Sự tích các loài hoa

Chia sẻ thơ ca, nhạc họa, các trải nghiệm của cuộc sống
Hình đại diện của thành viên
phonglan
Ban tư vấn
Ban tư vấn
Bài viết: 7270
Tham gia: 12:44, 19/01/09

TL: Sự tích các loài hoa

Gửi bài gửi bởi phonglan »

ru4leaf đã viết: Dấu yêu ơi gửi em cánh hoa này Dẫu bây giờ hoa đã phai đã úa Chỉ mới đây thôi hoa vẫn còn rực rỡ Như chúng mình từng hạnh phúc bên nhau
Chuyện tình mình bao mật ngọt đớn đau

Xin đừng quên! Xin đừng quên em hỡi

Dấu yêu ơi cánh hoa này xin gửi

Như lời trái tim tha thiết nguyện cầu...
Sao bốn câu đầu Lá lại diễn thành văn vậy. Không biết nó có phải như vầy không ta:

Dấu yêu ơi gửi em cánh hoa này
Dẫu bây giờ hoa đã phai đã úa
Chỉ mới đây thôi hoa vẫn còn rực rỡ
Như chúng mình từng hạnh phúc bên nhau
Chuyện tình mình bao mật ngọt đớn đau
Xin đừng quên! Xin đừng quên em hỡi
Dấu yêu ơi cánh hoa này xin gửi
Như lời trái tim tha thiết nguyện cầu...
Tập tin đính kèm
luu ly.jpg
luu ly.jpg (11.21 KiB) Đã xem 1599 lần
luu ly1.jpg
luu ly2.jpg
Được cảm ơn bởi: lame3, TDQ, mac19, langthang79, phieudieu
Đầu trang

lame3
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 586
Tham gia: 09:32, 26/08/09

TL: Sự tích các loài hoa

Gửi bài gửi bởi lame3 »

Hic, cháu ngắt đoạn ra nhưng ko hiểu sao lúc post lên lại thành ra như thế, vì máy tính cùi bắp quá nên ngại sửa lại. Thank chú Phong Lan đã sửa lại cho cháu :-x
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
phonglan
Ban tư vấn
Ban tư vấn
Bài viết: 7270
Tham gia: 12:44, 19/01/09

TL: Sự tích các loài hoa

Gửi bài gửi bởi phonglan »

