Bình dị là cuộc sống
- Phongnuong
- Nhị đẳng
- Bài viết: 330
- Tham gia: 13:41, 14/11/09
TL: Bình dị là cuộc sống
Bình yên - Quốc Bảo
Bình yên một thóang cho tim mềm
Bình yên ta vào đêm
Bình yên để đóa hoa ra chào
Bình yên để trăng cao
Bình yên để sóng nâng niu bờ
Bình yên không ngờ
Lòng ta sẽ cầu kinh bình yên.
Bình yên để gió đưa em về
Bình yên ta chờ nghe
Chờ nghe tình vỗ lên tim mình
Chờ nghe tình lung linh
Bình yên để nắng soi môi thơm
Bình yên ta mừng
Mừng em đã hết đau thương về đây ấm cúng
Mừng em đã biết xót thương tình yêu
Như từ bao la ta ra đời một kiếp nữa
Như từ trong nhau lớn lên khôn lên cùng nhau
Như một câu hát ứa ra từ tim
Tặng nhau nhé tiếng nghe hồn nhiên
Để quên hết khó khăn chia lìa
Bình yên một thóang cho tim mềm
Bình yên ta vào đêm
Bình yên để đóa hoa ra chào
Bình yên để trăng cao
Bình yên để sóng nâng niu bờ
Bình yên không ngờ
Lòng ta sẽ cầu kinh bình yên.
Bình yên để gió đưa em về
Bình yên ta chờ nghe
Chờ nghe tình vỗ lên tim mình
Chờ nghe tình lung linh
Bình yên để nắng soi môi thơm
Bình yên ta mừng
Mừng em đã hết đau thương về đây ấm cúng
Mừng em đã biết xót thương tình yêu
Như từ bao la ta ra đời một kiếp nữa
Như từ trong nhau lớn lên khôn lên cùng nhau
Như một câu hát ứa ra từ tim
Tặng nhau nhé tiếng nghe hồn nhiên
Để quên hết khó khăn chia lìa
Bình yên một thoáng cho tim mềm
Bình yên ta vào đêm
Bình yên để đóa hoa ra chào
Bình yên để trăng cao
Bình yên để sóng nâng niu bờ
Bình yên không ngờ
Mừng em đã hết đau thương về đây ấm cúng
Mừng em đã biết xót thương tình yêu
Mừng em ta hát đầy hơn xưa
Bình yên một thóang cho tim mềm
Bình yên ta vào đêm
Bình yên để đóa hoa ra chào
Bình yên để trăng cao
Bình yên để sóng nâng niu bờ
Bình yên không ngờ
Lòng ta sẽ cầu kinh bình yên.
Bình yên để gió đưa em về
Bình yên ta chờ nghe
Chờ nghe tình vỗ lên tim mình
Chờ nghe tình lung linh
Bình yên để nắng soi môi thơm
Bình yên ta mừng
Mừng em đã hết đau thương về đây ấm cúng
Mừng em đã biết xót thương tình yêu
Như từ bao la ta ra đời một kiếp nữa
Như từ trong nhau lớn lên khôn lên cùng nhau
Như một câu hát ứa ra từ tim
Tặng nhau nhé tiếng nghe hồn nhiên
Để quên hết khó khăn chia lìa
Bình yên một thóang cho tim mềm
Bình yên ta vào đêm
Bình yên để đóa hoa ra chào
Bình yên để trăng cao
Bình yên để sóng nâng niu bờ
Bình yên không ngờ
Lòng ta sẽ cầu kinh bình yên.
Bình yên để gió đưa em về
Bình yên ta chờ nghe
Chờ nghe tình vỗ lên tim mình
Chờ nghe tình lung linh
Bình yên để nắng soi môi thơm
Bình yên ta mừng
Mừng em đã hết đau thương về đây ấm cúng
Mừng em đã biết xót thương tình yêu
Như từ bao la ta ra đời một kiếp nữa
Như từ trong nhau lớn lên khôn lên cùng nhau
Như một câu hát ứa ra từ tim
Tặng nhau nhé tiếng nghe hồn nhiên
Để quên hết khó khăn chia lìa
Bình yên một thoáng cho tim mềm
Bình yên ta vào đêm
Bình yên để đóa hoa ra chào
Bình yên để trăng cao
Bình yên để sóng nâng niu bờ
Bình yên không ngờ
Mừng em đã hết đau thương về đây ấm cúng
Mừng em đã biết xót thương tình yêu
Mừng em ta hát đầy hơn xưa
- Bui Mai Phuong
- Tứ đẳng
- Bài viết: 981
- Tham gia: 00:14, 16/09/09
TL: Bình dị là cuộc sống
http://www3.nhac.vui.vn/Music/#Play,97187" target="_blank
Mời tỷ Phongnuong và mọi người cùng nghe lại
Lâu lắm rùi muội không nghe bài hát này, hôm nay có tỷ nhắc lại nên muội mới nhớ ra.
