên thông tin có thể đến hoặc đi.
Khi thông tin đi (do không còn hạt sóng vi trần lượng tử quy định thông tin này hợp duyên ở trong ta - tức xác định trạng thái thông tin) - chúng ta gọi là quên.
Thông tin đến - gọi là nhận. - Chúng ta còn gọi là nhận thức.
Có thông tin trong ta là bởi: Sự xác lập trạng thái của hạt sóng vi trần lương tử. - Do chúng ta đã xác lập trạng thái hạt sóng này khi chúng ta lựa chọn ảnh ở giây phút hiện tại nào đó trong quá khứ và vẫn chưa hoá duyên nó đi (tức quên đi, trạng thái lượng tử này bị xoá, thay đổi).
Như vậy, pháp hay ảnh - cũng chỉ là những tập hợp của lượng năng và thông tin cụ thể - hay trạng thái của tập hợp hạt sóng vi trần lượng tử. - Hoàn toàn có thể thay đổi. Nhưng hoàn toàn cũng có thể xác lập tìm trở về.v.v.
Điều này có nghĩa, nếu biết cách xác lập trạng thái (hợp duyên, hoá duyên) của tập hợp các hạt sóng vi trần lượng tử - chúng ta muốn trạng thái nào thì chúng ta đều hoàn toàn có thể duyên ra. - Điều này, có vẻ ở cánh giới sáng thế (Chúa Trời, Phật).
Nhưng sự thực là vậy.
Khi chúng ta rõ về không vô biên xứ, thức vô biên xứ - chúng ta đã rõ về các tập hợp để xác lập trạng thái của 1 nhóm vô lượng hạt sóng vi trần lượng tử để tạo nên mặt trời, trái đất, ta, con chó hay cái cây.v.v.v
Tiến thêm vài cảnh nữa là hoàn toàn “có thể thích thế nào thì chỉ cần ý niệm” là ra…
Nhưng tất cả đều là chứng thấy và an trú (dụng, diệu dụng, dùng, sử dụng).
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Tiểu luận 038
Tri túc là gì?
- Tri túc là biết đủ.
Thế nào là biết đủ (hay biết đủ là gì)?
- Biết đủ là hài lòng. Khi biết đủ sẽ thấy hài lòng. Khi còn chưa hài lòng, tức là còn chưa đủ.
Trên đời vô lượng sự, làm gì có chuyện sự nào cũng làm ta hài lòng?
- Đó là bởi ý. Không phải bởi sự. Ý còn thấy chưa đủ hay chưa vừa ý thì dù 1 sự cũng mang đến sự chưa hài lòng vô bờ bến. Còn nếu ý luôn thấy đủ, thấy vừa ý thì dù là sự gì chăng nữa, vô lượng sự, đều sẽ thấy vừa ý hết cả.
Làm sao để luôn thấy vừa ý?
- Tuỳ pháp.
Biết đủ sẽ đem đến giải thoát. Là một pháp quan trọng trong đường tu Đạo Đức Thế Tôn mà ai cũng phải tu (thực hành tu) kể từ khi bước lên con đường này, dù còn tại gia hay xuất gia.
Biết đủ là nền tảng căn cơ để khởi lên duyên chứng trú thiền 1 - hiện tại an lạc trú. Chưa biết đủ thì dù có hữu cả thế giới (sở hữu, có, thủ) cũng sẽ vẫn thấy chưa đủ, chưa thể nào đi vào an lạc trú, chưa thể nào xả chấp dính mắc. Cũng vậy, chưa biết đủ thì cả thân tâm dù không thủ hữu bất cứ 1 sắc trần nào (nghèo rớt mùng tơi, 3 y 1 bát khả năng còn không có)… cũng sẽ không thấy đủ (vì nghèo quá nên đến 3 y 1 bát còn không có nên thấy cần phải cố để “kiếm” được 3 y 1 bát chẳng hạn). Nghèo quá, ở tại gia, ăn không dư, mặc không đủ nên thấy cần phải có để “kiếm” sao cho cái ăn vừa đủ 1 bữa/ngày, cái mặc kín thân, không thiếu.v.v. Nghèo quá, nhà cửa rách nát, nên phải cố “kiếm” 1 cái “lều” làm sao cho an toàn mưa bão.v.v. Cho đến chỗ … có cả thế giới… vẫn nghèo quá nên phải cố “kiếm” sao cho… chỗ này chỗ kia đủ.v.v. - Như vậy là chưa biết đủ.
Biết đủ là vừa ý! Hài lòng. Vừa ý, hài lòng từ 1 sự đến vô lượng sự - tức là vừa ý hài lòng từ 1 pháp đến vô lượng pháp (pháp là khách trần (sự, sắc, thế giới, tưởng) phản ánh ở trong đầu). Điều này có nghĩa, khi tuỳ pháp theo theo pháp hay hoan hỉ pháp… sẽ đem đến sự duyên khởi của hài lòng… sẽ thấy đủ.
Biết đủ là 1 trong những duyên khởi của an lạc, của sơ thiền, của hiện tại an lạc trú.
Luôn luôn biết đủ, luôn luôn an lạc.
Sự hài lòng có 2 nhóm chính:
1/ Nhóm sự hài lòng về vật ( sự sắc trần hình tướng).
2/ Nhóm sự hài lòng về tinh thần (tình cảm, tâm tư, cảm xúc).
Đều đi ra từ thọ.
Tuỳ pháp vô sanh. Tuỳ pháp đem đến sự hài lòng như ý. Sự hài lòng như ý đem đến sự biết đủ. Sự biết đủ đem đến sự an lạc.
Nhẫn không phải là nhẫn nhục mà là kiên trì hành. Khi ngã mạn không còn. Khi cái tôi cụ thể đơn lẻ không còn. Người này, không còn quan điểm riêng chung phân biệt theo ý nào đó ở trong đầu. Vì không còn ý phân biệt riêng chung, tôi người, trong ngoài (trong đầu của tôi, ngoài là người ngoài bên ngoài vào)… khi đó Pháp được tuỳ, tức là pháp nào cũng là pháp, không còn pháp của tôi. Hay cái ý trong đầu không còn phân biệt pháp này pháp kia mà pháp gì ở trong đầu cũng vậy, pháp của tôi hay pháp của bên ngoài vào cũng thế, đều là pháp. Tuỳ cả… khi tuỳ được cả, pháp nhẫn vô sanh được duyên khởi.