Sự tích Hoa Đại

Ngày xưa, xưa lắm, có một em bé nghèo, rất thương mẹ mà đành phải xa mẹ, đi ở cho một lão đồ tể chuyên nghề giết lợn. Lão đồ tể ngày ngày bắt em lên rừng hái củi để đun nước giết lợn. Những ngày đầu em còn phải bám theo các bác đốt than cho biết đường đi, đường về. Nhưng sau đó em đi một mình. Dăm ngày một lần, em lại đi đường vòng xa hơn, để ghé qua nhà thăm mẹ cho đỡ nhớ. Nhân tiện em biếu mẹ một mớ củi và một ít sim rừng, ổi rừng. Đường lên núi phải qua một ngôi chùa nhỏ ở ngay lưng núi. Lên đến chỗ hái được củi thì mặt trời cũng vừa lên cao. Em bé nhìn xuống chân núi tìm bến nước và túp lều của mẹ, xa quá em không thấy gì nhưng cũng nhìn cho đỡ nhớ. Một hôm em đang chặt củi ở bên một sườn núi thì bỗng thấy ở dưới một cái hố sâu có một chú hươu con bị sa xuống đó từ lúc nào không rõ. Chú hươu con lo lắng một cách im lặng. Chú mở to đôi mắt, ngẩng đầu lên nhìn quanh, như đợi mẹ đến cứu mình. Chú bé cũng nhìn quanh xem hươu mẹ có ở đâu đó không. Chỉ thấy cây rừng và tiếng gió chạy vòng quanh chân núi. Em bé liền lần xuống hố ẵm chú hươu con lên. Thấy người, lúc đầu chú hươu con cũng lo sợ. Nhưng chỉ một lúc, chú đã để yên cho em bé vuốt ve. Em bé bứt một ít cỏ non cho hươu con ăn, rồi lại bẻ một miếng cơm nhỏ xíu ở cái nắm cơm không lớn bằng nắm tay của mình, chấm vào muối bón thử cho hươu con. Hươu con chưa quen ăn cơm, nhưng hình như thích cái vị mằn mặn của muối. Em bé muốn đem hươu con về nhà mẹ nhưng sợ lão chủ biết. Còn đem về nhà lão chủ, thì lão sẽ thịt mất hươu con của mình. Lão vẫn thường nói với mọi người là lão rất thèm thịt hươu. Em vẫn nhìn quanh và mong đợi hươu mẹ trở lại để cho hươu con được gặp và sống với mẹ.
Chờ mãi không thấy, mà trời đã xế chiều. Em bé đành tìm một cái hang nhỏ, cho hươu con vào đó và lấy đá chặn kín lại.
- Ngày mai ta sẽ lên với hươu con! Hươu con đừng lo, cứ ngủ cho ngon nhé! Hôm sau em bé lại lên rừng. Em thở phào mừng rỡ khi thấy hươu con vẫn còn đó. Gặp lại em, hươu con cũng vui lắm, cứ lấy mũi ngửi ngửi vào tay em.
- À! Mày lại muốn ăn cơm với muối chứ gì? Chú bé lại bẻ một miếng cơm nhỏ xíu, chấm vào muối rồi bón cho hươu con. Em lại đi hái cỏ non mang đến. Trong lúc chặt củi, em cho hươu con đứng cạnh. Có hươu con, em chặt củi không mệt chút nào. Từ đó em bé và hươu con trở thành đôi bạn, ngày nào cũng gặp nhau, nhưng đêm nào cũng phải xa nhau. Thương hươu con không có mẹ, lại quấn quít với mình, nhiều đêm em bé nằm mơ gặp hươu con đùa giỡn với nó. Một đêm lão đồ tể thức dậy ra sân xem trời gần sáng chưa để giết lợn. Bỗng hắn nghe ở dưới bếp tiếng em bé đang nằm nói mê, rõ thành lời như đang thức:
- Hươu à, hươu ăn chóng lớn, hươu mọc đôi sừng thật cao, thật đẹp nhé! Lần ấy lão không để ý mấy. Nhưng sau đó, lão lại nghe bọn người nhà mách là em bé cứ thường nói mê như thế. Và cái câu em hay nói nhất vẫn là câu này:
- Hươu à, hươu ăn chóng lớn, hươu mọc đôi sừng thật cao, thật đẹp nhé! Lão đồ tể cau đôi mày sâu róm lại nghĩ bụng:
- Biết đâu lại chẳng có hươu thật! Lão sai người nhà lén theo em bé lên rừng. Tên người nhà ranh ma lên rừng, thấy hết cảnh em bé cùng chú hươu con gặp nhau và sống bên nhau suốt cả ngày. Nó về mách với lão chủ. Lão chủ liền nói:
- Đúng vậy thì ngày mai tao sẽ đi xem, chúng mày theo tao bắt cho kỳ được con hươu về. Hôm sau em bé lại lên rừng. Lòng em vui biết bao nhiêu. Mới chỉ một thời gian ngắn, hươu con đã lớn lên trông thấy và ngày càng tỏ ra khôn ngoan không ngờ. Hình như em bé nói gì, nghĩ gì, hươu con đều hiểu được cả và ngoan ngoãn làm theo. Nhưng hôm đó, khi em vừa đón hươu con ở trong hang ra, chưa kịp cho hươu ăn, lão đồ tể cùng hai tên người nhà đã ập tới. Em bé đành quát to:
- Hươu ơi chạy đi! Hươu còn chần chừ. Em bé bèn phát vào cổ nó một cái thật mạnh và quát:
- Chạy đi! Hươu con hiểu ý phóng như bay vào rừng. Lão đồ tể và hai tên người nhà đuổi theo nhưng không kịp. Hươu con lẫn vào với cây cỏ, không biết đâu mà tìm. Lão đồ tể giận lắm, quay lại đánh em bé một trận. Trong cơn điên tiết lão lấy luôn một hòn đá nện vào lưng em bé. Không may hòn đá lại trúng vào đầu. Em bé ngã lăn ra nằm không động đậy. Lão đồ tể bỏ mặc em giữa rừng, cùng hai tên người nhà trở về. Hươu con chạy rất xa, lên một đỉnh đồi nhìn xuống. Thấy lão đồ tể độc ác cùng hai tên người nhà đã về thật rồi, hươu con chạy xuống với người bạn thân thiết của mình. Hươu con hà hơi ấm vào lưng, vào ngực em bé. Một lúc lâu em bé tỉnh dậy. Thấy hươu con, em mừng quá, ôm lấy cổ hươu và khóc.
- Không có hươu thì ta chết rồi! Người và hươu kéo nhau đi sang khu rừng khác, tránh ngày mai lão đồ tể lại có thể đưa người và dắt cả chó lên theo. Phải đi thật xa, thật xa. Vì vậy, đã khuya rồi, trăng đã lặn mà vẫn có hai cái bóng nhỏ, em bé và hươu con nương vào nhau mà đi. Vết thương ở trên đầu đau nhức nhưng muốn cứu hươu, cứu mình, em bé cố bước đi. Lúc nào mệt quá em lại ngồi xuống, hươu con lại quấn quýt như vỗ về, an ủi, lại hà hơi ấm vào lưng, vào ngực em bé. Hôm sau, lão đồ tể đưa người, đưa chó lên thật. Nhưng lùng sục mãi không thấy hươu đâu, lão đành hậm hực trở về. Không thấy xác em bé, lão cũng hơi lo lo, không biết là thú rừng đã ăn thịt hay em bé đã sống lại? Em bé ở với hươu mấy ngày liền trong khu rừng xa, tìm lá để chữa vết thương. Người và hươu toàn ăn quả rừng, cỏ rừng để sống. Được mấy ngày, nhớ mẹ quá, em bé nói với hươu con:
- Hươu ơi, ta nhớ mẹ quá. Ta về thăm một bữa rồi trở lên ngay với hươu. Hươu con như hiểu được ý em bé. Nó mở to đôi mắt nhìn người chủ nhỏ. Đôi mắt nó bỗng ươn ướt như đang khóc. Rồi nó gật đầu liền mấy cái. Nó đưa người chủ nhỏ ra tận bìa rừng và quay lại đứng trên một hòn đá to nhìn theo.
Em bé về gặp mẹ, được cho hay là, cách đây vài hôm, lão chủ có sai người đến dò hỏi xem em bé có trốn về không... Mẹ em không hề hay biết là em đã bị lão đánh suýt chết. Em về thì cũng gặp ngay người chú đi chèo thuyền thuê ghé thăm, nghe chuyện em kể, người chú liền nói:
- Đã vậy thì cháu cứ theo chú. Chú sẽ giúp cho cháu ăn học nên người. Em bé lo lắng:
- Nhưng còn hươu con?
- Hươu con ở trong rừng thì có gì mà cháu lo?
- Cháu hẹn với hươu con sẽ trở lên với nó mà!
- Hươu con làm sao mà hiểu được lời người nói?
- Chú ơi, nó hiểu được đấy. Nó tiễn cháu đi, còn biết khóc nữa kia mà!
- Thì cháu cứ theo chú ăn học. Nay mai khôn lớn cháu trở về. Lúc đó sẽ gặp lại hươu không muộn.
- Liệu hươu có chờ cháu không?
- Có chứ! Nó khôn vậy thì nó sẽ biết chờ.
- Cháu chỉ thương nó sống một mình, nó sẽ buồn lắm.
- Cháu đừng lo! Rồi nó sẽ tìm đàn, nhập đàn mà sống.
- Nhưng rồi nó có quên cháu không?
- Nó khôn ngoan, nó thương cháu thì sẽ không quên cháu đâu. Em bé đành nghe theo lời dỗ dành của chú và mẹ. Chỉ khổ cho em là ngay tối hôm đó, người chú đã phải cho thuyền rời bến để đi về cho kịp ngày đã hẹn với chủ thuyền. Đêm đó, em bé cứ ngồi ở đầu mũi thuyền nhìn lên ngả núi cao... Hươu con ơi! Hươu chờ ta nhé! Ta sẽ về, sẽ đưa hươu xuống dưới này sống với mẹ con ta. Lòng em bé muốn vậy, nhưng cuộc đời đâu có phải ai muốn gì thì được nấy. Em bé về với ông chú, được ông chú gửi cho ăn học ở nhà một ông đồ nghèo nhưng rất thương người. Trong một chuyến đi xa, thuyền ông chú bị đắm. Ông chú không về nữa. Em bé được ông đồ nuôi dạy, nhưng từ đó phải ở luôn với ông. Đường về quê mẹ xa quá, em càng thấy thương mẹ gấp bội. Sau đó vài năm em nghe tin mẹ đã mất... Hết thương mẹ, em lại nhớ đến hươu, chú hươu con ngày nào, nhưng em cứ tin là chú hươu bây giờ đã lớn và đã nhập đàn sống với đồng loại của nó. Và chắc nó đã quên mình... Nhưng hươu kia không quên. Hươu vẫn nhớ người bạn, người chủ nhỏ của mình. Hươu chỉ lạ sao loài người lại khác nhau như vậy. Người thì tốt như em bé.
Người thì ác như lão đánh em và hai cái tên cứ chực đuổi bắt cho được hươu. Một hôm từ trên mỏm đồi cỏ tranh cao, hươu bỗng thấy có bóng người đi lại ở ngôi chùa. Từ xa hươu cứ tưởng trong đấy có em bé, bạn và chủ của mình, người đã cứu mình. Hươu liền đi về phía ngôi chùa. Nhưng hươu cũng biết nghĩ chưa chắc đã là cậu bé, nếu không cậu ấy đã đi tìm gặp mình. Dù sao cũng cứ đến gần xem... Những con người này có vẻ cũng không phải là ác như cái lão đồ tể và hai tên kia... Hươu đến sát chân chùa thì bỗng nghe một tiếng chuông đánh. Tiếng chuông đánh gần quá làm hươu hoảng hồn. Hươu phóng thẳng một mạch vào rừng sâu. Nhiều năm trôi qua... Hươu lớn lên, sừng bắt đầu mọc. Đôi sừng cao khỏe, nhưng nhìn hươu vẫn rất hiền lành. Hươu vẫn có ý chờ gặp lại người bạn chủ cũ. Đời hươu không thể dài bằng đời người. Hươu đã trở thành con hươu đầu đàn. Một hôm hươu bỗng gặp một đoàn người đi đốt than. Hươu muốn đến gần nhưng ngại lắm.
Chờ cho họ về hết, hươu mới rời đàn, một mình đến gần chỗ họ đã ngồi tụ tập với nhau. Một ít muối của những người đốt than còn để rơi lại. Hươu nếm cái vị mặn của muối bỗng thấy nhớ người bạn của mình không chịu nổi. Thế là hươu để đàn lại cho một con hươu khác, rồi một mình tìm đến chốn cũ, nơi có cái hang xưa hươu đã sống ở đó để ngày ngày chờ cậu bé đã cứu mình. Cái hang vẫn còn nguyên. Cỏ mọc quanh miệng hang rất tốt, rất xanh nhưng hươu mỗi ngày một già dần. Mặt trời sắp lặn. Hươu già nằm xuống, giấu mình trong bụi cây rậm ở ngay bên hang. Hươu cảm thấy mình không thể đứng dậy được nữa. Một thời gian sau, hươu già chết. Chết ở ngay bên miệng hang. Người bạn của hươu lúc này ở một nơi xa, đã có vợ có con. Một hôm, thấy người đi bán sừng hươu, anh bỗng nhớ lại chuyện cũ và kể cho vợ con nghe. Anh nhắc lại câu nói năm xưa khi cho hươu ăn:
- Hươu à, hươu ăn chóng lớn, hươu mọc đôi sừng thật cao, thật đẹp nhé! Đứa con lập tức đòi bố phải đưa về thăm quê, viếng mộ bà và đi lên rừng tìm xem chú hươu có còn không? Thương con, nhớ mẹ và nhớ hươu, một thời gian sau người bố đưa vợ con về quê. Hỏi người trong làng, mới biết lão đồ tể độc ác một hôm dẫn chó lên rừng săn hươu, bị rắn độc cắn chết. Thật đáng đời nhà lão. Thăm mộ mẹ xong, người bố đưa con lên rừng. Đường vẫn phải đi ngang qua ngôi chùa nhỏ ở lưng núi. Hai bố con đi mãi, đi mãi... Trong gió bỗng có mùi hương, vừa gần gũi, vừa xa xôi. Mùi hương như chào đón như dẫn đường. Theo mùi hương, hai bố con đến ngay được chỗ cái hang ngày xưa đã giấu chú hươu con. Cả hai bố con sửng sốt, cùng đứng im lặng. Bên cạnh miệng hang có một giống cây lạ đang nở đầy hoa. Mùi hoa thơm đậm. Nhìn kỹ thì cành cây rất giống những cái sừng hươu. Có mấy người đốt than đi qua. Họ kể rằng, trước đây ngay tại chỗ cây hoa đang nở, có một con hươu già từ đâu không biết, đến đó rồi nằm chết luôn, mà không ai biết. Sau đó, ở gần miệng hang bỗng thấy xuất hiện một giống cây lá to giống tai hươu, cành giống sừng hươu. Người bố nghe nói, đoán ngay đấy là chú hươu con ngày xưa. Thì ra chú vẫn nhớ mình. Lớn lên vẫn nhớ. Và chờ đợi mình về nữa. Lòng đầy ân hận người bố liền nói:
- Hươu ơi, ta muốn về sớm với hươu mà nào có về được. Dù sao bây giờ ta cũng đã gặp lại nhau. Hai bố con cùng khấn xin hươu cho mình mấy cành cây lạ mang về làng quê để trồng, để luôn nhớ tới hươu. Lúc hai bố con đi ngang qua chùa, các ông sư nghe kể cũng cảm thương về chuyện con hươu có nghĩa nên họ xin người bố một cành cây lạ để trồng trước sân chùa. Cây hoa ấy là cây hoa đại ngày nay. Có người bảo chữ Đại là do chữ Đợi, chờ đợi mà có. Cây hoa Đại, lá to giống tai hươu, cành giống sừng hươu đã đành mà những bông hoa cũng giống như những con mắt hươu đang mở tròn, mở to, để trông ngóng, đợi chờ...
Tập tin đính kèm
Hoa su 2.jpg
Hoa su1.jpg
hoa-su.jpg
Sửa lần cuối bởi phonglan vào lúc 13:46, 11/02/10 với 1 lần sửa.
Được cảm ơn bởi: Cự Môn, TDQ, mac19, langthang79, phieudieu
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
phonglan
Ban tư vấn
Ban tư vấn
Bài viết: 7270
Tham gia: 12:44, 19/01/09

