PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Trường “hạo kiếp” nhiều năm trước, hẳn là không ai không nhớ… đã sản sinh ra một loạt những “kỳ quái”, nào là thần thông “ngoại cảm”, nào là “trường sinh học”, “trường luân xa”, trường “tâm linh”… náo động cả một thời và cũng làm bao người … mãi “đi xa” khoảng vô lượng kiếp…
Lần này, cũng vậy. Tất cả đều phụ thuộc vào Thầy. Thầy còn tỉnh thức thì Thầy sớm chế ngự được thiên ma giống như đã chế ngự nhân ma. Tuy nhiên, đom đóm mà thôi. Cấp thiên ma, thực sự không dễ vượt qua như đom đóm nhân ma.
Thầy mất tỉnh thức, ma sự ngập trời. Thầy cũng rõ, sẽ chẳng có ai đi độ ma cả. Lúc đó mọi thứ lẫn lộn, Phật là Ma, ma là Phật… người thường sau 1 đêm cũng có thể hoá thành thần với thông.v.v.
Thầy còn tỉnh thức chứ? - Thầy mà thấy được câu hỏi này thì Thầy vẫn trong tưởng như chúng ta. . - Chưa ra ngoài tưởng để vào trong thức được. Thầy không thấy, rất rõ tâm sẽ không bị quấy nhiễu…. Bằng không Thầy sẽ mất tỉnh thức nếu khi này tâm tưởng còn ở bên ngoài. “Cảm ứng Thiên” là chỉ khi còn ở bên ngoài rìa… đã bước sâu vào mà vẫn còn “cảm ứng thiên” là có chút lầm đường.
Khi Thầy vào trong thức, Thầy sẽ biết mất. Ai ở đây đọc tập luận này cũng mong Thầy biến mất. Vì biến mất, không phải là biến mất.
Dù khả năng thực tế hiện giờ, bước tiến của Thầy đang hơi chậm lại, có xu thế lui. Tuy nhiên, không thể bị lạc. Lạc chỗ này là hỏng.
Trong thời gian Thầy vào trong thức, - điều này nên được “khẳng định” - vì Đạo Sư chưa hiện, nên không có ai thọ ký cho Thầy cả. Chúng ta chỉ có thể “khẳng định” bằng tưởng và tin tưởng điều này.
Nếu điều này là đúng: Chúng ta sẽ thấy Thị Giả xuất hiện ở thời gian tới
Tất nhiên, khi Thầy còn tỉnh thức, thầy sẽ “doạ” được các chư vị thiên ma nằm im hết như “doạ” các chư vị nhân ma thì chuyện… thiên ma phụ thể quấy nhiễu nhân gian như mười mấy hai mươi năm trước sẽ ít khi xảy ra.
Vị nào là Thị Giả?
Chúng ta chờ mong quá, để đưa tập chuyện này theo chân nhị vị - thoả một thời luận - lúc đó, không biết sẽ được gọi là “bao nhiêu năm “tự chém”…
***
Dù sao, cũng còn lâu mới đến Pháp Hoa. Nhưng ở đây người “tác tưởng” đã biết rất rõ là Thầy sẽ thành công - thì mới có cái tập chuyện này cùng sự đợi chờ Thầy Thị Giả hiện thân.
Các Chư Tôn Đức đều “chán đời” hết rồi. Toàn là những người “giả ngây giả ngô” đang vật lộn ở đời. Khổ! Thật chẳng ai dám xông lên. Nơi đó thật “kinh hoàng”. - Nhờ Thầy!
Lần này, cũng vậy. Tất cả đều phụ thuộc vào Thầy. Thầy còn tỉnh thức thì Thầy sớm chế ngự được thiên ma giống như đã chế ngự nhân ma. Tuy nhiên, đom đóm mà thôi. Cấp thiên ma, thực sự không dễ vượt qua như đom đóm nhân ma.
Thầy mất tỉnh thức, ma sự ngập trời. Thầy cũng rõ, sẽ chẳng có ai đi độ ma cả. Lúc đó mọi thứ lẫn lộn, Phật là Ma, ma là Phật… người thường sau 1 đêm cũng có thể hoá thành thần với thông.v.v.
Thầy còn tỉnh thức chứ? - Thầy mà thấy được câu hỏi này thì Thầy vẫn trong tưởng như chúng ta. . - Chưa ra ngoài tưởng để vào trong thức được. Thầy không thấy, rất rõ tâm sẽ không bị quấy nhiễu…. Bằng không Thầy sẽ mất tỉnh thức nếu khi này tâm tưởng còn ở bên ngoài. “Cảm ứng Thiên” là chỉ khi còn ở bên ngoài rìa… đã bước sâu vào mà vẫn còn “cảm ứng thiên” là có chút lầm đường.
Khi Thầy vào trong thức, Thầy sẽ biết mất. Ai ở đây đọc tập luận này cũng mong Thầy biến mất. Vì biến mất, không phải là biến mất.
Dù khả năng thực tế hiện giờ, bước tiến của Thầy đang hơi chậm lại, có xu thế lui. Tuy nhiên, không thể bị lạc. Lạc chỗ này là hỏng.
Trong thời gian Thầy vào trong thức, - điều này nên được “khẳng định” - vì Đạo Sư chưa hiện, nên không có ai thọ ký cho Thầy cả. Chúng ta chỉ có thể “khẳng định” bằng tưởng và tin tưởng điều này.
Nếu điều này là đúng: Chúng ta sẽ thấy Thị Giả xuất hiện ở thời gian tới
Tất nhiên, khi Thầy còn tỉnh thức, thầy sẽ “doạ” được các chư vị thiên ma nằm im hết như “doạ” các chư vị nhân ma thì chuyện… thiên ma phụ thể quấy nhiễu nhân gian như mười mấy hai mươi năm trước sẽ ít khi xảy ra.
Vị nào là Thị Giả?
Chúng ta chờ mong quá, để đưa tập chuyện này theo chân nhị vị - thoả một thời luận - lúc đó, không biết sẽ được gọi là “bao nhiêu năm “tự chém”…
***
Dù sao, cũng còn lâu mới đến Pháp Hoa. Nhưng ở đây người “tác tưởng” đã biết rất rõ là Thầy sẽ thành công - thì mới có cái tập chuyện này cùng sự đợi chờ Thầy Thị Giả hiện thân.
Các Chư Tôn Đức đều “chán đời” hết rồi. Toàn là những người “giả ngây giả ngô” đang vật lộn ở đời. Khổ! Thật chẳng ai dám xông lên. Nơi đó thật “kinh hoàng”. - Nhờ Thầy!
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Đạo Sư không xuất, mọi thứ chỉ là “viển vông” mộng tưởng. Chỉ khi hai vị tả hữu hộ giáo hiện thế, mới có khả năng xuất hiện Pháp Hoa.
***
Trở về với giới gian!
Một trong những nguy hiểm nhất của tu tập đó là: Không giới hay giới không hoàn chỉnh mà đã vội vàng tu tập pháp tam muội (pháp định).
Hai phần phía trước, chúng ta đã rất rõ: Quán hay Thiền na mới là pháp căn cơ. Khi quán thấy tia từ bi tự tâm mới là đốt đuốc xong.
Đuốc cháy, mới dùng để đi vào định. Vì vào định là vào “ma” xứ.
Theo một lẽ tự nhiên, khi tia từ bi đã được thấy, người tu hành tự nhiên vào định. Cấp vào tuỳ theo sự sáng tỏ của tia từ bi (minh).
Để thấy từ 0 tới 1 tia là khó nhất. Thấy từ 1 tia tới 2 tia là khó nhì. Khi đã thấy được 2 tia - người đó tự thấy (cảm ứng ước lượng) được còn phải tu bao lâu nữa thì giải thoát.