Vô sanh duyên khởi thì không có sanh, không có sanh thì không có diệt… trình nhân quả nhân duyên bị dứt đứt đoạn (đoạn diệt).
Vô sanh duyên khởi - thì không còn pháp pháp duyên khởi sinh sinh diệt diệt trong đầu. Thấy gì là thấy. Pháp gì là pháp đó. Tuỳ pháp là tuỳ thấy.
Hiện tại an lạc trú!
Tri túc là gì?
- Tri túc là biết đủ.
Thế nào là biết đủ (hay biết đủ là gì)?
- Biết đủ là hài lòng. Khi biết đủ sẽ thấy hài lòng. Khi còn chưa hài lòng, tức là còn chưa đủ.
Trên đời vô lượng sự, làm gì có chuyện sự nào cũng làm ta hài lòng?
- Đó là bởi ý. Không phải bởi sự. Ý còn thấy chưa đủ hay chưa vừa ý thì dù 1 sự cũng mang đến sự chưa hài lòng vô bờ bến. Còn nếu ý luôn thấy đủ, thấy vừa ý thì dù là sự gì chăng nữa, vô lượng sự, đều sẽ thấy vừa ý hết cả.
Làm sao để luôn thấy vừa ý?
- Tuỳ pháp.
Biết đủ sẽ đem đến giải thoát. Là một pháp quan trọng trong đường tu Đạo Đức Thế Tôn mà ai cũng phải tu (thực hành tu) kể từ khi bước lên con đường này, dù còn tại gia hay xuất gia.
Biết đủ là nền tảng căn cơ để khởi lên duyên chứng trú thiền 1 - hiện tại an lạc trú. Chưa biết đủ thì dù có hữu cả thế giới (sở hữu, có, thủ) cũng sẽ vẫn thấy chưa đủ, chưa thể nào đi vào an lạc trú, chưa thể nào xả chấp dính mắc. Cũng vậy, chưa biết đủ thì cả thân tâm dù không thủ hữu bất cứ 1 sắc trần nào (nghèo rớt mùng tơi, 3 y 1 bát khả năng còn không có)… cũng sẽ không thấy đủ (vì nghèo quá nên đến 3 y 1 bát còn không có nên thấy cần phải cố để “kiếm” được 3 y 1 bát chẳng hạn). Nghèo quá, ở tại gia, ăn không dư, mặc không đủ nên thấy cần phải có để “kiếm” sao cho cái ăn vừa đủ 1 bữa/ngày, cái mặc kín thân, không thiếu.v.v. Nghèo quá, nhà cửa rách nát, nên phải cố “kiếm” 1 cái “lều” làm sao cho an toàn mưa bão.v.v. Cho đến chỗ … có cả thế giới… vẫn nghèo quá nên phải cố “kiếm” sao cho… chỗ này chỗ kia đủ.v.v. - Như vậy là chưa biết đủ.
Biết đủ là vừa ý! Hài lòng. Vừa ý, hài lòng từ 1 sự đến vô lượng sự - tức là vừa ý hài lòng từ 1 pháp đến vô lượng pháp (pháp là khách trần (sự, sắc, thế giới, tưởng) phản ánh ở trong đầu). Điều này có nghĩa, khi tuỳ pháp theo theo pháp hay hoan hỉ pháp… sẽ đem đến sự duyên khởi của hài lòng… sẽ thấy đủ.
Biết đủ là 1 trong những duyên khởi của an lạc, của sơ thiền, của hiện tại an lạc trú.
Luôn luôn biết đủ, luôn luôn an lạc.
Sự hài lòng có 2 nhóm chính:
1/ Nhóm sự hài lòng về vật ( sự sắc trần hình tướng).
2/ Nhóm sự hài lòng về tinh thần (tình cảm, tâm tư, cảm xúc).
Đều đi ra từ thọ.
Tuỳ pháp vô sanh. Tuỳ pháp đem đến sự hài lòng như ý. Sự hài lòng như ý đem đến sự biết đủ. Sự biết đủ đem đến sự an lạc.
Nhẫn không phải là nhẫn nhục mà là kiên trì hành. Khi ngã mạn không còn. Khi cái tôi cụ thể đơn lẻ không còn. Người này, không còn quan điểm riêng chung phân biệt theo ý nào đó ở trong đầu. Vì không còn ý phân biệt riêng chung, tôi người, trong ngoài (trong đầu của tôi, ngoài là người ngoài bên ngoài vào)… khi đó Pháp được tuỳ, tức là pháp nào cũng là pháp, không còn pháp của tôi. Hay cái ý trong đầu không còn phân biệt pháp này pháp kia mà pháp gì ở trong đầu cũng vậy, pháp của tôi hay pháp của bên ngoài vào cũng thế, đều là pháp. Tuỳ cả… khi tuỳ được cả, pháp nhẫn vô sanh được duyên khởi.
Vô sanh duyên khởi thì không có sanh, không có sanh thì không có diệt… trình nhân quả nhân duyên bị dứt đứt đoạn (đoạn diệt).
Vô sanh duyên khởi - thì không còn pháp pháp duyên khởi sinh sinh diệt diệt trong đầu. Thấy gì là thấy. Pháp gì là pháp đó. Tuỳ pháp là tuỳ thấy.
Hiện tại an lạc trú!
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Tìm cầu là chướng ngại của biết đủ. Tìm cầu làm cho biết đủ bị phân tán, mê mờ. Tìm cầu là dục.
Tìm cầu lại liên quan đến thọ lạc. Không có một tìm cầu nào thì lại câu hữu cùng không khổ không lạc, mê mờ, chán nản, lầm mê, đoạ lạc. Bởi vậy, cần có tìm cầu (dục).
Nhưng dục là chướng ngại của biết đủ. Bởi vậy, cần tỉnh thức ở chỗ này.
Sự tìm cầu khi chỉ phục vụ pháp “dục như ý túc” - pháp giải thoát - chính là pháp dục như ý đầy đủ nhất. Một dục mà mang đến sự đầy đủ nhất, sự an lạc nhất. Chỉ cần 1 dục này.
Nhưng dục như ý túc có thực hiện được ngay? - Hay tác ý “dục như ý túc” có thể nào tác 1 cái là ra kết quả?
- Không thể nào. Không có 1 pháp nào 1 bước xuất thế gian.
Vậy “dục như ý túc” không được thoả, khác gì lửa dục thiêu thân, sẽ đem đến muôn vàn khổ đau?
- Bởi vậy, phải nhẫn.
Nhẫn không phải là nhẫn nhục, mà là kiên trì tu hành. Trì hành.
Người ta có chửi mình, chê mình, khinh mình… không phải mình nhẫn nhục, mà là mình đang kiên trì tu hành pháp hài lòng. Hài lòng khi nghe người chửi, người chê, người khinh…v..v
Nghe có vẻ “siêu thực”?
- Nhưng sự thực là vậy. - Vô sanh pháp nhẫn, nhẫn không phải là nhục, nhẫn nhục mà chính là nhẫn nhục như vậy. Được như vậy, pháp hài lòng được trì hành, sẽ sớm thấy an lạc.
Để “dục như ý túc” được trì hành tới kết quả thì cần nhiều pháp “tìm cầu” ở những cấp độ khác nhau từ tại gia tới xuất gia. Sự tìm cầu này chỉ phục vụ “dục như ý túc”.
Cái gì làm tăng trưởng dục như ý túc thì nó nên được hành. - Như vậy, sự tìm cầu pháp tu Đạo chỉ là 1 sự tìm cầu rất bé nhỏ trong dục như ý túc. Khi hành dục như ý túc cần và có và cần phải hành “vô lượng” sự tìm cầu. Những tìm cầu này phục vụ tăng trưởng dục như ý túc. Không phải để phục vụ sự thọ hưởng cảm giác thọ lạc.
Thấy cần phải thì điều đó là cần phải, nên vậy, hãy như vậy. Nhưng đã hành rồi, kết quả ra sao, luôn luôn thấy đủ (hài lòng) thì đây chính là những tìm cầu phục vụ tăng trưởng “dục như ý túc” đạt được kết quả.
Tìm cầu và hành sự tìm cầu để đạt mong muốn dục như ý túc. Không phải tìm cầu và hành sự tìm cầu để đạt được một mục đích thọ hưởng.
Thọ hưởng nào rồi cũng duyên đến khổ cả - phải luôn bám vào “tiên đề” của tứ diệu đế. - Hiểu rõ, thấy rõ, chứng rõ lý tánh khổ.
Khi “Tìm cầu và hành sự tìm cầu để đạt mong muốn dục như ý túc” thì dù có đạt được cả thế giới trong tay cũng như khi 3 y 1 bát và cũng chẳng khác loã thể, xác khô… đây là tam muội đã thành. (Định).
Tìm cầu lại liên quan đến thọ lạc. Không có một tìm cầu nào thì lại câu hữu cùng không khổ không lạc, mê mờ, chán nản, lầm mê, đoạ lạc. Bởi vậy, cần có tìm cầu (dục).
Nhưng dục là chướng ngại của biết đủ. Bởi vậy, cần tỉnh thức ở chỗ này.
Sự tìm cầu khi chỉ phục vụ pháp “dục như ý túc” - pháp giải thoát - chính là pháp dục như ý đầy đủ nhất. Một dục mà mang đến sự đầy đủ nhất, sự an lạc nhất. Chỉ cần 1 dục này.
Nhưng dục như ý túc có thực hiện được ngay? - Hay tác ý “dục như ý túc” có thể nào tác 1 cái là ra kết quả?
- Không thể nào. Không có 1 pháp nào 1 bước xuất thế gian.
Vậy “dục như ý túc” không được thoả, khác gì lửa dục thiêu thân, sẽ đem đến muôn vàn khổ đau?
- Bởi vậy, phải nhẫn.
Nhẫn không phải là nhẫn nhục, mà là kiên trì tu hành. Trì hành.
Người ta có chửi mình, chê mình, khinh mình… không phải mình nhẫn nhục, mà là mình đang kiên trì tu hành pháp hài lòng. Hài lòng khi nghe người chửi, người chê, người khinh…v..v
Nghe có vẻ “siêu thực”?
- Nhưng sự thực là vậy. - Vô sanh pháp nhẫn, nhẫn không phải là nhục, nhẫn nhục mà chính là nhẫn nhục như vậy. Được như vậy, pháp hài lòng được trì hành, sẽ sớm thấy an lạc.
Để “dục như ý túc” được trì hành tới kết quả thì cần nhiều pháp “tìm cầu” ở những cấp độ khác nhau từ tại gia tới xuất gia. Sự tìm cầu này chỉ phục vụ “dục như ý túc”.
Cái gì làm tăng trưởng dục như ý túc thì nó nên được hành. - Như vậy, sự tìm cầu pháp tu Đạo chỉ là 1 sự tìm cầu rất bé nhỏ trong dục như ý túc. Khi hành dục như ý túc cần và có và cần phải hành “vô lượng” sự tìm cầu. Những tìm cầu này phục vụ tăng trưởng dục như ý túc. Không phải để phục vụ sự thọ hưởng cảm giác thọ lạc.
Thấy cần phải thì điều đó là cần phải, nên vậy, hãy như vậy. Nhưng đã hành rồi, kết quả ra sao, luôn luôn thấy đủ (hài lòng) thì đây chính là những tìm cầu phục vụ tăng trưởng “dục như ý túc” đạt được kết quả.
Tìm cầu và hành sự tìm cầu để đạt mong muốn dục như ý túc. Không phải tìm cầu và hành sự tìm cầu để đạt được một mục đích thọ hưởng.
Thọ hưởng nào rồi cũng duyên đến khổ cả - phải luôn bám vào “tiên đề” của tứ diệu đế. - Hiểu rõ, thấy rõ, chứng rõ lý tánh khổ.
Khi “Tìm cầu và hành sự tìm cầu để đạt mong muốn dục như ý túc” thì dù có đạt được cả thế giới trong tay cũng như khi 3 y 1 bát và cũng chẳng khác loã thể, xác khô… đây là tam muội đã thành. (Định).
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Thế giới hiện đại:
- Còn, có (thủ hữu) cha mẹ vợ/chồng con: Thật là tuyệt vời, ta chẳng thiếu một thân nhân nào, thật đầy đủ…
- Cha mẹ không còn, chỉ còn vợ/chồng, con: Thật là tuyệt vời, ta luôn có vợ/chồng con bên cạnh, có những thân nhân này, chẳng phải lo lúc nọ lúc kia, chẳng lo tương lai về sau, thật đầy đủ…
- Chỉ có vợ/chồng không có con hoặc chỉ có con không có vợ/chồng: Thật tuyệt vời, ta luôn có (vợ/chồng/con) bên cạnh. Với những thân nhân này, chẳng phải lo lúc nọ lúc kia, chẳng phải lo tương lai về sau, thật đầy đủ…
- Không có vợ/chồng/con, chỉ có 1 mình: Thật tuyệt vời, ta là một người tự do, độc lập. Ta không phải lo cho bất cứ ai ngoài ta, ngay khi này và tương lai mãi sau này, không phải lo nghĩ gì cho vợ/chồng/ con, thật đầy đủ khi ta có 1 thân tự do…
- cứ như vậy cho đến khi “xuất gia” hay không còn thủ hữu bất cứ 1 tài sản (vật sắc nào) tới bất cứ vương vấn cảm tình nào.v.v.
… Tất cả đều là: “Thật tuyệt vời đến thật đầy đủ”
Thế giới hiện đại:
- Khi có người chửi, chê, khinh, cười nhạo: Thật tuyệt vời, họ mới chỉ dùng “bọt mép” mà không có động tay động chân vào thân thể ta, không làm tổn thương thân thể ta. Ta chẳng mất đi cái gì, vẫn thật đầy đủ…
- Khi họ vừa (phía trên) vừa dùng tay chân, đánh đấm (như vũ phu, vũ phụ, vũ tử, vũ thân): Thật tuyệt vời, họ mới chỉ dùng tay chân đánh đấm nhẹ vào thân ta chứ chưa dùng dao kiếm súng đạn gậy gộc…Ta chẳng mất đi cái gì, vẫn thật đầy đủ…
- Khi họ vừa (phía trên) vừa dùng dao kiếm súng gậy… đánh đập thân: Thật tuyệt vời, mới chỉ động đến thân ta, chưa cướp đi mạng sống của ta. Ta vẫn còn thở đây, vẫn sống, còn sống là còn người, còn người còn tất cả, vẫn thật đầy đủ…
- Khi họ “cướp” luôn mạng sống: Thật tuyệt vời, ta không còn phải ở thế này để chịu khổ. Từ nay đã được giải thoát rồi. Cảm ơn, cảm ơn, và cảm ơn…
- Cứ như vậy cho đến tất cả đều là: “Thật tuyệt vời đến thật đầy đủ”
Trong hệ thống giới kinh, Đức Thế Tôn đều giảng hết rồi nhưng chúng ta chưa tu được thôi hoặc chưa biết những bài kinh đó là giảng về điều gì.
Sự luôn luôn biết đủ, biết hài lòng mang đến năng lượng và sự an lạc đến không ngờ.
Cả thế giới cũng chỉ như hạt cát. Ý nghĩa ở đây cũng vậy. Đức Thế Tôn chẳng có gì mà có cả thế giới. Đức Thế Tôn có cả thế giới (và nhiều hơn thế nữa) mà cũng chỉ “nghèo rớt mùng tơi” suốt ngày đi “xin ăn”.
…
- Còn, có (thủ hữu) cha mẹ vợ/chồng con: Thật là tuyệt vời, ta chẳng thiếu một thân nhân nào, thật đầy đủ…
- Cha mẹ không còn, chỉ còn vợ/chồng, con: Thật là tuyệt vời, ta luôn có vợ/chồng con bên cạnh, có những thân nhân này, chẳng phải lo lúc nọ lúc kia, chẳng lo tương lai về sau, thật đầy đủ…
- Chỉ có vợ/chồng không có con hoặc chỉ có con không có vợ/chồng: Thật tuyệt vời, ta luôn có (vợ/chồng/con) bên cạnh. Với những thân nhân này, chẳng phải lo lúc nọ lúc kia, chẳng phải lo tương lai về sau, thật đầy đủ…
- Không có vợ/chồng/con, chỉ có 1 mình: Thật tuyệt vời, ta là một người tự do, độc lập. Ta không phải lo cho bất cứ ai ngoài ta, ngay khi này và tương lai mãi sau này, không phải lo nghĩ gì cho vợ/chồng/ con, thật đầy đủ khi ta có 1 thân tự do…
- cứ như vậy cho đến khi “xuất gia” hay không còn thủ hữu bất cứ 1 tài sản (vật sắc nào) tới bất cứ vương vấn cảm tình nào.v.v.
… Tất cả đều là: “Thật tuyệt vời đến thật đầy đủ”
Thế giới hiện đại:
- Khi có người chửi, chê, khinh, cười nhạo: Thật tuyệt vời, họ mới chỉ dùng “bọt mép” mà không có động tay động chân vào thân thể ta, không làm tổn thương thân thể ta. Ta chẳng mất đi cái gì, vẫn thật đầy đủ…
- Khi họ vừa (phía trên) vừa dùng tay chân, đánh đấm (như vũ phu, vũ phụ, vũ tử, vũ thân): Thật tuyệt vời, họ mới chỉ dùng tay chân đánh đấm nhẹ vào thân ta chứ chưa dùng dao kiếm súng đạn gậy gộc…Ta chẳng mất đi cái gì, vẫn thật đầy đủ…
- Khi họ vừa (phía trên) vừa dùng dao kiếm súng gậy… đánh đập thân: Thật tuyệt vời, mới chỉ động đến thân ta, chưa cướp đi mạng sống của ta. Ta vẫn còn thở đây, vẫn sống, còn sống là còn người, còn người còn tất cả, vẫn thật đầy đủ…
- Khi họ “cướp” luôn mạng sống: Thật tuyệt vời, ta không còn phải ở thế này để chịu khổ. Từ nay đã được giải thoát rồi. Cảm ơn, cảm ơn, và cảm ơn…
- Cứ như vậy cho đến tất cả đều là: “Thật tuyệt vời đến thật đầy đủ”
Trong hệ thống giới kinh, Đức Thế Tôn đều giảng hết rồi nhưng chúng ta chưa tu được thôi hoặc chưa biết những bài kinh đó là giảng về điều gì.
Sự luôn luôn biết đủ, biết hài lòng mang đến năng lượng và sự an lạc đến không ngờ.
Cả thế giới cũng chỉ như hạt cát. Ý nghĩa ở đây cũng vậy. Đức Thế Tôn chẳng có gì mà có cả thế giới. Đức Thế Tôn có cả thế giới (và nhiều hơn thế nữa) mà cũng chỉ “nghèo rớt mùng tơi” suốt ngày đi “xin ăn”.
…
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Tiểu luận 048
Thói quen chính là một loại dây dính mắc!
Chúng ta ở đời vốn đã không giải thoát, các hành đều chủ yếu ở trong vô minh. 5 sợi dây triền cái nhiều lúc nghe nghĩ đến thấy thật cao xa - vì ngôn ngữ cổ xưa. Hiện đại, thế giới có cụm từ “thói quen” - dù cụm từ này không mô tả nghĩa tương đồng với 5 sợi dây triền cái nhưng “thói quen” chính là sợi dây hữu hình mà ai cũng có thể thấy, nó trói chặt chúng ta ở thế (giới) này.
Ngày xưa, Đức Thế Tôn không cho phép các vị Chư Tăng đoàn ở một nơi nào qua đêm quá 3 đêm - luôn yêu cầu di chuyển, trừ thời gian kiết hạ và biệt trú hành công. - Không cho sự “khả ái” duyên sinh thành quen thuộc.
Ngày nay, chúng ta có những thứ gọi là thói quen tốt, thói quen xấu… đều là thói quen cả, trói buộc cả. Nếu phải có 1 thói quen, đó chỉ có thể là “dục như ý túc”. Ngoài ra, đều là trói buộc cả.
Nghe đọc điều này có vẻ siêu thực?
- Nhưng sự thực là vậy. Thói quen là một loại dây trói buộc.
Vì chúng ta chưa phải là người đã giải thoát khỏi thế (giới) này, chúng ta lại biết rất rõ, ở thế này hành gì (ngoài hành dục như ý túc) đều là những hành sớm muộn đem đến khổ đau, nghiệp nợ và dính mắc… dù nó mang đến những thọ lạc hay lợi ích gì… tất cả mọi hành đều là (niệm vô minh duyên hành… nên sinh ra thế giới luân hồi này). Vì lẽ đó, thói quen là những hành lặp đi lặp lại (đôi khi không cần phải suy nghĩ nữa)… những thói quen tạo thành những sợi dây vững chắc kéo lôi ta trôi nổi muôn kiếp đời là vậy.
Con người chúng ta sống ở đời, gần như mọi hành đều là phản ứng theo thói quen.
Nghe đọc câu này lại có vẻ siêu thực. Nhưng sự thực là vậy. Dù chúng ta có “nhận thức” được “đây là một hành theo thói quen” hay không thì điều cố hữu hiển nhiên vẫn là: Chúng ta hầu như hành theo thói quen.. rất ít, rất ít và rất ít hành là hành “sáng tạo, đổi mới” được thực thi.
Chúng ta đi cũng là thói quen, ăn cũng là thói quen, thở cũng là thói quen…
Cho đến đọc báo cũng là thói quen, lướt mạng xã hội cũng là thói quen, đi làm cũng là thói quen, cho đến mở mồm nói cũng là thói quen và kể cả cái tập luận này cũng là thói quen…
Các thói quen.
Như vậy, chúng ta đã biết:
Thiện pháp thì nằm ở nhóm thói quen tốt
Bất thiện pháp thì nằm ở nhóm thói quen xấu
Thói quen nào làm tăng trưởng thiện pháp là thói quen tốt. Thói quen nào không làm tăng trưởng thiện pháp là thói quen xấu.
Thiện pháp là những pháp mà khi chúng ta thực hành, chúng sẽ đem lại kết quả tăng trưởng dục như ý túc hay làm duyên khởi định hiện tại an lạc trú.
Chúng ta đã biết về Bồ Tát Đạo - các vị Bồ Tát có thể mang mạng sống của mình ra để tu - điều này có nghĩa, trong đầu của các vị Bồ Tát hành không có pháp (khái niệm) “làm ơn mắc oán” hay “làm phúc phải tội” hay bất cứ 1 bất mãn gì về cảm thọ khổ. Các Ngài không cảm thọ khổ.
Bởi thế, chúng ta đã biết rõ: Thiện pháp khi được thực hành sẽ chỉ làm tăng trưởng “dục như ý túc” hay cảm thọ an lạc, hài lòng, vừa ý. Không thể nào có chuyện “hành thiện pháp” mà lại chịu khổ.
Người hành thiện pháp, không khổ.
Chúng ta thấy người khổ, người kêu khổ, ta khổ: Chỉ là chúng ta hành thiện pháp không đúng pháp, chúng ta cho đó là thiện thôi.
Ví dụ: Pháp thiện, không sát sinh.
Chúng ta không sát sinh vì cầu mong, tìm cầu rằng hành động này sẽ giúp được hưởng phước lạc trên đời… thì chẳng bao giờ thấy.
Nhưng khi không thấy phước lạc gì đến theo những kiểu cầu mong như phía trên mà chúng ta lại hành “không sát sinh” theo như 1 thói quen, không còn phải suy nghĩ gì nữa khi hành như vậy…v.v - Chúng ta lại sớm bất ngờ nhận ra sự an lạc nơi thân tâm.
Như vậy, pháp thiện cần phải được hành như một thói quen. Bất kỳ một pháp thiện nào đều cần phải được hành như 1 thói quen. Nó mới mang đến lợi lạc làm tăng trưởng dục như ý túc và điều này mới giúp người tu chúng ta thấy phước lạc.
Dù chỉ là 1 pháp thiện nhỏ bé đến không đáng kể được thực hành như 1 thói quen sẽ lớn hơn vô lượng pháp thiện khác nhau được thực hành với một mục đích lợi ích: Để được hưởng lại phước báu, phước lại ở đời.
Vì một thứ đem đến tăng trưởng dục như ý túc, còn một thứ chỉ để hưởng phước lạc ở đời. Trên đời này, rất nhiều người hành pháp thiện. Bất kỳ ai trong đời đều có những lúc hành pháp thiện. Nhiều người hành thường xuyên.
