Lưỡng đầu: ẤT - ĐINH
Dịch: Thả câu ở đầm sâu
Giải: Kiệt lực doanh cầu chung tất hữu lợi
Dịch: Hết sức kinh doanh kết quả sẽ có lợi
Giờ Đinh Mão: SUY THẢO PHÙNG XUÂN
Dịch: Cỏ úa gặp mùa xuân
Giải: Khốn đốn dĩ cửu đại hữu chuyển cơ
Dịch: Khốn đốn đã lâu ngày có cơ chuyển biến lớn
Giờ Đinh Tỵ: HUỲNH HỎA THẢO LƯ
Dịch: Lửa đom đóm trên cỏ nát
Giải: Tuy vô đại chí diệc túc tự hào
Dịch: Tuy không có chí lớn cũng đủ tự hào
Giờ Đinh Mùi: XUÂN LAN THU CÚC
Dịch: Hoa Lan mùa xuân hoa Cúc mùa thu
Giải: Tảo niên vãng biên tác sự giai thuận cực
Dịch: Tuổi trẻ cũng như tuổi già đều hết sức thuận lợi
Giờ Đinh Dậu: THÂM CỐC TIỀU TÂN
Dịch: Đốn củi ở hang sâu
Giải: Nổ lực tiền tiến hoạch lợi vô cùng
Dịch: Gắng sức tiến lên được lợi nhiều vô cùng
Giờ Đinh Hợi: THỬ NHẬP HƯƠNG LẪM
Dịch: Chuột sa vựa lúa
Giải: Nhất sinh y thực vô ưu
Dịch: Trọn đời no cơm ấm áo
NGƯ DU THANH BA Cách
Dĩ thân phi ngã ngã phi thân
Gia ngoại thành gia Cách cố nhân
Hưng phế tận giai tiền phận định
Lợi danh tu thị trục thời tân
Phong đoàn ưng hoạt kinh hồng nhạn
Thủy lãnh uyên ương tiếp cẩm lân
Tá vấn hoa khai kết tử phủ
Cẩm yên thiên khí liễu sao xuân
Căn cơ lao bảo tróc
Băng thán thị nhân tình
Đắc phùng thủy biên khách
Hồi thời tùng trúc thanh
Dịch: CÁ LỘI SÓNG TRONG
Kẻ thân thích của ta không phải là thân thích của ta, ta cũng chẳng phải là thân thích của họ
Tạo lập sự nghiệp ở ngoài nơi mình sinh ra xa Cách người thân
Những nổi thăng trầm trong cuộc đời đều đã do Trời định trước.
Việc danh lợi sẽ thăng tiến dần dần
Nương theo gió chim ưng chim cắt làm chim hồng chim nhạn sợ
Nước lạnh lẽo cặp uyên ương bơi gần cá lân
Mượn hỏi hoa nở đã kết quả chưa
Khói sương phất phơ trên ngọn liễu vào mùa xuân
Muốn xây dựng căn cơ phải trải qua bao nỗi lao khổ
Nhưng thực là như đem cục băng (nước đá) bỏ vào lò than đang đỏ
Khi nào gặp được người khách bên bờ nước
Thì trở về thấy cây tùng cây trúc đều xanh
CƠ NGHIỆP (Cơ Nghiệp)
Hữu gia sinh ngã ngã phi thân
Gia ngoại doanh gia hữu cố nhân
Hưng sự kỷ đa tu tự giác
Lợi danh phân phó đắc chung thân
Dịch:
Căn nhà mà ta sinh ra lại chẳng ở gần
Sống ngoài căn nhà đó thời gặp được cố nhân
Sự hưng thịnh được lâu dài bao nhiêu tự mình đã biết
Cả lợi và danh được phân phó trọn đời
HUYNH ĐỆ (Anh em)
Nhạn hàng phi quá biệt phong đầu
Tự tự đồng nha bất cọng thu
Hồng lục bạch tần mê lưỡng ngạn
Nhất thanh ngư địch vận thanh u
Dịch:
Chim nhạn đã bay qua ngọn núi khác
Rõ ràng đã không cùng với con quạ sống chung trong mùa thu
Rau lục đỏ rau tần trắng mọc đầy ở hai bên bờ sông
Một tiếng kèn ngư phủ rất thanh tao u nhã
HÀNH TÀNG (Sự nghiệp)
Đắc thời kỵ mã như phùng hổ
Thiên chu trực tiếp cố nhân lai
Bằng phi tiêu hán vân trình viễn
Y tử yêu kim tận thượng đài
Dịch:
Gặp khi cởi ngựa (Ngọ) mà gặp cọp (Dần)
Một chiếc thuyền con đón cố nhân lại
Chim bằng bay vút tận mây xanh đường mây xa thẳm
Đai vàng áo tía gần chốn lầu cao
HÔN NHÂN (Vợ Chồng)
Nhân duyên trường đoản giai tiền định
Nguyệt khuyết hoa tàn thính tử qui
Âu lộ thảo đường bái lập xứ
Vãng lai giang thượng hữu tương y
Dịch:
Việc nhân duyên dài ngắn đều do Trời định cả
Trăng khuyết hoa tàn nghe tiếng tử qui buồn não ruột
Cò vạc bay từng đoàn ở bờ ao đầy cỏ
Lúc chiều tà ở trên sông là chổ tựa nương
TỬ TỨC (Con cái)
Hạnh hoa chi thượng vô giai quả
Dương liễu chi đầu kết dị đào
Tường ngoại nhất tùng tu trúc lăm
Xâm thiên cao tiết hám phong đào
Dịch:
Hoa hạnh nở trên cành không có quả tốt
Trên cành dương liễu lại kết trái đào lạ
Ở ngoài tường một bụi trúc cao đã già
Cao ngất trời có thể chịu đựng được mưa gió
THU THÀNH (Mãn cuộc)
Tá vấn hoa tàn oanh lão nhựt
Thừa loan khóa hạc thượng thanh thiên
Nam – kha nhất mộng không hồi thủ
Nhị kính ưu du thả mạc ngôn
Dịch:
Thử hỏi đến ngày hoa tàn oanh rạc
Cởi chim loan chim hạc bay lên trời xanh