giakhoa đã viết:Thầy ơi,câu chuyện cười nói về tu sĩ giờ ứng hết vào thầy rồi đấy thầy ơi
Thầy cẩn thận tại vì có lần con thấy Nam huynh nói thầy có hạn đào hoa đó thầy ạ
Các chị cẩn thận đó,không tạo nghiệp đó,cái này là thầy Tây Đô dạy em mà
Ngưỡng mộ yêu quý thế nào cũng không được tan nát trái tim vì thầy
Các cô ấy đùa thôi, trêu chọc tôi đấy mà, cậu yên tâm đi.
Làm sao ... Đạo sỹ ... tan nát ... tới 3 trái tim thế kia ạ ???
Bác chỉ có 1 trái tim thôi mà :P Hay là bác ... làm tan nát trái tim của 3 người rồi Tội lỗi! Tội lỗi [-O<
Mô Phật, bần đạo không biết thế nào nữa, chẳng lẽ lão có giá dữ vậy sao??? [-O<
Chú Tây Đô giống như Đường Tam Tạng ấy nhỉ, yêu nữ nào cũng thích ăn thịt
Lâu đài tình ái của Bác đạo sĩ được xây dựng trên nền mống là xác dã tràng và tường là cát,cát bụi cát biển chứ kg phải Thiên Cát này nhé !
Thưa Bác! Tại sao bác lại để hình trái tim vỡ nát thế kia? Phải chăng ma nữ ấy đã làm cho bác ra nông nổi này ư ? ô thật là tội nghiệp cho bác quá ! Thân chúc trái tim bác mau sớm bình phục để bác ca khúc hát Và con tim đã vui trở lại !
Thiên Cát .
[highlight=#f7f5ee]Mô Phật, bần đạo không biết thế nào nữa, chẳng lẽ lão có giá dữ vậy sao??? [-O<[/highlight]
Bác vướng vào hạn đào hoa rồi , 3 người thôi cháu thấy còn ít nhá bác có mướn cháu làm bào vệ hok ạh ? hnay là ngày đầu tiên cháu thất nghiệp nên cháu đang cần tìm việc làm đây
[highlight=#f7f5ee]Mô Phật, bần đạo không biết thế nào nữa, chẳng lẽ lão có giá dữ vậy sao??? [-O<[/highlight]
Bác vướng vào hạn đào hoa rồi , 3 người thôi cháu thấy còn ít nhá bác có mướn cháu làm bào vệ hok ạh ? hnay là ngày đầu tiên cháu thất nghiệp nên cháu đang cần tìm việc làm đây
Cháu là nữ, nếu làm vệ sĩ cho tôi chỉ sợ nữ giới dễ bị đối thủ mua chuộc, lại thông cảm với những người kia mềm lòng hợp tác với họ thì chết tôi. Thất nghiệp ai trả tiền cao thì làm, bần đạo chỉ cho cháu ăn cơm chay thôi. chắc không được lâu... ;)
Lâu đài tình ái của Bác đạo sĩ được xây dựng trên nền mống là xác dã tràng và tường là cát,cát bụi cát biển chứ kg phải Thiên Cát này nhé !
Thưa Bác! Tại sao bác lại để hình trái tim vỡ nát thế kia? Phải chăng ma nữ ấy đã làm cho bác ra nông nổi này ư ? ô thật là tội nghiệp cho bác quá ! Thân chúc trái tim bác mau sớm bình phục để bác ca khúc hát Và con tim đã vui trở lại !
Thiên Cát .
Thiên cát là cát trên trời sao? Hình như cát là cát tường, là tốt đẹp may mắn mà.
Cô Kelly chủ nhà kỳ này để nhà trống lâu quá, toàn khách nói chuyện với nhau, chắc đi thả diều rồi. ;)
Lâu đài tình ái của Bác đạo sĩ được xây dựng trên nền mống là xác dã tràng và tường là cát,cát bụi cát biển chứ kg phải Thiên Cát này nhé !
Thưa Bác! Tại sao bác lại để hình trái tim vỡ nát thế kia? Phải chăng ma nữ ấy đã làm cho bác ra nông nổi này ư ? ô thật là tội nghiệp cho bác quá ! Thân chúc trái tim bác mau sớm bình phục để bác ca khúc hát Và con tim đã vui trở lại !
Thiên Cát .
Thiên cát là cát trên trời sao? Hình như cát là cát tường, là tốt đẹp may mắn mà.
Cô Kelly chủ nhà kỳ này để nhà trống lâu quá, toàn khách nói chuyện với nhau, chắc đi thả diều rồi. ;)
Thiền sư Liễu Đạt (1823) là đệ tử của Hòa thượng Minh Vật Nhứt Tri,có lẽ Thiền sư Liễu Đạt quy y với Hòa thượng Nhứt Tri ở chùa Kim Cang (Bình Thảo, Đồng Nai). Trong thời gian Hòa thượng Phật Ý Linh Nhạc (cũng thuộc phái thiền Lâm Tế, đời 35)hoằng hóa ở chùa Từ Ân (Gia Định),từ năm 1744 đến năm 1821,Thiền dư Liễu Đạt Thiệt Thành được cử là Thủ tọa, ở chùa này.
Năm Đinh Sửu,niên hiệu Gia Long thứ 16 (năm 1817) vua xuống sắc,triệu Thiền sư Liễu Đạt Thiệt Thành ra kinh đô Huế,cử làm Tăng cang chùa Thiên Mụ (1817-1823).Trong thời gian này, Tăng cang Liễu Đạt còn được cử làm Pháp sư để thuyết giảng Phật pháp trong nội cung 8 ngày cho hoàng gia. Sau đó, vua phong cho Tăng cang Liễu Đạt Thiệt Thành danh hiệu Hòa thượng Liên Hoa.