Sự tăng trưởng dục như ý túc - hay tiến gần hơn sự giải thoát chỉ đến bởi hành pháp thiện như một thói quen.
Vì sao?
- Vì lúc này, người thực hành đã “nhét” được một hành thiện ( 1 tia minh) vào CƠ VÔ THỨC (khái niệm đầu luận) dù chưa vào cửa Đạo, chưa nắm được Cơ, chưa nắm được sinh tử.
Muốn có thói quen, chúng ta hành lõm bõm một vài lần, ngắt quãng thi thoảng một vài thời… thì nó có thành thói quen được không?
- Bởi vậy, phải nhẫn là thế, phải kiên trì hành là vậy. Phải tỉnh thức để tự biết, tự thấy bản thân minh đang kiên trì hành gì (tu pháp gì) để tạo nên thói quen gì. Là vậy.
- Như vậy, chúng ta đã biết, chúng ta tu là tu gì chưa?
Pháp vốn là không pháp. Chúng ta đi tìm pháp gì đó để tu Đạo..v.v. - đủ hết các loại từ bí kíp đến kinh kệ đến tông thừa.v.v.v vô vàn pháp, vô lượng nhan nhản trên đời hiện nay.
Rốt cục: Tu là hành, là hành từ 1 pháp thiện để cho nó thành 1 thói quen đến vô lượng pháp thiện đều thành thói quen.
Thế mà giải thoát?
- Giải thoát thật, thế mới là diệu kỳ, mới là “Giác hữu tình” - Bồ Tát hành.
Thói quen chính là một loại dây dính mắc!
Chúng ta ở đời vốn đã không giải thoát, các hành đều chủ yếu ở trong vô minh. 5 sợi dây triền cái nhiều lúc nghe nghĩ đến thấy thật cao xa - vì ngôn ngữ cổ xưa. Hiện đại, thế giới có cụm từ “thói quen” - dù cụm từ này không mô tả nghĩa tương đồng với 5 sợi dây triền cái nhưng “thói quen” chính là sợi dây hữu hình mà ai cũng có thể thấy, nó trói chặt chúng ta ở thế (giới) này.
Ngày xưa, Đức Thế Tôn không cho phép các vị Chư Tăng đoàn ở một nơi nào qua đêm quá 3 đêm - luôn yêu cầu di chuyển, trừ thời gian kiết hạ và biệt trú hành công. - Không cho sự “khả ái” duyên sinh thành quen thuộc.
Ngày nay, chúng ta có những thứ gọi là thói quen tốt, thói quen xấu… đều là thói quen cả, trói buộc cả. Nếu phải có 1 thói quen, đó chỉ có thể là “dục như ý túc”. Ngoài ra, đều là trói buộc cả.
Nghe đọc điều này có vẻ siêu thực?
- Nhưng sự thực là vậy. Thói quen là một loại dây trói buộc.
Vì chúng ta chưa phải là người đã giải thoát khỏi thế (giới) này, chúng ta lại biết rất rõ, ở thế này hành gì (ngoài hành dục như ý túc) đều là những hành sớm muộn đem đến khổ đau, nghiệp nợ và dính mắc… dù nó mang đến những thọ lạc hay lợi ích gì… tất cả mọi hành đều là (niệm vô minh duyên hành… nên sinh ra thế giới luân hồi này). Vì lẽ đó, thói quen là những hành lặp đi lặp lại (đôi khi không cần phải suy nghĩ nữa)… những thói quen tạo thành những sợi dây vững chắc kéo lôi ta trôi nổi muôn kiếp đời là vậy.
Con người chúng ta sống ở đời, gần như mọi hành đều là phản ứng theo thói quen.
Nghe đọc câu này lại có vẻ siêu thực. Nhưng sự thực là vậy. Dù chúng ta có “nhận thức” được “đây là một hành theo thói quen” hay không thì điều cố hữu hiển nhiên vẫn là: Chúng ta hầu như hành theo thói quen.. rất ít, rất ít và rất ít hành là hành “sáng tạo, đổi mới” được thực thi.
Chúng ta đi cũng là thói quen, ăn cũng là thói quen, thở cũng là thói quen…
Cho đến đọc báo cũng là thói quen, lướt mạng xã hội cũng là thói quen, đi làm cũng là thói quen, cho đến mở mồm nói cũng là thói quen và kể cả cái tập luận này cũng là thói quen…
Các thói quen.
Như vậy, chúng ta đã biết:
Thiện pháp thì nằm ở nhóm thói quen tốt
Bất thiện pháp thì nằm ở nhóm thói quen xấu
Thói quen nào làm tăng trưởng thiện pháp là thói quen tốt. Thói quen nào không làm tăng trưởng thiện pháp là thói quen xấu.
Thiện pháp là những pháp mà khi chúng ta thực hành, chúng sẽ đem lại kết quả tăng trưởng dục như ý túc hay làm duyên khởi định hiện tại an lạc trú.
Chúng ta đã biết về Bồ Tát Đạo - các vị Bồ Tát có thể mang mạng sống của mình ra để tu - điều này có nghĩa, trong đầu của các vị Bồ Tát hành không có pháp (khái niệm) “làm ơn mắc oán” hay “làm phúc phải tội” hay bất cứ 1 bất mãn gì về cảm thọ khổ. Các Ngài không cảm thọ khổ.
Bởi thế, chúng ta đã biết rõ: Thiện pháp khi được thực hành sẽ chỉ làm tăng trưởng “dục như ý túc” hay cảm thọ an lạc, hài lòng, vừa ý. Không thể nào có chuyện “hành thiện pháp” mà lại chịu khổ.
Người hành thiện pháp, không khổ.
Chúng ta thấy người khổ, người kêu khổ, ta khổ: Chỉ là chúng ta hành thiện pháp không đúng pháp, chúng ta cho đó là thiện thôi.
Ví dụ: Pháp thiện, không sát sinh.
Chúng ta không sát sinh vì cầu mong, tìm cầu rằng hành động này sẽ giúp được hưởng phước lạc trên đời… thì chẳng bao giờ thấy.
Nhưng khi không thấy phước lạc gì đến theo những kiểu cầu mong như phía trên mà chúng ta lại hành “không sát sinh” theo như 1 thói quen, không còn phải suy nghĩ gì nữa khi hành như vậy…v.v - Chúng ta lại sớm bất ngờ nhận ra sự an lạc nơi thân tâm.
