TÁNH VĨNH HẰNG !

Chia sẻ thơ ca, nhạc họa, các trải nghiệm của cuộc sống
Hình đại diện của thành viên
anhlinhmotminh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2215
Tham gia: 15:43, 09/09/12
Liên hệ:

TL: TÁNH VĨNH HẰNG !

Gửi bài gửi bởi anhlinhmotminh »

Hình ảnh
Được cảm ơn bởi: cocacola
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
anhlinhmotminh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2215
Tham gia: 15:43, 09/09/12
Liên hệ:

TL: TÁNH VĨNH HẰNG !

Gửi bài gửi bởi anhlinhmotminh »

(TIẾP THEO)
Bấy giờ trong đại chúng, những vị chưa chứng quả vô
học, nghe Phật nói lời này, mờ mịt chưa hiểu thế nào, sanh
lòng sợ hãi, không giữ được chánh niệm.
Bấy giờ Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, thương
xót hàng tứ chúng, liền từ chỗ ngồi, đứng dậy đảnh lễ Phật,
chắp tay cung kính thưa rằng :
- Bạch Thế Tôn! Đại chúng đây không hiểu được chỗ
Như Lai phát minh hai nghĩa “phải” và “không phải” của
“tánh thấy” và “sắc không”. Bạch Thế Tôn! Nếu những hiện
tượng sắc không tiền cảnh là cái thấy thì lẽ ra có chỗ chỉ ra
được. Nếu không là cái thấy thì lẽ ra không thể thấy. Nay đại
chúng không hiểu nghĩa ấy do đâu, nên mới kinh sợ, chớ
không phải vì thiện căn nhiều đời ít ỏi. Kính mong Như Lai
thương xót phát minh chỉ rõ các vật tướng ấy và cái thấy vốn
là thứ gì mà rời ngoài các ý nghĩa “phải” hay “không phải”
như vậy?
Phật bảo Bồ-tát Văn Thù và đại chúng :
- Thập phương Như Lai và các đại Bồ-tát tự trụ tam
ma đề, thì cái “thấy” , cái “bị thấy” và các nhớ nghĩ,
tưởng tượng đều như hoa đóm trong không chẳng có
thật. Bản thể của chúng vốn là tâm tánh Bồ-đề nhiệm
mầu, thanh tịnh sáng suốt, cho nên trong đó không có vấn
đề “phải” hay “không phải”?
Đức Phật bảo :
- Tánh thấy nhiệm mầu sáng suốt này cùng với hư
không và tiền trần cũng lại như vậy. Vốn là chơn tâm
viên mãn thanh tịnh vô thượng giác ngộ sáng suốt nhiệm
mầu, nhưng vọng làm ra sắc không và thấy nghe. Ví như
mặt trăng thứ hai, thì cái nào là mặt trăng thật, cái nào
chẳng phải mặt trăng.
Này Văn Thù, chỉ có một mặt
trăng thật.
Trong đó không có cái nào là mặt trăng thật,
cái nào chẳng phải là mặt trăng. Thế nên nay ông hãy
xem cái thấy và trần cảnh cùng các thứ phát minh ra
được đều là vọng tưởng, trong ấy không thể chỉ ra nghĩa
phải và chẳng phải. Bởi do tánh thấy sáng suốt nhiệm
mầu ấy, nên khiến ông vượt ra ngoài cái chỉ ra được và
cái chẳng chỉ ra được vậy.

Được cảm ơn bởi: cocacola
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
anhlinhmotminh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2215
Tham gia: 15:43, 09/09/12
Liên hệ:

TL: TÁNH VĨNH HẰNG !

Gửi bài gửi bởi anhlinhmotminh »