Hòa thượng Liên Hoa có tướng mạo oai nghiêm. Ông thông minh, có tài thuyết giảng và biện luận về Phật pháp nên được nhiều Phật tử trong cung và triều đình nhà Nguyễn kính phục và mến mộ tài đức. Khi ấy, có Hoàng cô (cô của vua Minh mạng) là đệ tử của Hòa thượng, thọ giới Bồ Tát, được ban pháp danh là Tế Minh Thiên Nhựt, có tình cảm luyến ái sâu đậm với Hòa thượng, muốn ràng buộc duyên tình với Hòa thượng, nên Hoà thượng phải tìm cách xin về Gia Định.
Ngày 20 tháng 11 năm Tân Tỵ.(1821), Đại lão Hòa thượng Phật Ý Nhạc viên tịch ở chùa Từ Ân, Thiền sư Liễu Đạt không hay biết việc này. Mãi đến đầu năm 1823 có các quan đại thần từ Gia định ra kinh đô Huế dự lễ, Hòa thượng Liên Hoa mới biết được tin và nhân đó mới có cớ để xin vua cho từ nhiệm ở chùa Thiên Mụ ở kinh đô Huế về Gia Định.Sau cả tháng,Thiền sư Liễu Đạt mới được vua cho phép về Trụ trì chùa Từ Ân ở Gia Định.
Nhưng vào một buổi sáng tháng 10 năm Quí Mùi (1825),Hòa thượng Liên Hoa đang uống trà, đàm đạo với đồ chúng ở chùa Sắc Tứ Từ Ân,bỗng có tin từ quan Trấn thủ Gia Định cho hay là Hoàng cô vâng lệnh vua Minh Mạng vào Gia Định để cúng dường chùa Sắc Tứ Từ Ân và chùa Quốc Ân Khải Tường.Hoàng cô đang dự tại dinh trong thành Gia Định, một vài hôm nữa sẽ đến lễ ở hai chùa này và sẽ tạm ngụ ở chùa Sắc Tứ Từ Ân cho đến ngày Hoàng cô trở về kinh.
Tin bất ngờ này làm cho Hoà thượng Liên Hoa phải lo âu, dù rằng Hòa thượng đã đạt được trình độ uyên thâm trong đạo pháp, song nợ trần lại hoài công đeo đuổi chưa thôi. Hòa thượng chưa biết phải làm thế nào để tránh sợi dây luyến ái mà Hoàng cô đang cố tình theo đuổi trói buộc. Không nghĩ được cách để đối phó, Hòa thượng phải vào chùa Giác Lâm ở Phú Thọ để vấn lế của Thiền sư Tổ Tông Viên Quang, Hoà thượng Liên Hoa định bỏ chùa Sắc Tứ Từ Ân đến ẩn tránh ở chùa khác để lánh mặt Hoàng cô, nhưng Thiền sư Viên Quang khuyên can, bảo rằng: Nếu Hòa thượng lánh mặt bất ngờ sẽ mang tội với triều đình và làm cho chư Tăng cùng Phật tử xôn xao và không tránh khỏi việc Tăng chúng nghi ngờ thắc mắc, gây nhiều dư luận không tốt và rắc rối hơn. Thiền sư Viên Quang khuyên Hòa thượng hãy định tâm, cố gắng giữ cho tâm được bình thản và sinh hoạt tự nhiên như mọi ngày, cầu nguyện chư Phật hộ trì, giúp cho sáng suốt để giải quyết công việc hợp tình và hợp lý. Hòa thượng Liên Hoa nghe theo, về chùa Từ Ân chuẩn bị đón tiếp Hoàng cô đến lễ bái.
Hôm sau, Hoàng cô và phái đoàn của các quan thuộc Gia Định thành đến chùa Sắc Tứ Từ Ân dâng đại lễ. Sau khi buổi lễ hoàn tất, Hoàng cô cám ơn các quan đã tiếp đón và đưa rước, Hoàng cô bảo là trong thời gian bà ở chùa Từ Ân cho đến ngày hồi kinh, chỉ cần để lại chùa các người tùy tùng của bà và một vài binh lính theo túc trực mà thôi, các quan cứ về, khỏi phải hầu hạ. Trong thời gian ở lại chùa Hoàng cô đề nghị mỗi sáng Hòa thượng đều phải tiếp kiến và hầu chuyện với Hoàng cô. Không biết có sự việc khác thường gì không, mà đến sáng sớm ngày thứ ba kể từ khi Hoàng cô đến chùa, Hoà thượng Liên Hoa đi đâu mất, không có mặt ở chùa để tiếp kiến Hoàng cô như mọi hôm. Hoàng cô hỏi Tăng chúng họ cũng không biết Hoà thượng đi đâu. Hoàn cô hỏi thị giả của Hòa thượng là Sa-di Mật Dĩnh-vị này có quen biết với Hoàng cô vì đã theo hầu Hòa thượng trong thời gian Hòa thượng hoằng hóa ở kinh đô Huế-nhưng Sa-di Mật Dĩnh cũng bảo là không biết. Hoàng cô bắt Thị giả Mật Dĩnh phải đưa bà đi đến chùa Giác Lâm để tìm Hòa thượng, nhưng vẫn không biết tông tích Hòa thượng ở đâu.
Hoàng cô trở về chùa Từ Ân cứ nằm trầm ngâm buồn bã, không màng ăn uống. Ba ngày trôi qua, sức khