Vi diệu

Trao đổi về y học, võ thuật, văn hóa, phong tục, tín ngưỡng
Nội qui chuyên mục
Không tranh luận về chính trị và tôn giáo
KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2193
Tham gia: 11:03, 25/04/14

TL: Vi diệu

Gửi bài gửi bởi KMD »

Tình Yêu …

Tăng Chi Bộ - Anguttara Nikaya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
Chương IX - Chín Pháp
________________________________________

III. Phẩm Chỗ Cư Trú Của Hữu Tình
(III) (23) Ái

1. - Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết về chín pháp lấy ái làm cội gốc. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là chín pháp lấy ái làm cội gốc?

2. Do duyên ái nên cầu tìm; do duyên cầu tìm nên có được; do duyên có được nên có quyết định; do duyên quyết định nên có dục tham; do duyên dục tham nên đắm trước; do duyên đắm trước nên có chấp trước; do duyên chấp trước nên có xan tham; do duyên xan tham nên có thủ hộ, chấp trượng, chấp kiếm, đấu tranh, tránh tranh, kháng tranh, ly gián ngữ, vọng ngữ, rất nhiều các ác, bất thiện pháp khởi lên.

Này các Tỷ-kheo, đây là chín pháp lấy ái làm cội gốc.



“Trong kinh có nói: “Bồ Tát sợ nhân chúng sanh sợ quả”. Bồ Tát là hữu tình giác, một chúng sanh giác ngộ là chúng sanh đó biết sợ nhân ác, chúng sanh mê muội thì sợ quả khổ. Cũng sợ vậy, mà hai cái sợ khác nhau, người sợ nhân gọi là giác, người sợ quả gọi là mê. Trí tuệ của người học đạo tuy là trí thế gian, nhưng cũng là trí tuệ của Bồ Tát. Người biết rõ mỗi hành động mỗi lời nói mỗi ý nghĩ là cái nhân đưa tới đau khổ, thì tránh không làm không nói và không nghĩ. Đó là người biết sống bằng trí tuệ. Nếu nghĩ nói làm không biết kết quả ra sao, cứ nói làm càng bướng, khi kết quả khổ đau đến thì than khóc, cầu Trời khẩn Phật cứu, đó là cái si mê của chúng sanh. Hiện tại chúng ta sống với trí tuệ hay sống với si mê?”
― Hòa Thượng Thích Thanh Từ, THẾ NÀO LÀ TỪ BI VÀ TRÍ TUỆ?




“What barrier is there that love cannot break?”
― Mahatma Gandhi



Cổ học tinh hoa
Nguyễn Văn Ngọc & Trần Lê Nhân

Đạo vợ chồng

Lư phu nhân, vợ ông Phòng Huyền Linh là người tuyệt đẹp và có đức hạnh.

Ông lúc tuổi trẻ hàn vi lắm. Một khi ốm nặng tưởng đã sắp chết, ông gọi Lưu thị đến bảo rằng:

- Tôi bệnh nguy quá, nàng tuổi còn trẻ không nên ở vậy, liệu mà ăn ở cho tử tế với người chồng sau.

Lư thị nghe nói, nức nở khóc. Đoạn vào trong màn khoét một mắt bỏ đi, có ý tỏ cho chồng biết rằng dù chồng bất hạnh có chết, cũng không lấy ai nữa.

Không bao lâu, ông Huyền Linh khỏi bệnh.

Sau ông thi đỗ, làm quan đến chức Tể tướng. Ông một niềm yêu mến, kính trọng Lư thị vô cùng, không hề lấy người tì thiếp nào nữa.

Người ngoài cho thế là tại ông sợ Lư thị có tính hay ghen.

Chính vua Đường Thái Tôn, muốn thử Lư phu nhân, một hôm cho hoàng hậu gọi vào bảo:

- Theo phép thường, các quan to vẫn có tì thiếp. Quan nhà ta tuổi đã cao, vua muốn ban cho một người mỹ nhân.