TL: Sự tích các loài hoa

Gửi bài gửi bởi phonglan »

Cổ tích hoa Tóc tiên

Ngày xửa ngày xưa, ở một vương quốc nọ, có một gia đình ngài bá tước giàu có uy quyền và nổi tiếng nhất vùng . Ngài không chỉ sở hữu một gia tài kếch xù mà còn là người cha may mắn với ba nàng công nương xinh đẹp mà tiếng tăm được cả vương quốc biết đến.
Người con gái lớn, công nương Hướng Dương, được mệnh danh là ánh mặt trời của vương quốc, nàng quyến rũ, hấp dẫn mà không một người đàn ông nào có thể cưỡng lại được. Mỗi bước đi của nàng luôn có hàng trăm ánh mắt dõi theo, nàng rực rỡ như ánh mặt trời và là niềm khao khát của bao chàng trai.
Công nương Bách Hợp, tiểu thư thứ hai của gia đình ngài bá tước, một tuyệt tác mà vũ trụ tạo ra với nét kiêu sa huyền bí, nàng tinh tế, sắc sảo đầy lôi cuốn, làm say đắm lòng người.
Tóc tiên, là tên gọi mà ngài bá tước ưu ái dành cho cô con gái út xinh xắn. Từ bé nàng đã được gia đình yêu thương, che chở, nâng niu trong vòng tay, vì nàng vốn mảnh mai, yếu ớt. Nàng là biểu tượng của sự tinh khiết, yêu kiều, duyên dáng, mềm mại như chính loài hoa nàng mang tên.
Tuy cả ba công nương đều là biểu tượng của sắc đẹp, nhưng khi xuất hiện cùng nhau, nàng Bách Hợp và Hướng Dương luôn là tâm điểm của bao sự chú ý, xung quanh hai nàng luôn có những chàng trai vây quanh, ca ngợi, ngưỡng mộ và tôn sùng. Công nương Tóc Tiên không vì thế mà lấy làm ganh tị, nàng vẫn luôn tươi cười hạnh phúc khi thấy các chị của mình vui vẻ.
Đến một ngày nọ, khi nàng Tóc tiên đang dạo chơi trong vườn, thỏ thẻ cất tiếng hát, tận hưởng cảm giác an bình của buổi sớm mai. Bỗng một chàng trai từ đâu xuất hiện, bước đến cạnh nàng, cất lời: "Xin chào công nương xinh đẹp”.
Với anh mắt quyến rũ đầy nghị lực, gương mặt thanh tú cùng một thân thể cường tráng. Khi giọng nói trầm ấm ấy cất lên là lúc trái tim công nương như đập loạn nhịp. Hàng trăm câu hỏi xáo trộn trong chiếc đầu nhỏ nhắn của nàng. Chàng từ đấu đến? chàng là ai? sao chàng lại ở đây???. Nàng như bị đảo lộn trong cái thế giới riêng của mình. Nàng chỉ kịp mỉm cười trước khi chị vú kéo nàng vào trong để chuẩn bị cho bữa tiệc long trọng, mà cả vùng trông đợi diễn ra tại nhà nàng tối nay.
Khi ánh vàng lung linh của toà lâu đài được thắp sáng rực, cũng là lúc nơi đây tràn ngập những gương mặt trai thanh, gái tú, khắp nơi tề tụ để chào đón vị hoàng tử đến thăm vùng đất này. Mọi người bàn tán sôi động, chờ đón giây phút được gặp gỡ vị hoàng tử mà từ lâu đã nổi tiếng điển trai, đa tài, giàu lòng nhân ái và là người duy nhất cả nước kỳ vọng tiếp nối ngôi vui - Người đàn ông mà các cô gái ngày đêm mơ ước được một lần diện kiến và có cơ hội được ngài để mắt tới.
Cuối cùng thì cũng đến lúc ngài bá tước dõng dạch tuyên bố “Vinh hạnh chào đón vị hoàng tử kính mến đến thăm vùng đất của chúng ta”. Mọi người cúi đầu nghiêng mình chào đón vị hoàng tử. Cả khán phòng yên lặng, các cô gái thì trầm trồ, dõi theo bước đi oai phong của vị hoàng tử. Tiếng đồn quả không sai, chàng đúng thật là niềm mơ ước của mọi cô gái. Trong lúc đó, chẳng ai để ý, ở nơi góc phòng, có một cô gái tim giật thót tim khi chợt nhận ra người đàn ông đã làm lòng nàng xao xuyến, trở nên như vô hồn suốt ngày hôm nay lại chính là hoàng tử của vương quốc .
Khi tiếng nhạc cất lên, cũng là lúc toàn đại sảnh trở nên nhộn nhịp, mọi người hồi hợp đợi chờ xem vị hoàng tử sẽ chọn cô gái may mắn nào cùng chàng khai trương bản nhạc đầu tiên để buổi tiệc chính thức bắt đầu. Hàng trăm cặp mắt lướt theo ánh đèn lúc này chiếu rọi theo bước chân chàng. Tất cả đều bất ngờ khi ánh đèn dừng lại trước chỗ công nương Tóc Tiên.
Tim nàng như ngừng đập khi chàng hoàng tử cất lời “Tôi có được vinh hạnh mời công nương khiêu vũ cùng không? Lúc này đây, mọi người mới chợt nhận ra, cô gái đứng trước mặt hoàng tử là một công nương sắc nước hương trời. Nàng duyên dáng như nhành hoa ban sớm, tươi sáng như hòn ngọc dưới ánh mặt trời, quyến rũ, dịu dàng như sắc xuân.
Khi chàng và nàng hoà quyện cùng nhau trong điệu valse, là lúc cả hai nhận ra định mệnh của đời mình. Họ đã yêu nhau ngay từ cái nhìn đầu tiên và chỉ có vị hoàng tử mới phát hiện được nét đẹp duy nhất, đặc biệt chỉ có ở riêng nàng. Từ đó họ đã kết hôn và sống hạnh phúc bên nhau trọn đời.
Tập tin đính kèm
Toc tien9.jpg
Toc tien1.jpg
Toc tien.jpg
Được cảm ơn bởi: Cự Môn, TDQ, mac19, langthang79, phieudieu
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
phonglan
Ban tư vấn
Ban tư vấn
Bài viết: 7270
Tham gia: 12:44, 19/01/09

TL: Sự tích các loài hoa

Gửi bài gửi bởi phonglan »

