CLB Lý Số Sài Gòn

Dành cho thành viên giao lưu, kết bạn, buôn chuyện
Phượng Hoàng Lửa
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 193
Tham gia: 00:14, 22/12/10

TL: CLB Lý Số Miền Nam

Gửi bài gửi bởi Phượng Hoàng Lửa »

BÀN LUẬN : CHỌN NĂM - THÁNG -NGÀY- GIỜ TỐT THEO SINH KHẮC CAN CHI NGŨ HÀNH

Từ xưa dân tộc ta đã có truyền thống chọn ngày lành tháng tốt để thực hiện những công việc quan trọng trong cuộc sống như làm nhà, cưới hỏi, khai trương, xuất hành v.v… Tóm lại việc chọn ngày lành tháng tốt là một nhu cầu cần thiết trong mọi lĩnh vực của cuộc sống không những ở Việt Nam mà là phong tục tập quán của các nước Đông Nam Á.
Hiện nay việc chọn ngày lành tháng tốt rất được nhiều người quan tâm. Có nhiều loại sách chuyên xem ngày tháng như Lịch vạn sự, sách xem ngày lành tháng tốt của từng năm v.v…
Vấn đề được đặt ra là có năm, tháng, ngày, giờ tốt hay xấu không? Thế nào là tốt hay xấu? Cách chọn tốt xấu dựa trên cơ sở lý luận nào và có đúng với thực tiễn không?
Tôi xin nêu ra một thí dụ. Năm nay là năm Tân Mão, tháng mà tôi đang viết bài này là tháng Tân Mão, ngày Mậu Dần, giờ Tý là giờ Nhâm Tý. Hỏi rằng 4 yếu tố năm, tháng, ngày, giờ trên là tốt hay xấu? Về mặt lý luận thì chưa bàn cãi tới còn về mặt thực tiễn thì có hàng ngàn đứa trẻ ra đời, có hàng người được thăng chức, có hàng ngàn nhà kinh doanh phát tài. Ngược lại thì có hàng ngàn người chết hoặc nhập viện vì ốm đau, có hàng trăm vụ tai nạn giao thông đang xảy ra, có hàng ngàn vụ tham nhũng được khởi tố v.v…
Như vậy năm tháng ngày giờ là giống nhau mà sự tốt xấu của mỗi người là khác nhau do đó ta khẳng định được rằng không hề có năm tháng ngày giờ xấu hoặc tốt chung cho tất cả mọi người như các sách đã viết nhiều người đã và đang làm. Cùng yếu tố không gian và thời gian như nhau nếu người nào được lợi thì gọi là tốt, nếu không được lợi mà bị hại thì cho là xấu. Sự tốt xấu của năm tháng ngày giờ là phụ thuộc vào tuổi năm sinh của từng người và yếu tố thời vận của người đó. Do đó cũng là một con người đó mà có năm thì tốt, có năm thì xấu và có năm thì bình thường (chẳng tốt mà chẳng xấu).
Quan điểm về sự tốt xấu của năm tháng ngày giờ xuất phát từ khi nền dịch lý học của Trung Quốc ra đời từ xưa và truyền lại cho tới ngày nay. Nó chính là học thuyết về âm dương – ngũ hành – bát quái mà bộ sách kinh dịch đã trình bày. Vậy thì ai là người am hiểu nó và biết vận dụng nó để tính toán và tìm ra được các qui luật xuất hiện sự tốt xấu cho từng người khác nhau. Ngày nay chúng ta rất may mắn là kế thừa được quyển Lịch vạn niên có nguồn gốc xuất xứ từ Trung Quốc cổ đại. Người nào cũng biết, chỉ có điều là ít người hiểu và không biết cách dùng nó trong việc chọn ngày lành tháng tốt như đã nói ở trên. Quyển Lịch vạn niên là Lịch số Can – Chi, nó mô tả sự biến đổi của khí Thiên can (khí trời) và khí Địa chi (khí đất) để tạo thành sự thay đổi của khí hậu bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông trong một năm, tức là tạo ra sự thay đổi khí hậu của môi trường mà con người phải phụ thuộc vào nó.
Thiên khí và địa khí là nguồn gốc sinh thành vạn vật và người trên thế gian này, nó sinh thành và nuôi sống người và vạn vật theo qui luật “khí biến thì hình hóa thành”, tức là hình thể của người và vạn vật có được là do Thiên khíĐịa khí giao hòa và biến đổi với nhau thì sự vật xuất hiện. Dịch lý có nói: “Trời làm cho SINH mà Đất làm cho THÀNH” là cái lý biến dịch của Thiên khí và Địa khí. Con người sống ở khoảng giữa của Trời – Đất nên phải chịu ảnh hưởng của Thiên khí và Địa khí là điều hiển nhiên mà không cần phải bàn luận. Sự tốt xấu của con người theo từng chu kỳ của cuộc đời hoàn toàn lệ thuộc theo sự biến đổi của Thiên khí và Địa khí, do đó việc kiếm ngày lành tháng tốt cho từng người là phải dựa trên nền tảng tuổi năm sinh của người đó phối hợp với sự biến đổi ở Thiên khí và Địa khí theo các năm tháng ngày giờ mà ta cần tìm. Nếu sự biến đổi đó mà thuận theo tuổi năm sinh can chi của người đó (tương sinh hay đồng hành) thì được gọi là tốt. Nếu mà không thuận (tương khắc) thì gọi là xấu. Do vậy việc tìm kiếm ngày lành tháng tốt là một sự tính toán theo dịch lý can chi của năm tháng ngày giờ mà ta cần chọn chứ không phải theo một quyển sách nào đó đã chọn sẵn rồi cứ thế mà tra như tra từ điển ngoại ngữ.
Thí dụ có người sinh năm Giáp Tý (1984) thì can Giáp thuộc dương Mộc, chi Tý thuộc dương Thủy thì phải hiểu rằng người đó được sinh ra và được hấp thụ bởi khí Thiên can là dương Mộc và khí Địa chi là dương Thủy, theo qui luật tương sinh thì Thủy sinh Mộc tức là Chi sinh Can, do đó tuổi năm sinh giáp Tý là yếu tố cố định suốt cuộc đời nên nó được gọi là CHỦ THỂ. Nếu chọn ngày lành tháng tốt cho chủ thể này tức là phải chọn khách thể mà nó chính là yếu tố năm tháng ngày giờ cần tìm. Theo nguyên lý biến dịch ngũ hành của khách thể so với chủ thể thì sẽ có các trường hợp xẩy ra như sau:
– Nếu ngũ hành can chi của khách thể mà tương sinh hoặc đồng hành với ngũ hành can chi của chủ thể thì được gọi là tốt nhất.
– Nếu ngũ hành can chi của khách thể mà tương khắc so với ngũ hành can chi của chủ thể thì được gọi là xấu.
Từ xưa đến nay người ta hiểu không đúng về ngũ hành bản mệnh nên mới đem nó ra sử dụng không chính xác. Thí dụ tuổi Giáp Tý có mệnh là Hải Trung Kim; tuổi Nhâm Thân có mệnh là Kiếm Phong Kim; tuổi Giáp Ngọ có mệnh là Sa Trung Kim; tuổi Nhâm Dần có mệnh là Kim Bạch Kim. Như vậy có tới 4 loại tuổi trên có Thiên can và Địa chi hoàn toàn khác nhau mà có chung ngũ hành bản mệnh là Kim (cho dù các hình thức Kim là khác nhau, nhưng bản chất Kim vẫn là Kim) thì giống nhau. Nhiều người không hề phân biệt giữa sự giống nhau và khác nhau về ngũ hành bản mệnh so với ngũ hành Thiên can Địa chi của tuổi năm sinh (cục ngũ hành) nên mới đồng hóa tất cả chỉ là một và sử dụng nó một cách hào hứng, tự tin.
Quyển Lịch số vạn niên là một bộ sách mà nó chứa đựng tất cả những gì tinh túy của qui luật vận động từ vũ trụ quan đến nhân sinh quan cuộc sống của con người và vạn vật từ xưa đến nay và mãi mãi về sau; nếu ai hiểu được nó, biết vận dụng nó một cách năng động và sáng tạo thì sẽ thu được những lợi ích, ngược lại thì sẽ rất khó khăn trắc trở.
Như trên đã đề cập, chẳng bao giờ có ngày, tháng, năm, giờ tốt hoặc xấu chung cho tất cả mọi người. Những năm tháng ngày giờ nào mà có lợi cho người đó thì gọi là tốt cho người đó, bất lợi cho người đó thì gọi là xấu cho người đó. Vậy nên yếu tố không gian và thời gian mà người ta cần chọn sẽ làm xuất hiện khái niệm Tốt hoặc Xấu cho người cần chọn. Để dể hiểu thì tuổi năm sinh của người cần chọn là chủ thể, yếu tố không gian và thời gian cần chọn cho người đó là khách thể. Từ đây xuất hiện mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể. Dịch lý học Đông Phương xem chủ thể là yếu tố cố định (năm tháng ngày giờ sinh của chủ thể) và yếu tố khách thể là di động (năm tháng ngày giờ cần chọn). Học thuyết âm dương của dịch lý học nói rằng “một động một tĩnh làm căn bản cho nhau để sinh thành người và vạn vật”, do đó yếu tố Tĩnh là chủ thể thì cố định mà có sẵn vì đó là tuổi can chi năm sinh của người đó, còn yếu tố động là can chi của năm tháng ngày giờ mà ta cần tìm. Từ mối quan hệ giữa Động và Tĩnh của học thuyết âm dương mà dịch lý nêu lên mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể là:
– Nếu khách thể sinh nhập cho chủ thể thì chủ thể được lợi, tức là ngũ hành can chi, cục ngũ hành của khách thể làm lợi cho cục ngũ hành của chủ thể.
– Nếu khách thể đồng hành với chủ thể thì chủ thể cũng được lợi vì cục ngũ hành của khách thể bồi đắp thêm cho cục ngũ hành của chủ thể.
– Nếu khách thể khắc xuất cho chủ thể (tức chủ thể bị khắc nhập) thì chủ thể bị hại. Ngược lại nếu khách thể bị khắc nhập (tức là chủ thể được khắc xuất) thì chủ thể chế ngự và điều hành được khách thể.
Thế nào là cục ngũ hành của chủ thể và khách thể? Cục ngũ hành có nguồn gốc từ tam hợp địa chi (của môn địa lý phong thủy), nghĩa là hợp với ba địa chi có ngũ hành khác nhau để tạo thành một cục ngũ hành chung cho cả ba địa chi đó và cả ba địa chi đó đều chịu sự điều hành và chi phối của cục ngũ hành chung đó. Cụ thể như sau:
1. Thân - Tý - Thìn => cục ngũ hành là Thủy cục
(+Kim) (+Thủy) (+Thổ)
2. Hợi - Mão - Mùi => Mộc cục
(-Thủy) (-Mộc) (-Thổ)
3. Dần - Ngọ - Tuất => Hỏa cục
(+Mộc) (+Hỏa) (+Thổ)
4. Tỵ - Dậu - Sửu => Kim cục
(-Hỏa) (-Kim) (-Thổ)
Bốn cục ngũ hành này trong địa lý phong thủy gọi là Tứ đại cục của ngũ hành hay còn gọi là Tứ long. Thủy cục là Thủy long ở phương Bắc; Hỏa cục là Hỏa long ở phương Nam; Mộc cục là Mộc long ở phương Đông; Kim cục là Kim long ở phương Tây. Bốn cục ngũ hành này chiếm 4 vị trí chính ở Bắc Nam và Đông Tây, nó điều hành khí hậu của 4 mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông, vì vậy cuộc sống của người và vạn vật điều chịu sự ảnh hưởng của bốn cục ngũ hành này. 12 vị trí địa chi (Tý – Sửu – Dần … Tuất – Hợi) tạo ra 4 cục ngũ hành Thủy – Mộc – Hỏa – Kim được gọi là địa chi hình khí, nghĩa là tạo ra khí hậu địa chi lan tỏa và vận hành trên mặt đất, nhờ có khí này kết hợp với khí thiên can ở trời nên người và vạn vật mới được nuôi dưỡng và tồn tại.
Tuổi năm sinh của mỗi người có được là do kết hợp giữa khí thiên can và địa chi của năm sinh ra người đó. Thiên can có ngũ hành của nó và địa chi cũng vậy, do đó khi kết hợp lại với nhau thì tuổi năm sinh của người đó có cục ngũ hành chung như phân tích ở trên.
Thiên can có 10 can (Giáp – Ất – Bính – … – Nhâm – Quý) và địa chi có 12 chi nhưng khi kết hợp lại với nhau theo nguyên tắc dương can đi với dương chi và âm can đi với âm chi thì ta có được 60 loại tuổi can chi khác nhau nhưng đều chịu sự chi phối của 4 cục ngũ hành ở trên. Theo tính chất dịch lý thì thiên can khi phối xuống 12 địa chi thì chỉ có 4 thiên can phối xuống 4 địa chi là đúng cách vì can dương đóng ở chi dương và can âm đóng ở chi âm nên tạo thành âm dương đồng nhất khí, tức là khí tốt lành, còn các thiên can khác thì sai cách vì can dương đóng ở chi âm hoặc can âm đóng ở chi dương nên âm dương hỗn loạn và tạo nên tạp khí là khí xấu (xem hình trên).
Tóm lại ta có 4 thiên can ứng với 4 tam hợp địa chi là:
– Can Canh ở tam hợp địa chi Thân – Tý – Thìn => Thủy cục
– Can Ất ở tam hợp địa chi Hợi – Mão – Mùi => Mộc cục
– Can Giáp ở tam hợp địa chi Dần – Ngọ – Tuất => Hỏa cục
– Can Tân ở tam hợp địa chi Tỵ – Dậu – Sửu => Kim cục
Khi phối với các địa chi trên thì ta có được những năm có thiên can – địa chi vượng khí như sau:
– Năm Canh Thân – Canh Tý – Canh Thìn vượng Thủy cục
– Năm Ất Hợi – Ất Mão – Ất Mùi vượng Mộc cục
– Năm Giáp Dần – Giáp Ngọ – Giáp Tuất vượng Hỏa cục
– Năm Tân Tỵ – Tân Dậu – Tân Sửu vượng Kim cục
Như vậy ta có được 12 loại năm – tháng – ngày – giờ có thiên khí và địa khí vượng. Từ đây các nhà dịch lý Trung Quốc hay Việt Nam xưa kia đã sử dụng nó để tìm các yếu tố khách thể cho chủ thể.
Thí dụ một người có tuổi năm sinh là Bính Tý thì phải chọn yếu tố khách thể như thế nào cho phù hợp với tính chất tương sinh (sinh nhập) hay đồng hành của dịch lý?
Ta làm như sau: địa chi Tý có hành dương Thủy nên phải phối các can dương cho nó là Giáp – Bính – Mậu – Canh – Nhâm. Do đó ta có các năm là Giáp Tý – Bính Tý – Mậu Tý – Canh Tý và Nhâm Tý. Tất cả các loại tuổi Tý này đều có cùng chung cục ngũ hành là Thủy cục. Thủy cục này vượng khí nhất là năm Canh Thân – Canh Tý – Canh Thìn, còn các năm Tý khác thì bị tạp khí. Do đó các loại tuổi khác nhau nếu là chủ thể thì phải chọn khách thể là các năm Canh Thân – Canh Tý – Canh Thìn là tốt vì đúng với dịch lý.
Nếu các năm đó quá xa so với tính chất công việc cần làm thì không thể chờ đợi được, thì có cách chọn khách thể khác của dịch lý đó là chọn tương sinh (sinh nhập) cụ thể là: ta biết rằng chủ thể là tuổi Bính Tý nằm trong tam hợp địa chi Thân – Tý – Thìn có Thủy cục. Theo định luật tương sinh ngũ hành ở Hà Đồ, Thủy cục do Kim cục sinh ra (sinh nhập) nên ta dùng tam hợp địa chi Tỵ – Dậu – Sửu thì có Kim cục. Dùng can Tân phối vào thì có các năm là Tân Tỵ – Tân Dậu – Tân Sửu, đây chính là các năm làm khách thể cho chủ thể Bính Tý cần tìm.
Nếu các năm trên cũng không phù hợp với thực tế của công việc đòi hỏi thì phải dùng tới nguyên lý là khắc xuất của ngũ hành. Chủ thể là Thủy cục thì Thủy khắc chế (khắc xuất) được Hỏa cục. Hỏa cục này ở trong tam hợp địa chi Dần – Ngọ – Tuất nên các năm này đều bị cục Thủy của chủ thể khắc chế. Tuy nhiên đây không phải là cách chọn hay nhưng cũng dùng được mà không sai phạm với nguyên lý của dịch lý. Cách chọn này rất phù hợp với việc tuyển chọn nhân sự của cơ quan nhà nước hay các công ty tư nhân vì chủ thể (Giám đốc) điều hành được khách thể (công nhân) nên việc chọn là dễ và có hiệu quả cao.
Thí dụ trên để mô tả qui trình tìm khách thể cho phù hợp với chủ thể theo nguyên lý âm dương ngũ hành của dịch lý từ bao đời nay mà các bậc nho học uyên bác như cụ Lê Quí Đôn đã từng làm. Đó là qui luật “thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong”, nghĩa là thuận với thiên khí và địa khí của trời đất thì sống (tồn), nghịch với thiên khí của trời đất thì chết (vong), đó là tất yếu khách quan của sự tồn vong của người và vạn vật.
Trong cuộc sống từ xưa đến nay việc chọn khách thể cho chủ thể là điều ai cũng mong muốn nhưng không phải ai cũng làm được và làm đúng làm tốt, do đó phải rất cẩn trọng.
Việc chọn khách thể cho chủ thể là một nhu cầu mong muốn của nhiều người. Nên nhớ rằng không nên quá cầu toàn. Những việc trọng đại như làm nhà, dựng vợ gả chồng cho con cái thì phải có kế hoạch trước đó vài năm thì mới chọn đúng. Những việc gấp thì chỉ chọn ngày hoặc giờ là đủ.
Việc chọn tuổi phù hợp để làm ăn, việc chọn tuổi vợ chồng, việc chọn năm để sinh con, chọn nhân sự của công ty là những vấn đề lớn không thể nói trong bài viết ngắn này, nhưng tất cả các việc làm đó phải tuân thủ theo qui tắc của dịch lý mà tính toán, phân tích để có được phương án tối ưu.