Dễ vậy thôi, nhưng vô số đời.
Dù đã thấy có 1 tia từ bi, khi vào định, vẫn bị “đập” trở lại như thường:
Thường thấy nhất:
+ Do ảnh hưởng của trung thiên và thượng thiên. Nguồn năng lượng (ma) sẽ đi vào thân tâm người tu qua rất nhiều cửa - bởi lúc này nó đã đang được mở ra (vì đang tu). Tuy nhiên, người tu do sự tích luỹ về Quán Thấy (hay hạnh thiền na) là quá ít, do nóng vội không quán kỹ về không vô biên xứ, thức vô biên xứ… nên với 1 tia minh tâm, vào định sẽ rất dễ bị “ảnh hưởng” - nói khó nghe là “ma nhập”. Hầu hết mọi người tu đều rơi vào trường hợp này.
+ Trường hợp phía trên là bình thường vì hầu như ai cũng như vậy. Luân hồi “vài lượt” rồi cũng sẽ thấy ra. Còn vài là bao nhiêu thì tuỳ. Tuy nhiên, bởi vì đã thấy được 1 tia tự tánh nên dù làm ma thì cũng vẫn có khả năng là tốt hơn “nhân” nhan nhản ở đời.
Nguồn “năng lượng” có thể vào qua:
1/ Bàn chân: Hệ thống khiếu huyệt ở bàn chân khi này đã có thể thông “thiên địa”. Vô tình người tu hành vẫn chưa biết gì về hệ thông liên quan đến toàn bộ thân tâm này nên không “hộ trì”… đã để nguồn năng lượng trung thượng thiên xâm nhập.
Bàn chân có đủ các khuyết huyệt thông tới toàn thân.
Khi thiền - kể cả là thiền na. Bất dưng vào định, khí sẽ xâm nhập qua bàn chân và đi lên. Khi xả thiền lại không đúng cách, có thể bị tích khí ngoại lai, lại không biết luyện hoá, lâu dần tích luỹ sinh bệnh. Ngược lại, do lực hạnh tu tập còn yếu nhưng lại ở 1 địa điểm tu tập với nhiều nguồn năng lượng trung thượng thiên. Nguồn năng lượng vào qua bàn chân quá lớn khiến người tu thiền na lập tức bị mất tỉnh thức, rơi vào mê mờ và ý thức bị biến đổi, tâm lý biến chất, rơi vào “tẩu hoả nhập ma”.
2/ 7 Luân xa.
7 luân xa đã được nhắc đến phía trước. Khi màng ngăn dĩ thái được mở ra. Năng lượng trung thượng thiên có thể dễ dàng vào thân tâm. Tuy nhiên, người tu thiền na lúc này chưa có pháp để luyện hoá hoặc đẩy ra, bị tích tụ lâu ngày sẽ trở nên bệnh.
Ngoài ra, một số “tập hợp trạng thái năng lượng” ở trung thượng thiên là có cấu trúc cụ thể - sự “vô hình” này có thể chủ ý đi vào qua các luân xa đó để khống chế tâm thức người tu.
Những sự trên, đến rất tự nhiên và ai cũng sẽ gặp khi đi đến đây. Điều khác nhau ở chỗ: Chỉ rất ít người chợt nhận thấy còn lại không cảm thấy gì và hầu như đều nằm ở phần: Dù có nhận thấy hay thấy 1 sự khác thường nào đó nhưng lại hoàn toàn không có trí quán để nhận ra được rằng: Đây là gì và hầu như là… bỏ qua.
Đến một lúc không thể tự tỉnh thức nhận ra rằng: Mình đã luân hãm.
Vì ai tu tập cũng sẽ trải qua chỗ đang nói đây nên, chỉ có người có tia từ bi sáng (dù mới chỉ là 1 tia), nhưng phải là tia đã sáng rõ rồi… sẽ rất nhanh lấy lại tỉnh thức. Sớm biết bản thân đang hiện trạng thái thế nào khi này. Còn vào sâu, hầu như tia minh lại sẽ bị che mất… biến thành huyễn tưởng (ảo mộng).
Chúng ta rất rõ: Bản tính chúng ta là chân như thường hằng (Phật/Từ Bi/Chân)… ở trạng thái chân như thường hằng này mà chỉ vì 1 niệm vô minh đã khiến chúng ta trầm luân như bây giờ….
Vậy, khi tu ngược trở lại: Dễ hay khó?
Bởi thế, ai và gần như là “tẩu hoả” ở chỗ này.
Chúng ta không muốn vào định xứ nhưng “nước chảy thành sông”. Tu đến 1 thời, sẽ tự nhiên vào … các cửa đó đều tự thông mà chúng ta không biết - đây mới là thứ nan giải. Nó trên thân ta mở ra mà chúng ta lại không nhận ra.
Ngược lại, khi chúng ta biết/thấy, chúng ta mới dùng được nguồn năng lượng này để tu tập (bước đi).
(Chỗ này còn cách xa cửa Đạo 8 vạn 4 nghìn vô lượng năm ánh sáng)
3/ Qua lỗ (chân lông, mũi)… (Cũng như phía trên)
Trên thân chúng ta, do quá trình luân hồi và xây dựng thế giới này đã tự tạo ra những lớp bảo vệ cho chính “mình”. Một trong những lớp đó là những cửa kia vốn dĩ “đóng”.
Một cánh cửa bảo vệ nữa là “Dòng vận khí” hay “dòng vận năng” hay cơ chế “thông thần” được ngăn cách bởi một “sự đứt đoạn” rất nhỏ phía sau gáy. Đây là sự ngăn cách giữa hạ và thượng. Sự ngăn cách có thể nói là xa tận chân trời. (Một biên chân trời sự kiện).
Năng lượng ở phía trên khi vào được thì dễ dàng đi qua hết vì nó vốn ở trên cao.
Còn chúng ta muốn “luyện năng” bắt buộc phải “NỐI”, phải bắc cầu thông qua “chân trời sự kiện này”.
(((“Nghe đồn”))): Cách đơn giản nhất làm cầu là: Ở trên đánh xuống, ở dưới thốc lên!
Khi đã thấy rõ những điều đã và đang nói: Người tu hành đưa khí từ ở dưới lên, đồng thời đưa khí từ trên xuống. Gọi là dụng công. Vận công. Vì cần thân tâm tập trung cao độ với sự tỉnh thức.
Phải nối được mạch “vận năng” thì mới có thể đi tiếp.
Chưa thành công thì khi xả thiền bắt buộc phải tán công, tán khí, tán triệt để.
Kiên trì, ắt thành công.
Lượng năng ở trên có chỉ bởi luân 7 hay luân 6. Luân 7 không được đụng vì nó ảo. Chỉ có luân 6 như đã nhắc. Đây là lượng năng trí thượng.
5 luân dưới thì nó tự mở rồi. Lượng năng lúc này người tu đã thấy không thiếu. Nó chạy ầm ầm. Hướng nó lên, mà chưa nối được, nó như bốc hoả…
Dù vậy, cũng gần như là “nhập ma” cả với nhau ấy mà…
***
Trở về với giới gian!
Một trong những nguy hiểm nhất của tu tập đó là: Không giới hay giới không hoàn chỉnh mà đã vội vàng tu tập pháp tam muội (pháp định).
Hai phần phía trước, chúng ta đã rất rõ: Quán hay Thiền na mới là pháp căn cơ. Khi quán thấy tia từ bi tự tâm mới là đốt đuốc xong.
Đuốc cháy, mới dùng để đi vào định. Vì vào định là vào “ma” xứ.
Theo một lẽ tự nhiên, khi tia từ bi đã được thấy, người tu hành tự nhiên vào định. Cấp vào tuỳ theo sự sáng tỏ của tia từ bi (minh).
