Linh hồn dưới góc nhìn khoa học
TL: Linh hồn dưới góc nhìn khoa học
Sau đó, ông cũng đo trọng lượng của những con chó theo cách tương tự và rất ngạc nhiên khi thấy trọng lượng của chúng không thay đổi chút nào sau khi chết, nên ông kết luận rằng chỉ có con người mới có linh hồn, còn động vật thì không có linh hồn.
Năm 1907, tờ New York Times đăng tải nội dung thí nghiệm của McDougall, điều này đã gây náo động và cũng bị nhiều học giả chỉ trích vì thí nghiệm này có một số khía cạnh không hợp lý, đặc biệt là dữ liệu thực nghiệm có một số sơ hở. Khi chết, nhiệt độ cơ thể của con người sẽ đột ngột tăng lên, lúc này mồ hôi tiết ra sẽ có sự chênh lệch đột ngột về cân nặng, sở dĩ chó không có biểu hiện thay đổi là do nó không bài tiết được tuyến mồ hôi.
Sau đó, có lẽ vì bất đắc dĩ, McDougall lại nảy ra một ý tưởng táo bạo khác, ông từ bỏ thí nghiệm cân linh hồn và dự định sử dụng ánh sáng đặc biệt để quay cảnh ngoài cơ thể, nếu một người chết, linh hồn sẽ thực sự rời khỏi cơ thể và theo đó có thể chụp ảnh linh hồn theo một cách đặc biệt.
Sau đó, ông đã cố gắng dùng tia X để chụp lại cảnh linh hồn rời khỏi cơ thể, nhưng đáng tiếc là không có kết quả cho đến khi ông qua đời.
Năm 1907, tờ New York Times đăng tải nội dung thí nghiệm của McDougall, điều này đã gây náo động và cũng bị nhiều học giả chỉ trích vì thí nghiệm này có một số khía cạnh không hợp lý, đặc biệt là dữ liệu thực nghiệm có một số sơ hở. Khi chết, nhiệt độ cơ thể của con người sẽ đột ngột tăng lên, lúc này mồ hôi tiết ra sẽ có sự chênh lệch đột ngột về cân nặng, sở dĩ chó không có biểu hiện thay đổi là do nó không bài tiết được tuyến mồ hôi.
Sau đó, có lẽ vì bất đắc dĩ, McDougall lại nảy ra một ý tưởng táo bạo khác, ông từ bỏ thí nghiệm cân linh hồn và dự định sử dụng ánh sáng đặc biệt để quay cảnh ngoài cơ thể, nếu một người chết, linh hồn sẽ thực sự rời khỏi cơ thể và theo đó có thể chụp ảnh linh hồn theo một cách đặc biệt.
Sau đó, ông đã cố gắng dùng tia X để chụp lại cảnh linh hồn rời khỏi cơ thể, nhưng đáng tiếc là không có kết quả cho đến khi ông qua đời.
TL: Linh hồn dưới góc nhìn khoa học
Nghiên cứu linh hồn vẫn là đề tài nghiên cứu về cái chết nên một số nhà khoa học đã đưa ra “trải nghiệm cận tử”. Trải nghiệm cận tử là gì? Khoảng thời gian hôn mê từ khi một người bị thương nặng được đưa đến bệnh viện cho đến khi được giải cứu thành công gọi là giai đoạn cận kề cái chết, qua phỏng vấn một số lượng lớn bệnh nhân sắp chết, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng trong thời gian này, nhiều trải nghiệm tuyệt vời và tương tự sẽ xảy ra, đây là trải nghiệm cận kề cái chết.
Ví dụ, họ có thể cảm nhận được ý thức của mình đang rời khỏi cơ thể, xem lại cuộc đời của mình, thậm chí có người còn có thể nhìn thấy một số người thân đã khuất, điều kỳ lạ là hầu như tất cả họ đều có trải nghiệm ngoài cơ thể. Lúc này lại xuất hiện vấn đề? Tại sao những bệnh nhân từ khắp nơi trên thế giới lại có những trải nghiệm tương tự? Những trải nghiệm này diễn ra như thế nào? Đây là một vấn đề lớn trong nghiên cứu trải nghiệm cận tử.
