CHIẾN TRANH THẾ GIỚI theo đúng quy luật trời đất???
TL: CHIẾN TRANH THẾ GIỚI theo đúng quy luật trời đất???
Em đồng ý kiến với anh. hix, lá số của em chắc phá cách nhìu lắm. Dù sao cũng cảm ơn anh rất nhìu ^^
-
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 1114
- Tham gia: 18:57, 19/10/09
TL: CHIẾN TRANH THẾ GIỚI theo đúng quy luật trời đất???
đi cái dép còn có số mà, chứ nói đến chuyện quốc gia, vũ trụ
Được cảm ơn bởi: anhchang00005
- LờithìthầmLove
- Mới gia nhập
- Bài viết: 11
- Tham gia: 23:34, 08/02/12
TL: CHIẾN TRANH THẾ GIỚI theo đúng quy luật trời đất???
Nói như bác Chấn có vẻ như đi ngược lại quan điểm Phật giáo , mọi người có quyền đc sinh ra và sống , còn việc họ đc sống như thế nào là còn phụ thuộc vào nỗ lực của chính họ, và ko ai có quyền đc thanh lọc ai mà việc đó phải để cho tự nhiên thanh lọc chính họ( ví dụ như nghèo đói , lười nhác ...), vấn đề dân số thì đã có sự phân quyền của từng giai cấp trong mỗi nhà nước như việc nhà 2 con thì việc nuôi nấng dạy dỗ tốt hơn nhà có số con nhiều hơn thì sẽ có khả năng chiếm hữu của cải nhiều hơn , chứ ko thể Trung Quốc cứ đẻ cho đông dân là đòi tràn sang Việt nam đc,và Việt nam cũng chẳng phải sợ điều đó, mỗi cái lồng chỉ chứa một số lượng nhất định ,chính là sự thanh lọc của giai cấp, nên ko thể cứ phải có chiến tranh thì mới thanh lọc đc vấn đề dân số , vì thế mọi người cũng đừng kêu ca lắm khi mà vô hình mình đã có nhiều thứ mà ko thấy , việc bọn phương tây nổ ra chiến tranh thế giới nó chỉ muốn khai thác tài nguyên mang về cho nó thôi , chứ đẳng cấp nó pro lắm , theo nó thì nó tha chứ mấy mét đất chắc nó ko cần đâu, nói cho công bằng tôi vẫn thấy có tính nhân đạo và hào phóng trong chúng ,nhà nước ko khai thác vàng thì thôi thế mà dân ta tự khai thác vàng nhà nước cũng cấm , khai thác chất xám còn khó hơn nữa ,chiến tranh thế giới thứ 3 có lẽ là chiến tranh khủng hoảng kinh tế trên toàn thế giới , nước nào ở vị trí càng cao càng lay động mạnh còn chúng ta ở mức này thì lo gì 

-
- Lục đẳng
- Bài viết: 3290
- Tham gia: 12:54, 27/11/11
TL: CHIẾN TRANH THẾ GIỚI theo đúng quy luật trời đất???
he, topic này hay quá, đánh dấu lại sáng mai đọc
-
- Mới gia nhập
- Bài viết: 9
- Tham gia: 16:27, 04/02/12
TL: CHIẾN TRANH THẾ GIỚI theo đúng quy luật trời đất???
Vấn đề là Trung đông hiện nay là mối quan tâm tranh chấp về kinh tế và chính trị hàng đầu của Phương tây và Nga liệu khi Mỹ đánh Iran cũng là lúc Nga vào cuộc. Thế giới thứ 3 từ đây chăng
TL: CHIẾN TRANH THẾ GIỚI theo đúng quy luật trời đất???
Dịch giải dự ngôn «Mai Hoa Thi» thời nhà Tống
Bản để in Bản để in
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp
[Chanhkien.org]
«Mai Hoa Thi» (梅花诗) tương truyền là do Thiệu Ung tiên sinh sáng tác. Thiệu Ung, tự là Nghiêu Phu, sinh năm thứ 4 Tống Chân Tông (năm 1011 SCN), mất năm thứ 10 Tống Thần Tông (năm 1077 SCN), hiệu là Khang Tiết. Ông quê ở Phạm Dương, Hà Bắc, sau di cư sang Cộng Thành, cuối cùng ẩn cư ở Lạc Dương. «Mai Hoa Thi» tổng cộng có 10 kỳ, dự ngôn những diễn biến lịch sử trọng đại của Trung Quốc sau khi ông qua đời. Vì vậy tất nhiên bài thơ sử dụng ngôn ngữ tiên tri, rất ẩn ý, không dễ mà lý giải cho được. Có một bộ phận là dành cho người tu luyện, người bình thường đọc quả thực không hiểu chút gì. Ở đây chỉ xin giải sơ qua, các bậc trí giả và cao nhân nếu thấy có chỗ nào không ổn kính mong chỉ giáo. Toàn bộ phần diễn nghĩa là của người dịch, chỉ để tham khảo.
(一)
荡荡天门万古开,几人归去几人来。
山河虽好非完璧,不信黄金是祸胎。
(Nhất)
Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai,
Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai.
Sơn hà tuy hảo phi hoàn bích,
Bất tín Hoàng Kim thị họa thai.
Tạm dịch:
(Một)
Cánh cổng trời từ vạn cổ khai mở,
Hỏi mấy người đến mấy người trở về.
Non sông tuy đẹp mà không toàn vẹn,
Không tin Hoàng Kim là nguồn tai họa.
Giải:
“Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai, Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai.” Cánh cổng trời vĩ đại từ vạn cổ tới nay mới khai mở lần đầu tiên. Biết bao nhiêu người tới nhân gian, biết bao nhiêu người có thể trở về? Ý nghĩa của hai câu này gắn kết chặt chẽ với chủ đề bài thơ, ngay lúc mở đầu đã dẫn xuất chủ đề tối hậu. Người tu luyện nhìn một cái là rõ ngay, còn người phổ thông xem không hiểu rõ được, ở đây không giải kỹ thêm nữa.
“Sơn hà tuy hảo phi hoàn bích, Bất tín Hoàng Kim thị họa thai.” Thời nhà Tống là lúc mà triều đình nhu nhược bất tài. Toàn bộ xã hội từ trên xuống dưới đều như vậy, đam mê ca múa vui thái bình. Đặc biệt đến thời Nam Tống thì càng cẩu thả tạm bợ, ở nửa giang sơn vùng Giang Nam mà mê đắm trong tình sắc hoan ái, thể thơ Tống từ trở thành cách văn nhân bày tỏ tình cảm luyến ái. Rốt cuộc trong lịch sử Trung Quốc có “nỗi nhục Tịnh Khang” (Tịnh Khang là niên hiệu vua Khâm Tông thời Tống, năm 1126-1127 SCN), hoàng đế Bắc Tống, cung phi, hoàng thân, cho đến khắp đại thần trong triều ba ngàn người đều bị nước Kim bắt làm nô lệ. Đến nỗi cuối cùng hoàng đế Nam Tống phải nhảy xuống biển vùi thân. Do vậy, non sông tuy tươi đẹp mà không toàn vẹn là vậy. “Kim” là chỉ tộc Nữ Chân ở phương Bắc kiến lập nước Đại Kim. “Hoàng” là phủ Hoàng Long, kinh đô nước Kim (nay là huyện Nông An, tỉnh Cát Lâm. Trung Quốc). Ở đây tiên tri về sự kiện nhà Nam Tống sống tạm bợ trong một nửa giang sơn vùng Giang Nam và người Kim xâm nhập trong lịch sử. “Bất tín Hoàng Kim thị họa thai” nói về nước Kim diệt Bắc Tống, xâm phạm Nam Tống.
(二)
湖山一梦事全非,再见云龙向北飞。
三百年来终一日,长天碧水叹弥弥。
(Nhị)
Hồ Sơn nhất mộng sự toàn phi,
Tái kiến Vân Long hướng Bắc phi.
Tam bách niên lai chung nhất nhật,
Trường thiên bích thủy thán di di.
Tạm dịch:
(Hai)
Giấc mộng Hồ Sơn đều hỏng cả,
Lại thấy Rồng Mây hướng Bắc bay.
Ba trăm năm hết nội một ngày,
Non xanh nước biếc ôi còn đâu.
Giải:
“Hồ sơn nhất mộng sự toàn phi”: Bởi rằng Nam Tống lập kinh đô Lâm An (nay là Hàng Châu) bên bờ Tây Hồ, hơn nữa hoàng đế Nam Tống cả ngày đắm chìm trong tửu sắc, vậy mới nói “Hồ Sơn nhất mộng”. “Tái kiến Vân Long hướng Bắc phi”, là chỉ khí số thiên tượng rơi vào phương Bắc, ở miền Bắc sinh “chân long thiên tử”, triều đại mới sinh ra ở phương Bắc. Khi binh nhà Nguyên xâm nhập Lâm An, hoàng đế bị bắt làm tù binh. “Tam bách niên lai chung nhất nhật”, là chỉ Bắc Tống, Nam Tống trải qua ba trăm năm (từ năm 960 đến 1279 SCN) rồi cuối cùng diệt vong. “Trường thiên bích thủy thán di di”, chính là chỉ năm 1279 SCN, tàn quân nhà Tống chiến bại không còn lối thoát, Lục Tú Phu cõng tiểu hoàng đế Nam Tống Triệu Bính nhảy xuống biển mà chết, các tướng sĩ khác và hoàng phi đều gặp bão lớn rồi chìm dưới đáy đại dương.
(三)
天地相乘数一原,忽逢甲子又兴元。
年华二八乾坤改,看尽残花总不言。
(Tam)
Thiên địa tương thừa số nhất nguyên,
Hốt phùng giáp tử hựu hưng Nguyên.
Niên hoa nhị bát càn khôn cải,
Khán tận tàn hoa tổng bất ngôn.
Tạm dịch:
(Ba)
Thiên địa số nhân đến nhất nguyên,
Gặp Hốt một giáp lại hưng Nguyên.
Được tám tám năm càn khôn đổi,
Xem hết hoa tàn vẫn không tâu.
Giải:
“Thiên địa tương thừa số nhất nguyên, Hốt phùng giáp tử hựu hưng Nguyên”, là nói thời kỳ Thiên can Địa chi tương giao, trở lại ngọn nguồn, nhà Nguyên bắt đầu hưng thịnh. “Hốt” ở đây là chỉ Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt, “hưng Nguyên” là chỉ nhà Nguyên được kiến lập. Hốt Tất Liệt năm 1260 SCN làm Đại Hãn, năm 1264 SCN (một giáp – Giáp tử) lên ngôi kiến lập triều Nguyên, lấy hiệu nước là Nguyên, dời đô đến Yên Kinh (nay là Bắc Kinh). Năm 1271, Hốt Tất Liệt căn cứ vào kiến nghị của Lưu Bỉnh Trung, lấy ý nghĩa “Càn Nguyên” trong «Kinh Dịch» mà cải quốc hiệu thành “Đại Nguyên”, thống trị Trung Quốc. “Niên hoa nhị bát càn khôn cải, Khán tận tàn hoa tổng bất ngôn”, triều Nguyên từ Nguyên Thế Tổ truyền được 10 đời. Năm 1279 SCN, triều Tống diệt vong hoàn toàn, đến năm 1368 SCN, triều Nguyên bị diệt, tổng cộng là 88 năm, ứng với ý trong “Được tám tám năm càn khôn đổi”. Thời Nguyên Thuận Đế, hoạn quan ém nhẹm hồ sơ không tâu lên hoàng đế hại nhà Nguyên, có thể nói “hoa tàn” mà “vẫn không tâu” là như vậy.
(四)
毕竟英雄起布衣,朱门不是旧黄畿。
飞来燕子寻常事,开到李花春已非。
(Tứ)
Tất cánh anh hùng khởi bố y,
Chu môn bất thị cựu hoàng kỳ.