Để thấy từ 0 tới 1 tia là khó nhất. Thấy từ 1 tia tới 2 tia là khó nhì. Khi đã thấy được 2 tia - người đó tự thấy (cảm ứng ước lượng) được còn phải tu bao lâu nữa thì giải thoát.
Dễ vậy thôi, nhưng vô số đời.
Dù đã thấy có 1 tia từ bi, khi vào định, vẫn bị “đập” trở lại như thường:
Thường thấy nhất:
+ Do ảnh hưởng của trung thiên và thượng thiên. Nguồn năng lượng (ma) sẽ đi vào thân tâm người tu qua rất nhiều cửa - bởi lúc này nó đã đang được mở ra (vì đang tu). Tuy nhiên, người tu do sự tích luỹ về Quán Thấy (hay hạnh thiền na) là quá ít, do nóng vội không quán kỹ về không vô biên xứ, thức vô biên xứ… nên với 1 tia minh tâm, vào định sẽ rất dễ bị “ảnh hưởng” - nói khó nghe là “ma nhập”. Hầu hết mọi người tu đều rơi vào trường hợp này.
+ Trường hợp phía trên là bình thường vì hầu như ai cũng như vậy. Luân hồi “vài lượt” rồi cũng sẽ thấy ra. Còn vài là bao nhiêu thì tuỳ. Tuy nhiên, bởi vì đã thấy được 1 tia tự tánh nên dù làm ma thì cũng vẫn có khả năng là tốt hơn “nhân” nhan nhản ở đời.
Nguồn “năng lượng” có thể vào qua:
1/ Bàn chân: Hệ thống khiếu huyệt ở bàn chân khi này đã có thể thông “thiên địa”. Vô tình người tu hành vẫn chưa biết gì về hệ thông liên quan đến toàn bộ thân tâm này nên không “hộ trì”… đã để nguồn năng lượng trung thượng thiên xâm nhập.
Bàn chân có đủ các khuyết huyệt thông tới toàn thân.
Khi thiền - kể cả là thiền na. Bất dưng vào định, khí sẽ xâm nhập qua bàn chân và đi lên. Khi xả thiền lại không đúng cách, có thể bị tích khí ngoại lai, lại không biết luyện hoá, lâu dần tích luỹ sinh bệnh. Ngược lại, do lực hạnh tu tập còn yếu nhưng lại ở 1 địa điểm tu tập với nhiều nguồn năng lượng trung thượng thiên. Nguồn năng lượng vào qua bàn chân quá lớn khiến người tu thiền na lập tức bị mất tỉnh thức, rơi vào mê mờ và ý thức bị biến đổi, tâm lý biến chất, rơi vào “tẩu hoả nhập ma”.
2/ 7 Luân xa.
7 luân xa đã được nhắc đến phía trước. Khi màng ngăn dĩ thái được mở ra. Năng lượng trung thượng thiên có thể dễ dàng vào thân tâm. Tuy nhiên, người tu thiền na lúc này chưa có pháp để luyện hoá hoặc đẩy ra, bị tích tụ lâu ngày sẽ trở nên bệnh.
Ngoài ra, một số “tập hợp trạng thái năng lượng” ở trung thượng thiên là có cấu trúc cụ thể - sự “vô hình” này có thể chủ ý đi vào qua các luân xa đó để khống chế tâm thức người tu.
Những sự trên, đến rất tự nhiên và ai cũng sẽ gặp khi đi đến đây. Điều khác nhau ở chỗ: Chỉ rất ít người chợt nhận thấy còn lại không cảm thấy gì và hầu như đều nằm ở phần: Dù có nhận thấy hay thấy 1 sự khác thường nào đó nhưng lại hoàn toàn không có trí quán để nhận ra được rằng: Đây là gì và hầu như là… bỏ qua.
Đến một lúc không thể tự tỉnh thức nhận ra rằng: Mình đã luân hãm.
Vì ai tu tập cũng sẽ trải qua chỗ đang nói đây nên, chỉ có người có tia từ bi sáng (dù mới chỉ là 1 tia), nhưng phải là tia đã sáng rõ rồi… sẽ rất nhanh lấy lại tỉnh thức. Sớm biết bản thân đang hiện trạng thái thế nào khi này. Còn vào sâu, hầu như tia minh lại sẽ bị che mất… biến thành huyễn tưởng (ảo mộng).
Chúng ta rất rõ: Bản tính chúng ta là chân như thường hằng (Phật/Từ Bi/Chân)… ở trạng thái chân như thường hằng này mà chỉ vì 1 niệm vô minh đã khiến chúng ta trầm luân như bây giờ….
Vậy, khi tu ngược trở lại: Dễ hay khó?
Bởi thế, ai và gần như là “tẩu hoả” ở chỗ này.
Chúng ta không muốn vào định xứ nhưng “nước chảy thành sông”. Tu đến 1 thời, sẽ tự nhiên vào … các cửa đó đều tự thông mà chúng ta không biết - đây mới là thứ nan giải. Nó trên thân ta mở ra mà chúng ta lại không nhận ra.
Ngược lại, khi chúng ta biết/thấy, chúng ta mới dùng được nguồn năng lượng này để tu tập (bước đi).
(Chỗ này còn cách xa cửa Đạo 8 vạn 4 nghìn vô lượng năm ánh sáng)
3/ Qua lỗ (chân lông, mũi)… (Cũng như phía trên)
Trên thân chúng ta, do quá trình luân hồi và xây dựng thế giới này đã tự tạo ra những lớp bảo vệ cho chính “mình”. Một trong những lớp đó là những cửa kia vốn dĩ “đóng”.
Một cánh cửa bảo vệ nữa là “Dòng vận khí” hay “dòng vận năng” hay cơ chế “thông thần” được ngăn cách bởi một “sự đứt đoạn” rất nhỏ phía sau gáy. Đây là sự ngăn cách giữa hạ và thượng. Sự ngăn cách có thể nói là xa tận chân trời. (Một biên chân trời sự kiện).
Năng lượng ở phía trên khi vào được thì dễ dàng đi qua hết vì nó vốn ở trên cao.
Còn chúng ta muốn “luyện năng” bắt buộc phải “NỐI”, phải bắc cầu thông qua “chân trời sự kiện này”.
(((“Nghe đồn”))): Cách đơn giản nhất làm cầu là: Ở trên đánh xuống, ở dưới thốc lên!
Khi đã thấy rõ những điều đã và đang nói: Người tu hành đưa khí từ ở dưới lên, đồng thời đưa khí từ trên xuống. Gọi là dụng công. Vận công. Vì cần thân tâm tập trung cao độ với sự tỉnh thức.
Phải nối được mạch “vận năng” thì mới có thể đi tiếp.
Chưa thành công thì khi xả thiền bắt buộc phải tán công, tán khí, tán triệt để.
Kiên trì, ắt thành công.
Lượng năng ở trên có chỉ bởi luân 7 hay luân 6. Luân 7 không được đụng vì nó ảo. Chỉ có luân 6 như đã nhắc. Đây là lượng năng trí thượng.
5 luân dưới thì nó tự mở rồi. Lượng năng lúc này người tu đã thấy không thiếu. Nó chạy ầm ầm. Hướng nó lên, mà chưa nối được, nó như bốc hoả…
Dù vậy, cũng gần như là “nhập ma” cả với nhau ấy mà…
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Một trong những nan đề khi đi tới đây:
Đi tới đây tức là đã trải qua nửa năm, mấy trăm bài pháp chém (chứ không phải pháp Phật), ai cũng đã có thể thấy: Cuộc đời này nhẹ tựa lông hồng…
Một trong những nan đề đó là: Dù xung quanh có đang là những chuyện gì, dù chuyện to, chuyện nhỏ, hay chẳng chuyện gì thì… Một cảm giác thư thái (relax) dường như lúc nào cũng có thể xuất hiện.
Dù trong đầu có bao nhiêu niệm quán đi chăng nữa thì chúng ta cũng tự thấy: không muốn hành, không hành, ít hành - bao gồm hành thân, hành khẩu, hành ý.
Dù có cao trào hành thế nào đi chăng nữa thì rồi sau đó cảm giác relax vẫn xuất hiện.
Cảm giác này có tốt không? - Tốt mà không tốt!
Rất rõ, ai tu thì cũng muốn được an lạc, được relax. Vậy mà khi có lại bảo không tốt?
- Không phải không tốt mà là “nguy hiểm”. Hãy thấy nguy hiểm trong những điều nhỏ nhặt. Bước đi của chúng ta trên đương tu còn chưa được một bước hơn… vậy mà chìm vào cảm giác này… coi như hỏng.
Bởi sao?
Ai đến đây cũng đã tự thấy: Vì sự an lạc ở chỗ một bước hơn này chưa phải là sự an lạc của giải thoát thực sự. Nếu chúng ta chìm vào, đó là chúng ta lầm lạc. Nếu chúng ta bị sự an lạc ở chỗ này kéo vào… chúng ta sẽ sớm nảy sinh cảm giác ham muốn sự an lạc, sự giải thoát, sự sướng…. Chúng ta rơi vào một trường ma nguy hiểm. Trường ma hão huyền, tự nhận mình đã chứng đắc Đạo hoặc nhẹ thì tự nhận mình đã tu chứng được cấp nọ, cấp kia…. - chúng ta chìm đắm trong sự relax an lạc này và hỏng.
Biểu hiện:
Biểu hiện rõ nhất đó là người tu bình thường rất tỉnh thức, lòng an nhiên nhẹ bẫng, lặng, không muốn hành, không ham hành (cả thân khẩu ý), dù niệm quán có khi vẫn hoạt động rất nhiều và chiếm phần lớn thời gian.
Do sự tỉnh thức và cấp độ chỗ này, lực lượng đã tương đối lớn. Người tu có thể không buồn ngủ, không cảm thấy mệt mỏi, có thể thức thông mà chưa thấy buồn ngủ, đặc biệt không cảm thấy buồn ngủ, không cảm thấy mệt mỏi….
Tuy nhiên, thích ngủ là ngủ
Đây chính là một biểu hiện nan đề về sự lầm lạc.
Ngủ tức là hôn trầm thuỵ miên. Người tu đã rất tỉnh thức nhưng do chưa bước qua tưởng, vẫn còn ở trong tưởng khi này, bởi thế, khi này, nan giải lớn nhất của ngủ ở đây chính là: Ngủ là hôn trầm thuỵ miên, hôn trầm thuỵ miên tức là sợi dây si, mê.
Không ngủ được không? - Không ngủ vẫn không được vì lúc này, người tu đâu đã là “thần” - còn là người. Thân vẫn là sắc thân, báo thân… nên dù có thức bao lâu thì cuối cùng vẫn phải ngủ - giống như ăn, dù có thể giảm.
Như vậy, người thường thì không nói. Người tu tỉnh thức đến đây, khi ngủ vẫn hôn trầm thuỵ miên.
Khi ngủ, sự tỉnh thức giảm triệt để đến mức mất hết, bởi thế: Người tu rất dễ rơi vào ma mộng cảnh - ma tưởng. Chúng ta mê man và mê man trong khi ngủ với đủ các tưởng niệm… - đây chính là nan đề.
Như vậy, khi này chúng ta bắt đầu phải thực tập một thứ mà thoạt thấy, không ở chỗ nào trong hệ thống giới kinh giảng giải: Ngủ mà phải thức hay khi ngủ cũng phải thức.
Chúng ta phải bắt đầu tập tỉnh thức cả khi ngủ.
Không tu tập được chỗ này, không vượt qua được chỗ này: Chẳng bao giờ vượt qua được tưởng ấm.
Trước khi ngủ chúng ta có thể tác động vào “Cơ vô thức” một câu trạch pháp: Ví dụ: Khi tôi ngủ, cơ thể tôi ngủ nghỉ, tâm tôi thức, tỉnh thức để quán thân tôi ngủ….
Còn nếu không tỉnh thức khi ngủ: Người tu tập sẽ luôn chìm vào hôn trầm thuỵ miên với tưởng niệm thiên kỳ bách quái (mộng mị)….
Người công lực tu tập cao: Khi tỉnh dậy, với sự tỉnh thức lại tràn về: Họ không nhớ nhiều về những giấc mơ và không thấy các giấc mơ ảnh hưởng đến họ dù họ có biết họ đã mơ hay không, họ vẫn lại tỉnh thức nhưng cước bộ đi rất chậm dù họ rất miên mật tu tập (khi thức)…. Vấn đề là cứ khi ngủ là khi hôn trầm thuỵ miên, họ lại đi loạn trong tưởng. Nên, bước nhiều mà chẳng đi được xa…
Người công lực tu tập da lông (như chúng ta mới tu vài ba bữa từ đầu tới giờ) thì… “bị ma tưởng trong mơ dẫn lối chỉ đường”… chứ còn sao nữa.
Bởi vậy, phải thức khi ngủ
Đi tới đây tức là đã trải qua nửa năm, mấy trăm bài pháp chém (chứ không phải pháp Phật), ai cũng đã có thể thấy: Cuộc đời này nhẹ tựa lông hồng…
Một trong những nan đề đó là: Dù xung quanh có đang là những chuyện gì, dù chuyện to, chuyện nhỏ, hay chẳng chuyện gì thì… Một cảm giác thư thái (relax) dường như lúc nào cũng có thể xuất hiện.
Dù trong đầu có bao nhiêu niệm quán đi chăng nữa thì chúng ta cũng tự thấy: không muốn hành, không hành, ít hành - bao gồm hành thân, hành khẩu, hành ý.
Dù có cao trào hành thế nào đi chăng nữa thì rồi sau đó cảm giác relax vẫn xuất hiện.
Cảm giác này có tốt không? - Tốt mà không tốt!
Rất rõ, ai tu thì cũng muốn được an lạc, được relax. Vậy mà khi có lại bảo không tốt?
- Không phải không tốt mà là “nguy hiểm”. Hãy thấy nguy hiểm trong những điều nhỏ nhặt. Bước đi của chúng ta trên đương tu còn chưa được một bước hơn… vậy mà chìm vào cảm giác này… coi như hỏng.
Bởi sao?
Ai đến đây cũng đã tự thấy: Vì sự an lạc ở chỗ một bước hơn này chưa phải là sự an lạc của giải thoát thực sự. Nếu chúng ta chìm vào, đó là chúng ta lầm lạc. Nếu chúng ta bị sự an lạc ở chỗ này kéo vào… chúng ta sẽ sớm nảy sinh cảm giác ham muốn sự an lạc, sự giải thoát, sự sướng…. Chúng ta rơi vào một trường ma nguy hiểm. Trường ma hão huyền, tự nhận mình đã chứng đắc Đạo hoặc nhẹ thì tự nhận mình đã tu chứng được cấp nọ, cấp kia…. - chúng ta chìm đắm trong sự relax an lạc này và hỏng.
Biểu hiện:
Biểu hiện rõ nhất đó là người tu bình thường rất tỉnh thức, lòng an nhiên nhẹ bẫng, lặng, không muốn hành, không ham hành (cả thân khẩu ý), dù niệm quán có khi vẫn hoạt động rất nhiều và chiếm phần lớn thời gian.