Ví dụ, họ có thể cảm nhận được ý thức của mình đang rời khỏi cơ thể, xem lại cuộc đời của mình, thậm chí có người còn có thể nhìn thấy một số người thân đã khuất, điều kỳ lạ là hầu như tất cả họ đều có trải nghiệm ngoài cơ thể. Lúc này lại xuất hiện vấn đề? Tại sao những bệnh nhân từ khắp nơi trên thế giới lại có những trải nghiệm tương tự? Những trải nghiệm này diễn ra như thế nào? Đây là một vấn đề lớn trong nghiên cứu trải nghiệm cận tử.
TL: Linh hồn dưới góc nhìn khoa học
Vậy Penrose đã giải thích điều đó như thế nào? Penrose đề xuất trải nghiệm cận tử của con người tương đương với một chương trình của máy tính lượng tử trong não, chương trình này vẫn tồn tại trong vũ trụ ngay cả sau khi chết. Nói cách khác, ông tin rằng linh hồn là một loại vật chất lượng tử, sau khi rời khỏi cơ thể con người sẽ trở lại vũ trụ. Nghe có vẻ hơi khó hiểu nhưng chúng ta phải bắt đầu với cơ học lượng tử.
Trong cơ học lượng tử có một khái niệm gọi là trạng thái chồng chất, dùng để chỉ sự chồng chất của một lượng lượng tử cực nhỏ có thể ở nhiều trạng thái cùng một lúc, trạng thái của lượng tử này rất giống với ý thức của chúng ta hoặc linh hồn, phải chăng cũng là loại trạng thái lượng tử này?
Trong cơ học lượng tử có một khái niệm gọi là trạng thái chồng chất, dùng để chỉ sự chồng chất của một lượng lượng tử cực nhỏ có thể ở nhiều trạng thái cùng một lúc, trạng thái của lượng tử này rất giống với ý thức của chúng ta hoặc linh hồn, phải chăng cũng là loại trạng thái lượng tử này?
TL: Linh hồn dưới góc nhìn khoa học
Năm 1994, Đại học Harvard ở Hoa Kỳ công bố kết quả một nghiên cứu, họ phát hiện ra rằng trong não người có một cấu trúc gọi là "vi ống", cấu trúc này phân bố rộng rãi trong các tế bào thần kinh của não,
giống như những sợi dây, và cấu trúc này có những đặc tính giống như trạng thái chồng chất lượng tử.
Sau này, Penrose cũng tham gia vào nghiên cứu này và cùng với Stuart Hameroff, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Ý thức tại Đại học Arizona và giáo sư Khoa Tâm lý học và Gây mê, họ đã đề xuất mô hình “điều chỉnh-sụp đổ” để giải thích hiện tượng lượng tử của ý thức.
giống như những sợi dây, và cấu trúc này có những đặc tính giống như trạng thái chồng chất lượng tử.
Sau này, Penrose cũng tham gia vào nghiên cứu này và cùng với Stuart Hameroff, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Ý thức tại Đại học Arizona và giáo sư Khoa Tâm lý học và Gây mê, họ đã đề xuất mô hình “điều chỉnh-sụp đổ” để giải thích hiện tượng lượng tử của ý thức.
TL: Linh hồn dưới góc nhìn khoa học
Ý tưởng cơ bản của mô hình “điều chỉnh-sụp đổ” là ý thức của con người được tạo ra bởi các vi ống trong não. Các trạng thái lượng tử trong các vi ống sẽ liên tục điều chỉnh và sụp đổ. Mỗi lần sụp đổ sẽ tạo ra một khoảnh khắc ý thức, và những ý thức này sẽ cấu thành nên suy nghĩ và cảm xúc của chúng ta. Khi cơ thể con người chết đi, trạng thái lượng tử trong các vi ống sẽ không biến mất mà sẽ đi vào trường lượng tử của vũ trụ, đây chính là sự bất tử của linh hồn. Penrose và Stuart Hameroff tin rằng lý thuyết này có thể giải thích một số hiện tượng trong trải nghiệm cận tử, chẳng hạn như trải nghiệm ngoài cơ thể, hồi tưởng lại cuộc sống và gặp gỡ người chết, bởi đây là những dự đoán về ý thức được tạo ra khi trạng thái lượng tử sụp đổ.