SỰ TÍCH HOA XƯƠNG RỒNG

..Ngày xửa ngày xưa, cách đây lâu lắm rồi, khi ấy còn chưa có loài người, trái đất còn hoang vu lắm, thấy vậy Ngọc Hoàng bèn lấy một nắm đất nhỏ vào đó một giọt nước thần để tạo ra một chàng trai. Ngọc Hoàng dạy người đó biết săn bắn, biết làm nhà rồi đưa chàng trai xuống trần gian. Thế nhưng chàng trai chỉ biết có săn bắn mà không hề biết gì về trồng trọt nên không thể phủ màu xanh lên trái đất.
Thấy vậy Ngọc Hoàng bèn sai một tiên nữ chuyên trông coi việc đồng áng - vốn là con gái của thần mưa và thần gió - xuống trần để giúp đỡ chàng trai. Nhưng không ngờ khi xuồng trần họ lại mải mê yêu nhau nên làm Ngọc Hoàng vô cùng tức giận. Người bắt Tiên nữ kia về trời, nhưng nàng nhất quyết không rời chàng trai. Tức giận quá, Ngọc Hoàng liền vung tay, biến chang trai thành trăm nghìn hạt nhỏ, mà ngày nay nguời ta gọi là Cát. Còn cô gái cứ ôm lấy chàng trai mà nay chỉ còn là những hạt cát nhỏ mà khóc lóc, dù cho Mẹ nàng là thần Mưa hết lòng khuyên giải, mặc cho Cha nàng là thần Gió hết sức tức giận.
Nàng cứ ở đó khóc mãi khóc mãi cho đến một ngày toàn thân biến thành một thứ cây toàn thân là gai góc, như để chống cự không muốn bị bắt về trời, còn rễ thì ăn sâu vào trong lòng cát nóng bỏng như cánh tay cô gái ôm chặt lấy chàng trai không muốn rời, và nếu như vô tình bạn chạm vào thân cây sẽ thấy một dòng nhựa trắng chảy ra, như dòng nước mắt chất chứa cả ngàn năm của cô gái. Và loài cây đó được gọi là Xương Rồng.
Thần Mưa do quá buồn bã mà từ cô con gái, thế nên ở sa mạc nóng bỏng , nơi chỉ có Cát và Xương Rồng cả năm chẳng hề có một giọt mưa. Còn thần Gió dù đã ngàn năm trôi qua nhưng vẫn còn tức giận, vẫn còn muốn cướp lại con gái của mình nên thỉnh thoảng lại tạo nên những cơn bão khổng lồ cuốn tung những hạt cát nhỏ bé, thế nhưng vẫn chẳng thể nào chia rẽ được tình yêu của họ bởi vì...tình yêu thực sự sẽ chiến thắng tất cả.
Tập tin đính kèm
hoa-xuong-rong2.jpg
hoa-xuong-rong2.jpg (24.15 KiB) Đã xem 1592 lần
hoa-xuong-rong1.jpg
hoa-xuong-rong1.jpg (26.78 KiB) Đã xem 1592 lần
hoa-xuong-rong.jpg
Được cảm ơn bởi: Cự Môn, mac19, langthang79, phieudieu
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
phonglan
Ban tư vấn
Ban tư vấn
Bài viết: 7270
Tham gia: 12:44, 19/01/09

TL: Sự tích các loài hoa

Gửi bài gửi bởi phonglan »

SỰ TÍCH HOA TỬ ĐINH HƯƠNG

Chuyện xảy ra vào thời mà muôn loài đều vô cùng sợ hãi rồng và phù thuỷ. Cứ chiều chiều, khi gió bắt đầu thổi ù ù vào các ống máng đầu hồi, tức là lúc có dấu hiệu rồng sai phái mụ phù thuỷ gieo tai hoạ xuống đầu một người nào đó. Rồng vốn đam mê công chúa. Nhưng rồng thì nhiều mà công chúa lại hiếm. Thế nhưng, loại quỷ này lại không tha cả đám đàn bà, con gái dân thường.
Một đêm nọ, gió xộc vào nhà bà Pecxia. Chuyện gì sẽ xảy ra đây? Rõ ràng là rồng đã đến quyến rũ bà mẹ có chín người con trai này. Song chẳng lẽ chín chàng trai cừ khôi kia lại không bảo vệ nổi mẹ?
Các chàng trai quy ước với nhau thế này: chỉ để một người ở nhà canh gác, còn tất cả phải đi làm việc. Các anh lớn thay nhau cầm gươm bảo vệ mẹ. Tám ngày liền trôi qua không gặp chuyện gì trắc trở. Rồi đến lượt chàng út ở nhà.
Chàng đứng ở cổng, canh chừng các ống máng đầu hồi nhà đã lâu không thấy có điều gì khả nghi, nhưng khi chàng định vào nhà ăn trưa thì nghe có tiếng cười vui vẻ ở ngoài vườn. Chàng vội ghé mắt nhìn... chuyện gì thế kia. Chàng thấy một cô gái xinh đẹp, trên ngực cài bông hoa Anh Túc đỏ thắm. Nàng chào mời chàng: "Hãy lại đây với em! Chỉ có điều xin chàng hãy cất gươm đi đã, em không thích loại vũ khí này!" Chàng trai liền rời tay gươm. Lập tức cô gái ré lên, gỡ bông hoa Anh Túc trên ngực đưa cho chàng trai mời chàng thưởng thức hương thơm. Vốn bản tính trung thực, chàng trai vừa đưa bông hoa đỏ ối lên mũi thì lập tức thấy buồn ngủ quá rồi ngã lăn quay ra vườn. Chàng chỉ còn kịp nhận ra tiếng con rồng vừa gầm gào vừa lao đến cướp mẹ chàng bay lên cao. Còn cô gái xinh đẹp thì đã hoá thành mụ phù thuỷ nổi gió bay đi mất.
Chàng út thiếp đi một lát, lúc choàng tỉnh dậy chàng không biết nên làm gì và nên nói với các anh thế nào? Tốt nhất là nên đi tìm ngay hang rồng. Chàng dắt thanh gươm vào thắt lưng, bỏ vào túi ít lương khô rồi lên đường.
Chàng đi mãi, đi mãi, đến cuối ngày thì chàng gặp một cụ già có vẻ mệt mỏi đang ngồi bên đường, miệng lầm rầm cầu xin:
- Hãy thương người già, hỡi chàng trai, ta muốn xin chàng mẩu bánh mì!
- May mắn là con được gặp già - Chàng út đáp - Xin già hãy cho con biết, già có thấy con rồng mang mẹ con đi về hướng nào không?
Ông già cầm mẩu bánh mỳ, đoạn chỉ tay về hướng Nam. Chàng út rảo chân bước.
Chàng lại mải miết đi cho đến tận cuối ngày, và cũng thật lạ kỳ! - Chàng lại đến chỗ ông già đang ngồi. Ông già nói:
- Con ơi, con hãy đào hố và trồng cho ta một cây táo. Ta muốn ăn táo nhưng không còn sức trồng cây nữa.
Chàng út dùng gươm thoăn thoắt đào hố và trồng xuống đó một cái cây non. Rồi chàng xin chỉ đường cho chàng đi về hang rồng.
Ông già chỉ về hướng Bắc. Và chàng út lại cắm cúi đi cho đến cuối ngày. Thật lạ lùng quá, rốt cuộc chàng lại đến đúng chỗ ông già vẫn ngồi. Ông già khẩn khoản nhờ chàng hãy giết chết con rắn độc đang bò vào túp lều của ông, mà đêm đêm nó thường quấy rầy không cho ông ngủ. Chàng trai xông vào lều, dùng gươm chặt đứt đầu rắn. Chàng xin ông già đừng đánh lừa chàng nữa.
- Ta đã thử thách con ba lần về tính hào hiệp, lòng nhân hậu và thái độ dũng cảm. Con trai ạ, hãy đi về hướng Tây, chính hang rồng ở gần kề đó. Con sẽ phải chiến đấu sống mái với nó. Ta cho con một câu thần chú, giúp con biến hoá theo ý muốn của con. Có điều này phải nhớ: con chỉ có thể biến hoá thành dạng khác được hai lần, lần thứ ba con phải trở lại làm người ngay. Nếu lần thứ ba con biến thành cái gì đó thì con sẽ vĩnh viễn phải chịu số phận như vậy.
Chàng trai nhập tâm câu thần chú và đi về hướng Tây. Chàng cứ đi mãi cho đến khi nhìn thấy một ngọn lửa xanh leo lét trong đêm. Chàng bóp chặt thanh gươm trong tay và bước về phía ngọn lửa. Nhưng chàng bị sa xuống một bãi lầy. Chàng thấy một người đàn bà lưng gù, trên vai vác một khúc gỗ nặng đi lại phía chàng. Ai thế kia? Phải chăng người đó là mẹ chàng?
Chàng trai lên tiếng gọi, song người đàn bà sợ hãi hét:
- Con ơi, con đến tìm mẹ ở đây mà làm gì! Không một ai sa chân vào cái đầm lầy này mà còn sống trở về! Thà chết một thân mẹ còn hơn là thấy con trở thành nô bộc cho Rồng!
- Không, mẹ ơi - chàng trai đáp - Vì con mà mẹ bị rồng cầm tù.
Nghĩa vụ của con lúc này là cứu mẹ. Mẹ hãy ngồi lên khúc gỗ già, con sẽ đọc một câu thần chú, con sẽ biến thành dòng sông đưa mẹ thoát khỏi chốn này.
Hai mẹ con làm đúng những điều đã bàn.
Nhưng khi phát hiện ra nữ nô tỳ Pecxia bỏ trốn, Rồng liền đuổi theo. Dòng sông cứ chảy mãi cho tới khi cập vào một bãi cát mà ở đó nước đã cạn kiệt.
- Mẹ ơi, con sẽ biến thành con ngựa, mẹ hãy cưỡi lên lưng con và túm lấy bờm. Con sẽ đưa mẹ băng qua sa mạc cát này - chàng trai nói và biến ngay thành con tuấn mã khôn ngoan.
Ngựa tung bốn vó phi nước đại, Rồng đuổi theo sau, nhưng dọc đường ngựa lại gặp một cái hố vừa sâu vừa rộng chặn ngang.
- Con trai ơi, con phải trở lại làm người ngay và nấp dưới đáy hào này - Người mẹ van xin, song chàng út không chịu nghe.
- Mẹ có chín người con trai, nhưng chín người con chỉ có một mình mẹ - chàng trai đáp - Con sẽ biến thành khóm hoa rậm rạp chắn che, bảo vệ mẹ.
Chàng trai đọc câu thần chú, lập tức trên mặt hào mọc lên một bụi cây rậm có những bông hoa tím thơm ngát. Bà Pecxia vừa ẩn mình trong bụi cây thì đúng lúc con rồng phun lửa phì phì bay qua.
Ðó chính là loài hoa Tử Ðinh Hương Ba Tư. Hôm nay đây, loài hoa ấy đang làm đẹp cho biết bao mảnh vườn.
Tập tin đính kèm
hoa-tu-dinh-huong-ba-tu.jpg
hoa-tu-dinh-huong-ba-tu1.jpg
hoa-tu-dinh-huong-ba-tu2.jpg
Được cảm ơn bởi: Cự Môn, mac19, langthang79, phieudieu
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
phonglan
Ban tư vấn
Ban tư vấn
Bài viết: 7270
Tham gia: 12:44, 19/01/09