Do sự tỉnh thức và cấp độ chỗ này, lực lượng đã tương đối lớn. Người tu có thể không buồn ngủ, không cảm thấy mệt mỏi, có thể thức thông mà chưa thấy buồn ngủ, đặc biệt không cảm thấy buồn ngủ, không cảm thấy mệt mỏi….
Tuy nhiên, thích ngủ là ngủ
Đây chính là một biểu hiện nan đề về sự lầm lạc.
Ngủ tức là hôn trầm thuỵ miên. Người tu đã rất tỉnh thức nhưng do chưa bước qua tưởng, vẫn còn ở trong tưởng khi này, bởi thế, khi này, nan giải lớn nhất của ngủ ở đây chính là: Ngủ là hôn trầm thuỵ miên, hôn trầm thuỵ miên tức là sợi dây si, mê.
Không ngủ được không? - Không ngủ vẫn không được vì lúc này, người tu đâu đã là “thần” - còn là người. Thân vẫn là sắc thân, báo thân… nên dù có thức bao lâu thì cuối cùng vẫn phải ngủ - giống như ăn, dù có thể giảm.
Như vậy, người thường thì không nói. Người tu tỉnh thức đến đây, khi ngủ vẫn hôn trầm thuỵ miên.
Khi ngủ, sự tỉnh thức giảm triệt để đến mức mất hết, bởi thế: Người tu rất dễ rơi vào ma mộng cảnh - ma tưởng. Chúng ta mê man và mê man trong khi ngủ với đủ các tưởng niệm… - đây chính là nan đề.
Như vậy, khi này chúng ta bắt đầu phải thực tập một thứ mà thoạt thấy, không ở chỗ nào trong hệ thống giới kinh giảng giải: Ngủ mà phải thức hay khi ngủ cũng phải thức.
Chúng ta phải bắt đầu tập tỉnh thức cả khi ngủ.
Không tu tập được chỗ này, không vượt qua được chỗ này: Chẳng bao giờ vượt qua được tưởng ấm.
Trước khi ngủ chúng ta có thể tác động vào “Cơ vô thức” một câu trạch pháp: Ví dụ: Khi tôi ngủ, cơ thể tôi ngủ nghỉ, tâm tôi thức, tỉnh thức để quán thân tôi ngủ….
Còn nếu không tỉnh thức khi ngủ: Người tu tập sẽ luôn chìm vào hôn trầm thuỵ miên với tưởng niệm thiên kỳ bách quái (mộng mị)….
Người công lực tu tập cao: Khi tỉnh dậy, với sự tỉnh thức lại tràn về: Họ không nhớ nhiều về những giấc mơ và không thấy các giấc mơ ảnh hưởng đến họ dù họ có biết họ đã mơ hay không, họ vẫn lại tỉnh thức nhưng cước bộ đi rất chậm dù họ rất miên mật tu tập (khi thức)…. Vấn đề là cứ khi ngủ là khi hôn trầm thuỵ miên, họ lại đi loạn trong tưởng. Nên, bước nhiều mà chẳng đi được xa…
Người công lực tu tập da lông (như chúng ta mới tu vài ba bữa từ đầu tới giờ) thì… “bị ma tưởng trong mơ dẫn lối chỉ đường”… chứ còn sao nữa.
Bởi vậy, phải thức khi ngủ
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Đến đây chúng ta đã rất rõ: Có 3 phương pháp luyện năng chính:
1/ Luyện năng qua lỗ: Quán niệm hơi thở là 1 trong những Pháp Phật đã giảng. Niệm Phật thành lời cũng là 1 trong đó… và còn rất nhiều nữa.
2/ Luyện năng qua bàn chân: Nơi này thì ai cũng thấy hình tượng là ai rồi. Và khi ngủ, Thầy cũng dùng phương pháp luyện năng thế nào để duy trì và tu tập sự tỉnh thức khi ngủ.
3/ Luyện năng qua luân xa: Nơi này chúng ta thấy rất rõ, vì sao Đức Thế Tôn khi ngủ lại nằm nghiêng để luyện năng và duy trì tu tập sự tỉnh thức thời thời. Đồng thời pháp luân xa trong kim cương thừa vẫn còn lại chút ít dấu tích về pháp dù các chư vị ma đã vẽ màu kín kẽ - không dùng được.
Tuỳ vào căn cơ và sự phù hợp. Chỉ người tu và người Đạo Sư (dẫn Đạo cụ thể) mới biết mà đưa ra lời khuyên lựa chọn.
Chúng ta, hên xui!
1/ Luyện năng qua lỗ: Quán niệm hơi thở là 1 trong những Pháp Phật đã giảng. Niệm Phật thành lời cũng là 1 trong đó… và còn rất nhiều nữa.
2/ Luyện năng qua bàn chân: Nơi này thì ai cũng thấy hình tượng là ai rồi. Và khi ngủ, Thầy cũng dùng phương pháp luyện năng thế nào để duy trì và tu tập sự tỉnh thức khi ngủ.
3/ Luyện năng qua luân xa: Nơi này chúng ta thấy rất rõ, vì sao Đức Thế Tôn khi ngủ lại nằm nghiêng để luyện năng và duy trì tu tập sự tỉnh thức thời thời. Đồng thời pháp luân xa trong kim cương thừa vẫn còn lại chút ít dấu tích về pháp dù các chư vị ma đã vẽ màu kín kẽ - không dùng được.
Tuỳ vào căn cơ và sự phù hợp. Chỉ người tu và người Đạo Sư (dẫn Đạo cụ thể) mới biết mà đưa ra lời khuyên lựa chọn.
Chúng ta, hên xui!
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Sắc tài danh thuỳ thực
Thuỳ là ngủ đã vừa nhắc. Như vậy, một trong những nan đề của chúng ta ở đây chính là thực = ăn.
Sắc, từ bỏ dễ
Tài, từ bỏ dễ
Danh, từ bỏ hơi khó
Thuỳ, từ bỏ khó
Thực, từ bỏ được thì “chắc chắn đã giải thoát luân hồi, đủ điều kiện để ra ngoài thế này”
Chúng sinh chúng ta đản sinh vào thế giới này, đáng lẽ cứ “tự toả sáng” thì khi hoại dệt (tức là sau khi sống trường sinh vô lượng năm ở thế giới này) sẽ lại ra khỏi thế giới này. Tuy nhiên, Vì 1 miếng ăn mà trầm luân (luân hồi)… và giờ đây đang ở đây, thế này…
Thuở hồng hoàng đó, khi chúng ta đến đây là “hoá sanh”. Tuổi thọ “vô biên”, tự toả “hào quang”, tự ăn “ánh sáng”. Hào quang của ai cũng như ai, ánh sáng của ai cũng như ai. Chúng ta không có “danh”, gọi nhau bằng “chúng sinh”…
***
(À, tác tưởng cũng chưa phải là người đã tới chỗ này và quay lại rồi tác đoạn này)
Tuy nhiên, từ “dăm câu ba sợi” của Đức Đạo Sư Thế Tôn, điều này chúng ta có thể quán thấy(để mà đi).
***
Có ăn rồi mới có danh rồi mới có 5 sợi dây triền cái quấn thân, rồi mới có luân hồi trầm luân ở thế này.
Bởi vậy, ăn là đứng đầu. (Tất nhiên là sau niệm. Cái niệm “vô minh” tò mò đó đã là cái khởi lên hành ăn - từ đây chúng ta dính mắc thế giới này, luôn nợ mà không trả hết).
“Con người” mà không có ăn thì 3 cái phía trước (sắc danh tài) chỉ là “thứ siêu tưởng”, nó chẳng là 1 cái gì cả - không có giá trị đến 1 lượng tử lượng năng hay giá trị thông tin gì.