Phi lai yến tử tầm thường sự,
Khai đáo Lý hoa Xuân dĩ phi.
Tạm dịch:
(Bốn)
Rốt cuộc anh hùng từ áo vải,
Lầu son đâu phải cựu hoàng kỳ.
Nhanh như chim én tầm thường sự,
Lý hoa khai nở Xuân đâu còn.
Giải:
“Tất cánh anh hùng khởi bố y, Chu môn bất thị cựu hoàng kỳ”, tả rõ Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, tuy xuất thân bần tiện (bố y – áo vải), còn trải qua mấy năm làm hòa thượng, sau tham gia khởi nghĩa nông dân hồng cân quân, cuối cùng thể hiện bản sắc anh hùng, từ một binh sĩ bình thường vọt lên làm thủ lĩnh, đến năm 1368 SCN xưng đế tại Nam Kinh. Chính “Chu môn – Lầu son” ấy không còn là nhà nông đất vàng (“hoàng kỳ”) ngày xưa nữa. “Phi lai yến tử tầm thường sự, Khai đáo Lý hoa Xuân dĩ phi” chỉ con thứ tư của Chu Nguyên Chương là Yên vương Chu Đệ hùng cứ tại Yên Kinh, bị buộc phải phát động chiến dịch công nhập Nam Kinh, đoạt lấy ngôi Vua, đúng là “nhanh như chim én”. Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương nhường ngôi cho Hoàng Thái Tôn cháu mình, tức Minh Huệ Đế. Năm ấy, hơn mười hoàng tử được phong làm Phiên vương, đóng tại biên cương. Trong đó Yên vương Chu Đệ thực lực mạnh nhất, danh vọng lớn nhất. Minh Huệ Đế vì cứ khăng khăng tước bỏ Phiên vương, đòi miễn Yên vương, nên Yên vương không còn cách nào khác đành khởi binh làm phản. Bởi vì Yên vương Chu Đệ tài đức xuất chúng, trí dũng hơn người nên cuối cùng giành chiến thắng sau 4 năm, trở thành Minh Thái Tông, sau được gọi là Minh Thành Tổ, niên hiệu Vĩnh Lạc. Yên vương được thiên hạ, ngẫm ra thì đúng là “tầm thường sự”, về cả tình và lý, rất giống với “sự biến Huyền Vũ môn” của Đường Thái Tông Lý Thế Dân. “Khai đáo Lý hoa Xuân dĩ phi”, ứng với năm 1644 SCN, Sấm vương Lý Tự Thành (“Lý hoa”) dẫn quân khởi nghĩa công phá kinh thành, hoàng đế Sùng Trinh thắt cổ tự vẫn ở Cảnh Sơn, triều Minh diệt vong (“Xuân đâu còn”).
(五)
胡儿骑马走长安,开辟中原海境宽。
洪水乍平洪水起,清光宜向汉中看。
(Ngũ)
Hồ nhi kỵ mã tẩu Trường An,
Khai tích Trung Nguyên hải cảnh khoan.
Hồng thủy sạ bình hồng thủy khởi,
Thanh quang nghi hướng Hán Trung khán.
Tạm dịch:
(Năm)
Kỵ mã trẻ Hồ tới Trường An,
Khai thác hải cảng tại Trung Nguyên.
Hồng thủy bình rồi hồng thủy khởi,
Thanh quang phải hướng Hán Trung xem.
Giải:
“Hồ nhi kỵ mã tẩu Trường An”: Trung Quốc xưa nay vẫn nói “Bắc hồ Nam man”. Bởi thế ở đây là chỉ Mãn Thanh ở vùng Đông Bắc xâm nhập làm chủ Trung Nguyên. Ngô Tam Quế dẫn quân Thanh qua ải, thống nhất toàn cục thời Minh mạt. Năm 1644 lập đô tại Bắc Kinh, trờ thành đế quốc Đại Thanh. “Khai tích Trung Nguyên hải cảnh khoan”: nhà Thanh ngày trước, thế nước hưng thịnh, văn trị võ công, cường thịnh phi thường, một trăm năm đầu tiên là thời “Khang Càn thịnh thế” (thời Khang Hy, Càn Long). Đặc biệt là hoàng đế Khang Hy, bình định các chủng nội loạn ngoại xâm, mở rộng bản đồ Trung Quốc ở mức chưa từng có. Ngoài ra, nhà Thanh bắt đầu tiến hành thông thương quy mô lớn với nước ngoài, khai thác bến cảng, cũng chính là “hải cảnh khoan” vậy.
“Hồng thủy sạ bình hồng thủy khởi, Thanh quang nghi hướng Hán Trung khán”: Chữ “Hồng thủy” đầu tiên chính là chỉ năm 1851, Hồng Tú Toàn lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc, tựa như cơn hồng thủy cuốn sạch một nửa Trung Quốc, kéo dài trong 13 năm, làm lung lay nghiêm trọng sự thống trị của triều Thanh. Sau khi Thái Bình Thiên Quốc bị bình định rồi (“sạ bình”), triều Thanh vẫn loạn trong giặc ngoài không ngừng, các thế lực cách mạng không ngừng nổi dậy mạnh mẽ, mãi đến cuối cùng, khởi nghĩa Vũ Xương thành công, Lê Nguyên Hồng thành đô đốc Trung Hoa Dân Quốc, sau khi Viên Thế Khải chết trở thành Tổng thống, Vương triều nhà Thanh diệt vong hoàn toàn. Do đó, tiền đồ cuối cùng của triều Thanh (“Thanh quang”) cần phải đến Vũ Hán (“Hán Trung”) mà xem.
(六)
汉天一白汉江秋,憔悴黄花总带愁。
吉曜半升箕斗隐,金乌起灭海山头。
(Lục)
Hán thiên nhất bạch Hán giang thu,
Tiều tụy hoàng hoa tổng đới sầu.
Cát diệu bán thăng Ki Đẩu ẩn,
Kim Ô khởi diệt hải sơn đầu.
(Sáu)
Trời Hán sáng tỏ, sông Hán mùa thu,
Hoa cúc vàng tiều tụy vẫn ưu sầu.
Ánh cát tường nửa thăng, Ki Đẩu ẩn,
Mặt trời vụt tắt trên đầu núi biển.
Giải:
“Hán thiên nhất bạch Hán giang thu” là nói nhà Thanh hủ bại suy vong, Trung Quốc cuối cùng lại có hy vọng mới (“Hán thiên nhất bạch”), tiến nhập thời đại mới (“Hán giang thu”), ngày 10 tháng 10 năm 1911 (mùa thu), khởi nghĩa Vũ Xương kiến lập Trung Hoa Dân Quốc. “Tiều tụy hoàng hoa tổng đới sầu”, cách mạng Dân Quốc tuy thành công nhưng nền móng rất thiếu ổn định, tựa như “tiều tụy hoàng hoa”, đầy ắp nguy cơ (“tổng đới sầu”). Cũng có thể là chỉ Viên Thế Khải khôi phục ngai vàng như “tiều tụy hoàng hoa”, sớm nở tối tàn, Viên Thế Khải cuối cùng buồn rầu hối hận mà bệnh chết. “Cát diệu bán thăng Ki Đẩu ẩn”: “Cát diệu” là chỉ cờ Thanh Thiên Bạch Nhật của Quốc Dân Đảng, “bán thăng” là chỉ thời kỳ đầu thống trị của Quốc Dân Đảng, ở Trung Quốc quân phiệt cát cứ, nội chiến liên miên, không cách nào thực hiện bình định thống nhất, chỉ đến khi Tưởng Giới Thạch lãnh đạo Bắc phạt thành công mới sơ bộ đặt địa vị cho Quốc Dân Đảng. “Ki Đẩu” thuộc tử vi cổ đại của Trung Quốc, là một vì tinh tú trong Nhị Thập Bát Tú, ở đây chỉ thế lực bí mật của đảng cộng sản ngấm ngầm phát triển. “Kim Ô khởi diệt hải sơn đầu”: Thời cổ “Kim Ô” là tên gọi khác của Thái Dương (Mặt trời), ở đây ám chỉ Nhật Bản. Cả câu là chỉ Nhật Bản gây chiến trong Đại Thế chiến II rồi cuối cùng chiến bại, đầu hàng.
(七)
云雾苍茫各一天,可怜西北起烽烟。
东来暴客西来盗,还有胡儿在眼前。
(Thất)
Vân vụ thương mang các nhất thiên,
Khả liên Tây Bắc khởi phong yên.
Đông lai bạo khách Tây lai đạo,
Hoàn hữu Hồ nhi tại nhãn tiền.
Tạm dịch:
(Bảy)
Mây mù mờ mịt hết một ngày đêm,
Thảm thương Tây Bắc khói lửa chiến tranh.
Cướp đến từ Đông, giặc đến từ Tây,
Còn có trẻ Hồ ở ngay trước mắt.
Giải:
“Vân vụ thương mang các nhất thiên”, là nói cục diện Trung Quốc và Đài Loan phân chia đối lập nhau. Ba câu sau có thể chỉ sự việc chưa phát sinh hoặc đã phát sinh. Thử giải như sau: “Khả liên Tây Bắc khởi phong yên” dường như chỉ giải phóng quân Trung Quốc bình định bạo loạn Tân Cương và trấn áp độc lập ở Tây Tạng. “Đông lai bạo khách Tây lai đạo”, có thể chỉ Bắc Triều Tiên ở phương Đông và Mỹ quốc có chiến tranh, đồng thời bùng phát chiến tranh biên giới Trung-Ấn với Ấn Độ ở biên giới phía Tây. “Hoàn hữu Hồ nhi tại nhãn tiền”: nước Nga ở phương Bắc luôn trực tiếp uy hiếp Trung Quốc, Trung-Nga đã từng phát sinh chiến tranh, mỗi bên đều có binh lực hùng hậu trấn giữ nơi biên giới trong cả chục năm.
(八)
如棋世事局初残,共济和衷却大难。
豹死犹留皮一袭,最佳秋色在长安。
(Bát)
Như kỳ thế sự cục sơ tàn,
Cộng tề hòa trung khước đại nạn.
Báo tử do lưu bì nhất tập,
Tối giai Thu sắc tại Trường An.
Tạm dịch:
(Tám)
Như ván cờ, thế sự đã chớm vào tàn cuộc,
Đồng lòng cùng giúp nhau, nhưng gặp đại nạn.
Con báo chết rồi vẫn còn lưu lại bộ da,
Hương sắc mùa Thu đẹp nhất tại Trường An.
Giải:
“Như kỳ thế sự cục sơ tàn, Cộng tề hòa trung khước đại nạn”: Cục diện thế giới xưa nay tựa như bàn cờ, đây là chỉ thời kỳ chiến tranh Lạnh đối đầu giữa thế giới Tây phương tự do dân chủ và cộng sản quốc tế. Đến thập niên 90, các quốc gia cộng sản ào ào biến sắc, điều này đối với toàn bộ chủ nghĩa cộng sản mà xét, thì đã đi vào tàn cuộc rồi. Liên minh các nước cộng sản triệt để giải thể, tuyệt đại đa số các nước từ bỏ chế độ cộng sản, đối với đảng cộng sản mà nói là lâm vào đại kiếp nạn vậy. “Báo tử do lưu bì nhất tập”: quốc gia đứng đầu các nước cộng sản là Liên Xô tan rã, hệ thống đảng cộng sản thực tế đã giải thể rồi, chỉ còn lưu lại một chút hình thức được những người đương quyền Trung Quốc kế thừa, cũng tựa như con báo chết rồi nhưng vẫn còn lưu lại bộ da. Trung Quốc ngày nay không còn ai tin tưởng chủ nghĩa cộng sản nữa, bao gồm cà những người đương quyền trong đảng cộng sản, họ chỉ lợi dụng hình thức đảng cộng sản để duy trì sự thống trị của họ mà thôi. “Tối giai Thu sắc tại Trường An”: trước mắt những người đương quyền Trung Cộng, vì để tạo tính hợp lý cho hình thức chính quyền nên đã ra sức tô son trát phấn ngụy tạo cái gọi là “tình thế tốt đẹp”, tập trung một lượng lớn tài lực để xây dựng rầm rộ, trang điểm thủ đô. “Trường An” là chỉ kinh thành của Trung Quốc, cũng chỉ Trung Quốc nói chung. Nhưng “sắc thu” ấy cũng không cách nào trường cửu được.
