- 1-su-that-phu-phang-ve-tu-dai-my-nhan-trung-quoc-hinh-7-1429177411207.jpeg (42.96 KiB) Đã xem 765 lần
Đạo & Đời
TL: Đạo & Đời
Bệnh xá quân y đón chào đồng chí binh nhất kháng thiên-đạp địa vào an dưỡng điều trị chấn thương sọ não




- KhángThiên
- Nhị đẳng
- Bài viết: 320
- Tham gia: 17:02, 08/09/15
TL: Đạo & Đời
Phàm phu tục tử phắn nhanh ra mấy pic trẻ em mà chơiSniperIs đã viết:Bệnh xá quân y đón chào đồng chí binh nhất kháng thiên-đạp địa vào an dưỡng điều trị chấn thương sọ não![]()
![]()

TL: Đạo & Đời
bbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbbb
- Tập tin đính kèm
-
- CẢNH SÁT CHÉM NHAU.gif (181.89 KiB) Đã xem 745 lần
- tuphuongsg
- Tam đẳng
- Bài viết: 647
- Tham gia: 19:12, 22/04/14
- Đến từ: Sống bằng niềm Tin
- KhángThiên
- Nhị đẳng
- Bài viết: 320
- Tham gia: 17:02, 08/09/15
TL: Đạo & Đời
Hai đời làm tăng vẫn không thoát khỏi tình duyên nơi trần thế.
________________________________________
Quan hệ nhân duyên giữa người với người, đời này tiếp tiếp đời kia, nơi trần thế mênh mông đến thế, nhưng nối tiếp tiền duyên kiếp trước, dù cho xa cách nghìn dặm nhưng cuối cùng họ cũng phải gặp nhau. Trải qua luân hồi hàng nghìn năm có thể vẫn chưa hết được mối tình duyên ấy.
Cách đây 1000 năm trước có một hòa thượng tu hành tại chùa Vĩnh Hoa từ thủa nhỏ. Sau nhiều năm vị hòa thượng này xuống núi vân du, khi trở về chùa thì sư phụ đã viên tịch rồi, bởi vậy chúng tăng trong chùa chọn vị này lên làm trụ trì.
Không lâu sau vị trụ trì mới bắt đầu lập đàn giảng kinh tuyên dương Phật Pháp, khi đó chưa đến 30 tuổi, người thường gọi đùa vị này là “tiểu phương trượng”. Cùng với ảnh hưởng được mở rộng, hương hỏa trong chùa càng ngày càng thịnh vượng, khách hành hương, các tín chúng, những người hỏi đạo đến vị trụ trì đều không cự tuyệt.
Một hôm, một nhà giàu họ Lý có việc đi qua chùa, ông dẫn theo người nhà, tiện đường liền lên núi thắp hương kính Phật, khi uống trà nói chuyện thì biết được cả nhà ông đều tín phụng Phật Pháp, hay làm việc thiện, vì nghe nói vị trụ trì tu luyện trong Phật Pháp đạt được trình độ nhất định nên ghé vào thăm, thuận tiện cho chúng tăng một ít đồ cúng.
Đi cùng còn có con gái của ông, dáng vẻ khoảng 16-17 tuổi, dung mạo đoan trang, cô nhìn thấy những câu kệ vị trụ trì viết liền cầm lên xem hồi lâu, rồi chợt hỏi chuyện một cách tò mò, vị trụ trì khiêm tốn trả lời từng câu hỏi. Không lâu sau thì họ phải lên đường, khi từ biệt ánh mắt của Lý tiểu thư không rời khỏi trụ trì, ánh mắt đó từ trước đến giờ trụ trì chưa từng tiếp xúc qua.
Bỗng nhiên vị trụ trì thấy chấn động, tâm tư suy nghĩ bất định, tự nhủ: “Ta tu hành từ nhỏ đến nay, tự nghĩ định lực bản thân không hề nông cạn, làm sao trước nữ sắc lại thất bại thế này?” Từ hôm đó, nhiều ngày khi đả tọa không thể nhập định được, những suy nghĩ bất chính liên tiếp đến, dần dần phải qua thời gian dài mới có thể chế phục được tâm ma này, từ đó tu luyện trong Phật Pháp không dám có chút buông lơi.