Lý thuyết linh hồn lượng tử của Penrose là một lý thuyết cố gắng giải thích sự tồn tại của linh hồn một cách khoa học, dựa trên kiến thức về cơ học lượng tử và khoa học thần kinh, nhưng cũng chịu ảnh hưởng của siêu hình học.
Lý thuyết này tuy có cơ sở khoa học nhất định nhưng cũng còn nhiều tranh cãi, đặc biệt là cách kiểm chứng và chứng minh tính đúng đắn của nó. Hiện nay, nghiên cứu khoa học về linh hồn vẫn đang trong giai đoạn thăm dò, chưa có câu trả lời chắc chắn. Có lẽ, bản chất của linh hồn nằm ngoài phạm vi khoa học và chỉ có thể hiểu được qua đức tin và cảm xúc.
Lý thuyết linh hồn lượng tử của Penrose là một lý thuyết cố gắng giải thích sự tồn tại của linh hồn một cách khoa học, dựa trên kiến thức về cơ học lượng tử và khoa học thần kinh, nhưng cũng chịu ảnh hưởng của siêu hình học.
Lý thuyết này tuy có cơ sở khoa học nhất định nhưng cũng còn nhiều tranh cãi, đặc biệt là cách kiểm chứng và chứng minh tính đúng đắn của nó. Hiện nay, nghiên cứu khoa học về linh hồn vẫn đang trong giai đoạn thăm dò, chưa có câu trả lời chắc chắn. Có lẽ, bản chất của linh hồn nằm ngoài phạm vi khoa học và chỉ có thể hiểu được qua đức tin và cảm xúc.
TL: Linh hồn dưới góc nhìn khoa học
Chính là nó đấy.
Việc nói ra mà không có người thực chứng rất giống như “nói chuyện mê tín” - nhưng chính là nó đấy - nếu như cần có một khái niệm về linh hồn.
Ở trạng thái vi trần và nhỏ hơn vi trần chính là trạng thái lượng tử (dù là hạt lượng tử nào) chỉ còn tần số, năng lượng, rung - mã hoá thông tin.
Chỉ khi thấy về 1 trường gọi là trường lượng tử hay trường năng lượng hay trường thông tin - một trường vi trần - mọi thứ đơn giản hơn nhiều.
Tần số được cho là thứ không thể thay đổi hay tổng hợp. Rất rõ ràng, nó mã hoá và xác định cái gọi là trạng thái. Nếu không thể xác định được tần (hay còn gọi là sự ổn định của dao động) thì đối tượng trở thành giống như 1 lượng tử - không thể đo đồng thời vị trí và năng lượng.
Lưỡng tính sóng hạt của lượng tử xác nhận “khái niệm tần số” hiện đại không phải là 1 mô tả đúng bản chất thường hằng của đại lượng đối tượng (một thông số thường hằng).
Cũng như vậy với độ rung và năng lượng.
Như vậy, ở cấp độ sâu hơn 1 đối tượng vi trần (lượng tử) hoàn toàn không phải do (tần số, độ rung, năng lượng) mà nó cần phải được thấy trong 1 “tập hợp” gồm rất nhiều lượng tử (vi trần) - cùng xác lập gọi là “trường”.
Như vậy: Tần số của trường, độ rung của trường, năng lượng của trường? - Điều này có quy định hay xác định “1 đối tượng cụ thể”?