Nguyễn Như Ý
Được cảm ơn bởi: Quan Nguyen, Kim Tứ Cục, cloudstrife, tigerstock68, hói phệ, mp3, Cẩm_Y_Vệ, Cao thủ Chém gió

thongle2010
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 891
Tham gia: 16:41, 28/09/10

TL: CLB Lý Số Miền Nam

Gửi bài gửi bởi thongle2010 »

Tiếp nè.
LỘC - MÃ- TRÀNG SINH TRONG ĐỊA LÝ PHONG THỦY
Địa lý phong thủy ứng dụng triệt để lý thuyết Thiên can – Địa chi và Ngũ hành để tìm Long mạch cho từng vùng đất, miền đất hay nhà ở và mồ mã. Thiên can là Thiên khí của Trời, Địa chi là Địa khí của Đất, cả hai loại khí này đều chứa ngũ hành trong đó. Thiên khí và Địa khí khi phối hợp lại với nhau để tạo thành sinh khí nuôi sống người và vạn vật. Người ta chia bề mặt trái đất thành 12 vị trí khác nhau và mỗi vị trí được gọi là 1 địa chi (là nhánh của đất) và đặt tên gọi của nó theo thứ tự từ Tý – Sửu – Dần – Mão - …- Tuất – Hợi. Nên nhớ rằng tên gọi của các con vật trên là để cho dể nhớ và dể phân biệt chứ không hề mang ý nghĩa và bản chất của các con vật đó cho các địa chi.
Khi Thiên khí của Trời phối hợp với Địa khí của Đất thì sinh ra năm loại khí ngũ hành là Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ. Năm loại khí này vận hành và giao hóa để tạo thành khí hậu bốn mùa Xuân – Hạ - Thu – Đông trong một năm. Đó chính là bản chất quan trọng nhất của Thiên khí và Địa khí và cũng chính là nguồn gốc để tạo thành LONG MẠCH vận hành trong lòng đất. Khí Thiên can ngũ hành của Trời khi lan tỏa xuống mặt đất thì được phân bố tại các địa chi như sau:
- Can Giáp thuộc dương Mộc phối tại địa chi Dần; can Ất thuộc âm Mộc phối tại địa chi Mão. Địa chi Dần thuộc dương Mộc, Địa chi Mão thuộc âm Mộc. Vậy can dương Mộc phối với chi dương Mộc, can âm Mộc phối với chi âm Mộc. Đây là hiện tượng can chi đồng nhất khí nên không có tạp khí chen vào.
- Can Bính thuộc dương Hỏa, can Mậu thuộc thuộc dương Thổ được phối vào địa chi Tỵ thuộc âm Hỏa, đây là cách mà khí Thiên can và Địa chi của ngũ hành không đồng nhất nên sinh ra tạp khí.
- Can Đinh thuộc âm Hỏa, can Kỷ thuộc âm Thổ nhưng được phối vào địa chi Ngọ thuộc dương Hỏa, vì thế khí ngũ hành can chi là tạp khí.
- Can Canh thuộc dương Kim được phối vào địa chi Thân cũng là dương Kim nên ngũ hành can chi là đồng nhất khí.
- Can Tân thuộc âm Kim phối vào địa chi Dậu cũng thuộc âm Kim nên ngũ hành can chi là đồng khí.
- Can Nhâm thuộc dương Thủy được phối vào địa chi Hợi là âm Thủy nên khí ngũ hành là tạp khí.
- Can Quý là âm Thủy được phối vào địa chi Tý là dương Thủy nên khí ngũ hành can chi là tạp khí.
Trong 12 vị trí của Địa chi thì các Địa chi Thìn – Tuất – Sửu – Mùi là khí Thiên can không được phối vào đó vì đó là đất mộ khố, là chổ ngũ hành quy nguyên, là nơi mà khí hậu của bốn mùa đang chuyển đổi cho nên không thể có khí Thiên can vào các vị trí Địa chi đó.
Như vậy khí ngũ hành của Thiên can khi phối vào 8 vị trí Địa chi thì chỉ có can Giáp - Ất tại Dần – Mão và canh Tân tại Thân – Dậu là hợp cách vì Thiên khí và Địa khí đồng hành với nhau, đấy là khí tốt lành vì nó là tinh khí đồng hành của trời đất phối với nhau, tại các địa chi khác thì tạp khí vì âm dương của Thiên khí và Địa khí không đồng hành và trái ngược nhau, do đó những năm mà Thiên khí và Địa khí trái ngược nhau thì khí hậu 4 mùa thay đổi qui luật vận hành của nó và thường gây ra bão lục hoặc hạn hán kéo dài mà không đúng qui luật của tự nhiên.
Các nhà địa lý phong thủy xưa kia vận dụng lý luận về Thiên can áp dụng vào các Địa chi và đặt cho nó cái tên là Lộc tồn, hay còn gọi là Thiên lộc, là phúc tốt lành, là của cải vật chất nuôi sống người và vạn vật mà không bao giờ cạn kiệt, nó cứ tồn tại mãi mãi theo không gian và thời gian. Thực chất của nó là khí Thiên can của ngũ hành của Trời, khí này là nguồn gốc để tạo thành địa khí ở mặt đất để mặt đất mới có sinh khí nuôi dưỡng vạn vật.
Lộc tồn can Giáp tại Dần; can Ất tại Mão; can Bính – Mậu tại Tỵ; can Đinh – Kỷ tại Ngọ; can Canh tại Thân; can Tân tại Dậu; can Nhâm tại Hợi; can Quý tại Tý là những Thiên khí và Địa khí hội tụ lại với nhau và khi nó vận hành trên mặt đất hoặc trong lòng đất thì tạo thành một vòng tuần hoàn biểu diễn các trạng thái mạnh yếu khác nhau trên 12 vị trí địa chi theo qui luật sau:
Lộc Tồn (Bác sỹ) => Lực sỹ => Thanh long => Tiểu hao => Tướng quân => Tấu thư => Phi liêm => Hỷ thần => Bệnh phù => Đại hao => Phục binh => Quan phủ.