Một năm sau, dưới núi có người vội vã đưa đến một bức thư, thì ra là thư của Lý viên ngoại, vị trụ trì vừa mở ra xem mồ hôi lạnh liền toát ra, vội vàng niệm Phật hiệu. Trong thư viết con gái Lý viên ngoại từ sau khi ở chùa trở về, không lâu sau thì ngã bệnh, không cách nào chữa được, tìm không ra nguyên nhân căn bệnh, tiểu thư không nói, người nhà cũng không có cách nào.
Sau này mới ít nhiều biết được là vì tương tư nên thành bệnh, vị trụ trì là người trong Phật môn, chuyện này chẳng phải trò cười sao? Nhưng không biết làm thế nào vì sức khỏe con gái ông ngày càng nguy kịch, chỉ còn cách mời vị trù trì từ bi xuống núi thăm con gái ông.
Việc cứu người là khẩn cấp, do đó trụ trì vội vàng thu xếp công việc và đồ đạc rồi theo người đưa thư xuống núi. Sau nhiều ngày thì đến được Lý phủ. Lý viên ngoại trong lòng nóng như lửa đốt, nhìn thấy trụ trì bèn vui mừng ra đón. Dường như đã có người sớm báo cho tiểu thư, viên ngoại ở bên ngoài gọi tiểu thư: “Con gái, con xem ai đến này”.
Tiểu thư từ từ ngồi dậy khỏi giường, nét mặt ửng hồng, khe khẽ hỏi: “Cao tăng, ngài đã biết rồi sao?”. Lời nói có vẻ mệt mỏi, cơ thể biểu lộ ra vẻ yếu ớt.
Trụ trì vội vàng thi lễ, ra hiệu cô ấy không nên cử động nhiều, sau đó trụ trì giảng giải về Phật Pháp, muốn cô ấy vượt qua chướng ngại tình cảm nam nữ, nhưng cô ấy tựa như nghe mà không nghe, lúc sau hỏi: “Cao tăng, kiếp này ngài và tôi không thể đến được với nhau ư?”
Trụ trì liền lập chưởng nói: “Đúng vậy, tuyệt đối không thể được!”
Nước mắt cô gái lăn dài trên má, một hồi lâu sau cô ấy chỉ vào gói đồ trên bàn và nói: “Hôm nay gặp nhau, không biết khi nào mới lại tương phùng, tôi tặng ngài một bó tơ lụa làm đồ cung dưỡng, mong cao tăng nhận cho”.
Trụ trì ấp úng nói: “Cái này…”
Dáng vẻ của cô ấy làm vị trụ trì không nỡ cự tuyệt: “Vậy bần tăng xin nhận, cảm tạ nữ thí chủ, bần tăng xin cáo từ, xin nữ thí chủ an tâm nghỉ ngơi dưỡng bệnh, đọc nhiều kinh Phật, sức khỏe sẽ sớm hồi phục”.
Thấy cô ấy lặng im, trụ trì liền quay người bước ra khỏi phòng. “Cao tăng xin hãy thong thả”, tiểu thư gọi với, rồi nhìn trụ trì bằng ánh mắt kỳ lạ: “Nếu đời này ngài tu không thành thì sao?”
Trụ trì đáp lời: “Nếu đời này ta không tu thành, đời sau vẫn tiếp tục làm tăng”.
“Nếu đã như vậy, dải lụa này xin làm tín vật, kiếp sau tôi lại lên chùa tìm ngài”. Nói xong tiểu thư quay người đi vào trong.
Trở về chùa được hai năm, nghe nói sau khi trụ trì rời khỏi đó không lâu, Lý tiểu thư đã qua đời trong sầu não. Việc này đã khuấy động cả một đời của trụ trì, quả nhiên trong kiếp đó trụ trì tu không thành.