Ở cấp độ này, rất rõ, không có cái gọi là “đối tượng cụ thể” có thể được xác định bởi không gian, thời gian (còn gọi là hình tướng, kích thước, sắc, vật, sự ổn định về mặt kích thước 3 chiều không gian theo thời gian) - như vậy, trường này không thể đo đạc bằng các “thông số vật lý 3 chiều không gian”. - Trường này rất rõ là “vô biên” về mặt không gian 3 chiều.
Lượng tử luôn chứa thông tin, hay thông tin được mã hoá trong lượng tử (bằng sự xác lập trạng thái của lượng tử). Như vậy, trường này rất rõ có chứa thông tin. Nhưng thực tiễn cũng chứng minh khoa học hiện tại với kỹ thuật đo đạc trạng thái thông tin (4 chiều không thời) không thể xác định được chính xác trạng thái của 1 tập hợp lượng tử rời rạc bởi chính cái gọi là “tập hợp” cũng không xác định được nổi gồm bao nhiêu (số lượng) lượng tử (vi trần) nói gì đến xác định trạng thái thông tin cụ thể. - Trường này rất rõ là “vô biên” về mặt thông tin (thức) trong không thời 4 chiều.
Như vậy, trường “cụ thể” này, nếu có - không thể dùng kỹ thuật khoa học không thời 4 chiều để đo đạc và xác định. - Điều này khẳng định, chẳng bao giờ có bằng chứng “khoa học” bởi các công cụ khoa học kỹ thuật của thế giới không thời 4 chiều có thể đo đạc xác định được.
…
Trong quá trình “định” hay ở “xứ định”. Người hành giả đưa “tần số ý thức - tần số não - tần số cơ thể sống” về trạng thái “vô định-xác định”. Với trạng thái này tần số của người hành giả hoà nhập (cộng hưởng, tương ưng, cảm ứng) với tần số của trường và truy cập được vào trường, thấy rõ “không vô biên xứ” - tức là biên giới 3D vô biên của trường. Thấy rõ “thức vô biên xứ” - tức là biên giới vô biên của thông tin….
Vậy 1 trường cụ thể này do một người hành giả này nhờ tu tập truy cập (cảm ứng, tương ứng, cộng hưởng) vào được có khác 1 trường cụ thể kia do một người hành giả kia cũng nhờ tu tập mà tiến được vào? - HAY TẤT CẢ ĐỀU LÀ “CHÚNG TA”? - Cái này, chúng ta tự chứng.
Việc nói ra mà không có người thực chứng rất giống như “nói chuyện mê tín” - nhưng chính là nó đấy - nếu như cần có một khái niệm về linh hồn.
Ở trạng thái vi trần và nhỏ hơn vi trần chính là trạng thái lượng tử (dù là hạt lượng tử nào) chỉ còn tần số, năng lượng, rung - mã hoá thông tin.
Chỉ khi thấy về 1 trường gọi là trường lượng tử hay trường năng lượng hay trường thông tin - một trường vi trần - mọi thứ đơn giản hơn nhiều.
Tần số được cho là thứ không thể thay đổi hay tổng hợp. Rất rõ ràng, nó mã hoá và xác định cái gọi là trạng thái. Nếu không thể xác định được tần (hay còn gọi là sự ổn định của dao động) thì đối tượng trở thành giống như 1 lượng tử - không thể đo đồng thời vị trí và năng lượng.
Lưỡng tính sóng hạt của lượng tử xác nhận “khái niệm tần số” hiện đại không phải là 1 mô tả đúng bản chất thường hằng của đại lượng đối tượng (một thông số thường hằng).
Cũng như vậy với độ rung và năng lượng.
Như vậy, ở cấp độ sâu hơn 1 đối tượng vi trần (lượng tử) hoàn toàn không phải do (tần số, độ rung, năng lượng) mà nó cần phải được thấy trong 1 “tập hợp” gồm rất nhiều lượng tử (vi trần) - cùng xác lập gọi là “trường”.
Như vậy: Tần số của trường, độ rung của trường, năng lượng của trường? - Điều này có quy định hay xác định “1 đối tượng cụ thể”?
