Tuyệt thế Bảo kiếm
Bảo kiếm nếu không nằm trong tay anh hùng thì bất quá cũng chỉ là một thanh kiếm sắc mà thôi. Bảo kiếm giúp anh hùng có những chiến công muôn thuở. Anh hùng tạo tên tuổi cho bảo kiếm lưu danh ngàn đời. Trong Sử ký Tư Mã Thiên, phần Hạng Võ bản kỷ có viết về quá trình Hạng Võ luyện kiếm. Luyện mãi không xong, chú Hạng Võ là Hạng Lương quát mắng, Hạng Võ quẳng kiếm xuống nói rằng: “Kiếm chỉ đánh lại một người, không bõ học. Tôi muốn học cái địch lại vạn người”. Câu nói thể hiện khí phách và tham vọng lớn lao của Hạng Võ. Sau này Sở Bá vương Hạng Võ đã một tay gây dựng cơ đồ, đạp đổ nhà Tần trở thành một mẫu anh hùng đầy sức mạnh và quyền biến trong thời loạn.
Thời Xuân Thu, ở Trung Hoa có một tầng lớp gọi là kiếm sĩ, mà nổi tiếng thời đó phải kể đến một cô gái gọi là Xử nữ. Truyện còn ghi lại khi Việt vương Câu Tiễn phải nằm gai nếm mật muốn cầm quân dẹp tan nước Ngô để báo thù cái nhục bị Ngô vương Phù Sai đánh bại ở Cối Kê; mọi việc đã gần hoàn tất nhưng Câu Tiễn còn lo bởi quân đội nước Ngô tinh nhuệ hơn quân đội nước Việt rất nhiều, đặc biệt là về kiếm thuật. Phạm Lãi đã tiến cử một cô gái ở Nam Lâm mà người đời sau gọi là Xử nữ đến để dạy quân lính nhà vua. Xử nữ vốn cả đời sống trong rừng rậm nhưng kiếm thuật vi diệu không cùng. Câu Tiễn sai lính cầm trăm ngọn kích đâm Xử nữ mà chỉ cần một cái khoát tay, cô gái đã gạt được toàn bộ vũ khí. Phạm Lãi hỏi thì cô gái nói rằng cô học kiếm thuật từ một con vượn trắng tên là Viên Công. Cô gái dạy quân đội Việt vương một năm rồi cáo từ xin trở về quê. Phạm Lãi có cho người đến tìm nhưng cô gái như bóng hạc mây ngàn đã chẳng còn dấu vết. Người ta cho rằng cô gái là thần tiên được trời sai xuống giúp nước Việt thắng nước Ngô. Điều đặc biệt ở Xử nữ đó là cô không dùng kiếm mà chỉ cần dùng một thanh trúc cũng đủ đánh bại những kiếm khách bậc nhất đương thời. Kiếm pháp mà cô truyền lại cho quân Việt sau này được đặt tên là Việt nữ chi kiếm (Theo Viên công Việt nữ truyện).
Thanh kiếm Chúc Lâu là thanh kiếm đã cướp đi sinh mạng của hai người anh hùng kiệt xuất của hai nước Ngô và Việt. Khi tướng quốc nước Ngô là Ngũ Tử Tư cảnh báo Phù Sai về mối hoạ nước Việt, Phù Sai lúc đó đã bị sắc đẹp khuynh thành của Tây Thi cùng những mưu mẹo của hai mưu thần nước Việt là Phạm Lãi và Văn Chủng làm cho mê muội nên đã ban cho Ngũ Tử Tư thanh Chúc Lâu, bắt Ngũ Tử Tư dùng thanh kiếm này mà tự vẫn. Quân đội nước Việt sau này đúng như dự đoán của Ngũ Tử Tư đã tràn sang quét sạch nước Ngô. Phạm Lãi sớm biết được bản chất của Câu Tiễn nên sau khi thành công bỏ đi Ngũ Hồ. Ông còn viết thư để lại cho người bạn là Văn Chủng: “Vua Việt dáng môi dài mỏ quạ, là người nhẫn tâm mà ghét kẻ có công, cùng ở lúc hoạn nạn thì được chứ lúc an lạc thì không được, nếu ngài không đi, tất có tai vạ”. Quả nhiên sau đó Việt vương Câu Tiễn vì ghen ghét tài năng xuất chúng của Văn Chủng và sợ ông cướp ngôi nên đã trao cho Văn Chủng thanh Chúc Lâu kiếm. Văn Chủng tự hiểu ý, cay đắng cầm bảo kiếm đâm cổ mà tự sát.
Thích khách nổi tiếng Kinh Kha sử dụng thanh Tụ Lý kiếm. Đây là thanh kiếm nhỏ nhưng cực sắc được cuộn vào trong bản đồ dâng lên cho Tần Thuỷ Hoàng. Tuy nhiên khi giáp mặt, giở bản đồ ra cầm lấy kiếm đâm hôn quân, Tần Thuỷ Hoàng thấy ánh thép sắc lạnh đã kịp tránh. Sau khi trấn tĩnh Tần Thuỷ Hoàng đã rút trường kiếm chém đứt chân Kinh Kha khiến cuộc mưu sát không thành.
Đến thời Tam Quốc, Khổng Minh Gia Cát Lượng khi xoã tóc làm đạo sĩ cũng dùng thanh Phục ma thất tinh kiếm để gọi gió Đông Nam giúp Chu Du đánh trận Xích Bích hình thành nên thế cục Tam Quốc chân vạc Ngụy, Thục, Ngô. Tương truyền thanh kiếm này là loại kiếm có 7 lỗ đục theo phương vị của 7 ngôi sao. Thục Chủ là Lưu Bị sau khi lên ngôi vương vào năm Chương Võ cũng đã sai lấy thép ở núi Kim Ngưu mà đúc thành 8 thanh bảo kiếm gọi là Chương Võ bát kiếm vì trên mỗi thanh kiếm đều có chữ Chương Võ.