Địa chi hình khí có tính chất đặc biệt của nó là do bề mặt Địa chi có hình thể khác nhau nên khí Địa chi cũng có tính và chất khác nhau nhưng luôn tuân theo qui luật là Tam hợp địa chi sinh cục ngũ hành. Nghĩa là địa lý phong thủy lấy ba Địa chi có ngũ hành khác nhau nhưng khi phối hợp lại với nhau thì có được một ngũ hành chung cho cả ba Địa chi đó và được gọi là CỤC NGŨ HÀNH. Cụ thể:
1. Thân (+Kim) – Tý (+Thủy) – Thìn (+Thổ) =>Thủy cục
2. Hợi (-Thủy) – Mão (-Mộc) – Mùi (-Thổ) => Mộc cục
3. Dần (+Mộc) – Ngọ (+Hỏa) – Tuất (+Thổ) => Hỏa cục
4. Tỵ (-Hỏa) – Dậu (-Kim) – Sửu (-Thổ) => Kim cục
Thủy cục có gốc sinh ở địa chi Thân, vượng ở địa chi Tý và mộ ở địa chi Thìn. Hỏa cục có gốc sinh ở Dần, vượng ở Ngọ và mộ ở Tuất. Kim cục có gốc sinh ở Tỵ, vượng ở Dậu và mộ ở Sửu. Địa lý phong thủy dựa vào vị trí gốc sinh của cục ngũ hành mà đặt cho nó một cái tên gọi khác là Tràng sinh để diễn tả chu kỳ vận hành khí của cục ngũ hành qua 12 vị trí địa chi theo một vòng tuần hoàn mà người ta thường gọi là vòng Tràng sinh như sau:
Tràng sinh => Mộc dục => Quan đới => Lâm quan => Đế vượng => Suy => Bệnh => Tử => Mộ => Tuyệt => Thai => Dưỡng.
Như vậy Tràng sinh thủy cục thì được phối ở địa chi Thân; Tràng sinh hỏa cục thì được phối ở địa chi Dần; Tràng sinh mộc cục thì ở địa chi Hợi; Tràng sinh kim cục ở địa chi Tý. Như vậy địa lý phong thủy đã dùng Thiên can để làm thành vòng Lộc tồn và lấy cục ngũ hành của Tam hợp địa chi để làm vòng Tràng sinh. Vị trí của vòng Tràng sinh là ở đất Tứ sinh (Dần – Thân – Tỵ - Hợi), còn vị trí của Lộc tồn là ở Dần – Tỵ - Ngọ - Thân – Dậu – Hợi – Tý – Mão.
Vòng Lộc tồn và Tràng sinh đều chứa ngũ hành của Thiên can và Địa chi. Cả hai loại ngũ hành này không ngừng vận động và chuyển hóa năng lượng cho nhau để tạo ra sinh khí là khí hậu 4 mùa trong năm để nuôi sống người và vạn vật.
Khả năng luân chuyển và sức mạnh của nó vô cùng to lớn vì vậy người xưa ví nó có sức mạnh như con ngựa và đặt tên gọi cho nó là Thiên mã. Thiên mã là sức mạnh của con ngựa ở Trời, nó là hình ảnh biến dịch của 5 loại ngũ hành Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ tại 4 địa chi là Dần – Thân – Tỵ - Hợi, do đó bản thân nó cũng có ngũ hành riêng. Thiên mã được hình thành theo qui luật Tam hợp địa chi như sau:
- Thân – Tý – Thìn => Thiên mã sinh tại địa chi Dần có hành Mộc nên con ngựa này được gọi là Mộc mã (Ngựa của mùa Xuân).
- Dần – Ngọ - Tuất => Thiên mã tại Thân mà địa chi Thân có hành Kim nên được gọi là Kim mã (Ngựa mùa Thu).
- Hợi – Mão – Mùi => Thiên mã tại Tỵ, địa chi Tỵ có hành Hỏa nên được gọi là Hỏa mã (Ngựa mùa Hè).
- Tỵ - Dậu – Sửu => Thiên mã tại Hợi, địa chi Hợi có hành Thủy nên được gọi là Thủy mã (Ngựa mùa Đông).
Mộc mã mùa Xuân, Hỏa mã mùa Hạ, Kim mã mùa Thu, Thủy mã thuộc mùa Đông đó là biểu tượng sức mạnh của khí hậu bốn mùa có được là do sự tổng hợp của Lộc tồn – Thiên mã – Tràng sinh. Người xưa quan niệm rằng con người và vạn vật muốn tồn tại được thì phải có cái ăn và uống nên Lộc tồn (Thiên lộc của Trời) là nguồn lực để nuôi sống người và vạn vật. Cuộc sống của con người và muôn vật tồn tại từ đời này qua đời khác kế tiếp nhau không bao giờ dứt và sự thịnh suy của con người luôn gắn liền với môi trường sống và sự biến đổi của thời cuộc, nó giống như sự thịnh suy của vòng Tràng sinh của cục ngũ hành địa chi. Con người dù ở thời đại nào, hoàn cảnh nào thì cũng phải phấn đấu khắc phục khó khăn gian khổ để vươn lên với tinh thần và nghị lực cao nhất, nó giống như thiên tính mà Trời đã ban cho con ngựa.
Địa lý phong thủy Trung Quốc nghiên cứu về Lộc tồn – Thiên mã – Tràng sinh tức là nghiên cứu về sức mạnh của Trời đất thông qua 12 vị trí địa chi trên mặt đất để sử dụng nó và biến nó thành sức mạnh của con người, tức muốn mượn sức mạnh của Trời đất đã có sẵn làm thành sức mạnh của người. Dịch lý học Phương Đông nói rằng Trời có sức mạnh của Trời, Đất có sức mạnh của Đất và Người có sức mạnh của Người đó là trí tuệ, dùng trí tuệ để sử dụng sức mạnh có sẵn của tự nhiên thì dể thành công mà tốn ít công sức và thời gian.
Địa lý phong thủy dùng vòng Lộc tồn – Tràng sinh và Thiên mã là để thu và nạp Thủy, khử Thủy cho nhà ở hoặc mồ mã để có được khí sinh vượng hội tụ. Khí này là sinh khí sẽ tạo ra cuộc sống ấm no và hạnh phúc, sống khỏe sống lâu và cuộc sống sẽ an khang thịnh vượng.