Ở cấp độ này, rất rõ, không có cái gọi là “đối tượng cụ thể” có thể được xác định bởi không gian, thời gian (còn gọi là hình tướng, kích thước, sắc, vật, sự ổn định về mặt kích thước 3 chiều không gian theo thời gian) - như vậy, trường này không thể đo đạc bằng các “thông số vật lý 3 chiều không gian”. - Trường này rất rõ là “vô biên” về mặt không gian 3 chiều.
Lượng tử luôn chứa thông tin, hay thông tin được mã hoá trong lượng tử (bằng sự xác lập trạng thái của lượng tử). Như vậy, trường này rất rõ có chứa thông tin. Nhưng thực tiễn cũng chứng minh khoa học hiện tại với kỹ thuật đo đạc trạng thái thông tin (4 chiều không thời) không thể xác định được chính xác trạng thái của 1 tập hợp lượng tử rời rạc bởi chính cái gọi là “tập hợp” cũng không xác định được nổi gồm bao nhiêu (số lượng) lượng tử (vi trần) nói gì đến xác định trạng thái thông tin cụ thể. - Trường này rất rõ là “vô biên” về mặt thông tin (thức) trong không thời 4 chiều.
Như vậy, trường “cụ thể” này, nếu có - không thể dùng kỹ thuật khoa học không thời 4 chiều để đo đạc và xác định. - Điều này khẳng định, chẳng bao giờ có bằng chứng “khoa học” bởi các công cụ khoa học kỹ thuật của thế giới không thời 4 chiều có thể đo đạc xác định được.
…
Trong quá trình “định” hay ở “xứ định”. Người hành giả đưa “tần số ý thức - tần số não - tần số cơ thể sống” về trạng thái “vô định-xác định”. Với trạng thái này tần số của người hành giả hoà nhập (cộng hưởng, tương ưng, cảm ứng) với tần số của trường và truy cập được vào trường, thấy rõ “không vô biên xứ” - tức là biên giới 3D vô biên của trường. Thấy rõ “thức vô biên xứ” - tức là biên giới vô biên của thông tin….
Vậy 1 trường cụ thể này do một người hành giả này nhờ tu tập truy cập (cảm ứng, tương ứng, cộng hưởng) vào được có khác 1 trường cụ thể kia do một người hành giả kia cũng nhờ tu tập mà tiến được vào? - HAY TẤT CẢ ĐỀU LÀ “CHÚNG TA”? - Cái này, chúng ta tự chứng.
TL: Linh hồn dưới góc nhìn khoa học
Chúng ta “chìm nổi” và dính mắc ở “thế giới” điên đảo mộng tưởng này bởi vì chúng ta đã tự “phân biệt” một thứ gọi là “tần số ý thức” cụ thể cho mỗi chúng ta. Với sự “phân biệt” cụ thể rõ ràng về tần số não - tần số ý thức này mà “thức” của chúng ta bị “tách rời” khỏi trường thường hằng chân như kia. Không cộng hưởng được, không cảm ứng được, không tương ưng.
Ngoại cảm: Một số người trong những điều kiện đặc biệt có thể điều chỉnh tần số não cộng hưởng (tương ứng) tiến vào phạm vi 1 phần nhỏ của trường ở giới hạn/khía cạnh nào đó - và biết/thấy được thông tin.
Vào “định” thấy quá khứ: Tương ưng tần số ở 1 phạm vi khía cạnh có liên quan, đã trải qua (gần/ phạm vi hẹp).
Vũ trụ toàn ảnh: Toàn bộ thế giới này chỉ là những “bức ảnh” - tức sự xác định của vô lượng bức ảnh về trạng thái của trường ở 1 thời điểm cụ thể.
Vũ trụ điện từ: Toàn bộ thế giới này chỉ được cấu trúc và vận hành bởi nặng lượng điện từ.
…
- Các sự thấy của tất cả mọi trường hợp như trên hoặc các trường hợp khác chưa kể ra, sự khác nhau hoặc phạm vi truy cập được vào trường - chỉ là do 1 thứ đó là “năng lượng” của “thức” - năng lượng nhóm truy cập vào nhiều hay ít (hay sự tập trung/ sự vô định/độ mượt của tần số).