(九)
火龙蛰起燕门秋,原璧应难赵氏收。
一院奇花春有主,连宵风雨不须愁。
(Cửu)
Hỏa long chập khởi Yên Môn thu,
Nguyên bích ưng nạn Triệu thị thu.
Nhất viện kỳ hoa Xuân hữu chủ,
Liên tiêu phong vũ bất tu sầu.
Tạm dịch:
(Chín)
Rồng lửa khởi ra đau buồn từ cửa Yên Môn,
Ngọc bích nguyên sơ chịu nạn, nhà Triệu thu về.
Một vườn hoa đẹp kỳ diệu, mùa Xuân có chủ,
Gió mưa suốt đêm, không cần phải lo sầu.
Giải:
“Hỏa long chập khởi Yên Môn thu” – “Rồng lửa khởi ra đau buồn từ cửa Yên Môn”: “Hỏa long”, tức ác long màu đỏ, chỉ đảng cộng sản Trung Quốc. Câu đầu tiên ẩn dụ về sự kiện “lục tứ” năm 1989, học sinh và dân chúng Trung Quốc thỉnh nguyện tại Thiên An Môn sau đó chịu thảm sát tàn khốc. “Nguyên bích ưng nạn Triệu thị thu” – “Ngọc bích nguyên sơ chịu nạn, nhà Triệu thu về”: “Nguyên bích” ngầm chỉ lịch sử Trung Quốc liên tục trong 5.000 năm, phải chịu nạn này. “Triệu thị thu” là chỉ Triệu Tử Dương, vì sự kiện “lục tứ” mà bị đàn áp.
Còn mấy câu dưới đây, nếu như không theo sát toàn bộ chủ đề bài thơ, không thông hiểu việc tu luyện, thì rất khó phá giải. Trên thực tế, mấy câu dưới đây rõ ràng là ứng hợp với chủ đề của toàn dự ngôn. Xem lại câu đầu tiên “Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai”, cho tới câu dưới “Hoàn trung tự hữu thừa bình nhật”, nghĩa lý chân chính sẽ tự nhiên sáng tỏ.
“Nhất viện kỳ hoa Xuân hữu chủ” – “Một vườn hoa đẹp kỳ diệu, mùa Xuân có chủ”: trước ngày 20 tháng 7 năm 1999, Pháp Luân Công phổ biến khắp Trung Quốc đại lục, nơi đâu cũng có đệ tử Đại Pháp đeo huy hiệu Pháp Luân Công, nơi đâu cũng trông thấy đồ hình Pháp Luân, chính là “một vườn hoa đẹp kỳ diệu” vậy. “Xuân hữu chủ” là chỉ một năm nào đó, các đệ tử Pháp Luân Công bị bức hại và Sư phụ sẽ gặp nhau một cách đường đường chính chính. “Liên tiêu phong vũ bất tu sầu” – “Gió mưa suốt đêm, không cần phải lo sầu”: Trung Cộng đối với đệ tử Pháp Luân Công đã áp dụng thủ đoạn thời kỳ Đại Cách mạng Văn hóa, tiến hành bức hại trên quy mô lớn, chính là “gió mưa suốt đêm” vậy. Tuy vậy Pháp Luân Công vẫn biểu hiện kiên cường phi thường, liên tục duy trì tinh thần phản bức hại, quả thực trong lịch sử xưa nay hiếm. Chỉ với loại tinh thần này, họ cuối cùng đã giành thắng lợi. Lấy nhãn quang lịch sử mà xét, vô luận tà ác có điên cuồng đến cỡ nào, mùa đông có giá rét lạnh lẽo ra sao, cuối cùng vẫn vượt qua, chính là “không cần phải lo sầu” vậy.
(十)
数点梅花天地春,欲将剥复问前因。
寰中自有承平日,四海为家孰主宾。
(Thập)
Số điểm Mai Hoa thiên địa Xuân,
Dục tướng Bác Phục vấn tiền nhân.
Hoàn trung tự hữu thừa bình nhật,
Tứ hải vi gia thục chủ tân.
Tạm dịch:
(Mười)
Hoa Mai điểm nở cả trời đất đều là Xuân,
Muốn biết Bác Phục hãy hỏi nguyên nhân xưa.
Ở khắp nơi tự nó thừa hưởng ngày thái bình,
Bốn biển là nhà, hỏi ai là chủ ai là khách.
Giải:
“Số điểm mai hoa thiên địa Xuân” – “Hoa Mai điểm nở cả trời đất đều là Xuân”: Câu này chính là dụng bút theo kiểu “vẽ rồng điểm mắt”, làm nổi bật nét chính, tên bài thơ chính lấy từ câu này, do vậy mới gọi là «Mai Hoa Thi». Kinh qua khảo nghiệm mùa đông giá rét, các đệ tử Pháp Luân Công khắp thế giới và Trung Quốc Đại Lục tựa như những bông hoa mai cười ngạo sương tuyết, trỗi dậy đón nở mùa Xuân đến. Đây chính là thời khắc Pháp Chính Nhân Gian. Vạn vật nghênh Xuân, khắp nơi đều chính. Câu này với câu ở đầu “Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai” – “Hỏi mấy người đến mấy người trở về” là tương quan chặt chẽ với nhau, có bao nhiêu người có thể viên mãn mà sẽ đi đâu? “Dục tướng Bác Phục vấn tiền nhân” – “Muốn biết Bác Phục hãy hỏi nguyên nhân xưa”: Bác, Phục là tên hai quẻ trong «Kinh Dịch». Bác cực tất Phục, cũng là chỉ “Vật cực tất phản”. Lịch sử tựa như bánh xe xoay chuyển (chuyển luân), có nhân trước tất có quả sau. Lịch sử nhân loại đều là vì Chính Pháp mà an bài. “Hoàn trung tự hữu thừa bình nhật” – “Ở khắp nơi tự nó thừa hưởng ngày thái bình”: Đây chính là ngày mà vũ trụ rộng lớn không gì sánh được tự nhiên thừa hưởng thái bình. “Tứ hải vi gia thục chủ tân” – “Bốn biển là nhà, hỏi ai là chủ ai là khách.”: năm 1992, người sáng lập Pháp Luân Công, Lý Hồng Chí Tiên sinh xuất hiện truyền Pháp, về cơ bản là đi khắp bốn phương truyền Pháp, bốn biển là nhà. Nửa câu sau “thục chủ tân”, ẩn dụ ai là chủ, ai là khách; trong vũ đài lịch sử ai đóng vai phụ, ai đóng vai chính, đã sớm có số định trước. Văn minh nhân loại lần này đều là vì Đại Pháp mà khai sáng, nơi đây cũng chính là trung tâm Chính Pháp của toàn vũ trụ.
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/zj/articles/20 ... 13024.html" target="_blank
Bản để in Bản để in
Tác giả: Đệ tử Đại Pháp
[Chanhkien.org]
«Mai Hoa Thi» (梅花诗) tương truyền là do Thiệu Ung tiên sinh sáng tác. Thiệu Ung, tự là Nghiêu Phu, sinh năm thứ 4 Tống Chân Tông (năm 1011 SCN), mất năm thứ 10 Tống Thần Tông (năm 1077 SCN), hiệu là Khang Tiết. Ông quê ở Phạm Dương, Hà Bắc, sau di cư sang Cộng Thành, cuối cùng ẩn cư ở Lạc Dương. «Mai Hoa Thi» tổng cộng có 10 kỳ, dự ngôn những diễn biến lịch sử trọng đại của Trung Quốc sau khi ông qua đời. Vì vậy tất nhiên bài thơ sử dụng ngôn ngữ tiên tri, rất ẩn ý, không dễ mà lý giải cho được. Có một bộ phận là dành cho người tu luyện, người bình thường đọc quả thực không hiểu chút gì. Ở đây chỉ xin giải sơ qua, các bậc trí giả và cao nhân nếu thấy có chỗ nào không ổn kính mong chỉ giáo. Toàn bộ phần diễn nghĩa là của người dịch, chỉ để tham khảo.
(一)
荡荡天门万古开,几人归去几人来。
山河虽好非完璧,不信黄金是祸胎。
(Nhất)
Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai,
Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai.
Sơn hà tuy hảo phi hoàn bích,
Bất tín Hoàng Kim thị họa thai.
Tạm dịch:
(Một)
Cánh cổng trời từ vạn cổ khai mở,
Hỏi mấy người đến mấy người trở về.
Non sông tuy đẹp mà không toàn vẹn,
Không tin Hoàng Kim là nguồn tai họa.
Giải:
“Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai, Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai.” Cánh cổng trời vĩ đại từ vạn cổ tới nay mới khai mở lần đầu tiên. Biết bao nhiêu người tới nhân gian, biết bao nhiêu người có thể trở về? Ý nghĩa của hai câu này gắn kết chặt chẽ với chủ đề bài thơ, ngay lúc mở đầu đã dẫn xuất chủ đề tối hậu. Người tu luyện nhìn một cái là rõ ngay, còn người phổ thông xem không hiểu rõ được, ở đây không giải kỹ thêm nữa.
“Sơn hà tuy hảo phi hoàn bích, Bất tín Hoàng Kim thị họa thai.” Thời nhà Tống là lúc mà triều đình nhu nhược bất tài. Toàn bộ xã hội từ trên xuống dưới đều như vậy, đam mê ca múa vui thái bình. Đặc biệt đến thời Nam Tống thì càng cẩu thả tạm bợ, ở nửa giang sơn vùng Giang Nam mà mê đắm trong tình sắc hoan ái, thể thơ Tống từ trở thành cách văn nhân bày tỏ tình cảm luyến ái. Rốt cuộc trong lịch sử Trung Quốc có “nỗi nhục Tịnh Khang” (Tịnh Khang là niên hiệu vua Khâm Tông thời Tống, năm 1126-1127 SCN), hoàng đế Bắc Tống, cung phi, hoàng thân, cho đến khắp đại thần trong triều ba ngàn người đều bị nước Kim bắt làm nô lệ. Đến nỗi cuối cùng hoàng đế Nam Tống phải nhảy xuống biển vùi thân. Do vậy, non sông tuy tươi đẹp mà không toàn vẹn là vậy. “Kim” là chỉ tộc Nữ Chân ở phương Bắc kiến lập nước Đại Kim. “Hoàng” là phủ Hoàng Long, kinh đô nước Kim (nay là huyện Nông An, tỉnh Cát Lâm. Trung Quốc). Ở đây tiên tri về sự kiện nhà Nam Tống sống tạm bợ trong một nửa giang sơn vùng Giang Nam và người Kim xâm nhập trong lịch sử. “Bất tín Hoàng Kim thị họa thai” nói về nước Kim diệt Bắc Tống, xâm phạm Nam Tống.
(二)
湖山一梦事全非,再见云龙向北飞。
三百年来终一日,长天碧水叹弥弥。
(Nhị)
Hồ Sơn nhất mộng sự toàn phi,
Tái kiến Vân Long hướng Bắc phi.
Tam bách niên lai chung nhất nhật,
Trường thiên bích thủy thán di di.