TL: Sự tích các loài hoa

Gửi bài gửi bởi phonglan »

SỰ TÍCH HOA TRINH NỮ

Thuở ấy, nhà nọ từng có hai kiếp đàn bà, cả hai kiếp đến lượt mình, đều chôn chân thờ chồng đi lính.
Hai người đàn ông lần lượt ra đi, nhưng người về thì chỉ một. Người chiến binh dũng cảm ấy về làng trong tiếng tiền hô hậu ủng, xênh xang trong mũ áo vua ban và làm vẻ vang cho dòng họ. Nhưng khi đón chồng, người đàn bà thứ hai khóc thầm: “Cân đai, mũ áo, bổng lộc vua ban… tất cả đều đẹp nhưng mái đầu ta và ông ấy tự lúc nào đã ngả sang màu sương!…”
Vậy nên, kiếp đàn bà thứ ba vừa lọt lòng và nhoe nhoe khóc, thì cả bà, cả bố và mẹ cô bé chắp tay: “Lạy Phật! Lại thêm một cái tội nữa. Nhưng lần này, chúng ta sẽ không gả nó cho bất kỳ một người lính nào đâu nhé. Hai đời, chúng ta đã đợi chờ đến bạc tóc, thế còn chưa đủ sao?”.
Cô bé lớn lên mơn mởn như nụ hồng. Từ nhỏ đến lớn cả nhà không cho cô được nói chuyện với bất cứ một người lính nào để cô giữ lời nguyền thuở trước.
Một buổi sáng, xa xa vẳng tới tiếng trống ngũ liên. Cô gái bước ra vườn, đến bên bờ giậu đẫm sương. Chàng trai nhà bên đang gấp gáp khăn gói lên đường. Vốn là đôi trẻ vẫn cũng nhau chơi trò “đố lá”, họ cùng nhìn nhau rồi cùng cúi mặt, lớp lông măng ngăm ngăm trên mép chàng trai khẽ rung. Tiếng trống thúc dồn. Chàng trai đánh bạo:
- Thế… có chờ… không?
- Sao không hỏi xem bông tầm xuân có nở trước khi mặt trời lên không? - Cô gái cắn môi, nước mắt lăn tròn trên má.
Và thế là mặt chàng trai đỏ đến tận chân tóc. Lâng lâng như vừa được chắp cánh, chàng bấm bụng: “Ta có thể ra đi, dù “da ngựa bọc thây”.
Cô gái trở vào, mắt ngấn nước và thẫn thờ như người ốm, trong tiếng trống ngũ liên xa xa thúc dồn. Vậy là cả nhà biết. Họ trách lẫn nhau, rồi hai người đàn bà ôm nhau khóc. Bà cô gái thắp ba nén hương khấn người chồng quá cố: “Ông ơi! Có lẽ cháu ông đúng, bởi tôi nghiệm rằng, nếu bây giờ ông sống dậy, lại ra trận, thì tôi vẫn chờ ông. Ôi! Cái kiếp đàn bà!…”. Mẹ cô gái nức nở: “Chỉ tại mẹ thôi, chính mẹ đã truyền cho con dòng máu “đợi chờ”! Con làm sao khác được!”. Ông bố cố gạt đi: “Thì cũng phải có một đứa con gái nào đó chờ thằng bé ấy chứ, cũng như ngày xưa, trong căn nhà này bà chờ tôi vậy! Bây giờ, chỉ còn biết mong sao thằng bé ấy trở về!”.
Nhưng thằng bé không sớm trở về. Chàng tân binh hăng hái giết giặc trong vài trận rồi ngôi sao chiếu mệnh mỉm cười với chàng ta, đấng quân vương vốn giỏi chọn người, vừa nhìn thấy chàng trai đã nhận ra ngay rằng đây là một tên lính hầu trung thành vô hạn. Thế là, ngài cho rút chàng trai về, ngày đêm cận kề bên ngài, một bước cũng không được rời xa. Khi còn giặc giã, vua cần chàng đưa vồng ngực vạm vỡ ra che làn đạn giặc, còn khi hết giặc, vua càng cần chàng hơn, để giữ gìn quyền uy tối hậu. Chàng là lưỡi kiếm “trừng phạt” tuyệt hảo, sẵn sàng giáng xuống đầu bất kỳ ai, theo lệnh đấng quân vương.
Đã mười bảy năm rồi, cô gái chờ người lính ấy. Từ một thiếu nữ như nụ hoa chớm hé, nàng đã trở thành một cô gái quá lứa nhỡ thì. Bà nàng, rồi cha mẹ nàng theo nhau lần lượt trở về cõi Phật. Trước khi nhắm mắt, họ đều gọi con gái đến bên giường dặn dò: “Mai ngày nếu sinh con gái…”. Cô gái lặng lẽ khóc khi bà và bố mẹ mất, lặng lẽ khóc khi người yêu của chúng bạn trở về hay tử trận và cuối cùng, lặng lẽ để tang người yêu năm xưa, vì đã mười mấy năm rồi, chàng biệt vô âm tín.
Thế rồi một buổi chiều có tiếng vó ngựa ghé sát bên thềm.
Bước xuống từ yên ngựa là một người đàn ông phong trần và nhìn mọi vật từ trên xuống qua ánh mắt lạnh lẽo như thép. Ngang lưng anh ta thắt chiếc đai vàng vua ban. Đó là phần thưởng sau khi anh ta lập được công đâm vào lưng người bạn cũ. Người bạn này đã cả gan ngăn vua khi ngài hạ lệnh chém một danh tướng. Ông này chỉ vì mắt kém mà trót dâng vua một quả táo bị sâu ăn. Sau bữa tiệc ngập máu ấy, vua đã cất nhắc anh ta và cho phép anh ta về thăm nhà sau mười mấy năm xa cách. Mười mấy năm qua, người lính đó vẫn không quên người yêu xưa. Giữa cuộc đời bụi bậm, giữa triều đình đầy mưu kế sâu độc, cô trinh nữ nhà lành cắn môi cố nuốt giọt nước mắt chia ly vẫn không mờ nhạt mà thật lạ kỳ, lại càng như vầng trăng xa thẳm gọi anh về.
Người con gái lỡ thì bước tới vài bước rồi sững lại. Nàng hoang mang tự hỏi, không biết đó có phải là chàng trai hàng xóm năm xưa rụt rè mãi mới dám hỏi: “Thế… có chờ… không?”. Nhưng khi người đàn ông ấy gọi tên nàng bằng giọng nói thân thuộc, nàng khóc, tiếng khóc nghe như ngàn mảnh thủy tinh rơi, vì nàng phải chờ đợi quá lâu, và người nàng chờ nay đã biến thành người đàn ông có cái nhìn lạnh lẽo như thép.
Làng xóm đua nhau chúc mừng nàng. Các ông làm nghề “gõ đầu trẻ” đem mối tình chung thủy của hai người rao giảng trong các lớp học. Thế là từ đấy có thêm nhiều cậu bé chỉ mơ về chiến trận. Mơ về một mai mình được hầu cận đấng quân vương. Còn những cô bé thì chỉ ao ước sao mai này lớn, được chờ người yêu đến khi lỡ thì!
Không chậm trễ gì, người ta làm lễ cưới cho đôi tình nhân chung thủy. Vua ban áo tím cho nàng trinh nữ lỡ thì và đám cưới trọng thể hết chỗ nói. Hoàng hôn xuống, cạnh chén rượu bên mâm cỗ, quan khách tròn xoe mắt nghe chú rể kể chuyện. Mười mấy năm hầu cận vua, anh ta đã quen tính kín miệng. Và chỉ bốc lên khi rượu đã ngà ngà. Nhưng anh không biết nói chuyện gì khác, ngoài chuyện chém giết. Anh kể về những bữa tiệc đầy sơn hào hải vị ngập máu trong thời bình và say sưa mô tả các kiểu chết của nhiều người khác nhau dưới tay kiếm của anh. Cuối cùng, vì sao vua đã ban cho anh ta chiếc đai vàng.
Người trinh nữ nghe chuyện của chồng mới cưới và nàng đứng không vững nữa. Lảo đảo, nàng lùi dần về buồng. Nép mình trên giường trong bóng tối, nàng như ngửi thấy mùi tanh lợm của máu, và trên mặt nàng như có làn môi lạnh toát của những oan hồn lướt qua. Nàng vùng dậy, run lật bật, vội vàng châm lửa lên tất cả các ngọn đèn dầu lạc mà nàng tìm được trong buồng. Ánh đèn chập chờn đỏ quạch càng làm nàng thêm sợ hãi.