Nguyễn Như Ý
Được cảm ơn bởi: Quan Nguyen, Kim Tứ Cục, cloudstrife, Phượng Hoàng Lửa, tigerstock68, hói phệ, Cao thủ Chém gió

thongle2010
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 891
Tham gia: 16:41, 28/09/10

TL: CLB Lý Số Miền Nam

Gửi bài gửi bởi thongle2010 »

BÀN VỀ 4 CON RỒNG TRONG ĐỊA LÝ PHONG THỦY THEO DỊCH LÝ HỌC PHƯƠNG ĐÔNG


Học thuyết Âm dương - Ngũ hành và truyền thuyết Hà Đồ - Lạc Thư của dịch lý học Phương Đông đã cho ra đời lịch số Can – Chi mà ngày nay đang sử dụng. Lịch số can chi phân 10 Thiên can và 12 Địa chi phối hợp lại với nhau để có được 60 loại năm khác nhau và gọi là “Lục thập hoa giáp”. Người nào dù nam hay nữ sinh vào năm nào trong vòng Lục thập hoa giáp thì được gọi là tuổi năm sinh của người đó. Thí dụ tuổi giáp Ngọ thì Thiên can là can Giáp, Địa chi là Ngọ. Khoa địa lý phong thủy của Trung Quốc cổ đại phân bề mặt quả địa cầu làm 12 vị trí khác nhau và đặt tên cho nó theo tượng của các con vật như Tý là chuột, Sửu là trâu,…, đến Hợi là con heo (lợn). Trong 12 tên gọi của Địa chi thì con vật nào cũng có thật trong cuộc sống đời thường hoặc hoang dã, duy chỉ có con rồng (Thìn) thì không có thật. Tại sao lại như vậy? Vì con Rồng là huyền thoại mang tính tôn quí và huyền bí của dân tộc Trung Hoa cổ đại. Người Trung Hoa quan niệm rằng con Rồng là biểu tượng quyền uy vũ trụ quan và nhân sinh quan. Nó có sức mạnh huyền bí và biến hóa vô cùng của trời đất, nó là nguồn gốc cơ bản để sinh thành người và vạn vật, vì thế nó không có hình dạng cố định như những con vật tầm thường trên thế gian này, do đó nó là con vật linh thiêng và đầy quyền uy mà vũ trụ giao phó cho nó. Vì thế với đầu óc tưởng tượng đầy tính cách nhân văn và thần bí mà các nhà dịch lý Trung Quốc cổ đại đã mô phỏng hình tượng con Rồng như các bức phù điều, chạm khắc, thêu dệt trên các đồ mỹ nghệ hoặc các đồ dùng, áo mặc của vua chúa thuở xa xưa. Con rồng tuy không có thật nhưng tượng hình của nó và sự linh thiêng tôn kính của nó thì được dân chúng Việt Nam và các nước Đông nam Á tôn kính và thờ phụng như là một con vật linh thiêng từ bao đời nay cho mãi tận mai sau.
Con rồng ở Việt Nam hay ở Trung Quốc hoặc các nước Đông nam Á tuy cách biểu hiện bằng hình vẽ có khác nhau nhưng tính chất dịch lý thì vẫn giống nhau. Thí dụ ở Trung Quốc thuở xưa thì các đồ dùng vật dụng của vua thì khác của quan và dân ở chổ nếu là của vua thì chân Rồng có 5 móng, của quan thì chân Rồng có 4 móng, của dân thì có 3 móng.
Các nhà dịch lý lợi dụng quyền uy của con rồng để phân ra đẳng cấp xã hội từ trên xuống dưới thông qua các móng vuốt của rồng là khác nhau về số lượng nhưng hình thể con rồng và tính chất của con rồng là giống nhau. Sự phân biệt về số lượng móng vuốt là khác nhau để nói lên đẳng cấp xã hội là khác nhau nhưng tâm tính của loài người là giống nhau thông qua hình thể của con rồng là giống nhau.
Trong thế giới tâm linh của đạo phật hay đạo nho giáo thì hình tượng của con Rồng bao giờ cũng được đặt ở vị trí cao quí và tôn quí nhất như ở nóc bàn thờ, đình chùa, bàn thờ và hình tượng con rồng được thiêu dệt trên áo vua mặt, các đồ dùng của vua quan, các sắc phong chiếu chỉ, các họa tiết phong cảnh trên các đồ gốm và vật dụng để vua quan dùng. Tóm lại con rồng là hình tượng tôn nghiêm cao quí và đầy quyền lực, là sức mạnh vô biên mà trời đất đã ban cho nó và nó đã trở thành niềm tin yêu quí mến để tôn thờ cho các dân tộc ở Đông nam Á, nhưng nó chỉ là huyền thoại vì nó là con vật không có thật, nó chỉ là niền tin yêu sùng bái của dân chúng mà thôi. Trong địa lý phong thủy người ta đặt tên con rồng tại địa chi Thìn là chí lý vì nó là hình ảnh đại diện sức mạnh của trời và sự biến hóa vô tiền kháng hậu của trời, đồng thời nó đại diện cho dương khí của trời sinh ra và bắt đầu vượng lên tại địa chi Thìn (khoảng 7 – 9 giờ sáng). Rồng là con vật đứng đầu trong bộ Tứ linh (Long – Lân – Quy – Phượng) và thường kết hợp với con chim Phượng để tạo thành cặp Long – Phượng để biểu tượng cho tình cảm lứa đôi trong các lễ vật cưới hỏi.
Trong địa lý phong thủy thì biểu tượng của con rồng được triển khai bằng 4 cục ngũ hành đó là cục Mộc, cục Hỏa, cục Kim và cục Thủy. Các cục ngũ hành này được hình thành theo nguyên tắc phối hợp 3 địa chi có ngũ hành khác nhau để có được 1 cục ngũ hành chung cho cả 3 địa chi đó. Cụ thể như sau:
1. Thân - Tý - Thìn => Thủy cục
(+Kim) (+Thủy) (+Thổ)