Tạm dịch:
(Hai)
Giấc mộng Hồ Sơn đều hỏng cả,
Lại thấy Rồng Mây hướng Bắc bay.
Ba trăm năm hết nội một ngày,
Non xanh nước biếc ôi còn đâu.
Giải:
“Hồ sơn nhất mộng sự toàn phi”: Bởi rằng Nam Tống lập kinh đô Lâm An (nay là Hàng Châu) bên bờ Tây Hồ, hơn nữa hoàng đế Nam Tống cả ngày đắm chìm trong tửu sắc, vậy mới nói “Hồ Sơn nhất mộng”. “Tái kiến Vân Long hướng Bắc phi”, là chỉ khí số thiên tượng rơi vào phương Bắc, ở miền Bắc sinh “chân long thiên tử”, triều đại mới sinh ra ở phương Bắc. Khi binh nhà Nguyên xâm nhập Lâm An, hoàng đế bị bắt làm tù binh. “Tam bách niên lai chung nhất nhật”, là chỉ Bắc Tống, Nam Tống trải qua ba trăm năm (từ năm 960 đến 1279 SCN) rồi cuối cùng diệt vong. “Trường thiên bích thủy thán di di”, chính là chỉ năm 1279 SCN, tàn quân nhà Tống chiến bại không còn lối thoát, Lục Tú Phu cõng tiểu hoàng đế Nam Tống Triệu Bính nhảy xuống biển mà chết, các tướng sĩ khác và hoàng phi đều gặp bão lớn rồi chìm dưới đáy đại dương.
(三)
天地相乘数一原,忽逢甲子又兴元。
年华二八乾坤改,看尽残花总不言。
(Tam)
Thiên địa tương thừa số nhất nguyên,
Hốt phùng giáp tử hựu hưng Nguyên.
Niên hoa nhị bát càn khôn cải,
Khán tận tàn hoa tổng bất ngôn.
Tạm dịch:
(Ba)
Thiên địa số nhân đến nhất nguyên,
Gặp Hốt một giáp lại hưng Nguyên.
Được tám tám năm càn khôn đổi,
Xem hết hoa tàn vẫn không tâu.
Giải:
“Thiên địa tương thừa số nhất nguyên, Hốt phùng giáp tử hựu hưng Nguyên”, là nói thời kỳ Thiên can Địa chi tương giao, trở lại ngọn nguồn, nhà Nguyên bắt đầu hưng thịnh. “Hốt” ở đây là chỉ Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt, “hưng Nguyên” là chỉ nhà Nguyên được kiến lập. Hốt Tất Liệt năm 1260 SCN làm Đại Hãn, năm 1264 SCN (một giáp – Giáp tử) lên ngôi kiến lập triều Nguyên, lấy hiệu nước là Nguyên, dời đô đến Yên Kinh (nay là Bắc Kinh). Năm 1271, Hốt Tất Liệt căn cứ vào kiến nghị của Lưu Bỉnh Trung, lấy ý nghĩa “Càn Nguyên” trong «Kinh Dịch» mà cải quốc hiệu thành “Đại Nguyên”, thống trị Trung Quốc. “Niên hoa nhị bát càn khôn cải, Khán tận tàn hoa tổng bất ngôn”, triều Nguyên từ Nguyên Thế Tổ truyền được 10 đời. Năm 1279 SCN, triều Tống diệt vong hoàn toàn, đến năm 1368 SCN, triều Nguyên bị diệt, tổng cộng là 88 năm, ứng với ý trong “Được tám tám năm càn khôn đổi”. Thời Nguyên Thuận Đế, hoạn quan ém nhẹm hồ sơ không tâu lên hoàng đế hại nhà Nguyên, có thể nói “hoa tàn” mà “vẫn không tâu” là như vậy.
(四)
毕竟英雄起布衣,朱门不是旧黄畿。
飞来燕子寻常事,开到李花春已非。
(Tứ)
Tất cánh anh hùng khởi bố y,
Chu môn bất thị cựu hoàng kỳ.
Phi lai yến tử tầm thường sự,
Khai đáo Lý hoa Xuân dĩ phi.
Tạm dịch:
(Bốn)
Rốt cuộc anh hùng từ áo vải,
Lầu son đâu phải cựu hoàng kỳ.
Nhanh như chim én tầm thường sự,
Lý hoa khai nở Xuân đâu còn.
Giải:
“Tất cánh anh hùng khởi bố y, Chu môn bất thị cựu hoàng kỳ”, tả rõ Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, tuy xuất thân bần tiện (bố y – áo vải), còn trải qua mấy năm làm hòa thượng, sau tham gia khởi nghĩa nông dân hồng cân quân, cuối cùng thể hiện bản sắc anh hùng, từ một binh sĩ bình thường vọt lên làm thủ lĩnh, đến năm 1368 SCN xưng đế tại Nam Kinh. Chính “Chu môn – Lầu son” ấy không còn là nhà nông đất vàng (“hoàng kỳ”) ngày xưa nữa. “Phi lai yến tử tầm thường sự, Khai đáo Lý hoa Xuân dĩ phi” chỉ con thứ tư của Chu Nguyên Chương là Yên vương Chu Đệ hùng cứ tại Yên Kinh, bị buộc phải phát động chiến dịch công nhập Nam Kinh, đoạt lấy ngôi Vua, đúng là “nhanh như chim én”. Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương nhường ngôi cho Hoàng Thái Tôn cháu mình, tức Minh Huệ Đế. Năm ấy, hơn mười hoàng tử được phong làm Phiên vương, đóng tại biên cương. Trong đó Yên vương Chu Đệ thực lực mạnh nhất, danh vọng lớn nhất. Minh Huệ Đế vì cứ khăng khăng tước bỏ Phiên vương, đòi miễn Yên vương, nên Yên vương không còn cách nào khác đành khởi binh làm phản. Bởi vì Yên vương Chu Đệ tài đức xuất chúng, trí dũng hơn người nên cuối cùng giành chiến thắng sau 4 năm, trở thành Minh Thái Tông, sau được gọi là Minh Thành Tổ, niên hiệu Vĩnh Lạc. Yên vương được thiên hạ, ngẫm ra thì đúng là “tầm thường sự”, về cả tình và lý, rất giống với “sự biến Huyền Vũ môn” của Đường Thái Tông Lý Thế Dân. “Khai đáo Lý hoa Xuân dĩ phi”, ứng với năm 1644 SCN, Sấm vương Lý Tự Thành (“Lý hoa”) dẫn quân khởi nghĩa công phá kinh thành, hoàng đế Sùng Trinh thắt cổ tự vẫn ở Cảnh Sơn, triều Minh diệt vong (“Xuân đâu còn”).
(五)
胡儿骑马走长安,开辟中原海境宽。
洪水乍平洪水起,清光宜向汉中看。
(Ngũ)
Hồ nhi kỵ mã tẩu Trường An,
Khai tích Trung Nguyên hải cảnh khoan.
Hồng thủy sạ bình hồng thủy khởi,
Thanh quang nghi hướng Hán Trung khán.
Tạm dịch:
(Năm)
Kỵ mã trẻ Hồ tới Trường An,
Khai thác hải cảng tại Trung Nguyên.
Hồng thủy bình rồi hồng thủy khởi,
Thanh quang phải hướng Hán Trung xem.
Giải:
“Hồ nhi kỵ mã tẩu Trường An”: Trung Quốc xưa nay vẫn nói “Bắc hồ Nam man”. Bởi thế ở đây là chỉ Mãn Thanh ở vùng Đông Bắc xâm nhập làm chủ Trung Nguyên. Ngô Tam Quế dẫn quân Thanh qua ải, thống nhất toàn cục thời Minh mạt. Năm 1644 lập đô tại Bắc Kinh, trờ thành đế quốc Đại Thanh. “Khai tích Trung Nguyên hải cảnh khoan”: nhà Thanh ngày trước, thế nước hưng thịnh, văn trị võ công, cường thịnh phi thường, một trăm năm đầu tiên là thời “Khang Càn thịnh thế” (thời Khang Hy, Càn Long). Đặc biệt là hoàng đế Khang Hy, bình định các chủng nội loạn ngoại xâm, mở rộng bản đồ Trung Quốc ở mức chưa từng có. Ngoài ra, nhà Thanh bắt đầu tiến hành thông thương quy mô lớn với nước ngoài, khai thác bến cảng, cũng chính là “hải cảnh khoan” vậy.
“Hồng thủy sạ bình hồng thủy khởi, Thanh quang nghi hướng Hán Trung khán”: Chữ “Hồng thủy” đầu tiên chính là chỉ năm 1851, Hồng Tú Toàn lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc, tựa như cơn hồng thủy cuốn sạch một nửa Trung Quốc, kéo dài trong 13 năm, làm lung lay nghiêm trọng sự thống trị của triều Thanh. Sau khi Thái Bình Thiên Quốc bị bình định rồi (“sạ bình”), triều Thanh vẫn loạn trong giặc ngoài không ngừng, các thế lực cách mạng không ngừng nổi dậy mạnh mẽ, mãi đến cuối cùng, khởi nghĩa Vũ Xương thành công, Lê Nguyên Hồng thành đô đốc Trung Hoa Dân Quốc, sau khi Viên Thế Khải chết trở thành Tổng thống, Vương triều nhà Thanh diệt vong hoàn toàn. Do đó, tiền đồ cuối cùng của triều Thanh (“Thanh quang”) cần phải đến Vũ Hán (“Hán Trung”) mà xem.
(六)
汉天一白汉江秋,憔悴黄花总带愁。
吉曜半升箕斗隐,金乌起灭海山头。
(Lục)
Hán thiên nhất bạch Hán giang thu,
Tiều tụy hoàng hoa tổng đới sầu.
Cát diệu bán thăng Ki Đẩu ẩn,
Kim Ô khởi diệt hải sơn đầu.
(Sáu)
Trời Hán sáng tỏ, sông Hán mùa thu,
Hoa cúc vàng tiều tụy vẫn ưu sầu.
Ánh cát tường nửa thăng, Ki Đẩu ẩn,
Mặt trời vụt tắt trên đầu núi biển.
Giải:
“Hán thiên nhất bạch Hán giang thu” là nói nhà Thanh hủ bại suy vong, Trung Quốc cuối cùng lại có hy vọng mới (“Hán thiên nhất bạch”), tiến nhập thời đại mới (“Hán giang thu”), ngày 10 tháng 10 năm 1911 (mùa thu), khởi nghĩa Vũ Xương kiến lập Trung Hoa Dân Quốc. “Tiều tụy hoàng hoa tổng đới sầu”, cách mạng Dân Quốc tuy thành công nhưng nền móng rất thiếu ổn định, tựa như “tiều tụy hoàng hoa”, đầy ắp nguy cơ (“tổng đới sầu”). Cũng có thể là chỉ Viên Thế Khải khôi phục ngai vàng như “tiều tụy hoàng hoa”, sớm nở tối tàn, Viên Thế Khải cuối cùng buồn rầu hối hận mà bệnh chết. “Cát diệu bán thăng Ki Đẩu ẩn”: “Cát diệu” là chỉ cờ Thanh Thiên Bạch Nhật của Quốc Dân Đảng, “bán thăng” là chỉ thời kỳ đầu thống trị của Quốc Dân Đảng, ở Trung Quốc quân phiệt cát cứ, nội chiến liên miên, không cách nào thực hiện bình định thống nhất, chỉ đến khi Tưởng Giới Thạch lãnh đạo Bắc phạt thành công mới sơ bộ đặt địa vị cho Quốc Dân Đảng. “Ki Đẩu” thuộc tử vi cổ đại của Trung Quốc, là một vì tinh tú trong Nhị Thập Bát Tú, ở đây chỉ thế lực bí mật của đảng cộng sản ngấm ngầm phát triển. “Kim Ô khởi diệt hải sơn đầu”: Thời cổ “Kim Ô” là tên gọi khác của Thái Dương (Mặt trời), ở đây ám chỉ Nhật Bản. Cả câu là chỉ Nhật Bản gây chiến trong Đại Thế chiến II rồi cuối cùng chiến bại, đầu hàng.