Mời tỷ Phongnuong và mọi người cùng nghe lại

Như từ bao la ta ra đời một kiếp nữa
Như từ trong nhau lớn lên khôn lên cùng nhau
Như một câu hát ứa ra từ tim
Tặng nhau nhé tiếng nghe hồn nhiênĐể quên hết khó khăn chia lìa
- Phongnuong
- Nhị đẳng
- Bài viết: 330
- Tham gia: 13:41, 14/11/09
TL: Bình dị là cuộc sống
Một phút bình yên cho tâm hồn
Một phút tâm hồn hóa hư không ...
Những khỏang lặng trống trải âm ỉ cháy
Những hư vô không tên miền dư âm ...
Ta đã đi qua những tháng ngày vô định
Con đường dài mà sức đã kiệt cùng ...
Chiều qua chiều lại đến
Phút bỗng thăng hoa một chút lệ cay cay ...
Một phút tâm hồn hóa hư không ...
Những khỏang lặng trống trải âm ỉ cháy
Những hư vô không tên miền dư âm ...
Ta đã đi qua những tháng ngày vô định
Con đường dài mà sức đã kiệt cùng ...
Chiều qua chiều lại đến
Phút bỗng thăng hoa một chút lệ cay cay ...
- Bui Mai Phuong
- Tứ đẳng
- Bài viết: 981
- Tham gia: 00:14, 16/09/09
TL: Bình dị là cuộc sống
Ba chúc con đủ 


Mỗi khi gặp một thử thách trong cuộc sống,tôi thường ra sân bay thành phố nhìn mọi người “tạm biệt” để thấy rằng mình vẫn hạnh phúc khi không phải nói lời chia tay với những người thân yêu. Nhìn mọi người cố níu kéo nhau, khóc... tôi cảm thấy mình còn nhiều thứ quý giá...Và tôi cũng học được nhiều điều từ những giây phút “tạm biệt”.
Có một lần tôi nghe loáng thoáng tiếng hai cha con đang bên nhau trong những giây phút cuối cùng. Họ ôm nhau và người cha nói : “Ba yêu con. Ba chúc con đủ.” Cô gái đáp lại : “Ba ạ, con cũng yêu ba lắm. Và con cũng chúc ba đủ.”
Và cô gái đi. Tôi thấy người cha cứ đứng nhìn theo. Thấy ông ấy muốn và cần khóc, tôi lại gần, nhưng rồi không muốn xen vào giây phút riêng tư của ông ấy nên không nói gì. Bỗng ông ấy quay sang chào tôi và nói :
- Đã bao giờ anh nói lời tạm biệt với một người, và biết rằng mãi mãi không gặp nữa chưa ?”
- Xin lỗi, cho tôi hỏi có phải ông vừa “vĩnh biệt” với con gái ông ? Tại sao vậy?
- Tôi già rồi, mà con tôi sống cách tôi đến nửa vòng Trái Đất. - Người cha nói - Thực tế, tôi biết, lần sau con tôi quay về đây có thể tôi đã mất.
- Khi ông tạm biệt con gái, tôi nghe ông nói : “Ba chúc con đủ.”
Tôi có thể hỏi điều đó có nghĩa là gì không?
Người cha già mỉm cười :
- Đó là lời chúc “gia truyền” của gia đình tôi, đã qua nhiều thế hệ rồi. - Nói đoạn ông dừng lại, ngước nhìn lên cao như thể cố nhớ lại từng chi tiết, và ông tươi cười hơn. - Khi tôi nói “Ba chúc con đủ”, tôi muốn chúc con gái tôi có cuộc sống đủ những điều tốt đẹp và duy trì được nó.
Rồi ông lẩm nhẩm đọc :
“Ba chúc con đủ ánh mặt trời để giữ cho tâm hồn con trong sáng.Ba chúc con đủ những cơn mưa để biết yêu quý ánh mặt trời.Ba chúc con đủ hạnh phúc để giữ cho tinh thần con luôn sống. Ba chúc con đủ những nỗi đau để biết yêu quý cả những niềm vui nhỏ nhất.Ba chúc con đủ những gì con muốn để con có thể hài lòng.Ba chúc con đủ mất mát để con yêu quý những gì con có.Và ba chúc con đủ lời chào để có thể vượt qua được lời "tạm biệt" cuối cùng.”
Ông khóc và quay lưng bước đi. Tôi nói với theo : “Thưa ông, tôi chúc ông đủ".