Đến kiếp sau, vị này lại chuyển sinh thành hòa thượng, sau đó ở chùa Vĩnh Hoa tiếp tục làm trụ trì. Thấm thoắt mấy năm trôi qua, đã lại đến trung thu, ngày thứ hai là ngày hương hội.
Buổi tối khi tụ trì đả tọa nhập định, bỗng nhiên trước mắt hiện lên một khoảng không rõ ràng, vị trụ trì biết được mình là phương trượng tiền nhiệm chuyển thế và cũng biết được chuyện gì sắp xảy ra, sau khi xuất định chỉ biết thở dài than rằng: “Định số! Đúng là định số!”
Ngày hôm sau, người đến hành hương rất đông, đến trưa nghe thấy phía bên ngoài cổng chùa có tiếng truyền vào, trong tâm tôi máy động: “Đến rồi, cuối cùng cũng đã đến!”
Lát sau, các khách tăng dẫn người có dáng vẻ là quan viên đi vào đại điện, lễ Phật xong ở trong phòng khách mời tôi tiếp đón.
Vị quan viên vừa thấy trụ trì liền nhìn kỹ trên dưới, rồi không ngừng gật đầu: “Quả đúng như thế, quả đúng như thế!”
Hai tay trụ trì hợp lại trước ngực: “Xin hỏi đại nhân từ đâu đến? Đến có việc gì?”
Người đó bỗng như giật mình tỉnh giấc, trả lời: “Ta đến từ Trường An, vì con gái mà đến quý tự tìm người”.
Trụ trì nói: “Tìm người ư? Trường An cách Vĩnh Hoa tự cả trăm dặm, làm sao có người cô ấy cần tìm được?”. Các khách tăng đều cảm thấy kỳ lạ.
Là như vầy… Người đó giải thích: “Ta có một cô con gái, nó giống như viên minh châu trong tay vợ chồng ta, chẳng mấy chốc đã đến tuổi kết hôn, có rất nhiều người nó cũng thấy vừa mắt. Một hôm nó mơ thấy chồng mình là người nơi cửa Phật, hơn nữa kiếp trước từng có ước hẹn. Cụ thể hiện giờ ở chùa nào, dáng vẻ ra làm sao, còn có tín vật làm chứng, nói rõ ràng mười mươi. Ta cũng là người tin Phật, mặc dù bán tín bán nghi, ta vẫn muốn đến trước để hỏi dò và nghe ngóng xem sao, không ngờ quả thật rất đúng với lời con gái nói, không sai chút nào”.
Các sư đệ bên cạnh nghe không lọt nữa, tức giận nói: “Vớ vẩn, phương trượng chúng tôi là cao tăng đắc đạo, sao lại có thể giống lời ông nói được chứ?”
Trụ trì đưa tay lên ra hiệu bảo họ đừng nói nữa, rồi đi vào nhà kho mở hòm gỗ của phương trượng tiền nhiệm để lại, lấy ra gói đồ để lâu đã bị bụi phủ kín, cảm xúc dâng trào. Sau đó trở lại phòng khách, đặt gói đồ lên bàn rồi nói với vị quan viên: “Đây chính là tín vật mà con gái ngài nói, đó là di vật của tổ sư”.
Lúc này các tăng nhân trong chùa tụ lại ngày càng đông, có người chen vào trong phòng, đứng không được liền chen lên bên cửa sổ, chen nhau mà thở, hiếu kỳ chăm chú vào mọi việc xảy ra ở đây. Vị quan viên nói: “Vậy thì ngài hãy mở gói đồ đó ra xem xem”.
Trụ trì nhẹ nhàng mở gói đồ ra, quả nhiên là một bó vải lụa màu trắng, mọi người đều ngạc nhiên. Bỗng nhiên dải lụa đó phát ra ánh sáng nhạt, các tăng nhân cùng tụng niệm Phật hiệu, phủ phục xuống quỳ lạy. Lúc lâu sau, mọi người mới giật mình tỉnh lại, vị quan viên đó nói: “Nếu tất cả đều là sự thật, thì xin cao tăng thu xếp rồi cùng tôi lên đường vào phủ chọn ngày để cùng tiểu nữ hoàn thành hôn sự, con gái tôi kết hợp với ngài đúng là ‘trai tài gái sắc’”.
