BÀN LUẬN : CHỌN NĂM - THÁNG -NGÀY- GIỜ TỐT THEO SINH KHẮC CAN CHI NGŨ HÀNH
Từ xưa dân tộc ta đã có truyền thống chọn ngày lành tháng tốt để thực hiện những công việc quan trọng trong cuộc sống như làm nhà, cưới hỏi, khai trương, xuất hành v.v… Tóm lại việc chọn ngày lành tháng tốt là một nhu cầu cần thiết trong mọi lĩnh vực của cuộc sống không những ở Việt Nam mà là phong tục tập quán của các nước Đông Nam Á.
Hiện nay việc chọn ngày lành tháng tốt rất được nhiều người quan tâm. Có nhiều loại sách chuyên xem ngày tháng như Lịch vạn sự, sách xem ngày lành tháng tốt của từng năm v.v…
Vấn đề được đặt ra là có năm, tháng, ngày, giờ tốt hay xấu không? Thế nào là tốt hay xấu? Cách chọn tốt xấu dựa trên cơ sở lý luận nào và có đúng với thực tiễn không?
Tôi xin nêu ra một thí dụ. Năm nay là năm Tân Mão, tháng mà tôi đang viết bài này là tháng Tân Mão, ngày Mậu Dần, giờ Tý là giờ Nhâm Tý. Hỏi rằng 4 yếu tố năm, tháng, ngày, giờ trên là tốt hay xấu? Về mặt lý luận thì chưa bàn cãi tới còn về mặt thực tiễn thì có hàng ngàn đứa trẻ ra đời, có hàng người được thăng chức, có hàng ngàn nhà kinh doanh phát tài. Ngược lại thì có hàng ngàn người chết hoặc nhập viện vì ốm đau, có hàng trăm vụ tai nạn giao thông đang xảy ra, có hàng ngàn vụ tham nhũng được khởi tố v.v…
Như vậy năm tháng ngày giờ là giống nhau mà sự tốt xấu của mỗi người là khác nhau do đó ta khẳng định được rằng không hề có năm tháng ngày giờ xấu hoặc tốt chung cho tất cả mọi người như các sách đã viết nhiều người đã và đang làm. Cùng yếu tố không gian và thời gian như nhau nếu người nào được lợi thì gọi là tốt, nếu không được lợi mà bị hại thì cho là xấu. Sự tốt xấu của năm tháng ngày giờ là phụ thuộc vào tuổi năm sinh của từng người và yếu tố thời vận của người đó. Do đó cũng là một con người đó mà có năm thì tốt, có năm thì xấu và có năm thì bình thường (chẳng tốt mà chẳng xấu).
Quan điểm về sự tốt xấu của năm tháng ngày giờ xuất phát từ khi nền dịch lý học của Trung Quốc ra đời từ xưa và truyền lại cho tới ngày nay. Nó chính là học thuyết về âm dương – ngũ hành – bát quái mà bộ sách kinh dịch đã trình bày. Vậy thì ai là người am hiểu nó và biết vận dụng nó để tính toán và tìm ra được các qui luật xuất hiện sự tốt xấu cho từng người khác nhau. Ngày nay chúng ta rất may mắn là kế thừa được quyển Lịch vạn niên có nguồn gốc xuất xứ từ Trung Quốc cổ đại. Người nào cũng biết, chỉ có điều là ít người hiểu và không biết cách dùng nó trong việc chọn ngày lành tháng tốt như đã nói ở trên. Quyển Lịch vạn niên là Lịch số Can – Chi, nó mô tả sự biến đổi của khí Thiên can (khí trời) và khí Địa chi (khí đất) để tạo thành sự thay đổi của khí hậu bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông trong một năm, tức là tạo ra sự thay đổi khí hậu của môi trường mà con người phải phụ thuộc vào nó.
Thiên khí và địa khí là nguồn gốc sinh thành vạn vật và người trên thế gian này, nó sinh thành và nuôi sống người và vạn vật theo qui luật “khí biến thì hình hóa thành”, tức là hình thể của người và vạn vật có được là do Thiên khí và Địa khí giao hòa và biến đổi với nhau thì sự vật xuất hiện. Dịch lý có nói: “Trời làm cho SINH mà Đất làm cho THÀNH” là cái lý biến dịch của Thiên khí và Địa khí. Con người sống ở khoảng giữa của Trời – Đất nên phải chịu ảnh hưởng của Thiên khí và Địa khí là điều hiển nhiên mà không cần phải bàn luận. Sự tốt xấu của con người theo từng chu kỳ của cuộc đời hoàn toàn lệ thuộc theo sự biến đổi của Thiên khí và Địa khí, do đó việc kiếm ngày lành tháng tốt cho từng người là phải dựa trên nền tảng tuổi năm sinh của người đó phối hợp với sự biến đổi ở Thiên khí và Địa khí theo các năm tháng ngày giờ mà ta cần tìm. Nếu sự biến đổi đó mà thuận theo tuổi năm sinh can chi của người đó (tương sinh hay đồng hành) thì được gọi là tốt. Nếu mà không thuận (tương khắc) thì gọi là xấu. Do vậy việc tìm kiếm ngày lành tháng tốt là một sự tính toán theo dịch lý can chi của năm tháng ngày giờ mà ta cần chọn chứ không phải theo một quyển sách nào đó đã chọn sẵn rồi cứ thế mà tra như tra từ điển ngoại ngữ.