(七)
云雾苍茫各一天,可怜西北起烽烟。
东来暴客西来盗,还有胡儿在眼前。
(Thất)
Vân vụ thương mang các nhất thiên,
Khả liên Tây Bắc khởi phong yên.
Đông lai bạo khách Tây lai đạo,
Hoàn hữu Hồ nhi tại nhãn tiền.
Tạm dịch:
(Bảy)
Mây mù mờ mịt hết một ngày đêm,
Thảm thương Tây Bắc khói lửa chiến tranh.
Cướp đến từ Đông, giặc đến từ Tây,
Còn có trẻ Hồ ở ngay trước mắt.
Giải:
“Vân vụ thương mang các nhất thiên”, là nói cục diện Trung Quốc và Đài Loan phân chia đối lập nhau. Ba câu sau có thể chỉ sự việc chưa phát sinh hoặc đã phát sinh. Thử giải như sau: “Khả liên Tây Bắc khởi phong yên” dường như chỉ giải phóng quân Trung Quốc bình định bạo loạn Tân Cương và trấn áp độc lập ở Tây Tạng. “Đông lai bạo khách Tây lai đạo”, có thể chỉ Bắc Triều Tiên ở phương Đông và Mỹ quốc có chiến tranh, đồng thời bùng phát chiến tranh biên giới Trung-Ấn với Ấn Độ ở biên giới phía Tây. “Hoàn hữu Hồ nhi tại nhãn tiền”: nước Nga ở phương Bắc luôn trực tiếp uy hiếp Trung Quốc, Trung-Nga đã từng phát sinh chiến tranh, mỗi bên đều có binh lực hùng hậu trấn giữ nơi biên giới trong cả chục năm.
(八)
如棋世事局初残,共济和衷却大难。
豹死犹留皮一袭,最佳秋色在长安。
(Bát)
Như kỳ thế sự cục sơ tàn,
Cộng tề hòa trung khước đại nạn.
Báo tử do lưu bì nhất tập,
Tối giai Thu sắc tại Trường An.
Tạm dịch:
(Tám)
Như ván cờ, thế sự đã chớm vào tàn cuộc,
Đồng lòng cùng giúp nhau, nhưng gặp đại nạn.
Con báo chết rồi vẫn còn lưu lại bộ da,
Hương sắc mùa Thu đẹp nhất tại Trường An.
Giải:
“Như kỳ thế sự cục sơ tàn, Cộng tề hòa trung khước đại nạn”: Cục diện thế giới xưa nay tựa như bàn cờ, đây là chỉ thời kỳ chiến tranh Lạnh đối đầu giữa thế giới Tây phương tự do dân chủ và cộng sản quốc tế. Đến thập niên 90, các quốc gia cộng sản ào ào biến sắc, điều này đối với toàn bộ chủ nghĩa cộng sản mà xét, thì đã đi vào tàn cuộc rồi. Liên minh các nước cộng sản triệt để giải thể, tuyệt đại đa số các nước từ bỏ chế độ cộng sản, đối với đảng cộng sản mà nói là lâm vào đại kiếp nạn vậy. “Báo tử do lưu bì nhất tập”: quốc gia đứng đầu các nước cộng sản là Liên Xô tan rã, hệ thống đảng cộng sản thực tế đã giải thể rồi, chỉ còn lưu lại một chút hình thức được những người đương quyền Trung Quốc kế thừa, cũng tựa như con báo chết rồi nhưng vẫn còn lưu lại bộ da. Trung Quốc ngày nay không còn ai tin tưởng chủ nghĩa cộng sản nữa, bao gồm cà những người đương quyền trong đảng cộng sản, họ chỉ lợi dụng hình thức đảng cộng sản để duy trì sự thống trị của họ mà thôi. “Tối giai Thu sắc tại Trường An”: trước mắt những người đương quyền Trung Cộng, vì để tạo tính hợp lý cho hình thức chính quyền nên đã ra sức tô son trát phấn ngụy tạo cái gọi là “tình thế tốt đẹp”, tập trung một lượng lớn tài lực để xây dựng rầm rộ, trang điểm thủ đô. “Trường An” là chỉ kinh thành của Trung Quốc, cũng chỉ Trung Quốc nói chung. Nhưng “sắc thu” ấy cũng không cách nào trường cửu được.
(九)
火龙蛰起燕门秋,原璧应难赵氏收。
一院奇花春有主,连宵风雨不须愁。
(Cửu)
Hỏa long chập khởi Yên Môn thu,
Nguyên bích ưng nạn Triệu thị thu.
Nhất viện kỳ hoa Xuân hữu chủ,
Liên tiêu phong vũ bất tu sầu.
Tạm dịch:
(Chín)
Rồng lửa khởi ra đau buồn từ cửa Yên Môn,
Ngọc bích nguyên sơ chịu nạn, nhà Triệu thu về.
Một vườn hoa đẹp kỳ diệu, mùa Xuân có chủ,
Gió mưa suốt đêm, không cần phải lo sầu.
Giải:
“Hỏa long chập khởi Yên Môn thu” – “Rồng lửa khởi ra đau buồn từ cửa Yên Môn”: “Hỏa long”, tức ác long màu đỏ, chỉ đảng cộng sản Trung Quốc. Câu đầu tiên ẩn dụ về sự kiện “lục tứ” năm 1989, học sinh và dân chúng Trung Quốc thỉnh nguyện tại Thiên An Môn sau đó chịu thảm sát tàn khốc. “Nguyên bích ưng nạn Triệu thị thu” – “Ngọc bích nguyên sơ chịu nạn, nhà Triệu thu về”: “Nguyên bích” ngầm chỉ lịch sử Trung Quốc liên tục trong 5.000 năm, phải chịu nạn này. “Triệu thị thu” là chỉ Triệu Tử Dương, vì sự kiện “lục tứ” mà bị đàn áp.
Còn mấy câu dưới đây, nếu như không theo sát toàn bộ chủ đề bài thơ, không thông hiểu việc tu luyện, thì rất khó phá giải. Trên thực tế, mấy câu dưới đây rõ ràng là ứng hợp với chủ đề của toàn dự ngôn. Xem lại câu đầu tiên “Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai”, cho tới câu dưới “Hoàn trung tự hữu thừa bình nhật”, nghĩa lý chân chính sẽ tự nhiên sáng tỏ.
“Nhất viện kỳ hoa Xuân hữu chủ” – “Một vườn hoa đẹp kỳ diệu, mùa Xuân có chủ”: trước ngày 20 tháng 7 năm 1999, Pháp Luân Công phổ biến khắp Trung Quốc đại lục, nơi đâu cũng có đệ tử Đại Pháp đeo huy hiệu Pháp Luân Công, nơi đâu cũng trông thấy đồ hình Pháp Luân, chính là “một vườn hoa đẹp kỳ diệu” vậy. “Xuân hữu chủ” là chỉ một năm nào đó, các đệ tử Pháp Luân Công bị bức hại và Sư phụ sẽ gặp nhau một cách đường đường chính chính. “Liên tiêu phong vũ bất tu sầu” – “Gió mưa suốt đêm, không cần phải lo sầu”: Trung Cộng đối với đệ tử Pháp Luân Công đã áp dụng thủ đoạn thời kỳ Đại Cách mạng Văn hóa, tiến hành bức hại trên quy mô lớn, chính là “gió mưa suốt đêm” vậy. Tuy vậy Pháp Luân Công vẫn biểu hiện kiên cường phi thường, liên tục duy trì tinh thần phản bức hại, quả thực trong lịch sử xưa nay hiếm. Chỉ với loại tinh thần này, họ cuối cùng đã giành thắng lợi. Lấy nhãn quang lịch sử mà xét, vô luận tà ác có điên cuồng đến cỡ nào, mùa đông có giá rét lạnh lẽo ra sao, cuối cùng vẫn vượt qua, chính là “không cần phải lo sầu” vậy.
(十)
数点梅花天地春,欲将剥复问前因。
寰中自有承平日,四海为家孰主宾。
(Thập)
Số điểm Mai Hoa thiên địa Xuân,
Dục tướng Bác Phục vấn tiền nhân.
Hoàn trung tự hữu thừa bình nhật,
Tứ hải vi gia thục chủ tân.
Tạm dịch:
(Mười)
Hoa Mai điểm nở cả trời đất đều là Xuân,
Muốn biết Bác Phục hãy hỏi nguyên nhân xưa.
Ở khắp nơi tự nó thừa hưởng ngày thái bình,
Bốn biển là nhà, hỏi ai là chủ ai là khách.
Giải:
“Số điểm mai hoa thiên địa Xuân” – “Hoa Mai điểm nở cả trời đất đều là Xuân”: Câu này chính là dụng bút theo kiểu “vẽ rồng điểm mắt”, làm nổi bật nét chính, tên bài thơ chính lấy từ câu này, do vậy mới gọi là «Mai Hoa Thi». Kinh qua khảo nghiệm mùa đông giá rét, các đệ tử Pháp Luân Công khắp thế giới và Trung Quốc Đại Lục tựa như những bông hoa mai cười ngạo sương tuyết, trỗi dậy đón nở mùa Xuân đến. Đây chính là thời khắc Pháp Chính Nhân Gian. Vạn vật nghênh Xuân, khắp nơi đều chính. Câu này với câu ở đầu “Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai” – “Hỏi mấy người đến mấy người trở về” là tương quan chặt chẽ với nhau, có bao nhiêu người có thể viên mãn mà sẽ đi đâu? “Dục tướng Bác Phục vấn tiền nhân” – “Muốn biết Bác Phục hãy hỏi nguyên nhân xưa”: Bác, Phục là tên hai quẻ trong «Kinh Dịch». Bác cực tất Phục, cũng là chỉ “Vật cực tất phản”. Lịch sử tựa như bánh xe xoay chuyển (chuyển luân), có nhân trước tất có quả sau. Lịch sử nhân loại đều là vì Chính Pháp mà an bài. “Hoàn trung tự hữu thừa bình nhật” – “Ở khắp nơi tự nó thừa hưởng ngày thái bình”: Đây chính là ngày mà vũ trụ rộng lớn không gì sánh được tự nhiên thừa hưởng thái bình. “Tứ hải vi gia thục chủ tân” – “Bốn biển là nhà, hỏi ai là chủ ai là khách.”: năm 1992, người sáng lập Pháp Luân Công, Lý Hồng Chí Tiên sinh xuất hiện truyền Pháp, về cơ bản là đi khắp bốn phương truyền Pháp, bốn biển là nhà. Nửa câu sau “thục chủ tân”, ẩn dụ ai là chủ, ai là khách; trong vũ đài lịch sử ai đóng vai phụ, ai đóng vai chính, đã sớm có số định trước. Văn minh nhân loại lần này đều là vì Đại Pháp mà khai sáng, nơi đây cũng chính là trung tâm Chính Pháp của toàn vũ trụ.
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/zj/articles/20 ... 13024.html" target="_blank
TL: CHIẾN TRANH THẾ GIỚI theo đúng quy luật trời đất???
cơ bút của thánh mẫu liễu hạnh PDF In E-mail
Bài cơ bút này được Hạ Long Lưu Văn Vịnh tiên sinh nhắc đến trong tác phẩm Việt sử siêu linh của ông. Có một số câu từ mấu chốt làm cho rất nhiều nhà giải đoán khắp nơi trên báo mạng lẫn báo in lúng túng, bất phân. Nay, chúng tôi xin mạo muội trình bày hết lời giải của mình. Lác đác đâu đó trong lời giải đoán có những chỗ trùng với một số lời giải đoán trước đây cũng mong quý vị lượng tình thể tất cho. Bài này được viết nên cũng tuân theo ý Thánh mẫu chẳng coi chuyện giãi mã làm trọng mà lấy tinh thần khuyên răn của Thánh mẫu làm trọng.