Lư thị nhất quyết không nghe. Vua nổi giận mắng rằng:

- Nhà ngươi không ghen thì sống, mà ghen thì chết.

Rồi sai người đưa cho một chén rượu, giả làm chén thuốc độc, phán rằng:

- Đã vậy thì phải uống chén thuốc độc này.

Lư thị không ngần ngại chút nào, cầm chén, uống hết ngay. Vua thấy thế, nói:

- Ta cũng phải sợ, nữa là Huyền Linh.

Lời bàn:

Tưởng mình sắp chết, thấy vợ trẻ trung, không muốn để cho ở vậy thế là quá yêu thương vợ, thể tất cho vợ lắm. Sợ chồng tiếc đẹp, chết đi không dứt, mà khoét mắt để tỏ ra thành tật cho yên lòng chồng, thế là chí tình và nhất tâm với chồng lắm.

May khỏi bệnh, sau lại làm đến Tể tướng, ông chỉ biết có bà mắt khoét, không thiết gì đến tì thiếp xinh đẹp, thế là ông muốn giữ cho được trọn vẹn cái tình đối với bà. Còn bà không muốn để cho ông có tì thiếp, tuy gọi là thói ghen thường tình, nhưng cũng là vì chung tình với ông, không muốn cùng ai san sẻ mối tình nữa. Quý thay! Đôi vợ chồng này, chân tình và chí tình, suốt đời kính yêu nhau, vợ chỉ biết có chồng, chồng cũng chỉ biết có vợ, chồng một vợ một, không những thoát khỏi cái nạn “đa nhân duyên nhiều đường phiền não” mà còn gây được cái hạnh phúc lâu dài cho thân, cho gia đình, cho con cháu sau nữa.



“My wife is as handsome as when she was a girl, and I, a poor nobody then, fell in love with her; and what is more, I have never fallen out.”
― Abraham Lincoln



“There is no more lovely, friendly, and charming relationship, communion or company than a good marriage.”
— Martin Luther



"I have the best husband one could dream of; I could never have imagined finding one like him. He is a true gift of heaven, and the more we live together the more we love each other."
― Marie Curie



"If I am asked what I think about family life after 25 years of marriage, I can answer with equal simplicity and conviction, I am for it."
— The Queen's Silver Wedding speech at the Guildhall, November 1972.



“The ideal that marriage aims at is that of spiritual union through the physical. The human love that it incarnates is intended to serve as a stepping stone to diving or universal love.”
— Mahatma Gandhi



春晚

年少何曾了色空,
一春心在百花中。
如今勘破東皇面,
禪板蒲團看墜紅。


Xuân vãn
Sơ Tổ Trúc Lâm

Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,
Nhất xuân tâm tại bách hoa trung.
Như kim khám phá đông hoàng diện,
Thiền bản bồ đoàn khán truỵ hồng.



“Lặng nhìn trăng sáng nước trong, đèn Bát-nhã chiếu tan niềm tục;
Lắng nghe kinh vàng kệ ngọc, tiếng Từ bi gõ thức tình thương.”
― Hòa Thượng Thích Thiện Siêu