Cà phê gây nghiện vì cà phê đắng. Sôcôla sở dĩ được chọn là hương vị đặc trưng của tình yêu bởi nó ngọt đắng hài hòa. Trong cuộc sống này, cái gì cũng có 2 mặt cả. Và quan trọng nhất là ta đón nhận mỗi phút giây, mỗi sự kiện như thế nào để tìm ra được ý nghĩa thực sự của nó mà thôi

- Bui Mai Phuong
- Tứ đẳng
- Bài viết: 981
- Tham gia: 00:14, 16/09/09
TL: Bình dị là cuộc sống
Bếp lửa
[blockquote][blockquote]Bằng Việt (1963)
[/blockquote][/blockquote]

[blockquote][blockquote]Bằng Việt (1963)
[/blockquote][/blockquote]

[blockquote][blockquote][blockquote][blockquote][blockquote][blockquote]Một bếp lửa chờn vờn sương sớm,
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói,
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy.
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu,
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa,
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa.
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà ?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế,
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế.
Mẹ cùng cha bận công tác không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc.
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa ?
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi,
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi,
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh.
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
"Bố ở chiến khu bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên".
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen!
Một bếp lửa lòng bà luôn ủ sẵn,
Một bếp lửa chứa niềm tin dai dẳng,
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa!
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ,
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm,
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ.
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng - bếp lửa!
Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ?
[/blockquote][/blockquote][/blockquote][/blockquote][/blockquote][/blockquote]
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói,
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy.
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu,
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa,
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa.
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà ?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế,
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế.
Mẹ cùng cha bận công tác không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc.
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa ?
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi,
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi,
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh.
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
"Bố ở chiến khu bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên".
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen!
Một bếp lửa lòng bà luôn ủ sẵn,
Một bếp lửa chứa niềm tin dai dẳng,
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa!
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ,
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm,
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ.
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng - bếp lửa!
Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ?
[/blockquote][/blockquote][/blockquote][/blockquote][/blockquote][/blockquote]
Được cảm ơn bởi: Sen trắng
-
- Hội viên CLB
- Bài viết: 1159
- Tham gia: 20:57, 06/10/09
- Bui Mai Phuong
- Tứ đẳng
- Bài viết: 981
- Tham gia: 00:14, 16/09/09
TL: Bình dị là cuộc sống
Tinh túy của lễ nghi là "đơn sơ"
Buổi sáng yên tĩnh, tôi ngồi với chén trà, đọc một trang trà đạo. Trang sách dẫn tôi vào một trà thất truyền thống cạnh một ngôi chùa nhỏ bên xứ Phù Tang. Đường vào trà thất là một lối đi nhỏ, thoai thoải uốn khúc giữa một khu vườn, trước mặt là đồi núi. Khu vườn xinh xắn, đơn giản. Một dòng nước róc rách chảy ngược chân khách, rêu phủ trên đá, hoa dại lác đác mọc ven bờ.
Trà thất cũng đơn giản một am tranh, nhỏ vừa bằng nơi trú của một ẩn sĩ. Khách bước đến trước một bể nước, nước từ ống tre chảy xuống. Khách rửa tay, súc miệng, làm một cử chỉ tượng trưng, như rửa sạch thân ý trước khi bước vào nhà.
Cửa nhà chỉ một liếp, mở ra dọc theo vách. Khách phải cúi xuống tận nền để bước vào. Vào nhà, trước mặt là một gian phòng nhỏ trang hoàng độc nhất bằng một bức thư pháp, trên đó thảo một bài thơ. Thêm một bình hoa, giản dị, hoa chọn theo mùa, lúc đó là hoa xuân. Ánh sáng lọc qua khe cửa, mờ ảo, vừa đủ để làm ấm thêm màu vách vốn đã ấm. Khách ngồi xuống chiếu, nghe nước reo sôi từ ấm thiếc và chim ríu rít bên ngoài. Cảnh lặng yên, khách cũng lặng yên.
Chủ nhân hiện ra. Quỳ gối, ông che quạt trước mặt, cúi xuống tận đất, chào khách. Khách chào trả. Chủ quay chân bước ra khỏi phòng rồi đi vào với dụng cụ pha trà. Tay trái cầm chéo khăn lụa, ông vuốt một đường khăn bằng tay phải, gọn gàng xếp khăn thành ba. Lần theo cuối khăn, ông kéo các góc lại với nhau, xếp thành ba lần nữa. Với khăn xếp như thế, ông lau từng dụng cụ, lau một cách tượng trưng vì đồ vật đều đã sạch nhẵn. Tỉ mỉ, nghi thức, ông tráng các chén trà bằng nước nóng trong ấm thiếc, nhúng một thẻ tre vào nước, quan sát, rồi đặt xuống bên cạnh. Xong, ông rót nước nóng vào bình trà trước khi lau bình với một chiếc khăn ướt.
Quay lại khách, ông mời một viên kẹo ngọt. Khách nhắm kẹo trong lúc chủ nhân sửa soạn ấm trà. Long trọng, ông mở hộp trà, đong trà bằng một cái thìa tre, cho trà vào ấm. Nhúng một cái muỗng có cán thật dài vào ấm thiếc, ông chế nước nóng vào trà.