Nghệ nhân rèn kiếm
Để có được một thanh kiếm tốt đòi hỏi người rèn kiếm phải biết chọn sắt tốt, tỉ mỉ và tài năng trong việc đúc kiếm. Ngoài ra chỉ có mùa xuân và mùa thu là thích hợp cho lúc rèn kiếm, vì theo quan niệm của những nghệ nhân rèn kiếm thì mùa đông âm khí quá nặng, mùa hạ là thời gian khí quỷ độc tích tụ (quỷ nguyệt).
Âu Dã Tử được coi là ông tổ của nghề rèn kiếm và là người rèn kiếm nổi tiếng nhất lịch sử Trung Hoa. Một lần ngao du, ông đã thấy mạch nước Long Tuyền trên núi Tần Khê, Triết Giang có ánh sắc kim khí. Biết nơi đây có quặng sắt quý, ông đã cho xẻ núi và lấy được một mảnh thiết anh (sắt tốt). Được Sở vương giúp đỡ, ông đã dồn hết tinh lực và luyện nên bộ ba thanh bảo kiếm có tên Long Tuyền, Thái A, Công Bố. Thái A bảo kiếm có nước kiếm sắc ngọt, chém sắt như bùn (tước thiết như nê) sau này rơi về tay Tần Thuỷ Hoàng Đế. Tần vương sau khi nhất thống thiên hạ đã cho cắm thanh kiếm báu này trên núi Trâu Tịch để tế cáo trời đất và được coi như một bảo vật trấn quốc. Thanh Long Tuyền kiếm dài ba thước sắc thì được đem dâng cho Sở Vương. Sau này những thanh kiếm qua lăng kính văn học đều được gọi là Long Tuyền kiếm và cụm từ “tay vung ba thước Long Tuyền kiếm” đã trở thành một khẩu ngữ quen thuộc. Tiết Chúc, một người rất giỏi về kiếm học khi được nhìn thấy ba thanh kiếm này đã phải thốt lên: “màu sắc đẹp như hoa phù dung mới nở, sáng rực như sao băng”.
Cũng một tay Âu Dã Tử đã đúc thành năm thanh bảo kiếm có tên Trạm Lư, Thuần Quân, Thắng Tà, Ngư Trường, Cự Khuyết dâng cho Việt vương Doãn Thường. Vua Hạp Lư nước Ngô thấy vậy bắt vua Việt cống tiến ba thanh Trạm Lư, Thắng Tà và Ngư Trường cho mình. Hiện nay ở Phúc Kiến vẫn còn một chiếc ao tên là Âu Dã tương truyền đó là nơi Âu Dã Tử đã rèn nên bộ bảo kiếm trên. Thanh Ngư Trường, Hạp Lư giao cho Chuyên Chư đâm chết Ngô Vương Liêu và trở thành vua nước Ngô. Sau đó cho rằng thanh Ngư Trường đem lại điềm xấu, Hạp Lư đem bỏ cất thanh kiếm này vào hòm kín. Khi Hạp Lư qua đời, người con là Phù Sai đã đem thanh Ngư Trường kiếm táng cùng với cha mình. Thanh kiếm Trạm Lư thì bị rơi xuống nước và cuối cùng rơi vào tay Sở Chiêu vương. Vua Tần sau đó đòi vua Sở dâng thanh Trạm Lư cho mình, Sở vương không nghe và thế là chiến tranh giữa hai nước nổ ra.
Tuy nhiên bộ đôi kiếm thư hùng nổi tiếng nhất Trung Hoa và cũng có nguồn gốc ly kỳ nhất thì phải là đôi song kiếm Can Tương-Mạc Gia. Theo Ngô Việt Xuân Thu thì Can Tương là một người luyện kiếm tài danh người nước Ngô thời Xuân Thu. Sau ba mươi ngày lội suối trèo non, Can Tương đã tìm ra được một quặng sắt vô cùng quý giá và ông đã cho dựng lò luyện kiếm. Luyện trăm ngày mà quặng sắt chẳng chịu chảy ra. Vợ ông là Mạc Gia thấy thế hỏi, Can Tương trả lời: “Kim loại này phải có nhân khí mới tan được”. Nghe vậy Mạc Gia tắm gội sạch sẽ, rồi nhảy vào lò luyện kiếm. Kim loại tan ra. Can Tương nhờ đó mà rèn được hai thanh bảo kiếm. Ông đặt tên bộ kiếm thư hùng kiếm này là Can Tương và Mạc Gia. Vua Hạp Lư đòi ông phải dâng kiếm báu, ông đưa thanh Can Tương. Nhưng Hạp Lư sau đó đòi nốt thanh Mạc Gia. Ông khóc ròng vì coi thanh kiếm này như vợ mình. Khi quân lính đến, bỗng thanh Mạc Gia biến thành con rồng xanh cõng Can Tương bay vụt lên trời. Khi nước Ngô bị tiêu diệt, thanh Mạc Gia biến mất. Sau đó 600 năm, tể tướng nước Tần là Trương Hoa bỗng thấy ở huyện Phong Thành có ánh kiếm quang rực rỡ, sai một nhà địa lý giỏi bậc nhất thời đó là Lôi Hoàn đến Phong Thành tìm hiểu nguyên nhân. Lần theo mạch đất, Lôi Hoàn tìm được một hộp đá, bên trong là hai thanh bảo kiếm ghi chữ Can Tương và Mạc Gia. Lôi Hoàn giấu đi thanh Can Tương, chỉ dâng lại thanh Mạc Gia cho Trương Hoa mà thôi. Một hôm khi hai người đi thuyền trên sông, bỗng hai thanh kiếm đeo trên người bị tuột ra rơi xuống sông. Trương Hoa vội cho thợ lặn xuống tìm kiếm báu. Lặn qua tầng nước, thợ lặn sợ mất vía khi thấy dưới lòng sông có đôi rồng đang vểnh râu nhìn mình. Hai thanh bảo kiếm Can Tương và Mạc Gia từ đó coi như bị mất tích.