Cả đại điện bỗng chốc tĩnh lặng, mọi người điều tỏ ra vô cùng lo lắng. Trụ trì suy nghĩ một lúc rồi chỉnh lại tăng y, ngồi ngay ngắn trên chiếc bồ đoàn, tay lần chuỗi Phật châu niệm một đoạn dài Phật hiệu, nước mắt lăn xuống với dáng vẻ đau thương: “Là nợ nghiệp kiếp trước, làm ta hai đời không thể giải thoát được, đành đoạn dứt từ đây, đợi đến khi đắc lại chính Pháp vậy!”
Nói xong tự mình làm tọa hóa mà rời đi (tọa thiền cho đến khi viên tịch).
Nên biết thế gian còn lục đạo luân hồi trầm luân không hết bởi cũng là Tình ái, rộng hơn nữa là bởi "Thất Tình Lục Dục".
___________________________________________
Thất tình lục dục, là bảy thứ tình cảm biểu lộ ra bên ngoài và sáu việc ham muốn của con người gồm chung trong câu nói ngắn gọn là "thất tình lục dục".
1.Thất tình: Bảy thứ tình cảm mà mỗi chúng ta đều có như: Vui mừng, giận dữ, buồn bã, vui vẻ, yêu thương, ghét và ham muốn hay nói cách khác là hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố và dục vậy.
Bảy trạng thái tâm lý nầy luôn luôn tiềm ẩn ở nơi tâm thức chúng ta, hễ khi nào gặp một cơ hội thuận tiện, tự nhiên cái tình cảm ấy sẽ hiện nguyên ra bên ngoài như bộc lộ ra nơi nét mặt hay nơi cử chỉ, trong lời nói v.v... Như khi vui, người ta có bộ mặt tươi tắn, lúc buồn mặt ủ dột, lạnh nhạt. Còn giận thì mặt tái mét, xanh xao; yêu thương mặt đỏ, nóng bừng v.v... Một trong 7 thứ tình cảm trên thái quá cũng khiến cho tâm sinh lý con người xáo trộn mất quân bình và gây ra những hành động thiếu ý thức và tai hại. Để đối trị lại với thất tình, Phật giáo đưa ra Thất-giác-chi tức là 7 điều hiểu biết đúng đắn là: Chọn lựa phương pháp, chuyên cần, mừng vui, nhẹ nhàng, suy nghĩ, định tĩnh tâm thức và xã bỏ những ý tưởng thấp hèn.
2.Lục dục: là 6 điều ham muốn đã trở thành thói quen khó sửa đổi:
-Sắc dục: Thấy các sắc xanh, vàng, đỏ, trắng và hình sắc nam nữ rồi tham đắm vào đó.
-Hình mạo dục: Thấy hình dung đoan chánh, tướng mạo tốt đẹp mà sanh lòng tham đắm.
-Uy nghi tư thái dục: Thấy tướng đi, đứng, nằm ngồi, nói cười mà sanh lòng ái nhiễm.
-Ngữ ngôn âm thanh dục: Nghe tiếng nói trau chuốt êm ái thích ý vừa lòng, giọng ca lảnh lót, tiếng nói dịu dàng mà sanh lòng yêu mến.
-Tế hoạt dục: Thấy da thịt của nam nữ mịn màng, trơn láng mà sanh lòng yêu mến.
-Nhân tượng dục: Thấy hình nam nữ dễ thương mà sanh lòng đắm trước.