A Nan Nghi “Chơn Tâm” Đồng Với Thuyết
“Tự Nhiên” Của Ngoại Đạo.
A Nan bạch Phật rằng :
- Bạch Thế Tôn! Đúng như lời pháp vương dạy : tâm
tánh cùng khắp mười phương thế giới, yên lặng thường trụ,
không có sinh diệt. Song nếu đem lời dạy này, so sánh với
thuyết của Phạm Chí Sa Tỳ Ca La về “minh đế” và thuyết
của bọn ngoại đạo Đầu Khôi về “chân ngã” khắp cùng, khác
nhau chỗ nào?
Phật dạy rằng :
- Nay Như Lai dùng phương tiện chỉ dạy như vậy
mà ông còn chưa tỏ ngộ, lại lầm là “tự nhiên”.
Này A Nan! Nếu là tự nhiên thì ông thử chứng minh cái gì là tự
thể của cái tự nhiên ấy? Ông hãy xét kỹ tánh thấy nhiệm
mầu lấy cái gì làm tự thể? Lấy sáng làm tự thể hay lấy tối
làm tự thể? Lấy rỗng không làm tự thể hay lấy ngăn bít
làm tự thể?
A Nan! Nếu lấy sáng làm tự thể lẽ ra không thấy
được tối. Nếu lấy rỗng làm tự thể lẽ ra không thấy được
ngăn bít. Bởi vì nếu lấy sáng làm tự thể thì khi đến khi tối
tánh thấy đã diệt mất đi rồi làm sao thấy được tối?
A Nan bạch Phật rằng :
- Bạch Thế Tôn! Tánh thấy nhiệm mầu này chắc không
ph ải tự nhiên. Nay con phát minh tánh thấy do “nhân duyên”
sanh. Xin Như Lai dạy cho, con phải hiểu thế nào cho hợp
với tánh “nhân duyên” của Phật?
Phật dạy :
- Ông nói tánh thấy do nhân duyên. Vậy tôi hỏi ông :
Tánh thấy đó, nhân sáng mà thấy hay nhân tối mà thấy?
Nhân trống không mà thấy hay nhân ngăn bít mà thấy?
Nếu nhân nơi sáng mà có thấy thì lẽ ra không thấy được
tối. Nếu nhân nơi tối mà có thì đáng lẽ chẳng thấy được
sáng. Như thế cho đến nhân nơi hư không, nơi ngăn bít
cũng giống như sáng và tối. Lại nữa A Nan! Cái thấy này
lại duyên nơi sáng mà có thấy hay duyên nơi tối mà có
thấy? Duyên nơi hư không mà có thấy hay duyên nơi
ngăn bít mà có thấy? A Nan! Nếu duyên nơi hư không mà
có thấy, lẽ ra không thấy chỗ bít lấp; nếu duyên nơi bít
lấp mà có, lẽ ra không thấy nơi hư không. Như thế cho
đến duyên nơi sáng, duyên nơi tối cũng giống như hư
không và bít lấp.
A Nan! Ông nên biết : tánh thấy nhiệm mầu, sáng
suốt, không phải “nhân” không phải “duyên”, không phải
“tự nhiên” không phải “không tự nhiên”; không có cái
“phải” hay “không phải”. Nó rời tất cả tướng, nhưng nó
không ngoài tất cả pháp. Ông đem các danh tướng hí
luận thế gian mà nhận thức phân biệt chẳng khác lấy tay
nắm bắt hư không chỉ thêm nhọc sức chớ hư không làm
sao để ông bắt được.
Được cảm ơn bởi: cocacola
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
anhlinhmotminh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2215
Tham gia: 15:43, 09/09/12
Liên hệ:

TL: TÁNH VĨNH HẰNG !

Gửi bài gửi bởi anhlinhmotminh »