2. Hợi - Mão - Mùi => Mộc cục
(-Thủy) (-Mộc) (-Thổ)

3. Dần - Ngọ - Tuất => Hỏa cục
(+Mộc) (+Hỏa) (+Thổ)

4. Tỵ - Dậu - Sửu => Kim cục
(-Hỏa) (-Kim) (-Thổ)

Cục Thủy vượng khí ở phía Bắc được gọi là Thủy Long. Cục Mộc vượng ở phía Đông được gọi là Mộc Long, cục Hỏa vượng ở phía Nam được gọi là Hỏa Long, cục Kim vượng ở phía Tây được gọi là Kim Long. Bốn con Rồng này có tính chất ngũ hành khác nhau và mỗi con làm chủ 1 phương. Thủy Long có gốc sinh tại địa chi Thân và vượng khí hành Thủy tại địa chi Tý ở phía Bắc, khí này đi vào lòng đất tại địa chi Thìn. Mộc Long sinh tại địa chi Hợi, vượng khí tại địa chi Mão ở chính Đông và tàng ẩn trong lòng đất tại địa chi Mùi. Hỏa Long sinh ở địa chi Dần, vượng khí ở địa chi Ngọ và tàng ẩn ở địa chi Tuất. Kim Long sinh ở địa chi Tỵ, vượng khí tại địa chi Dậu ở chính Tây và tàng ẩn ở địa chi Sửu. Như vậy cả 4 con rồng này đều có gốc sinh, chiều vận hành để diễn tả sự biến hóa và sức mạnh của nó theo qui luật là SINH – VƯỢNG – MỘ tại các tam hợp địa chi của nó.
Tính chất biến hóa của 4 con rồng này là để sinh ra khí hậu của 4 mùa Xuân – Hạ - Thu – Đông của 1 năm.
Tại 4 địa chi Dần – Thân – Tỵ - Hợi là nơi của 4 con rồng được sinh ra thì người ta gọi là Tứ sinh. Tại 4 địa chi Tý – Ngọ - Mão – Dậu là 4 nơi qui tụ sức mạnh của rồng thì được gọi là Tứ chính. Tại 4 địa chi Thìn – Tuất – Sửu – Mùi nơi mà rồng ẩn nấp gọi là Tứ mộ. Tứ mộ là nơi rồng tàng ẩn để chuyển đổi trạng thái ngũ hành của nó để sinh thành khí hậu 4 mùa Xuân – Hạ - Thu – Đông nối tiếp nhau. Các nhà địa lý phong thủy dựa vào 4 con rồng này để tìm long mạch triều về hướng nhà ở hoặc mộ phần để thu Thủy và phóng Thủy cho đúng phép vận hành của con rồng. Long mạch là khí mạch của 4 con rồng vận hành trong lòng đất nhưng nó vẫn để lại các vết tích của nó ở trên mặt đất như các sống đất, các doi đất chạy vòng vèo hoặc các dòng chảy của sông suối, các ao hồ có nước luân lưu v.v…chính là các vết tích của rồng để lại trên mặt đất, do đó các nhà địa lý phải dựa vào đó để tìm Long mạch. Nhờ có 4 con rồng này vận hành ở trong lòng đất thì đất mới có khí mạch, nhờ có khí mạch mà đất mới có các tính chất của Thổ nhưỡng khác nhau. Những vùng đất, miền đất mà có nhiều Long mạch giao hội với nhau thì chất đất ở đó rất thịnh vượng nên cây cối tốt tươi và cuộc sống của con người ở nơi đó sẽ giàu sang phú quí.
Bốn con rồng này luôn có quan hệ với Phong (gió) và Thủy (nước). Nếu vùng đất nào mà gió thổi nhiều mà không có nước vây hãm thì khí mạch của Long tàn đi hết và đất trở nên cằn cỗi nên được gọi là đất vô khí. Nếu vùng đất nào mà có nước quanh năm thì cản được gió nên khí mạch của Long mạch tụ lại và vùng đất đó trở nên trù phú, tức là đất vượng khí.
Trong bát quái Hà Đồ và Lạc Thư thì quẻ Càn là trời nhưng tượng của nó là con Rồng. Thoán từ ở kinh dịch nói rằng trời có 4 đức lớn đó là Nguyên – Hanh – Lợi – Trinh, đức của trời là thiện tính của rồng. Đức nguyên của trời là nguồn gốc đầu tiên của vũ trụ giống như muôn vật bắt đầu mới sinh ra. Đức Hanh của trời là làm ra mây mưa gió khí hậu 4 mùa để vạn vật sinh trưởng và trường tồn mãi mãi. Đức Lợi là muôn vật được thỏa để khiến cho vật gì cũng giữ được thiên tính của nó. Đức Trinh là muôn vật đã thành, do đó khi nói về tính nhân văn của Càn thì đức Nguyên là chuyên làm những việc thiện, việc nghĩa và Càn tượng trưng cho người quân tử. Đức Lợi thì chỉ về những sự chính bền theo đạo Trung chính nhân hòa để có được cuộc sống phúc thọ khang ninh. Đức Hạnh và Đức Trinh thì việc nào xứng với việc ấy nên người quân tử có 4 đức là Nhân – Lễ - Nghĩa – Trí -Tín. Nhân là đức lớn nhất là cái gốc của lòng người, nó giống đức Nguyên của trời. Lễ là hợp với đạo lý, hợp với đạo lý thì hanh thông nó giống với đức Hạnh của trời. Nghĩa là làm cho mọi người được vui vẻ và sung sướng, nó giống với đức Lợi của trời. Trí là sáng suốt, biết phân biệt thiện ác đúng sai để hành sự cho đúng đắn và có kết quả tốt đẹp, nó giống với đức Trinh của trời.
Tóm lại hình ảnh của 4 con Rồng trong địa lý phong thủy chính là thiên khí của trời và địa khí của đất giao hội lại với nhau để có được 4 cục ngũ hành cai quản 4 phương chính của 12 vị trí địa chi. Bốn cục ngũ hành này là nguồn gốc cơ bản để tạo ra khí hậu của 4 mùa trong năm. Sự biến đổi khí hậu của trời đất để nuôi sống người và vạn vật. Người xưa ví như sự biến hóa huyền ảo của con Rồng nên mới gọi là Tứ long trong địa lý phong thủy cổ đại.

Nguyễn Như Ý
Được cảm ơn bởi: Kim Tứ Cục, cloudstrife, Phượng Hoàng Lửa, tigerstock68, hói phệ, Cao thủ Chém gió

thongle2010
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 891
Tham gia: 16:41, 28/09/10

TL: CLB Lý Số Miền Nam

Gửi bài gửi bởi thongle2010 »

TỨ TƯỢNG NGŨ HÀNH TOÀN TẠI THỔ TRONG ĐỊA LÝ PHONG THỦY
Địa lý phong thủy là sản phẩm của dịch lý học Đông Phương nó nghiên cứu về dương trạch (nhà ở) và âm phần (mồ mã) để phục vụ cuộc sống của con người. Ngũ hành là học thuyết về vật chất có sớm nhất của Trung Quốc cổ đại. Nguồn gốc của ngũ hành (Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ) là ở Hà Đồ. Trong Hà Đồ thì dịch lý nói rằng: “Trời đất đều có số cả”. Số trời thuộc dương là các số lẽ 1 – 3 – 5 – 7 – 9. Số đất thuộc âm là các số chẵn 2 – 4 – 6 – 8 – 10. Trời đất không thể chia lìa nhau nên các số của nó phải hợp lại với nhau thì thành ngũ hành, nhờ có ngũ hành mà con người và vạn vật mới được sinh thành theo nguyên lý sau: trời lấy số 1 sinh hành Thủy, đất lấy số 6 mà làm cho thành nước. Đất lấy số 2 sinh hành Hỏa, trời lấy số 7 làm cho thành Lửa. Trời lấy số 3 sinh hành Mộc, đất lấy số 8 làm cho thành cây cối (Gỗ). Đất lấy số 4 sinh hành Kim, trời lấy số 9 làm thành Kim loại. Trời lấy số 5 sinh hành Thổ, đất lấy số 10 làm thành đất. Ngũ hành là 5 tố vật chất để cấu thành người và vạn vật. Thuyết ngũ hành được chia ra làm 2 giai đoạn đó là ngũ hành ở trạng thái vô hình tức là khí của ngũ hành và giai đoạn hữu hình tức là hình thể của muôn vật muôn loài có khắp trong vũ trụ và trên mặt địa cầu. Dịch lý nói rằng: khí ngũ hành tan loãng ra hết mức thì thành khí ngũ hành ở dạng vô hình; khí ngũ hành co lại hết mức thì thành hữu hình ở dạng hình thổ của vạn vật. Dù là vô hình hay hữu hình thì Tính và Chất của ngũ hành không bao giờ thay đổi nhưng Hình và Thể thì khác nhau.

Trong 5 loại ngũ hành thì hành Thổ là quan trọng nhất vì nó chứa đựng 4 hành Kim – Mộc – Thủy – Hỏa. Nếu không có Thổi thì hành Mộc là cây cối lấy gì mà sống. Nếu không có Thổ thì Thủy (nước) không thể tụ lại thành ao hồ, biển cả và nước không thể chảy thành sông suối. Nếu không có Thổ thì không có kim loại vì không có mỏ khoáng sản. Hành Hoả là Lửa thì nhờ có Thổ nên nó cháy trên mặt đất, ngay như Núi lửa cũng từ lòng đất mà phát ra. Tất cả sản vật nuôi sống người và và vạn vật điều có gốc từ Thổ mà sinh ra. Các vật dụng như chén bát, nồi đất, đồ sành sứ gốm, vật liệu xây dựng như gạch ngói, xi măng đều do Thổ mà có. Do tầm mức quan trọng như vậy nên dịch lý mới nói “Tứ tượng, ngũ hành toàn tại Thổ” là chí tình và chí lý.