Thế gian là giả huyễn, vô thường, vô ngã, sanh sanh diệt diệt. Khi nhân duyên hòa hợp thì vạn pháp sanh và khi nhân duyên tan rã thì vạn pháp diệt cho nên tuy vạn pháp sanh sanh diệt diệt, diệt diệt sanh sanh mà chúng ta vẫn luôn luôn tự tại trước sự sanh diệt, diệt sanh nầy. Nếu biết áp dụng huyền nghĩa của đoạn kinh nầy vào trong cuộc sống, con người sẽ không còn chấp Tướng tức là chấp vào hình sắc, âm thanh, ngôn ngữ, lời nói, văn tự…thì cuộc sống sẽ an vui tự tại, không còn ràng buộc khổ đau. Nếu không chấp vào hình tướng thì con người sẽ không còn quan trọng đến nhà sang, xe đẹp, áo lụa quần là, se sua chưng diện xa hoa…mà chỉ cần đứng đắn chỉnh tề, tâm tư thanh thoát và ung dung tự tại. Nếu không chấp âm thanh, lời nói, văn tự vì chúng là giả huyễn, là sinh diệt thì con người sẽ dững dưng trước lời khen tiếng chê và xem những tiếng thị phi như gió thoảng ngoài tai mà hướng tâm thanh tịnh để thấy rằng:”Nhất thế sắc giai thị Phật sắc, nhất thế thanh giai thị Phật thanh” nghĩa là nếu có tâm thanh tịnh thì tất cả hình tướng đều là hình tướng Phật và tất cả âm thanh đều là âm thanh Phật.
Thất tình lục dục ví như những cục nam châm lúc nào cũng muốn hút con người vào trong quỷ đạo đam mê tham đắm sắc dục mà không có lối thoát. Bây giờ có Tỉnh thức Chánh niệm thì tâm liền bừng sáng nên sống với tánh giác thanh tịnh của mình. Một khi tâm đã thanh tịnh thì cũng cái thế giới mà người đời gọi là “thất tình lục dục” đó, nhưng đối với ta thì bình yên thanh thản, không còn cái gì quyến rũ nữa.
Những mong muốn tìm cầu được thỏa mãn là vị ngọt, thích một thứ âm thanh, một loại nhạc nào đó mà nghe được nó là thỏa mãn, sự thỏa mãn đó chính là vị ngọt của dục lạc, là cái đã đáp ứng được cho lòng ham muốn, làm cho người ta cảm thấy hạnh phúc khi vừa mới đạt được. Bản tính của dục lạc là không bao giờ được thỏa mãn. Từ ham muốn này đến ham muốn khác nên con người không bao giờ dừng lại ở cái gọi là hạnh phúc. Vì khi sự khao khát mong muốn vừa mới đạt được, vừa mới chớm thấy hạnh phúc, con người lại thấy tham muốn cái khác, cái cao hơn và cao hơn nữa. Chưa bao giờ lòng dục, lòng tham về dục lạc có một điểm dừng vì vậy mà tạo nên một trạng thái bức bách, khát khao không bao giờ được bình yên. Nói thế thì dục lạc chỉ là cái vui tạm bợ, nhất thời và thường đưa đẩy chúng sinh lún sâu vào vòng sinh tử triền miên. Chính Đức Phật cũng thừa nhận rằng dục lạc là một sự thật có mặt ở thế gian, dục lạc ấy cũng đem đến hạnh phúc, đem đến sự khả ái, khả lạc, sự thỏa mãn cho con người nghĩa là Ngài cũng thừa nhận niềm vui của dục, công nhận nó có vị ngọt, làm quyến rũ con người. Nói khác đi, Ngài vẫn thấy rằng sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, xúc êm dịu có vị ngọt làm say đắm lòng người. Nhưng đó chỉ là một khía cạnh bên ngoài, còn khía cánh tâm lý sâu xa hơn bên trong là bất cứ hiện tượng dục lạc nào cũng đều dẫn đến khổ đau. Cho dù bạn có ham thích bất cứ thứ gì trên thế gian