Ngay ở thời hiện đại, khi mà kiếm đã trở thành một loại vũ khí thô sơ nếu so với súng đạn thì những nghệ nhân rèn kiếm vẫn luôn được coi trọng. Trần Thiên Dương là nghệ nhân rèn kiếm nổi tiếng hiện sống ở Đài Loan. Ông nổi tiếng vì những nguyên tắc “không bán kiếm cho kẻ có lai lịch bất minh”, “không bán kiếm cho kẻ rởm đời, hãnh tiến”, “không bán kiếm cho kẻ hung hăng”. Trong lần tranh cử tổng thống Đài Loan năm 1996, cả bốn ứng cử viên tổng thống đều đến nhà ông mua kiếm để làm vật tượng trưng bảo vệ công lý.
Số phận của những thanh bảo kiếm
Những thanh bảo kiếm cũng gắn liền với những thăng trầm và biến thiên của lịch sử. Có những thanh bảo kiếm đã biến mất nhưng có những thanh kiếm lưu lạc đi khắp nơi và tạo thành những truyền thuyết khác. Tương truyền thanh Long Tuyền kiếm sau này đã lọt vào tay của Cao Biền, khi sang cai trị nước ta ông ta đã mang theo và tìm long mạch để chôn nhằm mục đích trấn yểm. Tại địa giới của hai nước Ngô-Việt thời Xuân Thu, rất nhiều thanh kiếm đã được các nhà khảo cổ tìm thấy như kiếm của Hạp Lư, của Phù Sai ở Tương Dương, Hồ Bắc và thanh Cô phát nhàn phản kiếm của thái tử nước Ngô. Năm 1965 tại Giang Lăng, người ta đào được thanh kiếm Việt vương chân câu trên đó có khắc tám chữ: Việt vương Câu Tiễn tự tác dụng kiếm (Kiếm của Việt vương Câu Tiễn tự làm ra để sử dụng). Ngoài kiếm người ta còn thấy một thanh mâu cũng đề chữ: Ngô vương Phù Sai tự tác dụng tạc. Tại Lã Vọng Sơn tỉnh Hồ Bắc, người ta đã tìm thấy thanh Trạm Lư. Các nhà khoa học thấy rằng thanh kiếm này đã được mạ crom (hợp chất chống gỉ) và theo kiểm tra phóng xạ thì thanh Trạm Lư có 9 nguyên tố hoá học khác nhau. Sau hơn hai ngàn năm, thanh Trạm Lư vẫn sáng bóng và sắc như nước. Một thanh kiếm khác cũng được tìm thấy ở khu khảo cổ này là thanh kiếm Tê Lợi (tương truyền là do vợ của Can Tương là Mạc Gia đúc thành). Soi phóng xạ thanh Tê Lợi, người ta thấy trong thanh kiếm này còn có chất wolfram, một chất hiếm mà cho đến mãi sau này người châu Âu mới tìm ra.
Những thanh bảo kiếm đã trở thành một phần của lịch sử võ học Trung Hoa, và đâu đó qua từng thanh kiếm ta cũng thấy được phần nào lịch sử bể dâu của một thời tạo thành số phận của mỗi thanh bảo kiếm.
(từ lqdlongan.com)
Tuyệt thế Bảo kiếm
TL: Tuyệt thế Bảo kiếm
Bài viết hay quá, cám ơn CVD đã sưu tập.
Ngày trước, tìm hiểu cổ sử, thấy trong sách nhắc nhiều đến những thanh cố kiếm, đặc biệt là Thư Hùng Kiếm CAN TƯƠNG-MẠC GIA.
Còn trên đất Việt mình thì sao nhỉ? ko biết có thanh nào được coi là bảo kiếm không?
Ngày trước, tìm hiểu cổ sử, thấy trong sách nhắc nhiều đến những thanh cố kiếm, đặc biệt là Thư Hùng Kiếm CAN TƯƠNG-MẠC GIA.
Còn trên đất Việt mình thì sao nhỉ? ko biết có thanh nào được coi là bảo kiếm không?
-
- Nhị đẳng
- Bài viết: 309
- Tham gia: 10:33, 06/08/09
TL: Tuyệt thế Bảo kiếm
Hàng Khủng Việt Nam đây:
Gươm báu của Vua Lê, huyền thoại và sự thật
Truyền thuyết về gươm báu "Thuận Thiên" của Vua Lê Lợi cùng việc trả gươm cho Rùa thần tại Hồ Tả Vọng (nay là hồ Hoàn Kiếm hay Hồ Gươm Hà Nội) sau ngày đánh tan giặc Minh bao đời nay vẫn đọng trong tâm linh, ý thức dân tộc. Đó là sự hàm ẩn những triết lý nhân sinh của người Việt đằng sau sự giao hòa giữa chính sử và dã sử: Thuận Thiên là biểu tượng thiên thời - địa lợi - nhân hòa; việc trả kiếm ngoài biểu tượng của lòng trung tín với nhân dân, trời đất, còn là khát vọng hòa bình khi vận nước Đại Việt đã lên, mở nền thái bình thịnh trị.