Ví dụ: Năng lượng ít thì chỉ truy cập được 1 phần nhỏ, thấy không rõ ràng - khi bị đồng hoá hết năng lượng thì bị đẩy ra (ngoại cảm).
Nhờ sự tu tập mà người hành giả có một mức năng lượng tập trung cao (năng lượng được chuyển đổi từ tần số f cụ thể đang quy định mỗi người/vật việc khác nhau - được chuyển thành phần năng lượng tần số F tương ưng với trường) - nhờ thế “truy cập” được phạm vi lớn hơn - nhưng rồi cũng sẽ bị đẩy ra sau khi bị đồng hoá hết.
Người hành giả chuyển đổi toàn bộ năng lượng f của bản thân (ngã riêng biệt) về tần số đồng nhất với tần số F của trường. Không còn 1 sự phân biệt hay sai khác. Lúc này đủ kiều kiện tiến tới “Niết Bàn”…
Ngoại cảm: Một số người trong những điều kiện đặc biệt có thể điều chỉnh tần số não cộng hưởng (tương ứng) tiến vào phạm vi 1 phần nhỏ của trường ở giới hạn/khía cạnh nào đó - và biết/thấy được thông tin.
Vào “định” thấy quá khứ: Tương ưng tần số ở 1 phạm vi khía cạnh có liên quan, đã trải qua (gần/ phạm vi hẹp).
Vũ trụ toàn ảnh: Toàn bộ thế giới này chỉ là những “bức ảnh” - tức sự xác định của vô lượng bức ảnh về trạng thái của trường ở 1 thời điểm cụ thể.
Vũ trụ điện từ: Toàn bộ thế giới này chỉ được cấu trúc và vận hành bởi nặng lượng điện từ.
…
- Các sự thấy của tất cả mọi trường hợp như trên hoặc các trường hợp khác chưa kể ra, sự khác nhau hoặc phạm vi truy cập được vào trường - chỉ là do 1 thứ đó là “năng lượng” của “thức” - năng lượng nhóm truy cập vào nhiều hay ít (hay sự tập trung/ sự vô định/độ mượt của tần số).
Ví dụ: Năng lượng ít thì chỉ truy cập được 1 phần nhỏ, thấy không rõ ràng - khi bị đồng hoá hết năng lượng thì bị đẩy ra (ngoại cảm).
Nhờ sự tu tập mà người hành giả có một mức năng lượng tập trung cao (năng lượng được chuyển đổi từ tần số f cụ thể đang quy định mỗi người/vật việc khác nhau - được chuyển thành phần năng lượng tần số F tương ưng với trường) - nhờ thế “truy cập” được phạm vi lớn hơn - nhưng rồi cũng sẽ bị đẩy ra sau khi bị đồng hoá hết.
Người hành giả chuyển đổi toàn bộ năng lượng f của bản thân (ngã riêng biệt) về tần số đồng nhất với tần số F của trường. Không còn 1 sự phân biệt hay sai khác. Lúc này đủ kiều kiện tiến tới “Niết Bàn”…
Được cảm ơn bởi: begauhn
TL: Linh hồn dưới góc nhìn khoa học
Chúng ta sống trên trái đất , trái đất trong hệ mặt trời , mặt trời trong dải ngân hà .
Nhưng vũ trụ thì có biết bao nhiêu giải ngân hà .
Cái khoa học chứng minh đc , nhìn đc , cũng đủ để khẳng định vũ trụ quá bao la , ko chỉ có mỗi con người là sự sống duy nhất đc .
Mặt khác thuyết thế giới song song , 7 chiều không gian , là cái ta ko thấy .
Nhưng theo khoa học nếu nó tồn tại , thì có quá nhiều sự sống mà ta ko biết đến .
Nên việc linh hồn tồn tại , là điều hết sức dễ hiểu
Nhưng vũ trụ thì có biết bao nhiêu giải ngân hà .