Vừa lúc đó, có tiếng kẹt cửa. Thân hình to lớn của người chồng mới cưới chếnh choáng tiến vào. Theo thói quen, anh ta vẫn mang theo thanh kiếm. Nàng nhìn lên, và thấy anh không vào một mình. Theo liền sau anh là một người đàn bà trong veo, tóc xoã - chỉ có bộ tóc là còn màu sắc - mặc quần áo đại tang, đang cầm một tấm áo đẫm máu giơ lên và cất giọng đều đều một cách kỳ lạ, lặp đi lặp lại như không bao giờ dứt:
-Hãy trả chồng cho ta! Kẻ giết bạn kia, trước khi mi bước vào giường cưới! Hãy trả cha cho năm đứa con thơ dại của ta! Hãy trả…
Vậy mà chồng nàng không nghe thấy gì cả, anh dựng thanh kiếm vào vách, rồi xáp tới đặt tay lên ngực nàng. Ngay lúc đó, nàng nhìn thấy máu từ tấm áo trong tay người đàn bà xoã tóc rỏ xuống hai bàn tay người chồng mới cưới. Nàng ôm mặt rú lên kinh hãi:
- Ôi kìa, máu! Máu nhiều quá! Máu đỏ cả hai bàn tay!
Chồng nàng giật mình nhìn lại. Anh vẫn không thấy gì cả, ngoài những vết sẹo ngang dọc nơi bàn tay mình. Anh dỗ dành:
- Ồ! Can đảm lên, cô em ủy mị! Chẳng qua là vì em quá hồi hộp đó thôi! Đã bao ngày ta chờ phút giây này. Nào, hãy vui lên.
Anh nói vậy, nhưng miệng không cười và mắt vẫn lạnh như thép, cũng như từ ngày về đến giờ, chưa một ai nhìn thấy anh cười. Người trinh nữ bỏ hai bàn tay che mặt. Nàng không nhìn thấy người đàn bà tóc xoã nữa, nhưng trên khuôn mặt đang gần xuống mặt nàng, nàng chỉ thấy khóe miệng mím chặt và cái nhìn lạnh lẽo như cái nhìn của Thần Chết. Lại sợ hãi cuống quít, nàng van vỉ:
-Hãy mỉm cười đi anh! Em van đấy! Hãy cười lên để em thấy anh của ngày xưa. Bao năm chờ đợi, em đâu muốn anh buồn…
Người chồng cố hết sức để mỉm cười. Đã lâu lắm rồi anh không làm cử chỉ đó nên bây giờ anh không biết bắt đầu một nụ cười như thế nào. Khó nhọc lắm, anh mới nhớ ra rằng, khi cười người ta phải để lộ ít nhất là một hàm răng. Anh nhếch môi, để lộ hẳn hai hàm răng chắc khỏe.
Nhưng anh quên rằng, khi người ta cười, chính đôi mắt cười trước, cái miệng cười sau, thậm chí chỉ cười bằng mắt cũng đủ. Mà đôi mắt muốn cười, trước hết tâm hồn phải cười đã, cho nên cố gắng để mỉm cười, trông anh lại thêm vẻ dữ dằn đe dọa của một con sói. Ngay lập tức, vợ anh co rúm lại và quay mặt vào trong, thổn thức cố kìm tiếng khóc.
Người chồng buồn bã soi trong tấm gương cười, ngắm kỹ mình, rồi tuyệt vọng:
- Thôi, thế là hết, cả một đời chờ đợi! Em chối từ ta, em ghê tởm ta ư?
Anh rũ xuống thành giường, rồi gầm lên như một con thú bị thương:
- Tại sao em chờ ta cả đời, để rồi chối từ ta? Tại sao em bắt ta phải cười! Còn đâu nữa chàng trai với lớp lông măng trên mép ngày xưa! Ta đã trở thành “người đàn ông không cười” của triều đình, từ khi bàn tay này nhúng vào máu bạn bè, bên những bàn tiệc đầy sơn hào hải vị. Đấng quân vương sai ta giết hết những kẻ bất tuân thượng mệnh bằng các chiếc đũa. Trong mọi chiếc đũa nạm vàng nơi bàn tiệc đều có một lưỡi dao tinh tế giấu ở trong…
Anh nức nở, đôi vai rung lên dữ dội:
- Ôi! Bạn ta! Người bạn đã cùng ta tựa vào lưng nhau tìm hơi ấm chống đỡ cơn gió lạnh chiến hào. Thôi, thế là hết và đây là đêm tân hôn vĩnh biệt, phần thưởng cuối cùng cho người lính quá nửa đời phụng sự đấng quân vương.
Tiếng nức nở dữ dội của người chồng mới cưới rung chuyển cả căn phòng. Rồi xách kiếm trên tay, anh bỏ đi biệt xứ. Có người nói rằng anh đã đến tìm vua, định bắt vua phải đền tội đã biến anh thành người đàn ông không biết cười. Nhưng vua đã kịp giết chết anh trước, bằng chính một trong những chiếc đũa nạm vàng nơi bàn tiệc. Cũng có người bảo rằng anh lại lao vào những cuộc chém giết mới không ghê tay cho quên ngày tháng.
Chỉ còn lại nơi quê nhà người trinh nữ lỡ thì. Nàng sống âm thầm như cái bóng, mà không một lần nghĩ đến chuyện tự giải thoát bằng cái chết. Nhưng cái tật hễ có tiếng chân hay tiếng động mạnh là đưa tay lên ôm mặt thì nàng không sao bỏ được.
Một hôm, người xã trưởng được mời đến để làm giấy chứng tử cho nàng. Nàng chết mà hai tay che mặt, người khâm liệm nắn thế nào cũng không bỏ ra.
Vài ngày sau, trên mộ nàng rùm roà mọc một loài cây thấp lòa xòa mang hình tròn tim tím buồn man mác. Mỗi khi có chân bước qua hay va chạm mạnh, những chiếc lá lăn tăn lại giật mình khép lại, xuôi xuống như bàn tay ai che mặt.
Những loài hoa cỏ mọc đầy chung quanh lấy làm lạ lùng lắm về chuyện đó. Một hôm, chúng chặn chàng Gió lại:
- Này, anh Gió! Ở đây, không có ai già như anh và trẻ như anh. Vậy anh hãy nói cho chúng tôi biết vì sao loài cây mới đến kia, tầm thường đến vậy, lòa xòa bên vệ cỏ, khách bộ hành dễ dàng giẫm lên, có gì đặc biệt đâu mà phải gìn giữ, hơi một tí lại lấy tay che mặt, điệu đà làm vậy?
Từng trải như chàng Gió mà cũng không trả lời được. Thế là một đêm thanh tĩnh, dịu dàng, muôn hoa cỏ đang mơ màng trong giấc ngủ êm đềm, chàng Gió lướt tới bên loài cây tầm thường ấy, khẽ hỏi:
- Này cô em bé bỏng! Sao em hay che mặt thế? Ở đây có ai chọc ghẹo em sao? Em hay e thẹn lắm à? Nếu không, tại sao người ta lại gọi em là cây trinh nữ?
Đắn đo một chút, rồi loài cây ấy nhẹ nhàng đáp:
- Không phải thế đâu, mặc dù chết đi, em vẫn là trinh nữ. Em che mặt vì sợ. Ngày nay người ta càng tranh giành nhau dữ hơn, những bàn tiệc ngập máu vẫn còn nhiều. Vậy nên, mỗi va chạm, mỗi bước chân tạt qua đều làm em giật thót mình. Em sợ người ta sẽ gửi đến cho em đôi bàn tay đầy máu và khuôn mặt người yêu xưa chẳng biết cười.
Cây trinh nữ chợt co mình lại vì vừa nghe tiếng chân qua. Đó là bước chân sóng đôi của một đôi trai gái đang đi trong sương mù. Trước khi cẩn thận khép những mắt lá lại, cây trinh nữ cầu khẩn: “Ôi! Lạy Phật! Cầu cho đây không phải là bước chân của những người phải tiễn nhau về nơi ấy…”.
Tập tin đính kèm
hoa trinh nu3.jpg
hoa trinh nu2.jpg
hoa trinh nu1.jpg
hoa trinh nu1.jpg (31.06 KiB) Đã xem 1592 lần
Được cảm ơn bởi: Cự Môn, mac19, langthang79, phieudieu
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
phonglan
Ban tư vấn
Ban tư vấn
Bài viết: 7270
Tham gia: 12:44, 19/01/09