Như vậy, pháp thiện cần phải được hành như một thói quen. Bất kỳ một pháp thiện nào đều cần phải được hành như 1 thói quen. Nó mới mang đến lợi lạc làm tăng trưởng dục như ý túc và điều này mới giúp người tu chúng ta thấy phước lạc.
Dù chỉ là 1 pháp thiện nhỏ bé đến không đáng kể được thực hành như 1 thói quen sẽ lớn hơn vô lượng pháp thiện khác nhau được thực hành với một mục đích lợi ích: Để được hưởng lại phước báu, phước lại ở đời.
Vì một thứ đem đến tăng trưởng dục như ý túc, còn một thứ chỉ để hưởng phước lạc ở đời. Trên đời này, rất nhiều người hành pháp thiện. Bất kỳ ai trong đời đều có những lúc hành pháp thiện. Nhiều người hành thường xuyên.
Sự tăng trưởng dục như ý túc - hay tiến gần hơn sự giải thoát chỉ đến bởi hành pháp thiện như một thói quen.
Vì sao?
- Vì lúc này, người thực hành đã “nhét” được một hành thiện ( 1 tia minh) vào CƠ VÔ THỨC (khái niệm đầu luận) dù chưa vào cửa Đạo, chưa nắm được Cơ, chưa nắm được sinh tử.
Muốn có thói quen, chúng ta hành lõm bõm một vài lần, ngắt quãng thi thoảng một vài thời… thì nó có thành thói quen được không?
- Bởi vậy, phải nhẫn là thế, phải kiên trì hành là vậy. Phải tỉnh thức để tự biết, tự thấy bản thân minh đang kiên trì hành gì (tu pháp gì) để tạo nên thói quen gì. Là vậy.
- Như vậy, chúng ta đã biết, chúng ta tu là tu gì chưa?
Pháp vốn là không pháp. Chúng ta đi tìm pháp gì đó để tu Đạo..v.v. - đủ hết các loại từ bí kíp đến kinh kệ đến tông thừa.v.v.v vô vàn pháp, vô lượng nhan nhản trên đời hiện nay.
Rốt cục: Tu là hành, là hành từ 1 pháp thiện để cho nó thành 1 thói quen đến vô lượng pháp thiện đều thành thói quen.
Thế mà giải thoát?
- Giải thoát thật, thế mới là diệu kỳ, mới là “Giác hữu tình” - Bồ Tát hành.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Thói quen được nuôi dưỡng và huân tập bao nhiêu lâu - chẳng ai tự biết nổi. Chúng ta chỉ biết rằng: Lặp đi lặp lại thì tạo thành thói quen, thói quen thì tạo thành tính cách, tính cách thì tạo thành số phận… - Đó là những điều mà phương tây họ nói.
Dù thừa nhận hay không, số phận là do chính chúng ta tạo ra. Chẳng phải do một “Đấng siêu nhiên” nào quyết định. Nó có thể được “di truyền” từ tiền kiếp của chúng ta, được chú định từ tiền kiếp… nhưng tất cả đều là do chính chúng ta.
Vì đều là ảo mộng điên đảo cả - nên những gì hiện hữu với chúng ta tại hiện đời nếu có những thứ (phước, nghiệp, nợ) từ tiền kiếp thì đều là do ở hiện đời chúng ta đã có những hành để tạo hợp duyên cho nó hiện. Nếu như không có những hành ở hiện đời tạo hợp duyên cho những sự hiện diện nhân quả của tiền kiếp thì những nghiệp phước nợ đó không thể hiện diện, xuất hiện và an trú vào chúng ta ở hiện đời này.
Điều này không hề mâu thuẫn với những sự thường được gọi là “ngẫu nhiên” như may mắn ngẫu nhiên, đột ngột tai hoạ.v.v. - Nó an trú được vào chúng ta, xuất hiện được ở hiện đời là do hợp duyên của hành hiện đời.
Ví dụ: Chúng ta đi đường, gặp tai nạn chết. - Đây là đột ngột, là ngẫu nhiên, là không ai chủ ý.v.v. - Nhưng điều này đến là bởi chúng ta có hành đi đường. Chúng ta không hành này thì nó có xảy ra không? - Không.
Nhưng không đi đường, ở trong nhà, tự nhiên bị xe mất lái nó đâm đổ sập tường, cũng chết. - Thế là bảo, số, số rồi.
Về mặt lý thuyết, nếu không ở trong nhà, ở ngoài vườn, sự việc chết có xảy ra không? - Ít nhất là không, ở chỗ này.
Nhưng ở ngoài vườn, có khi lại tự nhiên bị nhánh cành cây sầu, hư hại bị cơn gió thổi gãy rơi trúng đầu..v.v
Phước, nghiệp, nợ ở quá khứ một khi nó đã đến trong “hộp đen lượng tử” ở đời này, rất khó để “không mở phải nó ở giây phút hiện tại”.
Chỉ có 1 cách rốt ráo, có thể tiêu giảm và đoạn diệt và hoá diệt những nghiệp phước nợ ở đời quá khứ đến và an trú ở giây phút hiện tại, tương lai, đó chính là: Tu Đạo - Tu dục như ý túc, giải thoát - vì khi này, khi đã tu, những pháp thiện được thực thi (tu hành) trở thành thói quen - nó tạo ra trường lực (chính là phước được đến từ việc tu hành các pháp thiện) làm cho nghiệp nợ quá khứ bị đoạn diệt, đẩy lùi.
Ở đây, chúng ta đã rõ, tu hành chính là thực hành, chính làm, chính là hành động những pháp thiện như là 1 thói quen.
Đức Thế Tôn có nói về 10 pháp thiện. Gọi là thập thiện. - Chúng ta tu được nó tạo thành thói quen thì ngay lập tức sẽ thấy:
Quá khứ đã đoạn diệt (tức là đoạn diệt được nghiệp nợ)
Tương lai thì chưa tới ( tức là hành thói quen 1 pháp thiện nào đó mà không mong cầu gì ở tương lai - đây mới là thực thiện).
An trú ở hiện tại…
Từ đây, chúng ta thấy: Thói quen hành 1 pháp thiện mới là tu, mới là thiện, mới là hành thiện, mới là thấy câu hữu giữa tia từ bi và thiện.