Xong, với một thẻ tre, ông khuấy trà cho hết bọt. Quay lại, ông đặt một chén trà trước mặt khách, xoay phần đẹp nhất của chén về phía khách. Khách nâng chén, đưa chén đến gần, cầm chén trong lòng bàn tay, cúi chào chén trà. nhấm vài ngụm nhỏ, rồi uống thật to phần trà cuối chén mà người Nhật cho là phần ngon nhất.
Cạn chén trà, khách xoay chén vào đúng vị trí cũ, đặt chén xuống nền nhà, trước mặt, cúi chào chén. Chủ nhân cầm chén, rửa chén bằng nước nóng, trả chén về lại cho khách để khách quan sát, ngắm nghía chén trà gia bảo, không đâu khác có.
Ngắm nghía như vậy là một phần lễ nghi quan trọng trong buổi uống trà. Mỗi dụng cụ đều được chủ nhân đem ra dùng đặc biệt cho khách. Khách thong thả ngắm, thưởng thức vẻ đẹp, rồi trả lại cho chủ. Chủ bưng tất cả vào phòng trong, rồi trở lui, đứng trước mặt khách. Buổi uống trà chấm dứt như lúc bắt đầu. Chủ đặt cây quạt xuống đất trước mặt, cúi đầu. Khách cúi đầu đáp lễ. Chủ rút lui vào trong.
Khách rời con đường nhỏ, quanh co xuống dốc, xuyên qua khu vườn. Tiếng ồn ào của thành phố dần dần vẳng lại, càng lúc càng rộn.
Trà đạo là gì? Là nghi lễ tương tự như nghi lễ tôn giáo? Là sự tương thông tương giao giữa chủ và khách? Là một nghệ thuật phi nghệ thuật? Tôi được giải thích rằng chén trà trong trà thất diễn tả wabi và sabi trong nghệ thuật thiền của Nhật. Wabi là một cảm giác cô đơn, buồn vời vợi, lặng lẽ như một bông tuyết rơi. Sabi là vẻ đẹp đến từ cái gì xưa cũ, phai mòn, già cỗi với thời gian.
Chén trà trong trà thất không phải là đồ quý, đồ sang, đắt tiền, thường là thô, lắm khi chỉ là một cái chén đơn sơ. Wabi- sabi là vẻ đẹp của những đồ vật không hoàn hảo, tầm thường, khiêm tốn, chỉ có mắt nào biết nhìn mới thấy đẹp. Và thấy rồi thì trong lòng nảy ra hoài cảm, vấn vương với quá khứ, bâng khuâng trước chuyển dịch của thời gian, của vạn vật vô thường. Ấm trà, chén trà, mái nhà, gian phòng, từng cử chỉ của chủ nhân... tất cả gợi lên cảm giác đó, tất cả tỏa ra hơi thở của nghệ thuật thiền.
Nhưng trên tất cả, tinh túy của tinh túy, là bản chất đơn sơ của mọi sự vật, đơn sơ đến độ như không vướng mắc vào bất cứ một cái gì, như không có gì, như chỉ duy nhất tầm thường có thế thôi. Mỗi chén trà tự nó là mỗi chén trà, nhìn nó như một chén trà, ngoài ra mọi chuyện khác hãy tự bay đi, biến mất. Nhìn chén trà như vậy mới thấy nó hiện ra như một chén trà, với vẻ đẹp đơn sơ của nó. Không có gì khác ngoài nó, không có gì khác ngoài giây phút hiện tại, sự thực vốn đơn sơ như chẳng có gì để nói, như sự lặng yên nơi mỗi cử chỉ của chủ nhân, như thế đấy sự vật hiện ra trước mắt, lặng yên mà nhìn, mà thấy, mà hiểu, mà cúi đầu.
Tôi có cảm tưởng hiểu được tinh túy của nghệ thuật trà đạo ở Nhật. Uống trà không phải là uống chén trà mà uống cái đẹp giản dị, sơ khôi, thể hiện qua cách pha trà, mời trà. Tôi thán phục văn hóa thiền đã đi sâu vào đời sống của dân tộc bạn. Nhưng, không hiểu sao, tôi vẫn chưa muốn vào trà thất, tôi sợ tôi vẫn chỉ là người khách xa lạ trước một chủ nhân trịnh trọng. Tôi sợ lễ nghi, cung cách. Lễ nghi lắm khi giết chết lễ nghi.
Tôi thích uống trà theo phong cách Việt Nam, uống trà như tôi thường uống với các sư trong chùa. Khách đến, bình thủy của chùa như lúc nào cũng có nước nóng, như lúc nào cũng vui được hồn nhiên tiếp khách. Sư vừa tiếp chuyện vừa chế trà, thản nhiên nhưng vẫn chăm chút trong từng cử chỉ.