Thí dụ có người sinh năm Giáp Tý (1984) thì can Giáp thuộc dương Mộc, chi Tý thuộc dương Thủy thì phải hiểu rằng người đó được sinh ra và được hấp thụ bởi khí Thiên can là dương Mộc và khí Địa chi là dương Thủy, theo qui luật tương sinh thì Thủy sinh Mộc tức là Chi sinh Can, do đó tuổi năm sinh giáp Tý là yếu tố cố định suốt cuộc đời nên nó được gọi là CHỦ THỂ. Nếu chọn ngày lành tháng tốt cho chủ thể này tức là phải chọn khách thể mà nó chính là yếu tố năm tháng ngày giờ cần tìm. Theo nguyên lý biến dịch ngũ hành của khách thể so với chủ thể thì sẽ có các trường hợp xẩy ra như sau:
– Nếu ngũ hành can chi của khách thể mà tương sinh hoặc đồng hành với ngũ hành can chi của chủ thể thì được gọi là tốt nhất.
– Nếu ngũ hành can chi của khách thể mà tương khắc so với ngũ hành can chi của chủ thể thì được gọi là xấu.
Từ xưa đến nay người ta hiểu không đúng về ngũ hành bản mệnh nên mới đem nó ra sử dụng không chính xác. Thí dụ tuổi Giáp Tý có mệnh là Hải Trung Kim; tuổi Nhâm Thân có mệnh là Kiếm Phong Kim; tuổi Giáp Ngọ có mệnh là Sa Trung Kim; tuổi Nhâm Dần có mệnh là Kim Bạch Kim. Như vậy có tới 4 loại tuổi trên có Thiên can và Địa chi hoàn toàn khác nhau mà có chung ngũ hành bản mệnh là Kim (cho dù các hình thức Kim là khác nhau, nhưng bản chất Kim vẫn là Kim) thì giống nhau. Nhiều người không hề phân biệt giữa sự giống nhau và khác nhau về ngũ hành bản mệnh so với ngũ hành Thiên can Địa chi của tuổi năm sinh (cục ngũ hành) nên mới đồng hóa tất cả chỉ là một và sử dụng nó một cách hào hứng, tự tin.
Quyển Lịch số vạn niên là một bộ sách mà nó chứa đựng tất cả những gì tinh túy của qui luật vận động từ vũ trụ quan đến nhân sinh quan cuộc sống của con người và vạn vật từ xưa đến nay và mãi mãi về sau; nếu ai hiểu được nó, biết vận dụng nó một cách năng động và sáng tạo thì sẽ thu được những lợi ích, ngược lại thì sẽ rất khó khăn trắc trở.
Như trên đã đề cập, chẳng bao giờ có ngày, tháng, năm, giờ tốt hoặc xấu chung cho tất cả mọi người. Những năm tháng ngày giờ nào mà có lợi cho người đó thì gọi là tốt cho người đó, bất lợi cho người đó thì gọi là xấu cho người đó. Vậy nên yếu tố không gian và thời gian mà người ta cần chọn sẽ làm xuất hiện khái niệm Tốt hoặc Xấu cho người cần chọn. Để dể hiểu thì tuổi năm sinh của người cần chọn là chủ thể, yếu tố không gian và thời gian cần chọn cho người đó là khách thể. Từ đây xuất hiện mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể. Dịch lý học Đông Phương xem chủ thể là yếu tố cố định (năm tháng ngày giờ sinh của chủ thể) và yếu tố khách thể là di động (năm tháng ngày giờ cần chọn). Học thuyết âm dương của dịch lý học nói rằng “một động một tĩnh làm căn bản cho nhau để sinh thành người và vạn vật”, do đó yếu tố Tĩnh là chủ thể thì cố định mà có sẵn vì đó là tuổi can chi năm sinh của người đó, còn yếu tố động là can chi của năm tháng ngày giờ mà ta cần tìm. Từ mối quan hệ giữa Động và Tĩnh của học thuyết âm dương mà dịch lý nêu lên mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể là:
– Nếu khách thể sinh nhập cho chủ thể thì chủ thể được lợi, tức là ngũ hành can chi, cục ngũ hành của khách thể làm lợi cho cục ngũ hành của chủ thể.