Trong bát quái thì quẻ Khôn thuộc âm Thổ và quẻ Cấn thuộc dương Thổ. Trong vũ trụ thì quả đất là Thổ, trong 12 vị trí địa chi thì Thổ vừa ở trung tâm địa cầu vừa được phân bố vào các địa chi là Thìn – Tuất thuộc dương Thổ và Sửu – Mùi thuộc âm Thổ như mô hình sau:


Khí Thiên can của ngũ hành ở trời khi giáng xuống mặt đất thì được mặt đất hấp thụ và nhờ có hành Thổ chiếm giữ 4 vị trí là Thìn – Mùi – Tuất – Sửu để làm ranh giới cho các hành khác để tạo ra qui luật tương sinh của ngũ hành đó là Thủy sinh Mộc – Mộc sinh Hỏa – Hỏa sinh Thổ - Thổ sinh Kim và Kim sinh Thủy. 12 vị trí địa chi cũng là cũng chính là 12 tháng trong 1 năm và sinh ra 4 mùa Xuân – Hạ - Thu – Đông. Mùa Xuân hành Mộc gồm các tháng Dần – Mão – Thìn, mùa Hạ hành Hỏa gồm các tháng Tỵ - Ngọ - Mùi, mùa Thu hành Kim gồm các tháng Thân – Dậu – Tuất, mùa Đông hành Thủy gồm các tháng Hợi – Tý – Sửu. Các tháng Thìn cuối mùa Xuân, Mùi cuối mùa Hạ, Tuất cuối mùa Thu, Sửu cuối mùa Đông là các tháng thuộc hành Thổ nó có trọng trách rất lớn để điều hành khí hậu 4 mùa trong một năm.
Hành Thổ ở trong cơ thể con người chính là cái dạ dày (Bao tử) vì thức ăn, nước uống và các thứ thực phẩm khác như hoa hỏa, thuốc uống, rựa bia v.v… đều phải tụ tập ở đó để rồi dạ dày chuyển đổi chúng thành các tinh chất để cung cấp cho Lục phủ ngũ tạng của cơ thể và nuôi sống con người, tạp chất thì thải ra ngoài.

Trong Đông y thì tất cả các vị thuốc đều có chức năng là chữa bệnh hoặc bồi bổ sức khỏe cho con người, duy có vị thuốc là Cam thảo đóng vai trò của hành Thổ, nó có vai trò điều hòa và hóa giải trong trường hợp các vị thuốc chữa bệnh có độc tố quá cao hoặc các vị thuốc bồi dưỡng sức khỏe mà cơ thể không thể hấp thụ được. Cả hai trường hợp này thì Cam thảo đóng vai trò điều hành và hóa giải giống như hành Thổ của trời đất. Trong các món ăn mà người Việt Nam, Trung Quốc hoặc các nước ĐôngNam Á thường dùng thì bao giờ cũng có gia giảm thêm gia vị là Gừng tươi, vì nó có tác dụng khử mùi tanh của Cá và mùi khó chịu của Thịt. Gừng đóng vai trò là hành Thổ để hóa giải khi ta bị chứng đau bụng đầy hơi và tống khử những gì không tiêu hóa được đang tồn động lại ở dạ dày. Củ Cam thảo, Gừng điều có màu vàng là màu của hành Thổ và điều có chức năng là làm ấm cơ thể, giúp cơ thể chống lại tà khí bên ngoài xâm nhập vào và tống khử tà khí ở bên trong ra ngoài; đó chính là các chức năng điều hòa và hóa giải của hành Thổ.

Chu Liêm Khê là nhà dịch lý học nổi tiếng của Trung Quốc cổ đại có nói: “Dương biến âm hợp nên sinh ra Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ. Năm khí thuận bố thì tứ thời vận hành và vạn vật cứ sinh rồi lại sinh, biến hóa vô cùng vô tận”. Như vậy cái gốc của ngũ hành chính là do sự biến hóa của hai khí âm dương mà có được. Trong Hà Đồ thì số 5 và 10 ở giữa là số của hành Thổ, trong Lạc Thư thì chỉ có số 5 ở giữa là hành Thổ để điều hành 4 hành là Mộc ở phái Đông, Hỏa ở phía Nam, Kim ở phía Tây và Thủy ở phía Đông. Ở Hà Đồ là Thể của dịch nên ngũ hành là 5 chất khí của trời phân bố theo 4 phương chính và ở trung cung; còn ở Lạc Thư là Dụng của dịch nên 5 chất khí của ngũ hành tạo ra khí hậu 4 mùa Xuân – Hạ - Thu – Đông. Thể và Dụng của ngũ hành đều do hành Thổ điều hành để tạo ra thời khí trong năm. Hành Thổ là nền tảng và động lực để tạo thành sự sinh khắc chế hóa của các hành khác vì thế dịch lý mới nói: “mùa Hạ và mùa Thu giao khí cho nhau thì Khôn Thổ chen vào giữa (tại địa chi Mùi) để biến khắc thành sinh. Mùa Đông và mùa Xuân giao khí cho nhau thì Cấn Thổ (tại địa chi Sửu) chen vào giữa để đổi sinh làm khắc”. Mùa Hạ thuộc hành Hỏa, mùa Thu thuộc hành Kim nên Hỏa khắc Kim là thuộc tính tự nhiên của ngũ hành, nhưng vì nó có hành Thổ của quẻ Khôn tại địa chi Mùi nên buộc Hỏa phải sinh Thổ để rồi Thổ mới sinh Kim cho mùa Thu, do vậy Thổ ở Mùi đóng vai trò là cầu nối trung gian để chuyển đổi Hỏa Kim tương khắc thành tương sinh. Đây chính là vai trò chuyển tiếp hóa giải của hành Thổ.

Khi mùa Đông giao khí cho mùa Xuân theo qui luật Thủy mùa Đông sinh Mộc mùa Xuân là tương sinh thì hành Thổ quẻ Cấn tại địa chi Sửu chen vào giữa để tạo thành tương khắc là Thủy khắc Thổ và Thổ lại khắc Mộc của mùa Xuân, tức là thay đổi qui luật Thủy mùa Đông sinh Mộc mùa Xuân thành tương khắc. Đã là tương khắc thì làm sao hành Mộc của mùa Xuân lại được sinh thành? Tương khắc của hành Thổ tại địa chi Sửu đóng vai trò giống như là một cái Van tự động điều tiết của hành Thủy để cho hành Thủy không bị cạn kiệt mà tạo điều kiện cho quá trình tương sinh được xảy ra từ từ, nếu không có Thổ ngăn cản thì hành Mộc của mùa Xuân sẽ bị chìm ngập giống như nước lũ tràn về làm ngập úng cây cối. Như vậy chính hành Thổ đã đổi Sinh thành Khắc và đổi Khắc thành Sinh.

Khi mùa Xuân giao khí cho mùa Hạ hành Hỏa thì hành Thổ tại Thìn lại đóng vai trò tương sinh là Mộc mùa Xuân sinh Hỏa cho mùa Hạ nhưng hành Thổ ở địa chi Thìn lại khắc hành Mộc của mùa Xuân để kìm hãm ngăn không cho hành Mộc sinh Hỏa quá mức để duy trì sự sống còn và tồn tại của hành Mộc và tạo điều kiện cho hành Hỏa được sinh ra từ từ nên khí hậu của mùa Hạ được nóng lên từ từ, do đó hành Mộc vẫn còn mà hành Hỏa vẫn được sinh ra.
Khi mùa Thu giao khí cho mùa Đông theo qui luật tương sinh là Kim mùa Thu sinh Thủy cho mùa Đông thì hành Thổ tại địa chi Tuất chen vào giữa tạo thành hiện tượng Thổ sinh Kim để rồi Kim lại sinh Thủy, lúc này Thổ đóng vai trò tiếp tế cho hành Kim vượng lên.

Như vậy hành Thổ đã đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình hình thành khí hậu của 4 mùa trong năm.