TL: Sự tích các loài hoa

Gửi bài gửi bởi phonglan »

SỰ TÍCH HOA TRẠNG NGUYÊN

Poinsettia (Chistmas flower) được người Mỹ biết tới vào năm 1825, do Joel Roberts Poinsett mang từ Mexico về. Khi làm đại xứ Mỹ tại Mễ Tây Cơ, trong lần thăm viếng tỉnh Taxco, ông đã khám phá ra một loại cây nhỏ mềm mại, mọc hoang nơi sườn đồi mà “hoa” là “lá xanh” chuyển màu đỏ đẹp khi đông về. Là một nhà đam mê nghiên cứu thực vật, Poinsett ngắt lấy vài cành gởi về quê nhà ông ở Greenville, tiểu bang South Carolina. (Loại cây này rất dễ trồng. Chỉ cắm cành xuống đất ở green house trong một thời gian ngắn, rễ sẽ mọc và lớn nhanh.) Bạn của gia đình Poinsett là các ông John Bartram, Robert Buist (Philadelphia), những nhà khai thác cây kiểng, thấy hoa đẹp, dễ trồng lại trổ màu đỏ đẹp đúng vào thời điểm mùa giáng sinh nên bắt đầu khai thác như một nghiệp vụ. Tên cây Poinsettia được đặt từ đó để nhớ tới công lao Joel Robert Poinsett đã tìm tòi khám phá.
Ngày nay ở các quốc gia Âu Mỹ, khi những cơn gió đông bắt đầu thổi về lành lạnh, đủ làm ửng hồng đôi má của những nàng thiếu nữ, mọi người rộn rịp sắm sửa trang hoàng nhà cửa với cây thông, hang đá... chuẩn bị cho mùa giáng sinh, cũng có một loài hoa âm thầm chuyển những chiếc lá xanh thành màu đỏ. Đó là hoa Poinsettia/ Christmas flower. (Ngày nay do mục đích thương mãi, hoa đã được cải biến, tinh trồng thành nhiều màu.)
Sau này, theo một truyền thuyết phương Tây, Hoa Giáng Sinh (Poinsettia) là loài hoa kỷ niệm ngày sinh của Chúa Jesus. Người ta cho rằng, đây là một loài hoa thần thánh do những giọt máu cuối cùng của Chúa Jesus khi bị đóng đinh trên Thập Giá rơi xuống cây này, từ đó những cụm lá nhuộm đỏ màu máu tươi của Chúa thành những cụm hoa đỏ mà chính giữa là những nhụy vàng. Quan niệm người phương Tây cho rằng, Poinsettia tượng trưng cho sự thánh thiện, đem lại sức mạnh, hy vọng, lạc quan trong cuộc sống. Do đó, trong những tấm thiệp truyền thống chúc mừng giáng sinh và năm mới đều có in hình những cụm hoa màu đỏ, chung quanh là những chùm lá xanh. Đó là một nếp văn hóa, trang trọng một ngày lễ lớn trong năm của riêng người theo đạo Thiên Chúa cũng như của tất cả mọi người trên thế giới. Ngày Noel trong mỗi gia đình trang hoàng ngoài cây thông, hang đá còn có lẵng hoa Poinsettia (giả hoặc thiệt.) Những chiếc bánh Giáng Sinh truyền thống cũng vậy, thường có hình hoa Poinsettia bên cạnh những quả chuông nhỏ.
Ở Việt Nam cũng có loại hoa này, gọi là hoa “Trạng Nguyên.” Đây là một loài hoa đặc biệt, vì hoa là lá màu đỏ bao quanh cụm hoa. Người Trung quốc gọi hoa Trạng Nguyên là “Nhất phẩm hồng” Người Nhật gọi hoa này là “Tinh Tinh Mộc”. Hoa Trạng Nguyên là một loài hoa dân dã của Việt Nam. Ở thôn quê, hoa Trạng Nguyên cũng như hoa “dâm bụt” thường được trồng ở trước cửa ngõ hay hàng rào, tượng trưng cho niềm vui vẻ chân thành mộc mạc khi đón khách. Nhìn xa, hoa Trạng Nguyên trước ngõ với những chùm hoa trổ trên ngọn, giống như lồng đèn màu đỏ. Cây là một loài thân mềm, lá xanh thường bị rầy trắng ở nách lá. Trạng Nguyên dễ trồng, chỉ cần cắt cành, giăm xuống đất là sống. Nét đáng yêu của loài cây này là dáng vẻ mềm mại và đặc biệt là chỉ chuyển màu đỏ vào khoảng thời gian từ Giáng Sinh đến Tết âm lịch. Thời tiết càng lạnh và nắng khô lá chuyển màu đỏ càng tươi đẹp. Mỗi năm, lá xanh chỉ chuyển màu một lần. Ban đầu trên những đọt của nhánh ra những nhụy vàng dạng chén, rồi từ từ chung quanh nhụy này những chiếc lá hình thành. Đến mùa giáng sinh những chiếc lá này có màu đỏ và đó là hoa. Khoảng tháng hai âm lịch lá đã chuyển màu rụng đi, nhìn cây chỉ thấy một màu xanh. Trong dân gian Việt Nam, chuyện xưa kể rằng: “Một cậu học trò lên kinh ứng thi, thấy một cây lá xanh ven đường. Đến khi thi đỗ trạng nguyên trở về làng. Anh bỗng nhận thấy trên ngọn cây những chiếc lá xanh ngày nào, giờ trở thành màu đỏ, dường như cây cũng đang chúc mừng anh thi đỗ. Từ đó, anh gọi cây này là cây hoa Trạng Nguyên. Dù là tên gọi gì, cây hoa Trạng Nguyên vẫn tượng trưng cho nét cao quí nhưng mộc mạc dịu dàng. Nó biểu hiện sự đoàn tụ, niềm hạnh phúc, bình an và niềm tin tưởng ở tương lai. Ngày nay, trong mùa giáng sinh, tết dương lịch, người Việt Nam thường chưng cây Trạng Nguyên trong nhà, biểu tượng cho một năm mới nhiều niềm vui, may mắn, nhất là con cái học hành đỗ đạt.
Tập tin đính kèm
hoa trang nguyen2.jpg
hoa trang nguyen2.jpg (27.53 KiB) Đã xem 1592 lần
hoa trang nguyen1.jpg
hoa trang nguyen1.jpg (83.04 KiB) Đã xem 1592 lần
hoa trang nguyen.jpg
hoa trang nguyen.jpg (32.15 KiB) Đã xem 1592 lần
Được cảm ơn bởi: Cự Môn, mac19, langthang79, phieudieu
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
phonglan
Ban tư vấn
Ban tư vấn
Bài viết: 7270
Tham gia: 12:44, 19/01/09

TL: Sự tích các loài hoa

Gửi bài gửi bởi phonglan »

SỰ TÍCH HOA TRẠNG NGUYÊN (2)