A Nan thưa :
- Bạch Thế Tôn! Nếu tánh giác nhiệm mầu này chẳng
phải nhân chẳng phải duyên, tại sao Thế Tôn thường chỉ dạy
các Tỳ kheo : tánh thấy thường đủ bốn thứ nhân duyên, nghĩa
là nhân nơi hư không, nhân nơi sáng, nhân nơi tâm và nhân
nơi mắt. Nghĩa ấy thế nào?
Phật bảo A Nan :
- Như Lai nói các tướng nhân duyên trong thế gian,
chẳng phải đệ nhất nghĩa.
A Nan! Các người thế gian khi họ nói : “tôi thấy”.
Vậy thế nào họ gọi là thấy, thế nào gọi là không thấy?
A Nan thưa :
- Người đời nhân ánh sáng mặt trời, mặt trăng hoặc
đèn mà thấy các sắc tướng, họ gọi đó là thấy. Nếu không có
các thứ ánh sáng đó, họ gọi là không thấy.
Phật bảo :
- Nếu lúc không có ánh sáng mà gọi là không thấy
thì lẽ ra lúc đó không thấy tối. Nếu đã thấy tối thì đó chỉ
là không sáng, chớ không phải không thấy. Nếu lúc tối, vì
không thấy sáng mà gọi là không thấy thì lúc sáng không
thấy tối cũng nên gọi là không thấy. Vậy thì sáng tối cả
hai đều là không thấy!
A Nan! Thực tế không phải vậy. Tối và sáng tự lấn
át nhau, tánh thấy của ông chẳng có lúc tạm không. Như
thế đủ biết trong cả hai trường hợp đều gọi là thấy. Sao
gọi là không thấy?
Thế nên A Nan! Nay ông phải biết, khi thấy sáng thì
cái thấy không phải là sáng, khi thấy tối thì cái thấy
không phải là tối, khi thấy hư không thì cái thấy không
phải là hư không, khi thấy ngăn bít thì cái thấy không
phải là ngăn bít. A Nan! ông lại nên biết, khi ông thấy
được tánh thấy thì tánh thấy không phải là cái bị thấy.
Tánh thấy còn vượt xa cả cái thấy và cái thấy còn không
thể bắt gặp được tánh thấy. Tại sao ông còn nói nhân
duyên tự nhiên và tướng hòa hợp?
Các ông là hàng Thanh Văn, kiến thức hẹp hòi thiếu
hiểu biết, không thông đạt được thật tướng thanh tịnh.
Nay Như Lai chỉ dạy, ông khéo suy nghĩ, không được
biếng trễ trên đường Bồ-đề!
Được cảm ơn bởi: cocacola
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
anhlinhmotminh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2215
Tham gia: 15:43, 09/09/12
Liên hệ:

TL: TÁNH VĨNH HẰNG !

Gửi bài gửi bởi anhlinhmotminh »

Hình ảnh
Được cảm ơn bởi: cocacola
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
anhlinhmotminh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2215
Tham gia: 15:43, 09/09/12
Liên hệ:

TL: TÁNH VĨNH HẰNG !

Gửi bài gửi bởi anhlinhmotminh »