Cái khoa học chứng minh đc , nhìn đc , cũng đủ để khẳng định vũ trụ quá bao la , ko chỉ có mỗi con người là sự sống duy nhất đc .
Mặt khác thuyết thế giới song song , 7 chiều không gian , là cái ta ko thấy .
Nhưng theo khoa học nếu nó tồn tại , thì có quá nhiều sự sống mà ta ko biết đến .
Nên việc linh hồn tồn tại , là điều hết sức dễ hiểu
TL: Linh hồn dưới góc nhìn khoa học
Con người thậm chí chưa sử dụng hết 100% bộ não trên chính cơ thể họ .
Hầu hết chỉ dùng 1 phần nhỏ .
Con người cũng chưa khám phá dc hết các đại dương sâu thẳm do áp suất nước quá lớn . Mà đại dương chiếm tới 3/4 dien tích trái đất .
Nói cách khác , thì con người đang sử dụng phần nhỏ bộ não .
Và mới nghiên cứu dc rất ít về hành tinh mà chính con người đang sinh sống .
Thì hiển nhiên ko thể bác bỏ linh hồn hay những thứ họ ko chứng minh đc .
Bởi lẽ thuyết bác bỏ chỉ dc đặt ra , khi anh có lập luận đúng để khiến lập luận cũ bị sai .
Chứ ko thể bác bỉ 1 điều mà bản thân cũng ko có đáp an đúng
Hầu hết chỉ dùng 1 phần nhỏ .
Con người cũng chưa khám phá dc hết các đại dương sâu thẳm do áp suất nước quá lớn . Mà đại dương chiếm tới 3/4 dien tích trái đất .
Nói cách khác , thì con người đang sử dụng phần nhỏ bộ não .
Và mới nghiên cứu dc rất ít về hành tinh mà chính con người đang sinh sống .
Thì hiển nhiên ko thể bác bỏ linh hồn hay những thứ họ ko chứng minh đc .
Bởi lẽ thuyết bác bỏ chỉ dc đặt ra , khi anh có lập luận đúng để khiến lập luận cũ bị sai .
Chứ ko thể bác bỉ 1 điều mà bản thân cũng ko có đáp an đúng
TL: Linh hồn dưới góc nhìn khoa học
Trên thực tế , ko ít người nhìn thấy "ma"
Cũng ko ít người dc sự chỉ dẫn của họ , để xem bói hoặc thoát nạn .
Cũng từ đó , mà hàng loạt tín ngưỡng thờ cúng , tâm linh , tôn giáo , dc ra đời .
Đặt 1 giả thuyết thế này .
Nếu chúng ta nói dối , liệu bao nhiêu người sẽ tin và duy trì truyền lời nói dối của ta ra khắp quốc gia , hay xuyên suốt nhiều thế hệ ?
Vì có khi ngay từ người đầu tiên nghe ta nói , họ đã ko quan tâm rồi . Thì nói gì tới lưu truyền .
Vậy điều gì khiến tôn giáo , tín ngưỡng tâm linh đc hình thành .... nếu nó ko có thật ??
Câu trả lời thuyết phục nhất , "là tâm linh có thật" .
Cũng ko ít người dc sự chỉ dẫn của họ , để xem bói hoặc thoát nạn .
Cũng từ đó , mà hàng loạt tín ngưỡng thờ cúng , tâm linh , tôn giáo , dc ra đời .
Đặt 1 giả thuyết thế này .
Nếu chúng ta nói dối , liệu bao nhiêu người sẽ tin và duy trì truyền lời nói dối của ta ra khắp quốc gia , hay xuyên suốt nhiều thế hệ ?
Vì có khi ngay từ người đầu tiên nghe ta nói , họ đã ko quan tâm rồi . Thì nói gì tới lưu truyền .
Vậy điều gì khiến tôn giáo , tín ngưỡng tâm linh đc hình thành .... nếu nó ko có thật ??
Câu trả lời thuyết phục nhất , "là tâm linh có thật" .