Địa lý phong thủy rất quan tâm tới hành Thổ trong việc làm nhà ở hoặc mồ mả. Nền nhà ở là hành Thổ nên nó có quan hệ với 4 hành khác là hành Mộc ở phía Đông, hành Hỏa ở phía Nam, hành Kim ở phía Tây, hành Thủy ở phía Bắc. Bốn phương này có 4 hành khác nhau và có ảnh hưởng lớn với hành Thổ của nền nhà ở. Nếu nhà ở có hướng Đông thì hành Mộc khắc với Thổ nhưng chỉ khắc về mùa Xuân; nếu nhà ở có hướng Nam thì hành Hỏa sẽ sinh Thổ về mùa Hạ; nếu nhà ở hướng Tây thì hành Thổ sẽ sinh Kim về mùa Thu; nếu nhà ở hướng Bắc thì hành Thổ sẽ khắc Thủy về mùa Đông. Do đó trong một năm thì khí ngũ hành trong căn nhà liên tục thay đổi và vận hành theo tính chất của hành Thổ ở nền nhà. Từ đây ta thấy rằng hướng nhà chưa phải là điều quan trọng mà vị trí địa cuộc của hành Thổ là quan trọng hơn vì nó chịu ảnh hưởng rất lớn tới tính chất tốt xấu của thổ nhưỡng của mỗi vùng miền là khác nhau. Do đó nếu tuổi của chủ nhà hợp với hướng nhà hoặc ngược với hướng nhà thì vẫn phải bị chi phối với qui luật biến đổi trên do hành Thổ tạo ra. Địa lý phong thủy quan tâm tới những vùng đất, miền đất, khu đất có địa thế khí vượng vì nó sẽ sinh ra người hào kiệt và sản vật phong phú cho dù là ngược hướng, tuy nhiên nếu kết hợp được cả hướng thì lại càng tốt hơn, vì thế người ta thường quan tâm tới Hướng mà bỏ qua Thế là sai lầm.

Địa lý phong thủy phân 12 vị trí địa chi thành 3 nhóm là: Tứ sinh – Tứ chính – Tứ mộ.
- Tứ sinh là Dần – Tỵ - Thân – Hợi.
- Tứ chính là Mão – Ngọ - Dậu – Tý.
- Tứ mộ là Thìn – Mùi – Tuất – Sửu.

Tứ sinh là nơi khí hậu của 4 mùa được sinh ra; Tứ chính là nơi khí hậu 4 mùa vượng nhất; Tứ mộ là nơi khí hậu 4 mùa chui vào lòng đất để chuyển đổi trạng thái của ngũ hành. Tứ mộ thuộc hành Thổ mà sách xưa nói rằng đó là nơi vũ khí qui nguyên hay là đất mộ khố. Tứ sinh – Tứ chính – Tứ mộ là qui luật vận hành của 4 khí ngũ hành Kim – Mộc – Thủy – Hỏa sau 1 chu kỳ thì lại quay về tại vị trí là mộ khố của 4 địa chi Thìn – Tuất – Sửu – Mùi thuộc hành Thổ. Vì lý do này nên dịch lý mới nói rằng “Tứ tượng ngũ hành toàn tại thổ” là do các yếu tố đã nêu ở trên. Trong địa lý phong thủy người ta dùng qui luật “Tam hợp địa chi sinh cục ngũ hành” để tìm ra Long mạch vận hành trong và trên mặt đất để thâu Thủy và phóng Thủy cho đúng với phong thủy địa lý. Thây Thủy là phép lấy khí sinh vượng của cục ngũ hành vào hướng nhà, phóng Thủy là lấy vị trí Thìn – Tuất – Sửu – Mùi làm chổ thoát nước ra khỏi nhà (sẽ có các bài sau).

Tóm lại bàn về câu “Tứ tượng ngũ hành toàn tại thổ” như trên là chưa đủ vì nó còn bao quát và rộng lớn hơn nhiều mà kiến thức của tôi thì chưa đủ sức, đủ tầm để trình bày, rất mong được sự đóng góp chân tình của các quí vị độc giả.

Nguyễn Như Ý
Sửa lần cuối bởi thongle2010 vào lúc 20:12, 09/08/11 với 1 lần sửa.
Được cảm ơn bởi: Kim Tứ Cục, cloudstrife, Phượng Hoàng Lửa, tigerstock68, hói phệ, Cao thủ Chém gió

thongle2010
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 891
Tham gia: 16:41, 28/09/10

TL: CLB Lý Số Miền Nam

Gửi bài gửi bởi thongle2010 »

trên đây là những giới thiệu 1 chút về ứng dụng của dịch lý vào cuộc sống.
Được cảm ơn bởi: Phượng Hoàng Lửa, tigerstock68

Hình đại diện của thành viên
Thiện Minh
Hội viên CLB
Hội viên CLB
Bài viết: 1654
Tham gia: 08:19, 04/07/10
Đến từ: Tp HCM 0936722711

TL: CLB Lý Số Miền Nam

Gửi bài gửi bởi Thiện Minh »

Chào bạn em chau !
Như bạn đã biết Thiện Minh lập nên topic này chủ yếu để giao lưu với những hội viên và cùng nhau khảo cứu huyền học.

Thế nhưng bạn thường tỏ vẻ ra mình là cao nhân chăng ? không xem ai ra gì chăng ?
Nay Thiện Minh nói thật lòng cho dù bạn uống cạn biển tứ hải, tri kiến bạn vẫn nghèo nàn.
Thôi thì Thiện Minh tặng bạn tứ cú :

Pháp pháp hà tằng pháp
Huyễn pháp phi huyễn pháp
Phi pháp phi phi pháp
Hà cố nạn vấn pháp

Khi nào bạn hiểu được tứ cú này thì hãy gặp trực tiếp Thiện Minh nhé ???
Được cảm ơn bởi: Kim Tứ Cục, tutruongdado, tigerstock68, hói phệ, Cao thủ Chém gió

Cao thủ Chém gió
Mới gia nhập
Mới gia nhập
Bài viết: 42
Tham gia: 12:45, 08/08/11

TL: CLB Lý Số Miền Nam

Gửi bài gửi bởi Cao thủ Chém gió »

Những kiến thức mà người ta suy nghĩ nát óc mới hiểu được những ý tưởng thâm sâu của nó. Nếu kinh dịch mà dễ học, dễ hiểu thì nói làm gì. Những kiến thức này không những dành cho người có trí tuệ mà còn cho người có duyên mới lĩnh hội được nó.

Hiểu đúng và đủ những kiến thức đó cả là một vấn đề. Nếu có duyên sẽ được hướng dẫn theo tinh thần cầu thị học hỏi. Còn nếu theo kiểu khích bác thách đố thì có cho vàng người ta cũng chẳng mở lời đâu.

Vài lời phán bậy.
Được cảm ơn bởi: hói phệ

mysterious
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1578
Tham gia: 10:51, 10/05/10

TL: CLB Lý Số Miền Nam

Gửi bài gửi bởi mysterious »

Cái Bang đã viết:Bác emchau vui tính thế nhẩy :)) :)) :))
Có cái ăn nào không dùng miệng mà được no không nhẩy ?
Ăn, uống, nhai, nuốt, ngậm hòa tan...có động tác nào mà không dùng miệng vẫn được no bụng chỉ cho lão với !
- Có , hehe , ăn Không Khí :D he he ... !

- Mys đăng ký một chân với ! :)

uyenminh
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 127
Tham gia: 15:45, 19/01/11

TL: CLB Lý Số Miền Nam

Gửi bài gửi bởi uyenminh »

Quá gớm. CLB toàn các cao thủ. Em chẳng biết gì về học thuật nhưn vẫn xin đăng ký 1 chân để rót trà, rót rượu cho các cao thủ đàm đạo hehehehe.

Hình đại diện của thành viên
tuanlm_fpt
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 575
Tham gia: 15:22, 02/03/10

TL: CLB Lý Số Miền Nam

Gửi bài gửi bởi tuanlm_fpt »

uyenminh đã viết:Quá gớm. CLB toàn các cao thủ. Em chẳng biết gì về học thuật nhưn vẫn xin đăng ký 1 chân để rót trà, rót rượu cho các cao thủ đàm đạo hehehehe.

Có người xí chỗ rót trà rồi. Tôi xin vào làm gì đây? Bác Minh mà cho làm lao công thì chết dở! =))

Đã khóa