Do Nhận Thức Sai Lầm Khiến Cho
Con Người Bỏ Mất Bản Tâm Thanh Tịnh
Bản Giác Thường Trú Của Mình
Ông A Nan Bạch Phật :
- Như Thế Tôn vì chúng con giảng giải về nhân duyên,
tự nhiên và các tướng hòa hợp và chẳng hòa hợp. Tâm chúng
con vẫn còn chưa tỏ ngộ, mà nay nghe Phật dạy : Tánh thấy
trong khi thấy, tánh thấy đó không phải tánh thấy bản thể
làm chúng con càng thêm mờ mịt. Cúi xin Phật thương xót bố
thí tuệ nhãn, khai thị cho chúng con về bản tâm thanh tịnh,
bản giác thường trú.
Khi ấy Thế Tôn thương xót A nan cùng đại chúng,
muốn ch dạy pháp đại tổng trì, con đường trụ tam ma đề vi
diệu, bèn bảo A Nan rằng :
- Ông tuy nhớ giỏi, chỉ có ích cho việc học rộng,
nhưng đối với sự quán chiếu vi diệu của pháp Chỉ (Xa-
ma-tha) tâm ông còn chưa rõ. Nay ông hãy lắng nghe cho
kỹ, Như Lai sẽ sẽ vì ông chỉ bày rõ ràng. Cũng là giúp cho
hàng hữu lậu trong đời sau chứng được quả vị Bồ-đề.
Phật dạy tiếp :
A Nan! Tất cả chúng sinh luân hồi trong thế gian là
do hai thứ vọng kiến iên đảo phân biệt, ngay ó phát
sinh do đó mà nghiệp luân chuyển. Thế nào là hai thứ
vọng kiến? Một là biệt nghiệp vọng kiến của chúng sanh,
hai là đồng phần vọng kiến của chúng sinh.
Thế nào là biệt nghiệp vọng kiến?
Này A Nan! Ví như người bệnh mắt hóa lòa, ban
đêm trông ngọn đèn thấy có vầng tròn năm màu. Cái
vầng tròn năm màu vốn không thật có đối với người
không bị bệnh lòa. Nhưng nó không phải không có đối với
người mắc bệnh. Vầng tròn ấy không phải màu sắc của
cái thấy hay của đèn. Nó không tự sanh, cũng không phải
do đèn hay do mắt đã sanh. Nguyên nhân của vầng tròn
là do bệnh mắt hóa lòa. Cái vầng tròn và cái thấy vầng
tròn đều là bệnh lòa. Nhận thấy được bệnh lòa thì tánh
thấy ó không bệnh. Do ó, không nên nói cái vòng tròn
năm màu là của đèn hay của cái thấy. Cũng không được
nói : Rằng không phải của đèn hay không phải của cái
thấy. Lại ví như vầng trăng thứ hai. Nó không phải trăng
mà cũng không phải bóng. Vầng trăng đó vốn không có,
nên không thể gán cho nó “phải” hay là “không phải”
mặt trăng. Mặt trăng thứ hai có là do động tác của ngón
tay nhấn mắt. Người trí không nên bảo : Đó là hình trăng
hay không phải hình trăng. Đó là cái thấy hay ra ngoài
cái thấy. Vầng tròn năm màu cũng vậy. Nó là do bệnh lòa
mà có. Gọi nó là của đèn hay của cái thấy đều là sai. Nếu
cố gắng nói rằng không phải của đèn hay không phải của
cái thấy càng thêm hí luận.
Thế nào là đồng phần vọng kiến?
Này A Nan! Cõi Diêm-phù-đề này trừ nước biển bao
la, trong đó đất bằng có 3000 châu. Châu lớn ở giữa, bao
quát từ Đông sang Tây có đến 2300 nước. Ngoài ra các
châu nhỏ nằm trong các biển, trong ó có châu gồm hai
trăm, ba trăm nước, hoặc hai mươi, ba bốn mươi cho đến
năm mươi nước. A Nan! lại nếu trong ó, một châu nhỏ
chỉ có hai nước, mà riêng người trong một nước cùng
chiêu cảm ác duyên thì tất cả chúng sinh trong nước ó
đều nhìn thấy hết mọi cảnh không tốt. Hoặc thấy hai mặt
trời, hai mặt trăng, cho đến thấy nhiều ác tướng như
phướng, sao sa và chỉ có những người trong nước ó thấy,
chúng sinh trong nước kế cận thì cũng không thấy và
cũng không nghe.
A Nan! Nay Như Lai em hai việc ó kết hợp so
sánh làm thí dụđể chỉ cho ông.
Này A Nan! Cái nhận thức sai lầm biệt nghiệp của
chúng sinh ví như người bệnh mắt, trông thấy ngọn èn
hiện ra vầng tròn năm màu, tưởng là cảnh thật trước
mắt. Sự thật vầng tròn là do bệnh lòa của người au mắt
tạo thành. Lòa là bệnh của cái thấy, không phải sắc tướng
tạo ra. Cái thấy, thấy được bệnh lòa thì cái thấy đó vốn
không có bệnh. Cũng vậy, hiện nay ông dùng con mắt
xem thấy núi sông cảnh giới và các chúng sinh đều do
bệnh lòa vô thỉ tạo thành. Mắt nhặm thì cái thấy lao nhọc,
không phải do màu sắc tạo ra. Song người biết được mắt
nhặm thì cái thấy của họ không bị lầm lỗi. Cái thấy và
cảnh bị thấy, như thế có cảnh trước mắt, nguyên là tâm
giác ngộ sáng suốt, do phân năng kiến sở kiến mà thành
bệnh. Nhận rõ cái thấy sinh khởi từ bệnh nhặm. Chứ bản
giác minh tâm rõ biết các duyên thì không bệnh. Vì có
năng giác và sở giác mới thành bệnh. Nếu bổn giác không
ở trong bệnh, đây mới thật là nhận ra tánh thấy. Sao còn
gọi là thấy, nghe, hay, biết. Thế nên nay ông thấy Ta và
ông, cùng mười loài chúng sinh trong thế gian đều do mắt
nhặm, chớ không phải cái thấy mắt nhặm bị bệnh. Tánh
thấy chân thật đó không bị nhặm, nên chẳng gọi là thấy.