“…. Là người Phật tử thì việc học Pháp, nghe Pháp là hết sức cần thiết để nuôi dưỡng tuệ đức cho cá nhân và đóng góp tiếng nói trí tuệ cho cuộc đời. Bởi trí tuệ là sự nghiệp lớn giải phóng con người và cuộc đời khỏi mọi sai lầm tối tăm do duyên tham dục, sân hận và si mê. Vì vậy việc nghe Pháp nhằm phát triển trí tuệ là rất quan trọng đối với người Phật tử. Có nghe Pháp và hành trì Pháp thì trí tuệ mới phát sinh. Thiếu hoặc không nghe Pháp thì như người đi trong đêm tối rất khó định hướng đi giải thoát của con người Phật tử, giống như ngọn hải đăng luôn soi tỏ hướng đi về của các con tàu vậy. Ngoài việc nghe Pháp để phát triển trí tuệ, người Phật tử cần nuôi dưỡng thêm các đức tính khác như lòng cung kính khiêm tốn, thái độ biết đủ, biết ơn đối với cuộc đời. Ðây là các đức tính rất đặc biệt của người Phật tử, bởi sự khiêm cung vốn là sức mạnh chinh phục mọi kiêu căng ngã mạn của con người, thái độ biết ơn là lòng thủy chung cao đẹp và sự tri túc là mũi tên phá vỡ mọi cám dỗ của tham dục. Cuộc sống hiện đại đang ra sức cám dỗ con người bằng nhiều hình thức và phương tiện hấp dẫn tinh vi mà nếu không nhận ra sự thật của nó, nghĩa là vị ngọt, sự nguy hại, sự xuất ly của các dục, thì con người khó lòng thoát khỏi sự chi phối nguy hại của nó. Các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại của các dục càng nhiều hơn. Những biểu hiện của lòng tham dục không đáy nói rõ nguy cơ của sự hủy hoại không lường đối với toàn thể loài người. Người ta bắt đầu nhận ra rằng tất cả vần đề nan giải mang tính toàn cầu hiện nay như chiến tranh, nạn ô nhiễm môi trường, sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên đều bắt nguồn từ lòng tham dục của con người. Do đó, thái độ sống biết đủ của người Phật tử đối với các nhu cầu của cuộc sống là thái độ sáng suốt đáng được nêu gương về phương diện bảo vệ môi sinh, giải thoát con người khỏi nguy cơ tự hủy diệt .…”
― Hòa Thượng Thích Minh Châu, Ðiềm lành tối thượng



"Trách nhiệm của người tu là phải tự mình có trí tuệ để giải khổ cho mình, và xót thương mọi loài đang đau khổ mà giúp cho họ giải khổ. Tự mình làm sao thoát khỏi những cái dở, những thói quen tật xấu từ lâu đời để mình hết khổ và giúp cho mọi người hết khổ là tu. Tu bằng trí tuệ và từ bi."
― Hòa Thượng Thích Thanh Từ, THẾ NÀO LÀ TỪ BI VÀ TRÍ TUỆ?



Kinh Pháp Cú – Dhammapada
Hòa Thượng Thích Thiện Siêu dịch

26 được trích từ II. PHẨM KHÔNG BUÔNG LUNG (APPAMADAVAGGA)
84 được trích từ VI. PHẨM HIỀN TRÍ (PANDITAVAGGA)
310 được trích từ XXIII. PHẨM VOI (NAGAVAGGA)
331 được trích từ XXIV. PHẨM ÁI DỤC (TANHAVAGGA)

26. Người ám độn ngu si đắm chìm trong buông lung, nhưng kẻ trí lại chăm giữ tâm không buông lung, như người giàu chăm giữ của báu.

84. Không vì mình cũng không vì người để làm chuyện ác, không vì cầu con trai, giàu có hay mưu việc thiên hạ để làm việc ác, không vì cầu phồn vinh cho mình bằng những phương tiện bất chánh. Người này thật là người giới hạnh, trí tuệ và chánh pháp.

310. Trong những thời quá khứ, tâm Ta[184] thường chạy theo dục lạc, tham ái, ưa nhàn du, nhưng nay Ta đã điều phục tâm như người quản tượng lấy móc câu chế ngự con voi luông tuồng.
[184] Phật tự xưng.

331. Những người say đắm ái dục, trôi theo ái dục là tự lao mình vào lưới trói buộc, như nhện mắc lưới. Ai dứt được sự buộc ràng, không còn dính mắc, thì sẽ lìa mọi thống khổ mà ngao du tự tại[190].
[190] Chứng Niết-bàn.



Xuân Hạ Thu Đông rồi lại Xuân
https://www.youtube.com/watch?v=_04rVu04dGc
Đầu trang

Trả lời bài viết