Hơn 5 thế kỷ đã trôi qua, song truyền thuyết về Hồ Hoàn Kiếm - Hồ Gươm và thanh thần kiếm Thuận Thiên mà Bình Định vương Lê Lợi hoàn trả cho thần Rùa sau khi quốc gia Đại Việt đã đánh tan 10 vạn quân Minh hung bạo... vẫn lắng đọng, lung linh trong đời sống tâm linh, ý thức dân tộc.
Những câu đối sơn son thếp vàng trong đền Ngọc Sơn không tiếc lời ngợi ca giá trị - vẻ đẹp của thanh kiếm báu.
... Kiếm hữu dư linh quang nhược thủy
Văn tòng đại khối thọ như sơn
(Gươm có khí thiêng sáng màu nước
Văn theo trời đất vững như non)
... Vạn kim bảo kiếm tàng thu thủy
Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ
(Gươm quý muôn vàn dưới nước thu
Một tấm lòng son ẩn trong hồ ngọc)
Trong bài "Ngọc Sơn Đế quân từ ký", tiến sĩ Vũ Tông Phan cũng có câu:
Bảo kiếm tân ma bách điện quang
Tứ phương chiếu diện nhậm hành, tàng
(Gươm báu mới mài ngời ánh sáng
Cất hay dùng vẫn rạng muôn phương)
Về lai lịch của thanh kiếm Thuận Thiên đã có truyền thuyết và một số sử sách ghi chép. Cuốn "Lê thế ngọc phả" (do ông Lê Duy Nhương, 81 tuổi, cháu 6 đời của Vua Cảnh Hưng Lê Hiển Tông cho đọc trong chuyến điền dã xứ Kinh Bắc cổ) ghi chép, miêu tả tỷ mỷ hơn cả. Cuốn "Lê thế ngọc phả" ấy do các gia thần của Vua Cảnh Hưng là Nguyễn Hài, Trọng Viêm, Nguyên Cang và Sương Huyền, phụng chỉ Vua Cảnh Hưng biên soạn bằng Hán Văn. Tiết 7, chương thứ nhất có ghi sự tích "Vua được gươm thần" như sau:
"Đêm mồng 10 tháng 12 năm ất Mùi (1415), có người ở Cổ Lôi tên là Lê Thận, làm nghề đánh cá, đêm kéo vó ở sông Lương Giang, xứ Ma Viên, thấy dưới nước có ánh sáng như đuốc. Cả đêm không kéo được con cá nào, chỉ được một thanh sắt trông như hình thanh kiếm cũ, dài 3 thước, rộng 2 tấc, dầy 3 phân (Sách Lam Sơn thực lục và Đại Việt thông sử chép là dài hơn một thước). Trên thanh sắt có dấu linh phù và có câu thần chú rằng:
Thượng đế sắc mệnh
Bảo kiếm uy cương
Cử chỉ nhất động
Hỏa chiếu vạn phương
Sơn băng địa liệt
Phá tặc thần tàng
Cấp cấp như luật lệnh.
Nghĩa là:
Đức Thượng đế có sắc mệnh
Đây là gươm báu oai cường
Chỉ cần cất lên
Lửa lóe sáng tới muôn phương
Chỉ núi, núi tan; chỉ đất, đất nứt
Chỉ thần, thần nép; chỉ giặc, giặc hàng
Tất cả đều tuân hành mau chóng.
Năm ấy, Vua 31 tuổi, cùng Thận chơi thân, gặp khi nhà Thận có giỗ Vua tới làm lễ, nhìn gầm giường thấy ánh sáng lạ bèn tới gần xem thì ra đó là thanh sắt. Vua xin, Thận cho ngay. Vua đem về nhà mài thì hiện lên 4 chữ "Thuận Thiên Lê Lợi", bèn giấu kín một nơi. Năm Bính Thân (1416), Vua 32 tuổi, sáng sớm ngày 15 tháng giêng, Vua ra cửa bắt được một chuôi gươm bằng đồng đen dài một tấc năm phân, dày 4 phân. Vua đem chuôi kiếm vào nhà rồi lấy lưỡi kiếm trước ra, đứng giữa sân, ngửa mặt lên trời khấn rằng:
- Nay giặc Bắc xâm chiếm nước Nam, sinh linh khổ sở đã lâu, nếu tôi cứu được dân sống thì xin trời cho lưỡi kiếm và chuôi kiếm gắn liền như một.
Khấn rồi, Vua cắm thanh kiếm vào chuôi, tự nhiên hai thứ gắn nhau như đúc liền, không sao tháo ra được nữa.
Đêm đến, gươm tỏa hào quang sáng như đuốc. Vua biết là thần vật, giấu kín một nơi không cho ai hay.
Một hôm, phu nhân Phạm Thị Ngọc Trần thấy vật gì treo trên cây đa trước nhà bèn bảo Vua. Lê Lợi trèo lên xem, hóa ra bao kiếm. Đem xuống lấy kiếm tra vào thì vừa khít. Vua càng khấp khởi mừng thầm "Hẳn trời cho ta kiếm báu".