Nhãn căn (con mắt) hòa hợp với tiền trần (lục trần) tạo
ra cái thấy mà nhà Phật gọi là năng kiến và sở kiến. Năng
kiến là cái thường thấy tức là con mắt, còn sở kiến là sự vật
bên ngoài. Nhưng năng kiến và sở kiến đều phát xuất từ trong
chơn tâm. Đó là bất biến mà tùy duyên. Ví dụ như khi nhìn
những bọt biển trôi nổi trên mặt nước mà những bọt biển nầy
chính là do nước biển sinh ra. Nếu không có nước biển thì
làm gì có bọt biển. Chơn tâm cũng vậy, khi con người đang ở
trạng thái tịnh thì tâm là chơn tâm. Nếu bây giờ tâm duyên
theo trần thì tâm chuyển từ tịnh sang động. Do đó chơn tâm
biến mất và được thay thế bằng vọng tâm sinh diệt. Đức Phật
dùng thí dụ người bị bệnh mắc lòa khi nhìn bóng đèn mà thấy
cái vòng tròn ngũ sắc, nhưng lòa là bệnh của con mắt bị che
mây tức là bệnh của cái thấy chớ không phải do sắc tướng tạo
ra. Nói rộng ra thì những vật thể trong thế giới vũ trụ này tự
nó thanh tịnh, không ô nhiễm, nhưng con người không nhìn
nó bằng con mắt chân thật, khách quan mà nhìn nó bằng tầm
mắt núp sau bởi tham sân si mạn nghi ác kiến từ bao nhiêu
đời bao nhiêu kiếp kết tụ lại cũng như người bị mắt nhặm
nhìn bóng đèn mà chỉ thấy vòng tròn ngũ sắc vậy. Cho dù
năng kiến (cái thấy của mắt) hay sở kiến (sự vật bị thấy bên
ngoài) có làm cho cái thấy sai lầm không chính xác, nhưng
tánh thấy thì lúc nào cũng thanh tịnh sáng suốt, không sai
lầm. Đây mới là pháp nhãn thanh tịnh để giúp người tu quán
triệt chơn tâm và sống được với chơn tánh của mình. Đối với
Phật giáo, hồi quang phản chiếu tức là quay về bên trong để
thấy con người thật của mình để cảm nhận được tánh thấy,
tánh nghe, tánh biết thường hằng bất biến thì sẽ có tâm thanh
tịnh mà được minh tâm kiến tánh. Minh tâm kiến tánh là thấy
rõ tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình chớ không phải thấy
những cảnh thị phi, khổ não hay huyển hóa của thế gian. Nếu
chúng sinh liễu ngộ và biết sống trong tánh thấy, tánh hay,
tánh biết này thì tất cả năng kiến, sở kiến của vọng tâm là
thấy, nghe, hay, biết (kiến, văn, tri, giác) sẽ tan biến và sau
cùng tất cả những vọng thức trong tâm cũng biến mất theo.
Được cảm ơn bởi: cocacola
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
anhlinhmotminh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2215
Tham gia: 15:43, 09/09/12
Liên hệ:

TL: TÁNH VĨNH HẰNG !

Gửi bài gửi bởi anhlinhmotminh »

A Nan! nếu so sánh đồng phần vọng kiến của chúng
sinh với biệt nghiệp vọng kiến của một người.
Một người nhặm mắt cũng giống như người trong cả
nước kia. Người thấy quầng sáng là do mắt nhặm mà có.
Còn trong nước kia hiện ra những tướng không lành là
do cộng nghiệp mà cùng thấy trong đó các điềm ác hiện
ra. Cả hai đều do vọng kiến từ vô thủy phát sinh, giống
như ba ngàn châu trong cõi Diêm phù đề, gồm bốn biển
lớn và thế giới Ta bà, cho đến các nước và các chúng sinh
hữu lậu trong mười phương, đều là tâm giác ngộ sáng
suốt nhiệm mầu. Kiến văn giác tri là bệnh duyên hư vọng,
khiến hư dối hòa hợp sanh, hư dối hòa hợp mất.
Nếu có thể xa lìa các duyên hòa hợp và không hòa
hợp thì diệt trừ được các nhân sanh tử. Đó chính là tánh
giác ngộ tròn đầy không sinh không diệt, chính là chân
tâm bản giác thường trụ.
Được cảm ơn bởi: cocacola
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
anhlinhmotminh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2215
Tham gia: 15:43, 09/09/12
Liên hệ:

TL: TÁNH VĨNH HẰNG !