Đừng thấy cái ác lên ngôi mà người tốt phải tuyệt vọng thậm chí xu phụ theo cái ác.
Đừng thấy đất nước ta nhỏ bé nghèo nàn, thân phận dân ta hèn hạ mà cho văn hóa chúng ta không có gốc.
Đừng thấy kẻ giàu mạnh lắm tiền súng mà mất niềm tin.
Thiên số tuy đã an bài nhưng cũng từ bi nhiệm màu trải ra cho chúng ta phân định con đường sáng tối nào mình theo. Hãy trau dồi kiến thức và đạo đức để phụng sự đất nước trong hồng vận mới này.
Dưới đây là đoạn trích trong Việt Sừ Siêu Linh:
Vua Tự Ðức là một người có văn học thường chú tâm tới văn hóa tín ngưỡng truyền thống. Nhà Vua đã từng ngự giá tới thăm đền thượng Tản Viên Sơn và đã từng đọc và sửa Sấm Trạng Trình, Truyện Kiều…Trong lúc chính sự rối ren, Thực dân xâm lăng chiếm đất, ngài đã cử sứ thần tới cầu Thánh Mẫu Liễu Hạnh tại đền Sòng xin phụ tiên giáng cơ bút về quốc sự nguy biến.
Hoành sơn một giải ra vào
Cuốc kêu vọng đế, Cáo gào giả vương
cung trăng đã sẵn trời dương
giang sơn lại mở một trường Xuân Thu
Tên đâu ba mũi phục thù
khen cho Khắc Dụng bầy trò cho con
ngọn cờ phất phới đầu non
Thạch Thành mèo lại bon bon chạy về
dặm trường lai láng máu dê
con quay ngả trắng ba que cuộc tàn
Trời Nam mở vận Viêm Bang
chân nhân đâu đến những phường thầy tăng
Ðồng dao lại có câu rằng :
Non xanh mà mọc trắng răng mới kỳ
bấy giờ quét sạch thử ly
ai ơi nhớ lấy thiên ky kẻo lầm
Ðương khi sấm sét ầm ầm
ấy là khí số để găm trị bình
vũ phu mà bức thư sinh
long ô chấp cả mấy anh Thủy Hoàng
Nực cười cho lũ bàng quan
cờ tàn mà lại tính đường đẩy xe
thôi thôi mặc lũ thằng hề
gió mây ta lại đi về gió mây.[1]
Hoành sơn một giải ra vào
Cuốc kêu vọng đế, Cáo gào giả vương
Câu đầu nói đến đất nước chúng ta là một giải trong và ngoài dãy Hoành Sơn. Câu hai: Cuốc = Nguyễn Ái Quốc và Cáo = Hồ Chí Minh là chỉ ông Hồ muốn chống quân Pháp giành tự do đất nước. Nhưng ở đây Thánh Mẫu hàm ý ông ta cũng chỉ là giả vương, vọng đế mà thôi. Tại sao lại lấy cả tên họ ông Hồ đưa lên ngay hai câu đầu tiên? Vì thứ nhất, chính vua Tự Đức nhà Nguyễn xin cơ, nên phải trước tiên chỉ ra người nào tiêu diệt nhà Nguyễn. Thứ hai, đây là triều đại cuối cùng rồi đến thời Viêm Bang. Thứ ba, triều đại này có thể nói là triều đại nhiều tai ương nhất lịch sử Việt Nam. Thánh mẫu chỉ ra điểm cực bĩ để ta tin tưởng hy vọng vào điểm cực thái vậy.
cung trăng đã sẵn trời dương
giang sơn lại mở một trường Xuân Thu
Trăng là Âm mà lại có trời Dương bên trong: ý nói không những đến hồi Âm Dương lẫn lộn, tranh tối tranh sáng mà còn Dương-sáng bị nhốt bởi Âm-tối. Trường Xuân Thu: thời hỗn mang đó làm đất nước chúng ta tới cảnh huynh đệ tương tàn như thời Xuân Thu bên Trung Quốc. Và cái xấu sẽ lên ngôi. Đây rõ ràng Thánh Mẫu đã chỉ đến cảnh Nam-Quốc và Bắc-Cộng đánh nhau từ năm 1955 đến 1975. Mâu thuẫn quốc-cộng có từ khi cuộc kháng chiến chống Pháp xảy ra, nhiều Đảng phái ra đời, nhiều tư tưởng chính trị và dẫn đến nhiều chiến lược phục quốc khác nhau.
Tên đâu ba mũi phục thù
khen cho Khắc Dụng bầy trò cho con
Ba mũi phục thù: nói chữ ba ở đâu cũng ý là nhiều. Ý ở đây nói cuộc kháng chiến chống Pháp của Quốc Dân Đảng. Ông Lưu Văn Vịnh có dẫn trong quyển Việt Sử Siêu Linh về việc cụ Nguyễn Mộng Giác đã sáng tác ra bài thơ sau:
Kià cơn gió thổi lá rung cây
Rung bắc sang nam đông tới tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am mây
Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
Hưng điạ tràng giang hoá nước đầy
Một gió một yên ai sùng bái
Cha con người Vĩnh Bảo cho hay
Ngày 10 tháng 2 năm 1939, Nguyễn Thái Học-Chủ tịch Đảng Quốc Dân Việt Nam đã tổ chức tổng khởi nghĩa tại Yên Bái, Hưng Hóa, Lâm Thao, Hải Dương, Kiến An và Hà Nội. Cuộc khởi nghĩa thất bại, ông cùng các đồng chí bị bắt tại làng Cổ Vịt (Hải Dương) và bị đưa lên máy chém vào ngày 17 tháng 6 năm 1930. Đến bây giờ sử sách vẫn còn lưu lại những câu nói bất hủ của ông: “Không thành công cũng thành nhân.”.[2]
Như vậy, đó là một cuộc Tổng Tiến Công nhiều mũi khá lớn làm cho quân Pháp sợ hãi. Nên chi Thánh Mẫu cũng phải nói “khen cho…”, tuy nhiên lại theo ý là sẽ bị thất bại. Khắc Dụng bày trò cho con hẳn nhiên Khắc Dụng là cha mẹ, là lãnh đạo. Vậy Khắc Dụng là ai? Chúng ta thấy cả bài Cơ Bút là theo thể lục bát dân gian. Vì thế ý Thánh là dùng ngôn ngữ dân gian để mã hóa các sự kiện. Khắc Dụng: không là gì khác mà là Khuốc Dặng (theo một kiểu lái trong Nam-Nhà Nguyễn được tính là vương triều trong Nam) = Quốc Dân. Tức Đảng Quốc Dân đã tổ chức dân đứng lên đánh Pháp nhưng bị thất bại nặng nề.
ngọn cờ phất phới đầu non
Thạch Thành mèo lại bon bon chạy về
Hai câu này rõ ràng nói đến một người có liên quan đến Thạch Thành khởi cuộc chiến kháng Pháp trên non và thắng lợi về làm chủ ở Thủ Đô. Thạch Thành là kiểu mã chữ trong các sấm ký, cơ bút nói chung. Thạch Thành là thành đá nhà Hồ mà cũng là thủ đô Việt Nam giống như Trường An vậy. Nói đến Thạch Thành là nói đến vương triều nhà Hồ. Mèo thực ra hổ con. Người đó hoặc có mạng Mèo hoặc có mạng Hổ nhưng không mang dáng dấp của một minh quân.
Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được Đảng Cộng Sản thành lập và lãnh đạo bởi ông Võ Nguyên Giáp tại hai tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám thuộc tỉnh Cao Bằng hiện nay. Bắt đầu kháng chiến chống Pháp bằng những cuộc chiến thắng lợi Nà Ngần, Phai Khắt và trở thành một đối thủ đáng gờm của thực dân Pháp. .[3]
Dưới sự lãnh đạo của ông Hồ Chí Minh, Đảng Cộng Sản đã đi đến thắng lợi cuối cùng là thu lấy lại Hà Nội sau đó thống nhất đất nước năm 1975. Ông Hồ sinh năm 1890-Canh Dần là Hổ nhưng Thánh Mẫu lại cho là Mèo vì Người có hàm ý chỉ là một giả vương mà thôi.
Như vậy, 4 câu liên tiếp cho ta thấy Thánh Mẫu đã ngụ ý sự tương phản giữa hai bên Quốc gia và Cộng sản. Và cuộc huynh đệ tương tàn ngay sau cũng là một điều tất yếu phải đến mà thôi.
dặm trường lai láng máu dê
con quay ngả trắng ba que cuộc tàn
Bắt đầu qua giai đoạn thực dân đế quốc tức dê (dương-Tây) đổ máu nhiều ở Việt Nam. Con quay ngã trắng: tức trắng tay có hàm ý chế độ mang cờ ba que (khởi đầu từ cờ quẻ Ly của vua Bảo Đại đến thời Nam Việt quốc gia) tuy có tốt hơn thật đấy nhưng thiên số nào có tới và bắt buộc phải thất bại. Ứng với: 1945 Bải Đại thoái vị và 30-04-1975 chấm dứt chính quyền Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam.
Trời Nam mở vận Viêm Bang
chân nhân đâu đến những phường thầy tăng
Đất nước ta lại đến giai đoạn Viêm Đế đức trị ngày xưa. Việt Nam ta từ thủy tổ các vua Hùng khởi đầu đất nước bằng nền đức trị, đến các triều thịnh trị chuyển qua thời độc trị âu cũng là chuyện “bỉ thái lẽ thường” như cụ Trạng Trình đã viết: “Thịnh suy bỉ thới lẽ thường. Một thời lại một nhiễu nhương nên lề”
Câu hai có vẻ chỉ đến một hoặc nhiều người phương Tây (thầy tăng-thằng Tây) cũng tài giỏi trong vận Viêm Bang sắp tới nhưng cũng chỉ là nhân vật thứ yếu trong vận này mà thôi. Việc người phương Tây đến đô hộ và áp bức con dân nước Việt làm Thánh có vẻ hơi ghét người phương Tây cũng không có chi là lạ. Hoặc cũng có khi Thánh cho rằng những người Phương Tây tài ba đó thực ra cũng chỉ là giả hiệu chứ không phải là chân nhân thật sự. Tuy nhiên, tôi cho rằng ý chính của Thánh vẫn là: những thành tựu chính trị, kinh tế và khoa học của người phương Tây mà bây giờ thống trị toàn thế giới vẫn không phải là con đường đúng đắn thậm chí nó dẫn dắt thế giới đến chỗ khốn cùng, loạn lạc và suy vong. Điều này cũng đã có nhiều người nhắc đến. Một nhà yoga Ấn độ khi được báo phương Tây phỏng vấn: “Yoga mang đến lợi ích gì?”. Ông trả lời: “Đến sự chí thiện. Yoga chỉ mang đến cho chúng ta điều thiện khác với nền khoa học tiên tiến bây giờ; một phát minh gì ra cũng có mang theo điều thiện và điều ác. Nhưng điều ác luôn lấn lướt vì nó được nhân gấp bội bởi bản tính tham sân si cố hữu của con người. Chúng ta phát minh ra máy hơi nước để làm nhà máy điện thì cũng làm ra những tàu chiến giết người hàng loạt. Phát minh ra năng lượng hạt nhân để làm ra máy điện hạt nhân thì trớ trêu lại làm ra bom hạt nhân trước. Còn yoga? Trước tiên làm sạch cơ thể, tiêu trừ tham sân si và sau đó là thấu hiểu vũ trụ. Tôi có thể phóng được ý thức của mình lên đến những hành tinh xa xôi nhất.”. Nhưng lời của nhà Yoga nào có ai tin mà quan tâm!