Mười mấy năm trời "nếm mật nằm gai" trải bao phen vào sinh ra tử, một gươm đại định dẹp phăng giặc Minh, mở nền "thái bình muôn thuở". Ngày 15 tháng 4 năm Mậu Thân (1428) Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế tại điện Kính Thiên ở thành Đông Đô (Thăng Long - Hà Nội). Nhớ lại chuyện xưa mới đặt niên hiệu là Thuận Thiên. Nhân một buổi đẹp trời, Vua ngự giá ra chơi hồ Tả Vọng (còn gọi là hồ Lục Thủy vì nước xanh sẫm), thuyền rồng vừa đến giữa hồ, bỗng dưới nước nổi lên một rùa vàng rất to. Rùa bơi đến trước thuyền rồng cúi đầu như có ý bái lạy và cất tiếng:
- Việc nước đã xong, xin bệ hạ hoàn lại kiếm thần! Vua tung gươm, rùa vàng liền đớp lấy lặn xuống nước mất tăm. Từ đó nhân dân gọi hồ Tả Vọng là Hồ Hoàn Kiếm (hồ trả Gươm).
Sở dĩ nảy sinh thanh kiếm thần Thuận Thiên cũng do bối cảnh lịch sử và tâm lý xã hội của thế kỷ 15. Lúc bấy giờ, nhằm mục đích đồng hóa Đại Việt, giặc Minh đã đàn áp người Việt hết sức dã man: "Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ (Bình Ngô Đại Cáo - Nguyễn Trãi) và tịch thu sách vở, đập vỡ bia đá, đền miếu các nơi... khiến ai cũng căm uất. Tất thảy đều mong ước có bậc hiền tài cứu giúp trăm họ ra khỏi cảnh lầm than khốn cùng.
Bình Định Vương Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa chống ngoại xâm đã đáp ứng được nguyện vọng, yêu cầu chính đáng đó, và ông đã được nhân dân "thần thánh hóa" thành nhân vật được Trời - Đất (Vũ trụ) trao cho sứ mệnh trọng đại. Huyền thoại đã khắc họa một cách sinh động, ly kỳ: lưỡi gươm ở dưới nước, đốc gươm trên mặt đất, bao gươm ở trên cây.
Thần kiếm Thuận Thiên là sự kết tinh, hội tụ, thăng hoa của 3 chiều không gian và cũng là biểu tượng Thiên thời - Địa lợi - Nhân hòa.
Chuyện trả kiếm cho thần Rùa là một mô típ độc đáo thường gặp trong truyện kể dân gian và nó thể hiện sâu sắc ý nguyện yêu chuộng hòa bình của dân tộc Việt. Việc trả binh khí cho thần từng được truyền tụng trong lịch sử. An Dương Vương được thần Kim Quy cho mượn bảo kiếm để chém gà tinh trắng. Khi xây thành ốc xong, nhà vua đã trả kiếm cho thần. Thần Kim Quy còn cho An Dương Vương mượn móng của mình làm lẫy nỏ thần, nhưng khi dẹp tan quân xâm lược Triệu Đà, nhà vua lại không trả cho thần nên xảy ra cơ sự: Triệu Đà lập kế tráo lẫy nỏ rồi đem quân vây đánh Loa thành khiến An Dương Vương phải chịu cảnh nước mất nhà tan.
Phải chăng Bình Định Vương Lê Lợi đã nhớ tới bài học đó?! Cái gì đã mượn thì phải trả phải biết ơn người đã giúp mình dựng nên nghiệp lớn phải trung tín, thủy chung.
Còn tại sao, nơi mượn gươm thần lại là sông Lương (một đoạn của sông Chu thuộc địa phận Thanh Hóa ngày nay) mà nơi trả gươm lại là hồ Lục Thủy nằm giữa kinh thành Đông Đô?
Như mọi người đã biết, thời Lê Lợi, Thanh Hóa được coi là Tây Kinh, Tây Đô, còn Thăng Long (Hà Nội ngày nay) gọi là Đông Kinh, Đông Đô. Vậy Nhà Lê có 2 "đô - thành", một ở "chốn Tổ nơi phát tích", một ở nơi lên ngôi Vua.
Vua chọn địa điểm Mượn - Trả gươm theo chu trình từ Tây sang Đông hàm ý nghĩa triết học Mỹ học Á Đông. Hướng Đông là hướng mặt trời lên, hướng Tây là hướng mặt trời lặn. Mượn kiếm ở phương Tây (Thanh Hóa) nơi mặt trời lặn ngụ ý, thời cuộc lúc đó đen tối, bi thảm. Trả kiếm ở phương Đông nơi mặt trời mọc (Thăng Long) thể hiện vận hội nước nhà hưng thịnh, một rạng đông, một bình minh mới bắt đầu.
Lê Lợi chọn việc trả kiếm ở nơi hồ biếc giữa kinh thành muốn chứng tỏ cho thần linh và bàn dân thiên hạ thấy tấm lòng quang minh chính đại của mình. Và lễ thức Mượn - Trả gươm theo sự vận hành của mặt trời (ngược chiều kim đồng hồ) từ Tây sang Đông cũng nói lên cơ trời vận nước đã thay đổi "hết khổ là vui vốn lẽ đời" "hết đêm trường là ban mai xán lạn". Quả thực, sau cuộc chiến thắng giặc Minh của Bình Định Vương Lê Lợi, nước Đại Việt đã ca khúc khải hoàn và mở nền thái bình thịnh trị dài lâu trong lịch sử.
(Theo Trương Thị Kim Dung)
Gươm báu của Vua Lê, huyền thoại và sự thật
Truyền thuyết về gươm báu "Thuận Thiên" của Vua Lê Lợi cùng việc trả gươm cho Rùa thần tại Hồ Tả Vọng (nay là hồ Hoàn Kiếm hay Hồ Gươm Hà Nội) sau ngày đánh tan giặc Minh bao đời nay vẫn đọng trong tâm linh, ý thức dân tộc. Đó là sự hàm ẩn những triết lý nhân sinh của người Việt đằng sau sự giao hòa giữa chính sử và dã sử: Thuận Thiên là biểu tượng thiên thời - địa lợi - nhân hòa; việc trả kiếm ngoài biểu tượng của lòng trung tín với nhân dân, trời đất, còn là khát vọng hòa bình khi vận nước Đại Việt đã lên, mở nền thái bình thịnh trị.