Khách cũng vậy, hồn nhiên uống trà, không kiểu cách, ngụm trà thơm ngon trong miệng, nhưng không cảm ơn chén trà, mà chắc chén trà cũng không đòi cúi đầu cảm ơn. Cả cái sân chùa cũng không đòi cảm ơn, tuy khách uống trà ở chùa là uống cả cái sân chùa. Ở Việt Nam không có thiền trà chăng? Đâu phải! Cứ lên chùa uống trà thì biết: chén trà ở chùa vẫn khác. Không kiểu cách mà vẫn khác. Không lễ nghi mà khách vẫn nâng chén trà thận trọng khác thường ngày. Chưa kể, lúc được song ẩm với sư, chén trà chỉ còn là hương thơm.
Vậy thì nghệ thuật uống trà ở chùa là thế nào? Có gì là nghệ thuật trong đó chăng? Giữa lễ nghi của trà thất ở Nhật và cái phong cách chẳng có gì là lễ nghi cả ở trong chùa, có chỗ nào gặp nhau không? Miên man, tôi nghĩ là có. Gặp nhau ở chỗ đơn sơ. Đơn sơ ở trong chùa thì dễ thấy. Đơn sơ như cái hồn diễn đạt qua cả một cung cách lễ nghi như trong trà đạo thì khó nhận ra hơn, nhưng ở đâu cũng vậy thôi, uống trà là để hòa, để kính, để tịnh, để tịch với thiên nhiên, với người trước mặt, với đồ vật chung quanh, với chén trà. Nghệ thuật nằm ở chỗ ấy: đơn sơ nào cũng cần có chút lễ nghi, nhưng tinh túy của lễ nghi là đơn sơ.
Tôi thích câu chuyện này, của một thiền sư người Mỹ kể về thầy của mình, một thiền sư người Nhật. Một hôm, ông đến phi trường New York đón thầy. Máy bay đến trễ, giờ uống trà buổi sáng đã qua, trò tỏ ý tiếc. Thầy nói: "Đâu có trễ! Vào đây!". Thầy trò đưa nhau vào quán ăn trong sân bay, đầy nhóc người. Trò hoảng hồn, chẳng lẽ thầy làm trà đạo ở đây? Thầy trò ngồi vào bàn. Thầy thản nhiên rút trong tay nải ra một hộp trà, mở hộp, tìm cái thìa tre, đong đầy một thìa trà, bảo trò há miệng ra, thảy trà vào miệng, kẹp miệng trò lại với hai ngón tay, ra lệnh: "Pha nước vào!".
Dạy bài học đơn sơ của trà đạo đến mức đó thì tuyệt chiêu. Đơn sơ là tinh túy của thiền.
Tôi nhớ đến câu chuyện đó một buổi sáng sớm trên núi Yên Tử, cuối thu vừa qua. Tôi đến Yên Tử lúc bốn giờ chiều, không biết rằng cáp treo đã hỏng. Ai cũng nghĩ sức tôi không leo lên núi được, trời lại chiều, đêm sắp xuống. Nhưng đến Yên Tử mà không leo lên thì có lỗi với tổ tiên, nên phải leo thôi. Hai giờ sau, giữa bóng đêm, chúng tôi lên đến nửa núi, vào thắp hương trong chùa Hoa Yên, nơi vua Trần Nhân Tông đến tu.
Ngủ lại đêm trong quán trọ lưng chừng núi, sáng tinh sương hôm sau chúng tôi thức dậy với mây hồng phớt nhẹ trên núi non hùng vĩ. Như phản xạ, tôi thèm quá một chén trà. Nhưng trà đâu, bình đâu? May quá, đồng hành với tôi là một ông sư trẻ, mà, như một chân lý bất diệt, ở đâu có sư thì ở đấy có trà.
Cho nên, sư thoắt đi rồi sư thoắt về với một ấm trà và vài cái chén trong tay. Giữa vũ trụ lặng yên bước chân thầm của lịch sử, mấy cái chén trà, đặt trên gạch đá, trước cây đại xưa bảy trăm năm, trong sương thu se lạnh, mang đến một không khí wabi-sabi mà tôi chỉ biết trong tưởng tượng. Tôi tưởng như nghe bước chân của Vua một mình leo lên Hoa Yên này đây, vứt quyền hành dưới chân núi. Thốt nhiên, tôi muốn dâng chén trà trong tay cho núi non Yên Tử. Thốt nhiên, tôi cảm thấy sự cần thiết thôi thúc của một lễ nghi. Tôi cúi đầu trước chén trà.
Có lẽ thầy Pháp Trí bên cạnh tôi cũng rúng động một tâm trạng như tôi lúc đó. Có lẽ, đứng trước khí thiêng sông núi, ai cũng có xúc động như tôi. Nhưng, phút cảm động đi qua, chúng tôi trở lại với ấm trà bình thường, quen thuộc trong chùa.