này thì sự đam mê này sẽ thay đổi bởi vì bất cứ vật gì rồi cũng sẽ bị thời gian vô thường thay đổi, biến hoại. Muốn đạt được hạnh phúc, thỏa mãn dục lạc, con người phải ra sức tìm cầu, phải tạo dựng để gặt hái kết quả. Con người cần có nhà đẹp, xe tốt, nhiều tiền, danh vọng, ăn ngon, mặt đẹp . . . nên phải cố gắng làm lụng vất vã, chịu đủ sự khổ đau nhọc nhằn đến với bản thân như ốm đau bệnh tật, chịu đựng nắng gió, mưa lạnh và vô số chướng ngại khác để đạt được mục tiêu, có khi còn phương hại đến cả tính mạng. Vì lý do này hay lý do khác, con người không ngừng cố công tìm cầu nhằm thỏa mãn cái mà người ta gọi là “giá trị của cuộc sống”. Nhưng cuộc sống thì không đứng yên, giá trị cuộc sống mà con người quan niệm thay đổi từng giây, từng phút. Cái giá trí của ngày hôm qua thì hôm nay đã bị thay thế bằng một cái khác, giá trị hơn. Cuộc tìm cầu “giá trị của cuộc sống” cứ xoay quanh lẩn quẩn, xem ra không có lối thoát. Nhưng rồi con quỷ vô thường không tha cho một ai cả, những gì con người trân quý thì cũng không nắm giữ nó mãi. Con người sẽ khổ đau khi tài sản, hạnh phúc tan rã, cuộc sống gặp trắc trở rủi ro. Họ sẽ buồn khóc, than trời, trách đất và thái độ tiêu cực đó chỉ mang lại cho bản thân họ thêm khổ đau vướng mắc. Vì thế Đức Phật dạy rằng “Này các Tỳ kheo, nếu thiện nam tử ấy nỗ lực như vậy, tinh cần như vậy, tinh tấn như vậy mà tài sản ấy không đến tay mình, vị ấy than vãn, buồn phiền khóc than, đấm ngực mê man bất tĩnh: ‘ôi! sự nỗ lực của ta thật sự vô ích, sự tinh cần của ta thật sự không có kết quả’. Này các tỳ kheo, như vậy là sự nguy hiểm của các dục”.
- KhángThiên
- Nhị đẳng
- Bài viết: 320
- Tham gia: 17:02, 08/09/15
TL: Đạo & Đời
Nghiệp ai nấy mang.
_______________________________________________
Một ngày nọ có chàng trẻ tuổi vừa buồn vừa khóc, tìm đến Đức Phật. Đức Phật hỏi:
“Cái gì sai trái đã làm nhà ngươi khóc?”
Chàng trai đáp :
“Thưa ngài, cha con chết ngày hôm qua.”
“Thì nhà ngươi làm gì được? Ông ấy đã chết rồi, buồn khóc chẳng thể làm ông ấy sống lại.”
“Vâng, thưa ngài, con hiểu điều đó; buồn khóc chẳng thể làm cho cha con trở về với con. Nhưng con đến đây cầu xin ngài một điều: xin ngài hoan hỷ làm một điều gì đó cho người cha quá vãng của con!”.
“Vậy ta có thể làm gì giúp cho cha con?”
“Thưa ngài, xin ngài làm một cái gì đó. Ngài là đấng toàn năng, chắc chắn ngài có thể làm được. Ngài hãy xem, các vị tu sĩ cúng tế, các thầy phát giấy xá tội,đốt giấy tiền vàng mã... đã cử hành những nghi thức cúng lễ cầu siêu giúp người quá cố. Và nghi thức cúng tế cầu siêu nếu được tổ chức sớm ở đây, thì cánh cửa trên thiên giới sẽ được mở ra sớm và người quá cố sẽ được siêu thăng về nơi đó. Họ sẽ nhận được giấy nhập cảnh. Thưa ngài, ngài là đấng toàn năng, ngài có đầy đủ quyền lực! Nếu ngài chủ tế nghi thức cầu siêu cho cha con, cha con không những nhận được giấy nhập cảnh nơi thiên quốc mà ông ấy sẽ được ở thường trú luôn. Thưa ngài, xin ngài hoan hỷ giúp cha con!”