Hơn 5 thế kỷ đã trôi qua, song truyền thuyết về Hồ Hoàn Kiếm - Hồ Gươm và thanh thần kiếm Thuận Thiên mà Bình Định vương Lê Lợi hoàn trả cho thần Rùa sau khi quốc gia Đại Việt đã đánh tan 10 vạn quân Minh hung bạo... vẫn lắng đọng, lung linh trong đời sống tâm linh, ý thức dân tộc.
Những câu đối sơn son thếp vàng trong đền Ngọc Sơn không tiếc lời ngợi ca giá trị - vẻ đẹp của thanh kiếm báu.
... Kiếm hữu dư linh quang nhược thủy
Văn tòng đại khối thọ như sơn
(Gươm có khí thiêng sáng màu nước
Văn theo trời đất vững như non)
... Vạn kim bảo kiếm tàng thu thủy
Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ
(Gươm quý muôn vàn dưới nước thu
Một tấm lòng son ẩn trong hồ ngọc)
Trong bài "Ngọc Sơn Đế quân từ ký", tiến sĩ Vũ Tông Phan cũng có câu:
Bảo kiếm tân ma bách điện quang
Tứ phương chiếu diện nhậm hành, tàng
(Gươm báu mới mài ngời ánh sáng
Cất hay dùng vẫn rạng muôn phương)
Về lai lịch của thanh kiếm Thuận Thiên đã có truyền thuyết và một số sử sách ghi chép. Cuốn "Lê thế ngọc phả" (do ông Lê Duy Nhương, 81 tuổi, cháu 6 đời của Vua Cảnh Hưng Lê Hiển Tông cho đọc trong chuyến điền dã xứ Kinh Bắc cổ) ghi chép, miêu tả tỷ mỷ hơn cả. Cuốn "Lê thế ngọc phả" ấy do các gia thần của Vua Cảnh Hưng là Nguyễn Hài, Trọng Viêm, Nguyên Cang và Sương Huyền, phụng chỉ Vua Cảnh Hưng biên soạn bằng Hán Văn. Tiết 7, chương thứ nhất có ghi sự tích "Vua được gươm thần" như sau:
"Đêm mồng 10 tháng 12 năm ất Mùi (1415), có người ở Cổ Lôi tên là Lê Thận, làm nghề đánh cá, đêm kéo vó ở sông Lương Giang, xứ Ma Viên, thấy dưới nước có ánh sáng như đuốc. Cả đêm không kéo được con cá nào, chỉ được một thanh sắt trông như hình thanh kiếm cũ, dài 3 thước, rộng 2 tấc, dầy 3 phân (Sách Lam Sơn thực lục và Đại Việt thông sử chép là dài hơn một thước). Trên thanh sắt có dấu linh phù và có câu thần chú rằng:
Thượng đế sắc mệnh
Bảo kiếm uy cương
Cử chỉ nhất động
Hỏa chiếu vạn phương
Sơn băng địa liệt
Phá tặc thần tàng
Cấp cấp như luật lệnh.
Nghĩa là:
Đức Thượng đế có sắc mệnh
Đây là gươm báu oai cường
Chỉ cần cất lên
Lửa lóe sáng tới muôn phương
Chỉ núi, núi tan; chỉ đất, đất nứt
Chỉ thần, thần nép; chỉ giặc, giặc hàng
Tất cả đều tuân hành mau chóng.
Năm ấy, Vua 31 tuổi, cùng Thận chơi thân, gặp khi nhà Thận có giỗ Vua tới làm lễ, nhìn gầm giường thấy ánh sáng lạ bèn tới gần xem thì ra đó là thanh sắt. Vua xin, Thận cho ngay. Vua đem về nhà mài thì hiện lên 4 chữ "Thuận Thiên Lê Lợi", bèn giấu kín một nơi. Năm Bính Thân (1416), Vua 32 tuổi, sáng sớm ngày 15 tháng giêng, Vua ra cửa bắt được một chuôi gươm bằng đồng đen dài một tấc năm phân, dày 4 phân. Vua đem chuôi kiếm vào nhà rồi lấy lưỡi kiếm trước ra, đứng giữa sân, ngửa mặt lên trời khấn rằng:
- Nay giặc Bắc xâm chiếm nước Nam, sinh linh khổ sở đã lâu, nếu tôi cứu được dân sống thì xin trời cho lưỡi kiếm và chuôi kiếm gắn liền như một.
Khấn rồi, Vua cắm thanh kiếm vào chuôi, tự nhiên hai thứ gắn nhau như đúc liền, không sao tháo ra được nữa.
Đêm đến, gươm tỏa hào quang sáng như đuốc. Vua biết là thần vật, giấu kín một nơi không cho ai hay.
Một hôm, phu nhân Phạm Thị Ngọc Trần thấy vật gì treo trên cây đa trước nhà bèn bảo Vua. Lê Lợi trèo lên xem, hóa ra bao kiếm. Đem xuống lấy kiếm tra vào thì vừa khít. Vua càng khấp khởi mừng thầm "Hẳn trời cho ta kiếm báu".