– Nếu khách thể đồng hành với chủ thể thì chủ thể cũng được lợi vì cục ngũ hành của khách thể bồi đắp thêm cho cục ngũ hành của chủ thể.
– Nếu khách thể khắc xuất cho chủ thể (tức chủ thể bị khắc nhập) thì chủ thể bị hại. Ngược lại nếu khách thể bị khắc nhập (tức là chủ thể được khắc xuất) thì chủ thể chế ngự và điều hành được khách thể.
Thế nào là cục ngũ hành của chủ thể và khách thể? Cục ngũ hành có nguồn gốc từ tam hợp địa chi (của môn địa lý phong thủy), nghĩa là hợp với ba địa chi có ngũ hành khác nhau để tạo thành một cục ngũ hành chung cho cả ba địa chi đó và cả ba địa chi đó đều chịu sự điều hành và chi phối của cục ngũ hành chung đó. Cụ thể như sau:
1. Thân - Tý - Thìn => cục ngũ hành là Thủy cục
(+Kim) (+Thủy) (+Thổ)
2. Hợi - Mão - Mùi => Mộc cục
(-Thủy) (-Mộc) (-Thổ)
3. Dần - Ngọ - Tuất => Hỏa cục
(+Mộc) (+Hỏa) (+Thổ)
4. Tỵ - Dậu - Sửu => Kim cục
(-Hỏa) (-Kim) (-Thổ)
Bốn cục ngũ hành này trong địa lý phong thủy gọi là Tứ đại cục của ngũ hành hay còn gọi là Tứ long. Thủy cục là Thủy long ở phương Bắc; Hỏa cục là Hỏa long ở phương Nam; Mộc cục là Mộc long ở phương Đông; Kim cục là Kim long ở phương Tây. Bốn cục ngũ hành này chiếm 4 vị trí chính ở Bắc Nam và Đông Tây, nó điều hành khí hậu của 4 mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông, vì vậy cuộc sống của người và vạn vật điều chịu sự ảnh hưởng của bốn cục ngũ hành này. 12 vị trí địa chi (Tý – Sửu – Dần … Tuất – Hợi) tạo ra 4 cục ngũ hành Thủy – Mộc – Hỏa – Kim được gọi là địa chi hình khí, nghĩa là tạo ra khí hậu địa chi lan tỏa và vận hành trên mặt đất, nhờ có khí này kết hợp với khí thiên can ở trời nên người và vạn vật mới được nuôi dưỡng và tồn tại.
Tuổi năm sinh của mỗi người có được là do kết hợp giữa khí thiên can và địa chi của năm sinh ra người đó. Thiên can có ngũ hành của nó và địa chi cũng vậy, do đó khi kết hợp lại với nhau thì tuổi năm sinh của người đó có cục ngũ hành chung như phân tích ở trên.
Thiên can có 10 can (Giáp – Ất – Bính – … – Nhâm – Quý) và địa chi có 12 chi nhưng khi kết hợp lại với nhau theo nguyên tắc dương can đi với dương chi và âm can đi với âm chi thì ta có được 60 loại tuổi can chi khác nhau nhưng đều chịu sự chi phối của 4 cục ngũ hành ở trên. Theo tính chất dịch lý thì thiên can khi phối xuống 12 địa chi thì chỉ có 4 thiên can phối xuống 4 địa chi là đúng cách vì can dương đóng ở chi dương và can âm đóng ở chi âm nên tạo thành âm dương đồng nhất khí, tức là khí tốt lành, còn các thiên can khác thì sai cách vì can dương đóng ở chi âm hoặc can âm đóng ở chi dương nên âm dương hỗn loạn và tạo nên tạp khí là khí xấu (xem hình trên).
Tóm lại ta có 4 thiên can ứng với 4 tam hợp địa chi là:
– Can Canh ở tam hợp địa chi Thân – Tý – Thìn => Thủy cục
– Can Ất ở tam hợp địa chi Hợi – Mão – Mùi => Mộc cục
– Can Giáp ở tam hợp địa chi Dần – Ngọ – Tuất => Hỏa cục
– Can Tân ở tam hợp địa chi Tỵ – Dậu – Sửu => Kim cục
Khi phối với các địa chi trên thì ta có được những năm có thiên can – địa chi vượng khí như sau:
– Năm Canh Thân – Canh Tý – Canh Thìn vượng Thủy cục
– Năm Ất Hợi – Ất Mão – Ất Mùi vượng Mộc cục
– Năm Giáp Dần – Giáp Ngọ – Giáp Tuất vượng Hỏa cục
– Năm Tân Tỵ – Tân Dậu – Tân Sửu vượng Kim cục
Như vậy ta có được 12 loại năm – tháng – ngày – giờ có thiên khí và địa khí vượng. Từ đây các nhà dịch lý Trung Quốc hay Việt Nam xưa kia đã sử dụng nó để tìm các yếu tố khách thể cho chủ thể.