Còn thuỳ (ngủ) - là do biểu hiện của hôn trầm thuỵ miên (vô minh). Vì ban đầu, trước khi ăn 1 miếng đó, chúng ta đâu có cần ngủ. Nên khi ăn rồi mới có ngủ (hôn trầm)
Tuy nhiên, chớ có ngay lập tức tuyệt thực ở chỗ này - vì Đức Đạo Sư Thế Tôn đã thử đi con đường này - khổ hạnh và biết rõ: Tuyệt thực cực đoan ra sao. Ngài trở về đã nói rất rõ - đây không phải đường Đạo giải thoát.
Làm sao mà để không cần ăn nữa để giải thoát?
Chỉ có trí mới thấy
Tất nhiên, không phải là trí hữu lậu thế gian rồi.
Thuỳ là ngủ đã vừa nhắc. Như vậy, một trong những nan đề của chúng ta ở đây chính là thực = ăn.
Sắc, từ bỏ dễ
Tài, từ bỏ dễ
Danh, từ bỏ hơi khó
Thuỳ, từ bỏ khó
Thực, từ bỏ được thì “chắc chắn đã giải thoát luân hồi, đủ điều kiện để ra ngoài thế này”
Chúng sinh chúng ta đản sinh vào thế giới này, đáng lẽ cứ “tự toả sáng” thì khi hoại dệt (tức là sau khi sống trường sinh vô lượng năm ở thế giới này) sẽ lại ra khỏi thế giới này. Tuy nhiên, Vì 1 miếng ăn mà trầm luân (luân hồi)… và giờ đây đang ở đây, thế này…
Thuở hồng hoàng đó, khi chúng ta đến đây là “hoá sanh”. Tuổi thọ “vô biên”, tự toả “hào quang”, tự ăn “ánh sáng”. Hào quang của ai cũng như ai, ánh sáng của ai cũng như ai. Chúng ta không có “danh”, gọi nhau bằng “chúng sinh”…
***
(À, tác tưởng cũng chưa phải là người đã tới chỗ này và quay lại rồi tác đoạn này)
Tuy nhiên, từ “dăm câu ba sợi” của Đức Đạo Sư Thế Tôn, điều này chúng ta có thể quán thấy(để mà đi).
***
Có ăn rồi mới có danh rồi mới có 5 sợi dây triền cái quấn thân, rồi mới có luân hồi trầm luân ở thế này.
Bởi vậy, ăn là đứng đầu. (Tất nhiên là sau niệm. Cái niệm “vô minh” tò mò đó đã là cái khởi lên hành ăn - từ đây chúng ta dính mắc thế giới này, luôn nợ mà không trả hết).
“Con người” mà không có ăn thì 3 cái phía trước (sắc danh tài) chỉ là “thứ siêu tưởng”, nó chẳng là 1 cái gì cả - không có giá trị đến 1 lượng tử lượng năng hay giá trị thông tin gì.
Còn thuỳ (ngủ) - là do biểu hiện của hôn trầm thuỵ miên (vô minh). Vì ban đầu, trước khi ăn 1 miếng đó, chúng ta đâu có cần ngủ. Nên khi ăn rồi mới có ngủ (hôn trầm)
Tuy nhiên, chớ có ngay lập tức tuyệt thực ở chỗ này - vì Đức Đạo Sư Thế Tôn đã thử đi con đường này - khổ hạnh và biết rõ: Tuyệt thực cực đoan ra sao. Ngài trở về đã nói rất rõ - đây không phải đường Đạo giải thoát.
Làm sao mà để không cần ăn nữa để giải thoát?
Chỉ có trí mới thấy
Tất nhiên, không phải là trí hữu lậu thế gian rồi.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Sau khi có tự thắp được ngọn đuốc tâm nhờ “báu xuất thế gian” Đức Đạo Sư Thế Tôn nhét trở lại (chính là hệ thống giới kinh) chúng ta đã nhìn thấy rõ hơn Con đường mà chúng ta đã đi để tới đây, chỗ này, khi này, đang viết, đang đọc mấy dòng này
Từ “nơi bên ngoài” hoá sinh vào đây với tuổi thọ vô biên, vô sắc, vô tướng, tự toả hào quang, tự ăn ánh sáng, tình chỉ có “hỉ”. (Có lẽ vì không phải là bi tròn nên mới “bị” hoá sanh vào đây vô lượng năm trường sinh).
Sau khi hết trường sinh vô lượng năm ở đây sẽ hoạt diệt (chết) mà lại về “nơi bên ngoài”.
Thật tiếc, vô lượng năm trường sinh trong hỉ. Một ý niệm khởi lên “cái gì đây”
Một niệm vô minh
Và chúng ta thử sau vô lượng lần lặp đi lặp lại hỏi nhau “cái gì đây”.
Thế là chúng ta cấu nhiễm, dính mắc và…..
Một miếng ăn - chính là hoàn thiện 3 nghiệp hành:
1/ Ý hành: “Cái gì đây” (muốn biết)
2/ Khẩu hành: Hỏi nhau “cái gì đây” (muốn biết)
3/ Thân hành: Ăn thử để xem nó là gì (muốn biết)
Khi vừa ăn thử thì…. Cảm giác “ái” - thích bắt đầu sinh ra…
Hôn trầm thuỵ miên dày đặc lên (và biểu hiện bằng buồn ngủ, cần ngủ)
Bắt đầu sinh ra “danh” để Phân biệt
Tên gọi (danh) hay (danh từ) hay tên gọi hay “để phân biệt” này và kia:
Phân biệt 2 chúng sinh (vì chúng sinh đã khác nhau do có người đã ăn, có người ăn nhiều, người ăn ít…)
Phân biệt đồ ăn
Rồi…. Bắt đầu phân biệt mọi thứ
Cũng từ đây 5 sợi dây triền cái (tham, sân, si, mạn, nghi) bắt đầu sinh ra, từ vi tế và to dần lên… đến như khi này…
Khi vòng “nhân quả” (10 mắt xích nhân duyên) hoàn thành - Đây chính là thòng lọng của chúng ta.
Chúng ta quay trở về… tức là trở ngược lại thuở ban đầu.
- Điều này, không có nghĩa là phải bước ngược trở lại con đường đã đi trầm luân vô lượng kiếp đã đi.
“Thanh tịnh” chính là vậy, không cấu uế chính là vậy - Thuần nhất - Chính là tự toả hào quang, vô tướng, vô sắc….v.v.v.
Bởi thế, vấn đề ăn rất quan trọng trong “Đạo Đức Thế Tôn”.
Các chư vị ma vẽ tô … thành cái gì ăn chay, ăn mặn rồi ý nghĩa nọ kia…. Toàn là ma luận cả. Đức Thế Tôn đâu có nói luận thế!
Từ “nơi bên ngoài” hoá sinh vào đây với tuổi thọ vô biên, vô sắc, vô tướng, tự toả hào quang, tự ăn ánh sáng, tình chỉ có “hỉ”. (Có lẽ vì không phải là bi tròn nên mới “bị” hoá sanh vào đây vô lượng năm trường sinh).
Sau khi hết trường sinh vô lượng năm ở đây sẽ hoạt diệt (chết) mà lại về “nơi bên ngoài”.
Thật tiếc, vô lượng năm trường sinh trong hỉ. Một ý niệm khởi lên “cái gì đây”
Một niệm vô minh
Và chúng ta thử sau vô lượng lần lặp đi lặp lại hỏi nhau “cái gì đây”.
Thế là chúng ta cấu nhiễm, dính mắc và…..