Vui vẻ, tôi uống cạn chén trà, uống một hơi thật to khi cạn chén, tuy trà hẩm, nước hẩm. Rồi nghĩ: như vậy là may lắm rồi, vì ông sư trẻ đồng hành này không há miệng tôi ra, thảy vào đấy một muỗng trà khô...
*************
Đọc bài viết trong một ngày tình cờ nhận được tin nhắn từ một người bạn cũ, lòng tôi như lắng lại. Kỷ niệm tràn về và một kí ức yêu thương, dù nhỏ bé lại cháy sáng trong tâm hồn cái tôi bộn bề lo toan công việc trong hiện tại. Cuộc sống luôn là vậy thôi, đôi khi chậm lại ta lại bắt kịp với nhịp đời.
Chúc moi người vui!
Buổi sáng yên tĩnh, tôi ngồi với chén trà, đọc một trang trà đạo. Trang sách dẫn tôi vào một trà thất truyền thống cạnh một ngôi chùa nhỏ bên xứ Phù Tang. Đường vào trà thất là một lối đi nhỏ, thoai thoải uốn khúc giữa một khu vườn, trước mặt là đồi núi. Khu vườn xinh xắn, đơn giản. Một dòng nước róc rách chảy ngược chân khách, rêu phủ trên đá, hoa dại lác đác mọc ven bờ.
Trà thất cũng đơn giản một am tranh, nhỏ vừa bằng nơi trú của một ẩn sĩ. Khách bước đến trước một bể nước, nước từ ống tre chảy xuống. Khách rửa tay, súc miệng, làm một cử chỉ tượng trưng, như rửa sạch thân ý trước khi bước vào nhà.
Cửa nhà chỉ một liếp, mở ra dọc theo vách. Khách phải cúi xuống tận nền để bước vào. Vào nhà, trước mặt là một gian phòng nhỏ trang hoàng độc nhất bằng một bức thư pháp, trên đó thảo một bài thơ. Thêm một bình hoa, giản dị, hoa chọn theo mùa, lúc đó là hoa xuân. Ánh sáng lọc qua khe cửa, mờ ảo, vừa đủ để làm ấm thêm màu vách vốn đã ấm. Khách ngồi xuống chiếu, nghe nước reo sôi từ ấm thiếc và chim ríu rít bên ngoài. Cảnh lặng yên, khách cũng lặng yên.
Chủ nhân hiện ra. Quỳ gối, ông che quạt trước mặt, cúi xuống tận đất, chào khách. Khách chào trả. Chủ quay chân bước ra khỏi phòng rồi đi vào với dụng cụ pha trà. Tay trái cầm chéo khăn lụa, ông vuốt một đường khăn bằng tay phải, gọn gàng xếp khăn thành ba. Lần theo cuối khăn, ông kéo các góc lại với nhau, xếp thành ba lần nữa. Với khăn xếp như thế, ông lau từng dụng cụ, lau một cách tượng trưng vì đồ vật đều đã sạch nhẵn. Tỉ mỉ, nghi thức, ông tráng các chén trà bằng nước nóng trong ấm thiếc, nhúng một thẻ tre vào nước, quan sát, rồi đặt xuống bên cạnh. Xong, ông rót nước nóng vào bình trà trước khi lau bình với một chiếc khăn ướt.
![]() |
Tôi được giải thích rằng chén trà trong trà thất diễn tả wabi và sabi trong nghệ thuật thiền của Nhật. Wabi là một cảm giác cô đơn, buồn vời vợi, lặng lẽ như một bông tuyết rơi. Ảnh: khungtroisaomai.com |
Xong, với một thẻ tre, ông khuấy trà cho hết bọt. Quay lại, ông đặt một chén trà trước mặt khách, xoay phần đẹp nhất của chén về phía khách. Khách nâng chén, đưa chén đến gần, cầm chén trong lòng bàn tay, cúi chào chén trà. nhấm vài ngụm nhỏ, rồi uống thật to phần trà cuối chén mà người Nhật cho là phần ngon nhất.
Cạn chén trà, khách xoay chén vào đúng vị trí cũ, đặt chén xuống nền nhà, trước mặt, cúi chào chén. Chủ nhân cầm chén, rửa chén bằng nước nóng, trả chén về lại cho khách để khách quan sát, ngắm nghía chén trà gia bảo, không đâu khác có.
Ngắm nghía như vậy là một phần lễ nghi quan trọng trong buổi uống trà. Mỗi dụng cụ đều được chủ nhân đem ra dùng đặc biệt cho khách. Khách thong thả ngắm, thưởng thức vẻ đẹp, rồi trả lại cho chủ. Chủ bưng tất cả vào phòng trong, rồi trở lui, đứng trước mặt khách. Buổi uống trà chấm dứt như lúc bắt đầu. Chủ đặt cây quạt xuống đất trước mặt, cúi đầu. Khách cúi đầu đáp lễ. Chủ rút lui vào trong.