Ðồng dao lại có câu rằng :
Non xanh mà mọc trắng răng mới kỳ
Một đấng chân nhân thật sự-một chân đế ra đời ở một vùng núi non Việt Nam. Trắng răng-tức Bạch sỉ tôi cho rằng là chơi chữ với từ Bạch sĩ tức ông này xuất hiện với một danh hiệu là Bạch gì đó. Chúng ta cần phải xem cách chơi chữ ở đây nữa: Non-răng hai thứ đều là mọc cả, còn xanh-trắng cũng là màu. Nhưng nếu nói lái từ non xanh thì cũng cho ra răng là nanh xon hay nanh son-là cái răng màu đỏ. Đáng ra non xanh phải mọc ra cái nanh đỏ thì lại ra cái trắng răng. Vì thế mới kỳ! Chứ nếu ở non xanh đó mọc một mõm đá vôi hình một cái răng thì có chi là kỳ. Qua câu này, có thể đoán được năm sinh của vị Bạch Chân Nhân này nhưng xin cho tôi không được nhắc ở đây. Vì nhiều lý do mà quan trọng nhất là sợ các phường Cáo Cuốc lại nổi lên lấy danh nghĩa này nọ để làm nhiễu loạn thế sự.
bấy giờ quét sạch thử ly
ai ơi nhớ lấy thiên ky kẻo lầm
Đến lúc đó, chúng ta mới quét sạch bọn chuột cáo (hồ ly). Ai ơi nhớ lấy thiên ky kẻo lầm: cũng giống như Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm, câu này cũng là câu khuyên bảo dân chúng: đừng chán nản, tuyệt vọng và cũng hiểu rằng đấng chân nhân sẽ ra đời. Hãy trau dồi kiến thức, tài năng và đạo đức để phù tá cho bậc Đế quân. Ví dụ như mấy câu sau trong Sấm Ký:
149 - Thánh nhân cư có thụy cung
150 - Quân thần đã định gìn lòng chớ tham
151 - Lại dặn đấng tú nam chí cả
152 - Chớ vội vàng tất tả chạy rong
153 - Học cho biết lý kiết hung
154 - Biết phương hướng bội chớ dùng làm chi
155 - Hể trời sinh xuống phải thì
156 - Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông
157 - Kià những kẻ vội lòng phú quí
158 - Xem trong mình một thí đều không
159 - Ví dù có gặp ngư ông
160 - Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng
Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm
Đương khi sấm sét ầm ầm
ấy là khí số để găm trị bình
Sấm sét ầm ầm: có thể tiên đoán đến việc chiến tranh và sử dụng vũ khí hạt nhân. Ở đây, theo tôi sấm sét là cả hai: chiến tranh và trời chuyển đất rung. Sau khi Trời chuyển Đất rung xong thì mọi sự trên thế giới sẽ trở nên bình ổn. Bắt đầu thời kỳ thịnh vượng, bình an thậm chí không khí thế giới lúc đó cũng không còn những tạp bẩn như hiệu ứng nhà kính nữa. Tức thời chân đế ra thì các tạp bẩn kể cả con người lẫn thiên nhiên đều bị tiêu trừ. (Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật)
vũ phu mà bức thư sinh
long ô chấp cả mấy anh Thủy Hoàng
Hai câu này rõ ràng chỉ Trung Quốc to lớn chỉ biết lấy hung hăng làm gốc ức hiếp Việt Nam nhỏ bé mà có truyền thống văn hóa tốt đẹp. Nhưng sự ức hiếp đó không thể kéo dài được. Số đã định ở Trời, tiếng oán thán của nhân dân Việt Nam: “Bố ơi, về cứu chúng con!” đã được đáp và Thần Long sẽ giương ô ra để cứu nước Việt chấp cả mấy anh Hoàng Đế bạo tàn Trung Hoa như Tần Thủy Hoàng.
Nực cười cho lũ bàng quan
cờ tàn mà lại tính đường đẩy xe
thôi thôi mặc lũ thằng hề
gió mây ta lại đi về gió mây.
*
Tôi rất tâm đắc mấy câu này vì chúng nói đến chính giới trí thức chúng ta đấy. Cái giới mà nói xuôi cũng hay mà nói ngược nhiều khi còn hay hơn. Là giới miệng lưỡi không xương nhiều đường lắt léo ấy. Chúng ta có thể lừa được dân đen dại khờ chứ nghe những cú lừa ngớ ngẩn của chúng ta đến Thánh phải phát cười. Có những thứ thế giới đã dẹp và lên án từ lâu thế mà có mấy chú hề còn khua môi múa mép ca tụng tâng bốc, loay hoay đẩy ngược bánh xe lịch sử. Mỗi người trong chúng ta chắc cũng nên soi xét lại mình có nằm trong nhóm “lũ bàng quan” và “những thằng hề” hay không.
Tuy nhiên, “ai ơi xin đừng tuyệt vọng”. Hãy nghe lời các Thành nhân tiên tri xưa mà lo một lòng trau dồi đạo đức và kiến thức. Rồi đất Nam ta sẽ đến thời “quét sạch thử ly” và “mở vận Viêm Bang” (hội Long Hoa).
Như vậy, chúng ta có thể thấy Cơ Bút đã ứng 100% các sự kiện lịch sử từ thời nhà Nguyễn đến nay. Tất nhiên, sẽ ứng tiếp trong tương lai.
Chúc chúng ta sẽ được những ngày bình yên.
Cúi xin Thánh Mẫu nhận ở con một nén hương để tỏ lòng tri ân.
[1] Hạ Long Lưu Văn Vịnh-Việt sử siêu linh.
Bài cơ bút này được Hạ Long Lưu Văn Vịnh tiên sinh nhắc đến trong tác phẩm Việt sử siêu linh của ông. Có một số câu từ mấu chốt làm cho rất nhiều nhà giải đoán khắp nơi trên báo mạng lẫn báo in lúng túng, bất phân. Nay, chúng tôi xin mạo muội trình bày hết lời giải của mình. Lác đác đâu đó trong lời giải đoán có những chỗ trùng với một số lời giải đoán trước đây cũng mong quý vị lượng tình thể tất cho. Bài này được viết nên cũng tuân theo ý Thánh mẫu chẳng coi chuyện giãi mã làm trọng mà lấy tinh thần khuyên răn của Thánh mẫu làm trọng.
Đừng thấy cái ác lên ngôi mà người tốt phải tuyệt vọng thậm chí xu phụ theo cái ác.
Đừng thấy đất nước ta nhỏ bé nghèo nàn, thân phận dân ta hèn hạ mà cho văn hóa chúng ta không có gốc.
Đừng thấy kẻ giàu mạnh lắm tiền súng mà mất niềm tin.
Thiên số tuy đã an bài nhưng cũng từ bi nhiệm màu trải ra cho chúng ta phân định con đường sáng tối nào mình theo. Hãy trau dồi kiến thức và đạo đức để phụng sự đất nước trong hồng vận mới này.
Dưới đây là đoạn trích trong Việt Sừ Siêu Linh:
Vua Tự Ðức là một người có văn học thường chú tâm tới văn hóa tín ngưỡng truyền thống. Nhà Vua đã từng ngự giá tới thăm đền thượng Tản Viên Sơn và đã từng đọc và sửa Sấm Trạng Trình, Truyện Kiều…Trong lúc chính sự rối ren, Thực dân xâm lăng chiếm đất, ngài đã cử sứ thần tới cầu Thánh Mẫu Liễu Hạnh tại đền Sòng xin phụ tiên giáng cơ bút về quốc sự nguy biến.
Hoành sơn một giải ra vào
Cuốc kêu vọng đế, Cáo gào giả vương
cung trăng đã sẵn trời dương
giang sơn lại mở một trường Xuân Thu
Tên đâu ba mũi phục thù
khen cho Khắc Dụng bầy trò cho con
ngọn cờ phất phới đầu non
Thạch Thành mèo lại bon bon chạy về
dặm trường lai láng máu dê
con quay ngả trắng ba que cuộc tàn
Trời Nam mở vận Viêm Bang
chân nhân đâu đến những phường thầy tăng
Ðồng dao lại có câu rằng :
Non xanh mà mọc trắng răng mới kỳ
bấy giờ quét sạch thử ly
ai ơi nhớ lấy thiên ky kẻo lầm
Ðương khi sấm sét ầm ầm
ấy là khí số để găm trị bình
vũ phu mà bức thư sinh
long ô chấp cả mấy anh Thủy Hoàng
Nực cười cho lũ bàng quan
cờ tàn mà lại tính đường đẩy xe
thôi thôi mặc lũ thằng hề
gió mây ta lại đi về gió mây.[1]
Hoành sơn một giải ra vào
Cuốc kêu vọng đế, Cáo gào giả vương
Câu đầu nói đến đất nước chúng ta là một giải trong và ngoài dãy Hoành Sơn. Câu hai: Cuốc = Nguyễn Ái Quốc và Cáo = Hồ Chí Minh là chỉ ông Hồ muốn chống quân Pháp giành tự do đất nước. Nhưng ở đây Thánh Mẫu hàm ý ông ta cũng chỉ là giả vương, vọng đế mà thôi. Tại sao lại lấy cả tên họ ông Hồ đưa lên ngay hai câu đầu tiên? Vì thứ nhất, chính vua Tự Đức nhà Nguyễn xin cơ, nên phải trước tiên chỉ ra người nào tiêu diệt nhà Nguyễn. Thứ hai, đây là triều đại cuối cùng rồi đến thời Viêm Bang. Thứ ba, triều đại này có thể nói là triều đại nhiều tai ương nhất lịch sử Việt Nam. Thánh mẫu chỉ ra điểm cực bĩ để ta tin tưởng hy vọng vào điểm cực thái vậy.
cung trăng đã sẵn trời dương
giang sơn lại mở một trường Xuân Thu
Trăng là Âm mà lại có trời Dương bên trong: ý nói không những đến hồi Âm Dương lẫn lộn, tranh tối tranh sáng mà còn Dương-sáng bị nhốt bởi Âm-tối. Trường Xuân Thu: thời hỗn mang đó làm đất nước chúng ta tới cảnh huynh đệ tương tàn như thời Xuân Thu bên Trung Quốc. Và cái xấu sẽ lên ngôi. Đây rõ ràng Thánh Mẫu đã chỉ đến cảnh Nam-Quốc và Bắc-Cộng đánh nhau từ năm 1955 đến 1975. Mâu thuẫn quốc-cộng có từ khi cuộc kháng chiến chống Pháp xảy ra, nhiều Đảng phái ra đời, nhiều tư tưởng chính trị và dẫn đến nhiều chiến lược phục quốc khác nhau.