Cứ vào đêm Giáng sinh, ở một thị trấn nhỏ sát biên giới Mêhicô, người ta lại thấy ánh sáng của mười hai ngọn nến chiếu qua ô cửa sổ của một nhà thờ bằng gạch cũ kĩ. Phong tục này đã có từ nhiều năm, và đó là lúc mọi người mang theo một món quà để mừng ngày Chúa ra đời. Từ trẻ đến già, mọi thành viên trong các gia đình đều hướng đến khung cảnh thiêng liêng ấy, kính cẩn cúi đầu và đặt quà lên bàn thờ Chúa.
Vào một đêm Giáng sinh nọ, có cậu bé mồ côi đứng một mình trước cửa nhà thờ. Cậu ao ước được mang quà dâng Chúa như những gia đình kia, nhưng quá nghèo, cậu chẳng có gì để làm quà cả.
Khi đứng nép sát vào cửa sổ, cậu bé nghe tiếng đàn phát ra từ nhà thờ. Giai điệu du dương khiến trái tim cậu chợt nghĩ đến những điều kì diệu của ngày lễ, cậu quỳ xuống bên ngoài nhà thờ và cầu nguyện.
Khi tiếng đàn vừa dứt, cậu bé đứng dậy và chuẩn bị quay về trại trẻ mồ côi. Nhưng thật ngạc nhiên, ngay chỗ cậu quỳ lúc nãy có một loài cây rất đẹp, lá đỏ, đang nở ra những bông hoa vàng li ti. Cậu chưa từng thấy một loài cây nào đẹp như thế. “ Có lẽ thiên thần đã mang đến món quà này để mình dâng lên Chúa”, cậu nhủ thầm như thế và nhẹ nhàng bưng cây ra. Cậu chạy vào trong nhà thờ và đặt cây hoa lên bàn thờ Chúa.
Về sau, cứ vào mùa Giáng sinh, loài cây ấy lại ra hoa, những chiếc lá đỏ thắm bao quanh hoa vàng. Người trong thị trấn gọi đó là “ Hoa của đêm thánh vô cùng”.
Rồi một gia đình tử tế dòng họ Poinsettia đến nhận cậu bé về nuôi, sau này cậu đã trở thành một doanh nhân thành đạt. Nhiều năm sau, ông quay lại làng quê cũ trong nỗi nhớ da diết, ông cho xây một nhà thờ và một ngôi trường nơi đây. Để đáp lại tấm lòng hào phóng ấy, những người dân của thị trấn đã tặng ông một món quà đặc biệt: loài cây lá đỏ với những bông hoa vàng rất đẹp được đặt bằng chính tên của ông – Poinsettia ( Hoa trạng nguyên).
Tập tin đính kèm
hoa trang nguyen5.jpg
hoa trang nguyen4.jpg
hoa trang nguyen3.jpg
hoa trang nguyen3.jpg (49.94 KiB) Đã xem 1592 lần
Được cảm ơn bởi: Cự Môn, mac19, langthang79, phieudieu
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
phonglan
Ban tư vấn
Ban tư vấn
Bài viết: 7270
Tham gia: 12:44, 19/01/09

TL: Sự tích các loài hoa

Gửi bài gửi bởi phonglan »

SỰ TÍCH HOA THỦY VU

Trên các bãi cỏ mọc đầm lầy trong những khoảng rừng sâu hẳn là các bạn đã có dịp trông thấy một loài hoa kỳ lạ mọc trên nước, duy nhất chỉ có một cái cánh trắng muốt ôm lấy một cái nhụy vàng.
Ở làng quê người ta gọi đó là Hoa Ráy còn ở thành phố gọi là Hoa Thủy Vu, thường được trồng trong các chậu cảnh. Thuở nhỏ tôi đã được nghe ông nội kể về gốc tích của nó.
Ngày xửa ngày xưa, có một cậu bé tên là Lanhit. Cậu luôn được ánh nắng mặt trời ve vuốt và bàn tay của mẹ chăm chút nên khi lớn lên cậu cũng là một đứa trẻ vui tính hoạt bát như mọi đứa trẻ khác trong làng. Nhưng thật không may, một căn bệnh quái ác đã cướp mất của cậu người mẹ thân yêu. Cuộc sống của cậu bắt đầu trở nên khó khăn. Chẳng bao lâu người cha lại rước về nhà một mụ mẹ kế ác độc, ích kỷ, chỉ cần một cái liếc mắt của mụ là Lanhit đã sợ khiếp vía.
Mẹ kế còn mang về nhà chồng cả một bày lợn lông trắng lông đen lốm đốm để làm của hồi môn và bắt Lanhit phải chăn dắt suốt từ bình minh cho đến hoàng hôn, từ mùa xuân xanh tươi cho đến mùa thu vàng vọt. Ở đầu bãi chăn thả có một cái ao vừa sâu lại vừa bẩn, đàn lợn thường quen xuống đó tắm mát. Phía bên kia bờ ao là cả một con lợn ranh ma thường vượt sang đó để đào khoai ăn, khiến Lanhit phải vất vả lội xuống bùn lấm để xua đuổi con vật. Mỗi buổi chiều về nhà, toàn thân Lanhit bám đầy những bùn đất hôi hám, đã thế mẹ kế lại không hề cho cậu một giọt nước để tắm rửa. Chân tay chẳng mấy chốc đã khô nứt hệt những vết rạn.
Trước đây Lanhit có rất nhiều bạn bè cùng vui đùa, nay đám trẻ tìm cách xa lánh cậu bé chăn lợn bẩn thỉu. Lanhit đành phải đứng từ xa trông đám trẻ vui đùa và khe khẽ huýt sáo bài ca "Mặt trời nhỏ". Một hôm, vì mải suy nghĩ, cậu không để ý thấy một con lợn dẫn cả đàn con vượt qua ao sâu, tấn công đám ruộng trồng khoai tây. Mấy đứa con của mẹ kế biết chuyện, không thèm nói cho Lanhit biết mà chạy về mách mẹ. Sợ hãi, cậu bỏ chạy thục mạng và trong lúc lúng túng cậu đã bị ngã xuống ao nước bẩn. Cậu cố leo lên bờ, mẹ kế lại tiếp tục dồn đánh. Điều kỳ lạ là tuy bị lấm bùn từ đầu đến chân, song một phía sườn của cậu vẫn còn sạch nguyên trông hệt như một cánh hoa trắng muốt.
- Ê, cánh hoa trắng bé xíu! Hoa ráy tụi bay ơi! - Lũ trẻ hét lên với một vẻ thích thú.
Không ngờ tiếng kêu đó đã cột chặt đời Lanhit vào kiếp bùn đen. Cậu đã phải mang một cái tên khác, kể cả cha cậu, mỗi lần bí mật xoa đầu cậu vẫn gọi cậu là "Hoa ráy của ta!"
Đó là một mùa hè khốc liệt. Cỏ cây khô héo, những cánh đồng lúa mì chết rụi. Cái ao sâu hôi hám cũng bị cạn kiệt, nứt nẻ như đá, muôn loài không còn chỗ mà tắm mát nữa. Đàn lợn hung dữ lại bươn bả khắp các bãi chăn thả, lùng xục cả vào rừng, hy vọng tìm được một bãi cỏ xanh tươi. Ngay cả hồ nước giờ đây cũng đã cạn phơi đáy, duy chỉ có ở giữa lòng hồ còn lộ ra một cái hố nhỏ đen ngòm, không một tia sáng mặt trời lọt vào.
Nạn hạn hán càng hoành hành dữ dội. Riêng cái hố nhỏ như có một con mắt đen kia lại có sức hấp dẫn muôn loài đi tìm kiếm nguồn nước mát.
Trong số những muông thú dại dột ấy có một con lợn của mẹ kế đã liều mình lao xuống cái hố đó để tắm mát và lập tức bị chìm nghỉm. Lanhit sợ hãi chạy về nhà kêu cứu. Nhưng cặp mắt của mẹ kế chợt vằn lên trông dữ dằn như cái hố nhỏ đen ngòm giữa lòng hồ khô cạn. Mụ túm lấy một tai Lanhit và kéo xềnh xệch ra miệng hố.
- Mày phải tự nhảy xuống hố lôi con lợn lên cho ta!
Cậu bé bất hạnh bị quẳng xuống cái hố nhỏ, chỉ còn thấy nhô lên một cái tai trắng của con lợn. Lanhit bèn túm lấy cái tai con lợn nhưng cái hố nhỏ quái ác đã dìm sâu cậu xuống. Chỉ còn có cái tai lợn và nắm tay nhỏ sần sùi của cậu là nổi lên trên mặt nước.
- Mày cứ ở lại dưới đó, Hoa ráy ạ! - Mẹ ghẻ rít lên từng tiếng một.
Ngày hôm sau, cái hố nhỏ đó cũng bị cạn khô và ngay chỗ đó người ta thấy mọc lên một bông hoa như một cánh hoa trắng muốt.
- Hoa Thủy Vu! Xem kìa, một bông Hoa Thuỷ Vu - một cô gái trẻ chạy qua thốt lên. Từ đấy, loài hoa ấy có tên gọi là Hoa Thuỷ Vu.
Tập tin đính kèm
Thuy vu3.jpg
Thuy vu3.jpg (16.68 KiB) Đã xem 1618 lần
Thuy vu2.jpg
Thuy vu2.jpg (23.67 KiB) Đã xem 1618 lần
Thuy vu.jpg
Được cảm ơn bởi: Cự Môn, mac19, dung1989, langthang79, phieudieu
Đầu trang

Trả lời bài viết