Còn chúng ta có thể hành vô vàn pháp thiện nhưng nếu không tạo thành 1 thói quen cho ít nhất là 1 pháp thiện thì…. Ngay bây giờ quán trở lại, quán kỹ chúng ta sẽ thấy, chúng ta mới chỉ hành “giả thiện” mà thôi… chúng ta hành nhưng luôn với những mục đích dục lạc (lợi ích đính kèm)… thi thoảng có những hành thiện vô tư nhưng lại không phải là thói quen.
Đây chính là lý do: Sao tôi là người lương thiện, suốt ngày đi từ thiện, quyên góp từ thiện, giúp đỡ trẻ em, giúp người nghèo khổ.v.vv. Mà giờ đây tôi lại bị “vào tù”….
Cũng như bao lý do của những con người bình thường chúng ta, đang tự nhận là thiện… mà sao vẫn thấy khổ, vẫn luân hồi, vẫn không giải thoát.
Một pháp thiện được tu hành thành thói quen đã đem lại kết quả thiết thực nhiệm màu. Khi vô lượng pháp thiện được tu hành thành thói quen… - Chả có cái gì “tà ác” mà đến được gần người này - Họ “giải thoát” rồi còn đâu.
- Cái gì cũng đến từ tu hành là vậy. Còn văn trí? - Để “loè” thôi chứ có ích gì?
Dù thừa nhận hay không, số phận là do chính chúng ta tạo ra. Chẳng phải do một “Đấng siêu nhiên” nào quyết định. Nó có thể được “di truyền” từ tiền kiếp của chúng ta, được chú định từ tiền kiếp… nhưng tất cả đều là do chính chúng ta.
Vì đều là ảo mộng điên đảo cả - nên những gì hiện hữu với chúng ta tại hiện đời nếu có những thứ (phước, nghiệp, nợ) từ tiền kiếp thì đều là do ở hiện đời chúng ta đã có những hành để tạo hợp duyên cho nó hiện. Nếu như không có những hành ở hiện đời tạo hợp duyên cho những sự hiện diện nhân quả của tiền kiếp thì những nghiệp phước nợ đó không thể hiện diện, xuất hiện và an trú vào chúng ta ở hiện đời này.
Điều này không hề mâu thuẫn với những sự thường được gọi là “ngẫu nhiên” như may mắn ngẫu nhiên, đột ngột tai hoạ.v.v. - Nó an trú được vào chúng ta, xuất hiện được ở hiện đời là do hợp duyên của hành hiện đời.
Ví dụ: Chúng ta đi đường, gặp tai nạn chết. - Đây là đột ngột, là ngẫu nhiên, là không ai chủ ý.v.v. - Nhưng điều này đến là bởi chúng ta có hành đi đường. Chúng ta không hành này thì nó có xảy ra không? - Không.
Nhưng không đi đường, ở trong nhà, tự nhiên bị xe mất lái nó đâm đổ sập tường, cũng chết. - Thế là bảo, số, số rồi.
Về mặt lý thuyết, nếu không ở trong nhà, ở ngoài vườn, sự việc chết có xảy ra không? - Ít nhất là không, ở chỗ này.
Nhưng ở ngoài vườn, có khi lại tự nhiên bị nhánh cành cây sầu, hư hại bị cơn gió thổi gãy rơi trúng đầu..v.v
Phước, nghiệp, nợ ở quá khứ một khi nó đã đến trong “hộp đen lượng tử” ở đời này, rất khó để “không mở phải nó ở giây phút hiện tại”.
Chỉ có 1 cách rốt ráo, có thể tiêu giảm và đoạn diệt và hoá diệt những nghiệp phước nợ ở đời quá khứ đến và an trú ở giây phút hiện tại, tương lai, đó chính là: Tu Đạo - Tu dục như ý túc, giải thoát - vì khi này, khi đã tu, những pháp thiện được thực thi (tu hành) trở thành thói quen - nó tạo ra trường lực (chính là phước được đến từ việc tu hành các pháp thiện) làm cho nghiệp nợ quá khứ bị đoạn diệt, đẩy lùi.
Ở đây, chúng ta đã rõ, tu hành chính là thực hành, chính làm, chính là hành động những pháp thiện như là 1 thói quen.
Đức Thế Tôn có nói về 10 pháp thiện. Gọi là thập thiện. - Chúng ta tu được nó tạo thành thói quen thì ngay lập tức sẽ thấy:
Quá khứ đã đoạn diệt (tức là đoạn diệt được nghiệp nợ)
Tương lai thì chưa tới ( tức là hành thói quen 1 pháp thiện nào đó mà không mong cầu gì ở tương lai - đây mới là thực thiện).
An trú ở hiện tại…
Từ đây, chúng ta thấy: Thói quen hành 1 pháp thiện mới là tu, mới là thiện, mới là hành thiện, mới là thấy câu hữu giữa tia từ bi và thiện.
Còn chúng ta có thể hành vô vàn pháp thiện nhưng nếu không tạo thành 1 thói quen cho ít nhất là 1 pháp thiện thì…. Ngay bây giờ quán trở lại, quán kỹ chúng ta sẽ thấy, chúng ta mới chỉ hành “giả thiện” mà thôi… chúng ta hành nhưng luôn với những mục đích dục lạc (lợi ích đính kèm)… thi thoảng có những hành thiện vô tư nhưng lại không phải là thói quen.
Đây chính là lý do: Sao tôi là người lương thiện, suốt ngày đi từ thiện, quyên góp từ thiện, giúp đỡ trẻ em, giúp người nghèo khổ.v.vv. Mà giờ đây tôi lại bị “vào tù”….
Cũng như bao lý do của những con người bình thường chúng ta, đang tự nhận là thiện… mà sao vẫn thấy khổ, vẫn luân hồi, vẫn không giải thoát.
Một pháp thiện được tu hành thành thói quen đã đem lại kết quả thiết thực nhiệm màu. Khi vô lượng pháp thiện được tu hành thành thói quen… - Chả có cái gì “tà ác” mà đến được gần người này - Họ “giải thoát” rồi còn đâu.
- Cái gì cũng đến từ tu hành là vậy. Còn văn trí? - Để “loè” thôi chứ có ích gì?