Gửi bài gửi bởi anhlinhmotminh »

Tánh Thấy Ngoài Hai Nghĩa : Hòa
Hợp Và Không Hòa Hợp
Phật bảo A nan :
- Dù ông ngộ được tâm tánh bản giác nhiệm mầu
sáng suốt, không phải nhân duyên, không phải tự nhiên,
nhưng ông còn chưa rõ tâm tánh sinh ra do hòa hợp hay
không hòa hợp.
A Nan! Như Lai lại lấy tiền trần để hỏi ông. Nay ông
còn lấy tất cả vọng tưởng hòa hợp với tánh nhân duyên
trong thế gian mà tự nghĩ lầm rằng chứng được tâm Bồ-
đề là do hòa hợp mà phát khởi. Vậy nay tánh thấy thanh
tịnh nhiệm mầu của ông là cùng với sáng hòa hợp hay
cùng với tối hòa hợp? Là cùng với thông hòa hợp hay
cùng với bít hòa hợp? Nếu hòa hợp với sáng, hiện nay ông
thấy sáng thì tánh thấy hòa chỗ nào? Tánh thấy và tướng
sáng có thể nhận được, còn cái hình trạng “hòa” sẽ ra
sao? Nếu tướng sáng ngoài tánh thấy, làm sao thấy được
sáng? Nếu tướng sáng là tánh thấy, hóa ra thấy được tánh
thấy, còn gì vô lý bằng? Với tướng tối, tướng thông,
tướng bít cũng vậy.
Lại nữa, A Nan! Hiện nay tánh thấy nhiệm mầu
sáng suốt của ông, nó hợp với sáng hay hợp với tối? Hợp
với thông hay hợp với bít? Nếu hợp với sáng, đến khi tối
tướng sáng mất đi rồi, tánh thấy không còn hợp được với
tối, làm sao thấy được tối? Nếu không hợp với tối mà thấy
được tối, khi hợp với sáng lẽ ra không thấy được sáng. Đã
không thấy được sáng, làm sao hợp với sáng và biết được
sáng không phải là tối? Với tướng thông, tướng bít cũng
vậy.
Được cảm ơn bởi: cocacola
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
anhlinhmotminh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2215
Tham gia: 15:43, 09/09/12
Liên hệ:

TL: TÁNH VĨNH HẰNG !

Gửi bài gửi bởi anhlinhmotminh »

A Nan thưa :
-Bạch Thế Tôn! Nay tôi lại nghĩ : Tánh thấy nhiệm mầu
đối với trần cảnh và các tưởng niệm nhớ nghĩ không hòa hợp
chăng?
Phật dạy rằng :
-Nay ông lại nghĩ rằng tánh thấy không hòa hợp?
Tánh thấy ông gọi là không hòa hợp, nó không hòa hợp
với sáng hay không hòa hợp với tối? Không hòa hợp với
thông hay không hòa hợp với bít? Nếu không hòa hợp với
sáng thì giữa tướng sáng và tánh thấy phải có lằng ranh
giới. Ông hãy xét kỹ : Chỗ nào là tướng sáng, chỗ nào là
tánh thấy? Chỗ nào là ranh giới giữa hai thứ kia? A Nan!
Nếu trong tướng sáng không có tánh thấy, tướng sáng và
tánh thấy không đến với nhau, tất nhiên tánh thấy sẽ
không thấy sáng, làm sao lập ra ranh giới? Đối với tướng
tối, tướng thông, tướng bít cũng vậy. Lại nữa, tánh thấy
nhiệm mầu không hòa hợp là chẳng hợp với tướng sáng,
hay chẳng hợp với tướng tối, chẳng hợp với cái thông hay
chẳng hợp với cái bít. Nếu chẳng hợp với tướng sáng thì
tánh thấy và tướng sáng có tánh trái nghịch nhau. Ví như
lỗ tai và tướng sáng, hoàn toàn không tiếp xúc được nhau.
Tánh thấy còn chẳng biết tướng sáng ở đâu thì làm sao
phân biệt được nghĩa hợp hay chẳng hợp. Đối với cái tối,
cái thông, cái bít kia cũng lại như vậy.
Được cảm ơn bởi: cocacola
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
anhlinhmotminh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2215
Tham gia: 15:43, 09/09/12
Liên hệ:

TL: TÁNH VĨNH HẰNG !

Gửi bài gửi bởi anhlinhmotminh »

Hình ảnh
Được cảm ơn bởi: cocacola
Đầu trang

Trả lời bài viết