Tên đâu ba mũi phục thù
khen cho Khắc Dụng bầy trò cho con
Ba mũi phục thù: nói chữ ba ở đâu cũng ý là nhiều. Ý ở đây nói cuộc kháng chiến chống Pháp của Quốc Dân Đảng. Ông Lưu Văn Vịnh có dẫn trong quyển Việt Sử Siêu Linh về việc cụ Nguyễn Mộng Giác đã sáng tác ra bài thơ sau:
Kià cơn gió thổi lá rung cây
Rung bắc sang nam đông tới tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am mây
Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
Hưng điạ tràng giang hoá nước đầy
Một gió một yên ai sùng bái
Cha con người Vĩnh Bảo cho hay
Ngày 10 tháng 2 năm 1939, Nguyễn Thái Học-Chủ tịch Đảng Quốc Dân Việt Nam đã tổ chức tổng khởi nghĩa tại Yên Bái, Hưng Hóa, Lâm Thao, Hải Dương, Kiến An và Hà Nội. Cuộc khởi nghĩa thất bại, ông cùng các đồng chí bị bắt tại làng Cổ Vịt (Hải Dương) và bị đưa lên máy chém vào ngày 17 tháng 6 năm 1930. Đến bây giờ sử sách vẫn còn lưu lại những câu nói bất hủ của ông: “Không thành công cũng thành nhân.”.[2]
Như vậy, đó là một cuộc Tổng Tiến Công nhiều mũi khá lớn làm cho quân Pháp sợ hãi. Nên chi Thánh Mẫu cũng phải nói “khen cho…”, tuy nhiên lại theo ý là sẽ bị thất bại. Khắc Dụng bày trò cho con hẳn nhiên Khắc Dụng là cha mẹ, là lãnh đạo. Vậy Khắc Dụng là ai? Chúng ta thấy cả bài Cơ Bút là theo thể lục bát dân gian. Vì thế ý Thánh là dùng ngôn ngữ dân gian để mã hóa các sự kiện. Khắc Dụng: không là gì khác mà là Khuốc Dặng (theo một kiểu lái trong Nam-Nhà Nguyễn được tính là vương triều trong Nam) = Quốc Dân. Tức Đảng Quốc Dân đã tổ chức dân đứng lên đánh Pháp nhưng bị thất bại nặng nề.
ngọn cờ phất phới đầu non
Thạch Thành mèo lại bon bon chạy về
Hai câu này rõ ràng nói đến một người có liên quan đến Thạch Thành khởi cuộc chiến kháng Pháp trên non và thắng lợi về làm chủ ở Thủ Đô. Thạch Thành là kiểu mã chữ trong các sấm ký, cơ bút nói chung. Thạch Thành là thành đá nhà Hồ mà cũng là thủ đô Việt Nam giống như Trường An vậy. Nói đến Thạch Thành là nói đến vương triều nhà Hồ. Mèo thực ra hổ con. Người đó hoặc có mạng Mèo hoặc có mạng Hổ nhưng không mang dáng dấp của một minh quân.
Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được Đảng Cộng Sản thành lập và lãnh đạo bởi ông Võ Nguyên Giáp tại hai tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám thuộc tỉnh Cao Bằng hiện nay. Bắt đầu kháng chiến chống Pháp bằng những cuộc chiến thắng lợi Nà Ngần, Phai Khắt và trở thành một đối thủ đáng gờm của thực dân Pháp. .[3]
Dưới sự lãnh đạo của ông Hồ Chí Minh, Đảng Cộng Sản đã đi đến thắng lợi cuối cùng là thu lấy lại Hà Nội sau đó thống nhất đất nước năm 1975. Ông Hồ sinh năm 1890-Canh Dần là Hổ nhưng Thánh Mẫu lại cho là Mèo vì Người có hàm ý chỉ là một giả vương mà thôi.
Như vậy, 4 câu liên tiếp cho ta thấy Thánh Mẫu đã ngụ ý sự tương phản giữa hai bên Quốc gia và Cộng sản. Và cuộc huynh đệ tương tàn ngay sau cũng là một điều tất yếu phải đến mà thôi.
dặm trường lai láng máu dê
con quay ngả trắng ba que cuộc tàn
Bắt đầu qua giai đoạn thực dân đế quốc tức dê (dương-Tây) đổ máu nhiều ở Việt Nam. Con quay ngã trắng: tức trắng tay có hàm ý chế độ mang cờ ba que (khởi đầu từ cờ quẻ Ly của vua Bảo Đại đến thời Nam Việt quốc gia) tuy có tốt hơn thật đấy nhưng thiên số nào có tới và bắt buộc phải thất bại. Ứng với: 1945 Bải Đại thoái vị và 30-04-1975 chấm dứt chính quyền Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam.
Trời Nam mở vận Viêm Bang
chân nhân đâu đến những phường thầy tăng
Đất nước ta lại đến giai đoạn Viêm Đế đức trị ngày xưa. Việt Nam ta từ thủy tổ các vua Hùng khởi đầu đất nước bằng nền đức trị, đến các triều thịnh trị chuyển qua thời độc trị âu cũng là chuyện “bỉ thái lẽ thường” như cụ Trạng Trình đã viết: “Thịnh suy bỉ thới lẽ thường. Một thời lại một nhiễu nhương nên lề”
Câu hai có vẻ chỉ đến một hoặc nhiều người phương Tây (thầy tăng-thằng Tây) cũng tài giỏi trong vận Viêm Bang sắp tới nhưng cũng chỉ là nhân vật thứ yếu trong vận này mà thôi. Việc người phương Tây đến đô hộ và áp bức con dân nước Việt làm Thánh có vẻ hơi ghét người phương Tây cũng không có chi là lạ. Hoặc cũng có khi Thánh cho rằng những người Phương Tây tài ba đó thực ra cũng chỉ là giả hiệu chứ không phải là chân nhân thật sự. Tuy nhiên, tôi cho rằng ý chính của Thánh vẫn là: những thành tựu chính trị, kinh tế và khoa học của người phương Tây mà bây giờ thống trị toàn thế giới vẫn không phải là con đường đúng đắn thậm chí nó dẫn dắt thế giới đến chỗ khốn cùng, loạn lạc và suy vong. Điều này cũng đã có nhiều người nhắc đến. Một nhà yoga Ấn độ khi được báo phương Tây phỏng vấn: “Yoga mang đến lợi ích gì?”. Ông trả lời: “Đến sự chí thiện. Yoga chỉ mang đến cho chúng ta điều thiện khác với nền khoa học tiên tiến bây giờ; một phát minh gì ra cũng có mang theo điều thiện và điều ác. Nhưng điều ác luôn lấn lướt vì nó được nhân gấp bội bởi bản tính tham sân si cố hữu của con người. Chúng ta phát minh ra máy hơi nước để làm nhà máy điện thì cũng làm ra những tàu chiến giết người hàng loạt. Phát minh ra năng lượng hạt nhân để làm ra máy điện hạt nhân thì trớ trêu lại làm ra bom hạt nhân trước. Còn yoga? Trước tiên làm sạch cơ thể, tiêu trừ tham sân si và sau đó là thấu hiểu vũ trụ. Tôi có thể phóng được ý thức của mình lên đến những hành tinh xa xôi nhất.”. Nhưng lời của nhà Yoga nào có ai tin mà quan tâm!
Ðồng dao lại có câu rằng :
Non xanh mà mọc trắng răng mới kỳ
Một đấng chân nhân thật sự-một chân đế ra đời ở một vùng núi non Việt Nam. Trắng răng-tức Bạch sỉ tôi cho rằng là chơi chữ với từ Bạch sĩ tức ông này xuất hiện với một danh hiệu là Bạch gì đó. Chúng ta cần phải xem cách chơi chữ ở đây nữa: Non-răng hai thứ đều là mọc cả, còn xanh-trắng cũng là màu. Nhưng nếu nói lái từ non xanh thì cũng cho ra răng là nanh xon hay nanh son-là cái răng màu đỏ. Đáng ra non xanh phải mọc ra cái nanh đỏ thì lại ra cái trắng răng. Vì thế mới kỳ! Chứ nếu ở non xanh đó mọc một mõm đá vôi hình một cái răng thì có chi là kỳ. Qua câu này, có thể đoán được năm sinh của vị Bạch Chân Nhân này nhưng xin cho tôi không được nhắc ở đây. Vì nhiều lý do mà quan trọng nhất là sợ các phường Cáo Cuốc lại nổi lên lấy danh nghĩa này nọ để làm nhiễu loạn thế sự.
bấy giờ quét sạch thử ly
ai ơi nhớ lấy thiên ky kẻo lầm
Đến lúc đó, chúng ta mới quét sạch bọn chuột cáo (hồ ly). Ai ơi nhớ lấy thiên ky kẻo lầm: cũng giống như Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm, câu này cũng là câu khuyên bảo dân chúng: đừng chán nản, tuyệt vọng và cũng hiểu rằng đấng chân nhân sẽ ra đời. Hãy trau dồi kiến thức, tài năng và đạo đức để phù tá cho bậc Đế quân. Ví dụ như mấy câu sau trong Sấm Ký:
149 - Thánh nhân cư có thụy cung
150 - Quân thần đã định gìn lòng chớ tham
151 - Lại dặn đấng tú nam chí cả
152 - Chớ vội vàng tất tả chạy rong
153 - Học cho biết lý kiết hung
154 - Biết phương hướng bội chớ dùng làm chi
155 - Hể trời sinh xuống phải thì
156 - Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông
157 - Kià những kẻ vội lòng phú quí
158 - Xem trong mình một thí đều không
159 - Ví dù có gặp ngư ông
160 - Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng
Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm
Đương khi sấm sét ầm ầm
ấy là khí số để găm trị bình
Sấm sét ầm ầm: có thể tiên đoán đến việc chiến tranh và sử dụng vũ khí hạt nhân. Ở đây, theo tôi sấm sét là cả hai: chiến tranh và trời chuyển đất rung. Sau khi Trời chuyển Đất rung xong thì mọi sự trên thế giới sẽ trở nên bình ổn. Bắt đầu thời kỳ thịnh vượng, bình an thậm chí không khí thế giới lúc đó cũng không còn những tạp bẩn như hiệu ứng nhà kính nữa. Tức thời chân đế ra thì các tạp bẩn kể cả con người lẫn thiên nhiên đều bị tiêu trừ. (Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật)
vũ phu mà bức thư sinh
long ô chấp cả mấy anh Thủy Hoàng
Hai câu này rõ ràng chỉ Trung Quốc to lớn chỉ biết lấy hung hăng làm gốc ức hiếp Việt Nam nhỏ bé mà có truyền thống văn hóa tốt đẹp. Nhưng sự ức hiếp đó không thể kéo dài được. Số đã định ở Trời, tiếng oán thán của nhân dân Việt Nam: “Bố ơi, về cứu chúng con!” đã được đáp và Thần Long sẽ giương ô ra để cứu nước Việt chấp cả mấy anh Hoàng Đế bạo tàn Trung Hoa như Tần Thủy Hoàng.
Nực cười cho lũ bàng quan
cờ tàn mà lại tính đường đẩy xe
thôi thôi mặc lũ thằng hề
gió mây ta lại đi về gió mây.
*
Tôi rất tâm đắc mấy câu này vì chúng nói đến chính giới trí thức chúng ta đấy. Cái giới mà nói xuôi cũng hay mà nói ngược nhiều khi còn hay hơn. Là giới miệng lưỡi không xương nhiều đường lắt léo ấy. Chúng ta có thể lừa được dân đen dại khờ chứ nghe những cú lừa ngớ ngẩn của chúng ta đến Thánh phải phát cười. Có những thứ thế giới đã dẹp và lên án từ lâu thế mà có mấy chú hề còn khua môi múa mép ca tụng tâng bốc, loay hoay đẩy ngược bánh xe lịch sử. Mỗi người trong chúng ta chắc cũng nên soi xét lại mình có nằm trong nhóm “lũ bàng quan” và “những thằng hề” hay không.
Tuy nhiên, “ai ơi xin đừng tuyệt vọng”. Hãy nghe lời các Thành nhân tiên tri xưa mà lo một lòng trau dồi đạo đức và kiến thức. Rồi đất Nam ta sẽ đến thời “quét sạch thử ly” và “mở vận Viêm Bang” (hội Long Hoa).
Như vậy, chúng ta có thể thấy Cơ Bút đã ứng 100% các sự kiện lịch sử từ thời nhà Nguyễn đến nay. Tất nhiên, sẽ ứng tiếp trong tương lai.
Chúc chúng ta sẽ được những ngày bình yên.
Cúi xin Thánh Mẫu nhận ở con một nén hương để tỏ lòng tri ân.
[1] Hạ Long Lưu Văn Vịnh-Việt sử siêu linh.