Thí dụ một người có tuổi năm sinh là Bính Tý thì phải chọn yếu tố khách thể như thế nào cho phù hợp với tính chất tương sinh (sinh nhập) hay đồng hành của dịch lý?
Ta làm như sau: địa chi Tý có hành dương Thủy nên phải phối các can dương cho nó là Giáp – Bính – Mậu – Canh – Nhâm. Do đó ta có các năm là Giáp Tý – Bính Tý – Mậu Tý – Canh Tý và Nhâm Tý. Tất cả các loại tuổi Tý này đều có cùng chung cục ngũ hành là Thủy cục. Thủy cục này vượng khí nhất là năm Canh Thân – Canh Tý – Canh Thìn, còn các năm Tý khác thì bị tạp khí. Do đó các loại tuổi khác nhau nếu là chủ thể thì phải chọn khách thể là các năm Canh Thân – Canh Tý – Canh Thìn là tốt vì đúng với dịch lý.
Nếu các năm đó quá xa so với tính chất công việc cần làm thì không thể chờ đợi được, thì có cách chọn khách thể khác của dịch lý đó là chọn tương sinh (sinh nhập) cụ thể là: ta biết rằng chủ thể là tuổi Bính Tý nằm trong tam hợp địa chi Thân – Tý – Thìn có Thủy cục. Theo định luật tương sinh ngũ hành ở Hà Đồ, Thủy cục do Kim cục sinh ra (sinh nhập) nên ta dùng tam hợp địa chi Tỵ – Dậu – Sửu thì có Kim cục. Dùng can Tân phối vào thì có các năm là Tân Tỵ – Tân Dậu – Tân Sửu, đây chính là các năm làm khách thể cho chủ thể Bính Tý cần tìm.
Nếu các năm trên cũng không phù hợp với thực tế của công việc đòi hỏi thì phải dùng tới nguyên lý là khắc xuất của ngũ hành. Chủ thể là Thủy cục thì Thủy khắc chế (khắc xuất) được Hỏa cục. Hỏa cục này ở trong tam hợp địa chi Dần – Ngọ – Tuất nên các năm này đều bị cục Thủy của chủ thể khắc chế. Tuy nhiên đây không phải là cách chọn hay nhưng cũng dùng được mà không sai phạm với nguyên lý của dịch lý. Cách chọn này rất phù hợp với việc tuyển chọn nhân sự của cơ quan nhà nước hay các công ty tư nhân vì chủ thể (Giám đốc) điều hành được khách thể (công nhân) nên việc chọn là dễ và có hiệu quả cao.
Thí dụ trên để mô tả qui trình tìm khách thể cho phù hợp với chủ thể theo nguyên lý âm dương ngũ hành của dịch lý từ bao đời nay mà các bậc nho học uyên bác như cụ Lê Quí Đôn đã từng làm. Đó là qui luật “thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong”, nghĩa là thuận với thiên khí và địa khí của trời đất thì sống (tồn), nghịch với thiên khí của trời đất thì chết (vong), đó là tất yếu khách quan của sự tồn vong của người và vạn vật.
Trong cuộc sống từ xưa đến nay việc chọn khách thể cho chủ thể là điều ai cũng mong muốn nhưng không phải ai cũng làm được và làm đúng làm tốt, do đó phải rất cẩn trọng.
Việc chọn khách thể cho chủ thể là một nhu cầu mong muốn của nhiều người. Nên nhớ rằng không nên quá cầu toàn. Những việc trọng đại như làm nhà, dựng vợ gả chồng cho con cái thì phải có kế hoạch trước đó vài năm thì mới chọn đúng. Những việc gấp thì chỉ chọn ngày hoặc giờ là đủ.
Việc chọn tuổi phù hợp để làm ăn, việc chọn tuổi vợ chồng, việc chọn năm để sinh con, chọn nhân sự của công ty là những vấn đề lớn không thể nói trong bài viết ngắn này, nhưng tất cả các việc làm đó phải tuân thủ theo qui tắc của dịch lý mà tính toán, phân tích để có được phương án tối ưu.
Nguyễn Như Ý