Biết rằng chàng trai trẻ tràn ngập nỗi đau khổ chắc khó có thể hiểu được những lý lẽ phải trái trong lúc này, nên Đức Phật đã phải dùng một phương tiện khác giúp cho chàng ta hiểu. Vì thế Phật nói:
“Nhà ngươi hãy đi mua hai cái chậu đất nung.”
Chàng trẻ tuổi lấy làm sung sướng, nghĩ rằng Đức Phật đã nhận lời làm lễ cầu siêu cho cha hắn và đã tức tốc đi chợ mua hai cái chậu bằng đất nung.
“Được rồi,” Phật nói, “đổ vào chậu thứ nhất đầy đá cuội, chậu thứ hai đầy bơ.”
Chàng trẻ tuổi làm y như lời Phật dạy.
“Bây giờ bịt miệng cả hai chậu lại, xong bỏ xuống hồ nước”.
Chàng trai trẻ làm xong, hai chậu chìm xuống dưới đáy hồ.
“Bây giờ” Phật nói, “đem cái gậy ra đây, chọc bể cả hai chậu.”
Chàng trẻ tuổi rất lấy làm sung sướng, nghĩ rằng đức Phật đã cử hành nghi lễ cầu siêu cho cha hắn.
Theo tập quán cổ truyền cổ Ấn Độ, khi người cha chết, người con làm lễ hỏa táng. Vào khoảng giữa thời gian thiêu, người con dùng cây gậy thọc và làm vỡ sọ đầu. Cũng theo niềm tin cổ truyền của họ, cho đến khi sọ đầu được mở ra nơi trần gian này thì cánh cửa thiên giới cũng được mở ra. Vì thế chàng trẻ tuổi tự nghĩ là, “Cha ta đã được thiêu đốt ngày hôm qua. Như là một biểu tượng, đức Phật muốn mình làm vỡ các chậu ngày hôm nay!” Chàng cảm thấy sung sướng nhiều với nghi thức này của Đức Phật.
Chàng trẻ tuổi đã dùng cây gậy làm bể hai chậu. Lập tức, chậu đựng bơ bị vỡ, bơ nổi lênh láng trên mặt hồ nước. Chậu kia đựng những hòn đá cuội vẫn nằm yên dưới đáy hồ.
Rồi Đức Phật nói:
“Chàng trẻ tuổi, đó là những gì ta đã làm. Bây giờ hãy mời các thầy cúng tế và nói với họ hãy tụng kinh và cầu nguyện: “Hỡi các viên đá cuội, hãy nổi lên, hãy nổi lên! Hỡi bơ ơi, hãy chìm xuống, chìm xuống!” Hãy cho chúng ta xem sự kiện xảy ra.”
“Ổ, thưa ngài, ngài nói đùa với con! Không thể nào như thế được, những viên đá cuội nặng hơn nước, chúng chìm xuống đáy. Chúng chẳng thể bao giờ nổi lên được. Đây là định luật tự nhiên! Và thưa ngài, bơ nhẹ hơn nước, chúng nổi lên mặt nước, chẳng bao giờ có thể chìm xuống được. Đây là định luật tự nhiên.”
“Chàng trẻ tuổi, nhà ngươi biết nhiều về định luật tự nhiên, nhưng nhà ngươi đã không hiểu về định luật tự nhiên này. Nếu trong suốt cuộc đời của cha nhà ngươi mà ông ấy đã làm những điều nặng như những viên đá cuội (chuyện ác, việc xấu...) cha nhà ngươi sẽ bị đọa, ai có thể giúp cha nhà ngươi siêu thoát lên trên được? Và nếu tất cả việc làm của cha ngươi nhẹ như bơ (việc thiện, chuyện tốt.....) ông ấy sẽ được siêu thoát - ai có thể đè ông ta xuống được?”
Nếu chúng ta hiểu định luật tự nhiên (5) và sống theo luật tự nhiên này, chúng ta sẽ vượt thoát khỏi những khổ đau và bất hạnh của cuộc đời.