Mười mấy năm trời "nếm mật nằm gai" trải bao phen vào sinh ra tử, một gươm đại định dẹp phăng giặc Minh, mở nền "thái bình muôn thuở". Ngày 15 tháng 4 năm Mậu Thân (1428) Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế tại điện Kính Thiên ở thành Đông Đô (Thăng Long - Hà Nội). Nhớ lại chuyện xưa mới đặt niên hiệu là Thuận Thiên. Nhân một buổi đẹp trời, Vua ngự giá ra chơi hồ Tả Vọng (còn gọi là hồ Lục Thủy vì nước xanh sẫm), thuyền rồng vừa đến giữa hồ, bỗng dưới nước nổi lên một rùa vàng rất to. Rùa bơi đến trước thuyền rồng cúi đầu như có ý bái lạy và cất tiếng:
- Việc nước đã xong, xin bệ hạ hoàn lại kiếm thần! Vua tung gươm, rùa vàng liền đớp lấy lặn xuống nước mất tăm. Từ đó nhân dân gọi hồ Tả Vọng là Hồ Hoàn Kiếm (hồ trả Gươm).
Sở dĩ nảy sinh thanh kiếm thần Thuận Thiên cũng do bối cảnh lịch sử và tâm lý xã hội của thế kỷ 15. Lúc bấy giờ, nhằm mục đích đồng hóa Đại Việt, giặc Minh đã đàn áp người Việt hết sức dã man: "Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ (Bình Ngô Đại Cáo - Nguyễn Trãi) và tịch thu sách vở, đập vỡ bia đá, đền miếu các nơi... khiến ai cũng căm uất. Tất thảy đều mong ước có bậc hiền tài cứu giúp trăm họ ra khỏi cảnh lầm than khốn cùng.
Bình Định Vương Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa chống ngoại xâm đã đáp ứng được nguyện vọng, yêu cầu chính đáng đó, và ông đã được nhân dân "thần thánh hóa" thành nhân vật được Trời - Đất (Vũ trụ) trao cho sứ mệnh trọng đại. Huyền thoại đã khắc họa một cách sinh động, ly kỳ: lưỡi gươm ở dưới nước, đốc gươm trên mặt đất, bao gươm ở trên cây.
Thần kiếm Thuận Thiên là sự kết tinh, hội tụ, thăng hoa của 3 chiều không gian và cũng là biểu tượng Thiên thời - Địa lợi - Nhân hòa.
Chuyện trả kiếm cho thần Rùa là một mô típ độc đáo thường gặp trong truyện kể dân gian và nó thể hiện sâu sắc ý nguyện yêu chuộng hòa bình của dân tộc Việt. Việc trả binh khí cho thần từng được truyền tụng trong lịch sử. An Dương Vương được thần Kim Quy cho mượn bảo kiếm để chém gà tinh trắng. Khi xây thành ốc xong, nhà vua đã trả kiếm cho thần. Thần Kim Quy còn cho An Dương Vương mượn móng của mình làm lẫy nỏ thần, nhưng khi dẹp tan quân xâm lược Triệu Đà, nhà vua lại không trả cho thần nên xảy ra cơ sự: Triệu Đà lập kế tráo lẫy nỏ rồi đem quân vây đánh Loa thành khiến An Dương Vương phải chịu cảnh nước mất nhà tan.
Phải chăng Bình Định Vương Lê Lợi đã nhớ tới bài học đó?! Cái gì đã mượn thì phải trả phải biết ơn người đã giúp mình dựng nên nghiệp lớn phải trung tín, thủy chung.
Còn tại sao, nơi mượn gươm thần lại là sông Lương (một đoạn của sông Chu thuộc địa phận Thanh Hóa ngày nay) mà nơi trả gươm lại là hồ Lục Thủy nằm giữa kinh thành Đông Đô?
Như mọi người đã biết, thời Lê Lợi, Thanh Hóa được coi là Tây Kinh, Tây Đô, còn Thăng Long (Hà Nội ngày nay) gọi là Đông Kinh, Đông Đô. Vậy Nhà Lê có 2 "đô - thành", một ở "chốn Tổ nơi phát tích", một ở nơi lên ngôi Vua.
Vua chọn địa điểm Mượn - Trả gươm theo chu trình từ Tây sang Đông hàm ý nghĩa triết học Mỹ học Á Đông. Hướng Đông là hướng mặt trời lên, hướng Tây là hướng mặt trời lặn. Mượn kiếm ở phương Tây (Thanh Hóa) nơi mặt trời lặn ngụ ý, thời cuộc lúc đó đen tối, bi thảm. Trả kiếm ở phương Đông nơi mặt trời mọc (Thăng Long) thể hiện vận hội nước nhà hưng thịnh, một rạng đông, một bình minh mới bắt đầu.
Lê Lợi chọn việc trả kiếm ở nơi hồ biếc giữa kinh thành muốn chứng tỏ cho thần linh và bàn dân thiên hạ thấy tấm lòng quang minh chính đại của mình. Và lễ thức Mượn - Trả gươm theo sự vận hành của mặt trời (ngược chiều kim đồng hồ) từ Tây sang Đông cũng nói lên cơ trời vận nước đã thay đổi "hết khổ là vui vốn lẽ đời" "hết đêm trường là ban mai xán lạn". Quả thực, sau cuộc chiến thắng giặc Minh của Bình Định Vương Lê Lợi, nước Đại Việt đã ca khúc khải hoàn và mở nền thái bình thịnh trị dài lâu trong lịch sử.
(Theo Trương Thị Kim Dung)
TL: Tuyệt thế Bảo kiếm
Trang Tử thuyết kiếm
Kiếm có ba loại: thứ nhất là Thiên Tử kiếm, thứ hai là Chư Hầu kiếm và thứ ba là kiếm của thứ dân.