Một miếng ăn - chính là hoàn thiện 3 nghiệp hành:
1/ Ý hành: “Cái gì đây” (muốn biết)
2/ Khẩu hành: Hỏi nhau “cái gì đây” (muốn biết)
3/ Thân hành: Ăn thử để xem nó là gì (muốn biết)
Khi vừa ăn thử thì…. Cảm giác “ái” - thích bắt đầu sinh ra…
Hôn trầm thuỵ miên dày đặc lên (và biểu hiện bằng buồn ngủ, cần ngủ)
Bắt đầu sinh ra “danh” để Phân biệt
Tên gọi (danh) hay (danh từ) hay tên gọi hay “để phân biệt” này và kia:
Phân biệt 2 chúng sinh (vì chúng sinh đã khác nhau do có người đã ăn, có người ăn nhiều, người ăn ít…)
Phân biệt đồ ăn
Rồi…. Bắt đầu phân biệt mọi thứ
Cũng từ đây 5 sợi dây triền cái (tham, sân, si, mạn, nghi) bắt đầu sinh ra, từ vi tế và to dần lên… đến như khi này…
Khi vòng “nhân quả” (10 mắt xích nhân duyên) hoàn thành - Đây chính là thòng lọng của chúng ta.
Chúng ta quay trở về… tức là trở ngược lại thuở ban đầu.
- Điều này, không có nghĩa là phải bước ngược trở lại con đường đã đi trầm luân vô lượng kiếp đã đi.
“Thanh tịnh” chính là vậy, không cấu uế chính là vậy - Thuần nhất - Chính là tự toả hào quang, vô tướng, vô sắc….v.v.v.
Bởi thế, vấn đề ăn rất quan trọng trong “Đạo Đức Thế Tôn”.
Các chư vị ma vẽ tô … thành cái gì ăn chay, ăn mặn rồi ý nghĩa nọ kia…. Toàn là ma luận cả. Đức Thế Tôn đâu có nói luận thế!
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
“ ĐẠO Đức Thế Tôn”:
1/ Trước tiên là “ăn ít đi” … ăn ít cho đến mức “thấy hiểu” được “danh, tài, sắc” chính là thứ hư vọng. - Chắc chắn. Khi con người - kể cả là bây giờ… khi “không được ăn” đến 1 mức nhất định - trong thời gian không được ăn này tập trung tỉnh thức quán niệm sẽ - ai cũng sẽ - chắc chắn ai cũng sẽ: THẤY: Danh tài sắc là thứ hoang tưởng, là thứ không có bất cứ giá trị gì cũng chẳng liên quan gì bản thân. Sẽ thấu hết vì THẤY RÕ RỒI CHÂN NHƯ
2/ Sau đó, tự quán sẽ thấy luôn: Ăn càng tạp thì càng cấu nhiễm. - Đơn giản, cái này, ai tỉnh thức quán sâu cũng thấy lý chân như.
3/ Sau khi thấy vậy, thì sẽ tự điều chỉnh “ăn” - và nó tự nhiên là…. Ăn thuần nhất loại dễ tiêu hoá nhất (xenlulozo) sẽ là thứ “tinh khiết nhất”… rồi còn có thể điều chỉnh đến chỉ ăn 1 loại xenlulozo (gọi tên khoa học hiện đại cho chúng ta dễ hiểu và mường tượng) là sẽ thuần nhất hơn nhất… - rồi sẽ chỉ cần uống là sẽ “cao cấp” hơn nhất.
4/ Rồi đã đang “luyện năng” rồi… bởi thế mà càng ngày tần suất ăn sẽ càng ít đi. Đến dứt (người gọi là chết), “đồng Đạo” khả năng gọi là niết bàn - tức không ăn không uống nữa.
Như vậy, rất rõ bản chất về ăn và tại sao lại đi ăn xelulozo.
Ăn các loại protein hay lipit hay vô cơ thì nó có lắm “tạp” không?
Hãy nhớ.
1/ Trước tiên là “ăn ít đi” … ăn ít cho đến mức “thấy hiểu” được “danh, tài, sắc” chính là thứ hư vọng. - Chắc chắn. Khi con người - kể cả là bây giờ… khi “không được ăn” đến 1 mức nhất định - trong thời gian không được ăn này tập trung tỉnh thức quán niệm sẽ - ai cũng sẽ - chắc chắn ai cũng sẽ: THẤY: Danh tài sắc là thứ hoang tưởng, là thứ không có bất cứ giá trị gì cũng chẳng liên quan gì bản thân. Sẽ thấu hết vì THẤY RÕ RỒI CHÂN NHƯ
2/ Sau đó, tự quán sẽ thấy luôn: Ăn càng tạp thì càng cấu nhiễm. - Đơn giản, cái này, ai tỉnh thức quán sâu cũng thấy lý chân như.
3/ Sau khi thấy vậy, thì sẽ tự điều chỉnh “ăn” - và nó tự nhiên là…. Ăn thuần nhất loại dễ tiêu hoá nhất (xenlulozo) sẽ là thứ “tinh khiết nhất”… rồi còn có thể điều chỉnh đến chỉ ăn 1 loại xenlulozo (gọi tên khoa học hiện đại cho chúng ta dễ hiểu và mường tượng) là sẽ thuần nhất hơn nhất… - rồi sẽ chỉ cần uống là sẽ “cao cấp” hơn nhất.
4/ Rồi đã đang “luyện năng” rồi… bởi thế mà càng ngày tần suất ăn sẽ càng ít đi. Đến dứt (người gọi là chết), “đồng Đạo” khả năng gọi là niết bàn - tức không ăn không uống nữa.
Như vậy, rất rõ bản chất về ăn và tại sao lại đi ăn xelulozo.
Ăn các loại protein hay lipit hay vô cơ thì nó có lắm “tạp” không?
Hãy nhớ.
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Khi đã thấy hiểu về ngủ và thực hành ngủ
Khi đã thấy hiểu về ăn và thực hành ăn
Nó sẽ giúp “người thực hành” giảm triệt để ham muốn - theo đúng như điều “muốn tu” - đó là chặt dây tham.
Nó sẽ giúp “người thực hành” giảm triệt để sân hận - vì đâu còn tranh giành miếng ăn - đó là chặt dây sân.
Nó sẽ giúp người thực hành tỉnh thức - vì đâu còn bị hôn trầm thuỵ miên bước loạn.
Nó sẽ giúp con người bỏ ngã mạn - vì cái “từ bi” nó càng lúc càng sáng lên bởi vì con người không còn ái (yêu/thích) thịt nhau để ăn nữa.
Sợi dây nghi là tới từ khẩu hành “cái gì đây” và niệm hành “muốn biết cái gì đây” - thứ này là cần “huệ” hay trí tuệ giải thoát hay vô thượng trí tuệ. Chúng ta chưa thể quán được gì ở lúc này, chỗ này. Vậy cứ văn trí thế này đã.
Ăn là vậy.
Không phải lý giải theo kiểu “ức chế tâm” như bao đời các chư vị ma luận.
Vì lẽ đó, ăn rất tự nhiên được điều chỉnh đến lúc ăn ngày “Một bữa thuần chay - xenlulozo”, đến không cần ăn (vào định).
Khi đã thấy hiểu về ăn và thực hành ăn
Nó sẽ giúp “người thực hành” giảm triệt để ham muốn - theo đúng như điều “muốn tu” - đó là chặt dây tham.
Nó sẽ giúp “người thực hành” giảm triệt để sân hận - vì đâu còn tranh giành miếng ăn - đó là chặt dây sân.
Nó sẽ giúp người thực hành tỉnh thức - vì đâu còn bị hôn trầm thuỵ miên bước loạn.
Nó sẽ giúp con người bỏ ngã mạn - vì cái “từ bi” nó càng lúc càng sáng lên bởi vì con người không còn ái (yêu/thích) thịt nhau để ăn nữa.