Khách rời con đường nhỏ, quanh co xuống dốc, xuyên qua khu vườn. Tiếng ồn ào của thành phố dần dần vẳng lại, càng lúc càng rộn.
Trà đạo là gì? Là nghi lễ tương tự như nghi lễ tôn giáo? Là sự tương thông tương giao giữa chủ và khách? Là một nghệ thuật phi nghệ thuật? Tôi được giải thích rằng chén trà trong trà thất diễn tả wabi và sabi trong nghệ thuật thiền của Nhật. Wabi là một cảm giác cô đơn, buồn vời vợi, lặng lẽ như một bông tuyết rơi. Sabi là vẻ đẹp đến từ cái gì xưa cũ, phai mòn, già cỗi với thời gian.
Chén trà trong trà thất không phải là đồ quý, đồ sang, đắt tiền, thường là thô, lắm khi chỉ là một cái chén đơn sơ. Wabi- sabi là vẻ đẹp của những đồ vật không hoàn hảo, tầm thường, khiêm tốn, chỉ có mắt nào biết nhìn mới thấy đẹp. Và thấy rồi thì trong lòng nảy ra hoài cảm, vấn vương với quá khứ, bâng khuâng trước chuyển dịch của thời gian, của vạn vật vô thường. Ấm trà, chén trà, mái nhà, gian phòng, từng cử chỉ của chủ nhân... tất cả gợi lên cảm giác đó, tất cả tỏa ra hơi thở của nghệ thuật thiền.
Nhưng trên tất cả, tinh túy của tinh túy, là bản chất đơn sơ của mọi sự vật, đơn sơ đến độ như không vướng mắc vào bất cứ một cái gì, như không có gì, như chỉ duy nhất tầm thường có thế thôi. Mỗi chén trà tự nó là mỗi chén trà, nhìn nó như một chén trà, ngoài ra mọi chuyện khác hãy tự bay đi, biến mất. Nhìn chén trà như vậy mới thấy nó hiện ra như một chén trà, với vẻ đẹp đơn sơ của nó. Không có gì khác ngoài nó, không có gì khác ngoài giây phút hiện tại, sự thực vốn đơn sơ như chẳng có gì để nói, như sự lặng yên nơi mỗi cử chỉ của chủ nhân, như thế đấy sự vật hiện ra trước mắt, lặng yên mà nhìn, mà thấy, mà hiểu, mà cúi đầu.
Tôi có cảm tưởng hiểu được tinh túy của nghệ thuật trà đạo ở Nhật. Uống trà không phải là uống chén trà mà uống cái đẹp giản dị, sơ khôi, thể hiện qua cách pha trà, mời trà. Tôi thán phục văn hóa thiền đã đi sâu vào đời sống của dân tộc bạn. Nhưng, không hiểu sao, tôi vẫn chưa muốn vào trà thất, tôi sợ tôi vẫn chỉ là người khách xa lạ trước một chủ nhân trịnh trọng. Tôi sợ lễ nghi, cung cách. Lễ nghi lắm khi giết chết lễ nghi.
Tôi thích uống trà theo phong cách Việt Nam, uống trà như tôi thường uống với các sư trong chùa. Khách đến, bình thủy của chùa như lúc nào cũng có nước nóng, như lúc nào cũng vui được hồn nhiên tiếp khách. Sư vừa tiếp chuyện vừa chế trà, thản nhiên nhưng vẫn chăm chút trong từng cử chỉ.
Khách cũng vậy, hồn nhiên uống trà, không kiểu cách, ngụm trà thơm ngon trong miệng, nhưng không cảm ơn chén trà, mà chắc chén trà cũng không đòi cúi đầu cảm ơn. Cả cái sân chùa cũng không đòi cảm ơn, tuy khách uống trà ở chùa là uống cả cái sân chùa. Ở Việt Nam không có thiền trà chăng? Đâu phải! Cứ lên chùa uống trà thì biết: chén trà ở chùa vẫn khác. Không kiểu cách mà vẫn khác. Không lễ nghi mà khách vẫn nâng chén trà thận trọng khác thường ngày. Chưa kể, lúc được song ẩm với sư, chén trà chỉ còn là hương thơm.
Vậy thì nghệ thuật uống trà ở chùa là thế nào? Có gì là nghệ thuật trong đó chăng? Giữa lễ nghi của trà thất ở Nhật và cái phong cách chẳng có gì là lễ nghi cả ở trong chùa, có chỗ nào gặp nhau không? Miên man, tôi nghĩ là có. Gặp nhau ở chỗ đơn sơ. Đơn sơ ở trong chùa thì dễ thấy. Đơn sơ như cái hồn diễn đạt qua cả một cung cách lễ nghi như trong trà đạo thì khó nhận ra hơn, nhưng ở đâu cũng vậy thôi, uống trà là để hòa, để kính, để tịnh, để tịch với thiên nhiên, với người trước mặt, với đồ vật chung quanh, với chén trà. Nghệ thuật nằm ở chỗ ấy: đơn sơ nào cũng cần có chút lễ nghi, nhưng tinh túy của lễ nghi là đơn sơ.