Kiếm của Thiên Tử là thứ kiếm mang cái sắc nhọn của núi non thành dã nước Yên, cái sắc bén của ngọn Đại Sơn nước Tề, cái sườn là Tấn Ngụy, cái bao la của Chu Tống, cái hẹp của Ngụy Hàn. Bao kiếm là bốn phương di dịch, gói ghém được cả tứ thời, vòng quanh cả Bột Hải, chở được cả Đường Sơn, chế định Ngũ Hành, luận được Hình Đức, mở lối được Âm Dương, nắm trọn hai mùa Xuân Hạ, đẩy lùi được Thu Đông. Thanh kiếm này lúc dựng thẳng thì không có gì dám cản đằng trước, trên quét được phù vân dưới có thể chém rách ngang nền đất, không có gì để được bên trên cũng không có gì dám chèn bên dưới, lúc vận kiếm thì chung quanh chẳng còn thấy gì.
Dùng thanh kiếm này chư hầu tất phải vào khuôn phép, thiên hạ phải tòng mệnh quy phục, đó là kiếm của Thiên Tử.
Kiếm của Chư Hầu thì dùng các tướng trí dũng làm mũi kiếm, lấy người chính trực liêm khiết làm lưỡi kiếm, dùng người tài giỏi hiền lương làm sống kiếm, lấy người trung thành làm bản kiếm. Kiếm này dựng cũng không có gì ở trên, nằm không có gì chèn dưới, vận múa không có gì chung quanh.
Phép tắc ở trên thì làm cho trời tròn để thuận tam quang là ba thứ ánh sáng của mặt trời, mặt trăng và của các tinh tú. Phép tắc ở dưới là làm cho đất vuông để hợp bốn mùa, ở giữa thì hòa với lòng dân để an định bốn phương.
Kiếm này sử dụng thì như sấm sét lôi đình, ở trong đất phong của mình chẳng có ai là không tòng phục. Đó là kiếm của Chư Hầu.
Kiếm của thứ dân chỉ dùng vào những việc đại loại như giết gà, trên cắt cổ, dưới mổ gan, không thể dùng để làm việc nước. Những kiếm khách dùng kiếm thứ dân đều là những kẻ đầu bù tóc rối, râu tóc mọc rũ rượi, chỉ thích trợn mắt và cãi nhau vơ vẩn, chẳng có gì khác những con gà chọi trên bãi đấu.
(Sưu tầm)
Kiếm có ba loại: thứ nhất là Thiên Tử kiếm, thứ hai là Chư Hầu kiếm và thứ ba là kiếm của thứ dân.
Kiếm của Thiên Tử là thứ kiếm mang cái sắc nhọn của núi non thành dã nước Yên, cái sắc bén của ngọn Đại Sơn nước Tề, cái sườn là Tấn Ngụy, cái bao la của Chu Tống, cái hẹp của Ngụy Hàn. Bao kiếm là bốn phương di dịch, gói ghém được cả tứ thời, vòng quanh cả Bột Hải, chở được cả Đường Sơn, chế định Ngũ Hành, luận được Hình Đức, mở lối được Âm Dương, nắm trọn hai mùa Xuân Hạ, đẩy lùi được Thu Đông. Thanh kiếm này lúc dựng thẳng thì không có gì dám cản đằng trước, trên quét được phù vân dưới có thể chém rách ngang nền đất, không có gì để được bên trên cũng không có gì dám chèn bên dưới, lúc vận kiếm thì chung quanh chẳng còn thấy gì.
Dùng thanh kiếm này chư hầu tất phải vào khuôn phép, thiên hạ phải tòng mệnh quy phục, đó là kiếm của Thiên Tử.
Kiếm của Chư Hầu thì dùng các tướng trí dũng làm mũi kiếm, lấy người chính trực liêm khiết làm lưỡi kiếm, dùng người tài giỏi hiền lương làm sống kiếm, lấy người trung thành làm bản kiếm. Kiếm này dựng cũng không có gì ở trên, nằm không có gì chèn dưới, vận múa không có gì chung quanh.
Phép tắc ở trên thì làm cho trời tròn để thuận tam quang là ba thứ ánh sáng của mặt trời, mặt trăng và của các tinh tú. Phép tắc ở dưới là làm cho đất vuông để hợp bốn mùa, ở giữa thì hòa với lòng dân để an định bốn phương.
Kiếm này sử dụng thì như sấm sét lôi đình, ở trong đất phong của mình chẳng có ai là không tòng phục. Đó là kiếm của Chư Hầu.
Kiếm của thứ dân chỉ dùng vào những việc đại loại như giết gà, trên cắt cổ, dưới mổ gan, không thể dùng để làm việc nước. Những kiếm khách dùng kiếm thứ dân đều là những kẻ đầu bù tóc rối, râu tóc mọc rũ rượi, chỉ thích trợn mắt và cãi nhau vơ vẩn, chẳng có gì khác những con gà chọi trên bãi đấu.
(Sưu tầm)
TL: Tuyệt thế Bảo kiếm
tuetvnb đã viết:Bài viết hay quá, cám ơn CVD đã sưu tập.
Ngày trước, tìm hiểu cổ sử, thấy trong sách nhắc nhiều đến những thanh cố kiếm, đặc biệt là Thư Hùng Kiếm CAN TƯƠNG-MẠC GIA.
Còn trên đất Việt mình thì sao nhỉ? ko biết có thanh nào được coi là bảo kiếm không?
Cảm ơn bác tuetvnb ^_^
Gọi là bảo kiếm thì Thuận Thiên - thanh kiếm huyền thoại của vua Lê Thái Tổ là nổi tiếng nhất, có lý lịch ly kỳ nhất.
Và theo như Trang Tử thuyết kiếm thì không chỉ Lê Lợi mà nước mình còn nhiều bậc minh quân khác biết sử Thiên Tử kiếm, bác nhỉ!