Sợi dây nghi là tới từ khẩu hành “cái gì đây” và niệm hành “muốn biết cái gì đây” - thứ này là cần “huệ” hay trí tuệ giải thoát hay vô thượng trí tuệ. Chúng ta chưa thể quán được gì ở lúc này, chỗ này. Vậy cứ văn trí thế này đã.
Ăn là vậy.
Không phải lý giải theo kiểu “ức chế tâm” như bao đời các chư vị ma luận.
Vì lẽ đó, ăn rất tự nhiên được điều chỉnh đến lúc ăn ngày “Một bữa thuần chay - xenlulozo”, đến không cần ăn (vào định).
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Tuy nhiên, phải nhớ: Tập luận này là 1 chỉnh thể tròn vo như viên bi (dù bây giờ mới tới vẽ chỗ một tia của bi).
Bởi vậy, tự nhiên, có ai đó đọc được vài ba từ “nhịn ăn” là “thành Phật” và nhịn ăn thì…. - Đó là tự nghiệp vô minh - không phải do trước tác.
“Luyện năng” là từ mới được đưa ra ở gần đây… nhưng ai cũng rõ: Bất kỳ ai kể cả người đi đầu luận tới đây (và đã có tia luyện năng) thì tất cả nếu ngay lúc này, tại nơi này: Không ngủ là chết, không ăn là chết. Hãy nhớ.
Đến đây, mới bắt đầu rõ biết để mà tu thôi. Còn chán vô lượng 8 nghìn 4 vạn năm nữa may ra mới tu tới chỗ “không cần ăn” hay “ăn gì lúc đó cũng là không ăn gì”.
(Hết chương I)
Bởi vậy, tự nhiên, có ai đó đọc được vài ba từ “nhịn ăn” là “thành Phật” và nhịn ăn thì…. - Đó là tự nghiệp vô minh - không phải do trước tác.
“Luyện năng” là từ mới được đưa ra ở gần đây… nhưng ai cũng rõ: Bất kỳ ai kể cả người đi đầu luận tới đây (và đã có tia luyện năng) thì tất cả nếu ngay lúc này, tại nơi này: Không ngủ là chết, không ăn là chết. Hãy nhớ.
Đến đây, mới bắt đầu rõ biết để mà tu thôi. Còn chán vô lượng 8 nghìn 4 vạn năm nữa may ra mới tu tới chỗ “không cần ăn” hay “ăn gì lúc đó cũng là không ăn gì”.
(Hết chương I)
TL: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)
Chương 2: Ngón tay chỉ trăng
Pháp Phật - Đạo Đức Thế Tôn như ngón tay chỉ trăng. Còn tâm chân như thường hằng (giải thoát) là mặt trăng.
Điều này có nghĩa: Nhìn người chỉ trăng (nhìn pháp) lẫn nhìn trăng đều vô nghĩa.
Mọi thứ chỉ có giá trị khi: Chúng ta đến với trăng.
***
Chúng ta biết về người chỉ trăng, ngón tay chỉ trăng: Chẳng để làm gì ngoài để văn trí. Cũng có nghĩa, nếu đi xa hơn 1 bước, chúng ta nhìn thấy mặt trăng, cũng chẳng để làm gì ngoài để văn trí.
Mọi thứ chỉ có giá trị khi: Nhờ người chỉ trăng, nhờ ngón tay chỉ trăng, chúng ta thấy trăng rồi sau đó đốt đuốc lên và đi tới mặt trăng.
Đọc/nghe có vẻ “hoang đường” nhưng thực tế chính là vậy.
Diễn nghĩa về ngón tay chỉ trăng đã bị hiểu lầm lạc nhiều đời. Đức Thế Tôn không phải chỉ nói 1 lần mà đã nói nhiều lần:
Đại loại: - Ngài là người đã từ thế giới này đi ra khỏi thế giới và sau đó quay trở về nói với những người đang ở thế giới rằng: “Hãy đi theo đó là xuất thế gian”. Ngài đã lấy các ví dụ về người đi đường rời khỏi làng và trở về cũng như ví dụ về ngón tay chỉ trăng là vậy.
Việc qua ngón tay của Đức Thế Tôn thấy trăng hay việc qua Pháp của Đức Thế Tôn thấy xuất thế gian (tâm chân như), nói một cách toàn vẹn là: Không đem lại giá trị về giải thoát.
Đức Thế Tôn đã nói đi nói lại: Hãy đốt đuốc lên mà đi.
Chính là đi tới “trăng” hay đi “trở về” hay ý là “đi khỏi thế gian này”.
Như vậy, tuệ sẽ vẫn luôn là tuệ hữu lậu, tuệ thế gian… nếu như chúng ta nhờ “ngón tay chỉ trăng” hay nhờ Pháp Đức Thế Tôn mà… biết về trăng hay biết về tâm chân như thường hằng nhưng không chịu đi đến đó mà cứ ngồi “thao thao bất tuyệt” kể về pháp như “tác tưởng” đang viết đây… thì không có tác dụng gì.
Chúng ta phải đi, chứ không phải chỉ “thấy trăng” mà đã nghĩ “đắc Đạo”, - thực ra là cái “da lông” chưa đi nổi 1 bước. Văn trí mà thôi.
Pháp Phật - Đạo Đức Thế Tôn như ngón tay chỉ trăng. Còn tâm chân như thường hằng (giải thoát) là mặt trăng.
Điều này có nghĩa: Nhìn người chỉ trăng (nhìn pháp) lẫn nhìn trăng đều vô nghĩa.
Mọi thứ chỉ có giá trị khi: Chúng ta đến với trăng.
***
Chúng ta biết về người chỉ trăng, ngón tay chỉ trăng: Chẳng để làm gì ngoài để văn trí. Cũng có nghĩa, nếu đi xa hơn 1 bước, chúng ta nhìn thấy mặt trăng, cũng chẳng để làm gì ngoài để văn trí.
Mọi thứ chỉ có giá trị khi: Nhờ người chỉ trăng, nhờ ngón tay chỉ trăng, chúng ta thấy trăng rồi sau đó đốt đuốc lên và đi tới mặt trăng.
Đọc/nghe có vẻ “hoang đường” nhưng thực tế chính là vậy.
Diễn nghĩa về ngón tay chỉ trăng đã bị hiểu lầm lạc nhiều đời. Đức Thế Tôn không phải chỉ nói 1 lần mà đã nói nhiều lần:
Đại loại: - Ngài là người đã từ thế giới này đi ra khỏi thế giới và sau đó quay trở về nói với những người đang ở thế giới rằng: “Hãy đi theo đó là xuất thế gian”. Ngài đã lấy các ví dụ về người đi đường rời khỏi làng và trở về cũng như ví dụ về ngón tay chỉ trăng là vậy.
Việc qua ngón tay của Đức Thế Tôn thấy trăng hay việc qua Pháp của Đức Thế Tôn thấy xuất thế gian (tâm chân như), nói một cách toàn vẹn là: Không đem lại giá trị về giải thoát.
Đức Thế Tôn đã nói đi nói lại: Hãy đốt đuốc lên mà đi.
Chính là đi tới “trăng” hay đi “trở về” hay ý là “đi khỏi thế gian này”.
Như vậy, tuệ sẽ vẫn luôn là tuệ hữu lậu, tuệ thế gian… nếu như chúng ta nhờ “ngón tay chỉ trăng” hay nhờ Pháp Đức Thế Tôn mà… biết về trăng hay biết về tâm chân như thường hằng nhưng không chịu đi đến đó mà cứ ngồi “thao thao bất tuyệt” kể về pháp như “tác tưởng” đang viết đây… thì không có tác dụng gì.
Chúng ta phải đi, chứ không phải chỉ “thấy trăng” mà đã nghĩ “đắc Đạo”, - thực ra là cái “da lông” chưa đi nổi 1 bước. Văn trí mà thôi.