Tôi thích câu chuyện này, của một thiền sư người Mỹ kể về thầy của mình, một thiền sư người Nhật. Một hôm, ông đến phi trường New York đón thầy. Máy bay đến trễ, giờ uống trà buổi sáng đã qua, trò tỏ ý tiếc. Thầy nói: "Đâu có trễ! Vào đây!". Thầy trò đưa nhau vào quán ăn trong sân bay, đầy nhóc người. Trò hoảng hồn, chẳng lẽ thầy làm trà đạo ở đây? Thầy trò ngồi vào bàn. Thầy thản nhiên rút trong tay nải ra một hộp trà, mở hộp, tìm cái thìa tre, đong đầy một thìa trà, bảo trò há miệng ra, thảy trà vào miệng, kẹp miệng trò lại với hai ngón tay, ra lệnh: "Pha nước vào!".
Dạy bài học đơn sơ của trà đạo đến mức đó thì tuyệt chiêu. Đơn sơ là tinh túy của thiền.
Tôi nhớ đến câu chuyện đó một buổi sáng sớm trên núi Yên Tử, cuối thu vừa qua. Tôi đến Yên Tử lúc bốn giờ chiều, không biết rằng cáp treo đã hỏng. Ai cũng nghĩ sức tôi không leo lên núi được, trời lại chiều, đêm sắp xuống. Nhưng đến Yên Tử mà không leo lên thì có lỗi với tổ tiên, nên phải leo thôi. Hai giờ sau, giữa bóng đêm, chúng tôi lên đến nửa núi, vào thắp hương trong chùa Hoa Yên, nơi vua Trần Nhân Tông đến tu.
Ngủ lại đêm trong quán trọ lưng chừng núi, sáng tinh sương hôm sau chúng tôi thức dậy với mây hồng phớt nhẹ trên núi non hùng vĩ. Như phản xạ, tôi thèm quá một chén trà. Nhưng trà đâu, bình đâu? May quá, đồng hành với tôi là một ông sư trẻ, mà, như một chân lý bất diệt, ở đâu có sư thì ở đấy có trà.
Cho nên, sư thoắt đi rồi sư thoắt về với một ấm trà và vài cái chén trong tay. Giữa vũ trụ lặng yên bước chân thầm của lịch sử, mấy cái chén trà, đặt trên gạch đá, trước cây đại xưa bảy trăm năm, trong sương thu se lạnh, mang đến một không khí wabi-sabi mà tôi chỉ biết trong tưởng tượng. Tôi tưởng như nghe bước chân của Vua một mình leo lên Hoa Yên này đây, vứt quyền hành dưới chân núi. Thốt nhiên, tôi muốn dâng chén trà trong tay cho núi non Yên Tử. Thốt nhiên, tôi cảm thấy sự cần thiết thôi thúc của một lễ nghi. Tôi cúi đầu trước chén trà.
Có lẽ thầy Pháp Trí bên cạnh tôi cũng rúng động một tâm trạng như tôi lúc đó. Có lẽ, đứng trước khí thiêng sông núi, ai cũng có xúc động như tôi. Nhưng, phút cảm động đi qua, chúng tôi trở lại với ấm trà bình thường, quen thuộc trong chùa.
Vui vẻ, tôi uống cạn chén trà, uống một hơi thật to khi cạn chén, tuy trà hẩm, nước hẩm. Rồi nghĩ: như vậy là may lắm rồi, vì ông sư trẻ đồng hành này không há miệng tôi ra, thảy vào đấy một muỗng trà khô...
*************
Đọc bài viết trong một ngày tình cờ nhận được tin nhắn từ một người bạn cũ, lòng tôi như lắng lại. Kỷ niệm tràn về và một kí ức yêu thương, dù nhỏ bé lại cháy sáng trong tâm hồn cái tôi bộn bề lo toan công việc trong hiện tại. Cuộc sống luôn là vậy thôi, đôi khi chậm lại ta lại bắt kịp với nhịp đời.
Chúc moi người vui!

Được cảm ơn bởi: Lolita
- Bui Mai Phuong
- Tứ đẳng
- Bài viết: 981
- Tham gia: 00:14, 16/09/09
TL: Bình dị là cuộc sống
phonglan đã viết:BMP mất tích lâu quá đó. Dạo này làm ăn ra sao rồi?

Con đi làm, lãi được cái là các chị khen ngày càng xinh ra thôi :">
Chú ăn Tết thế nào ạ?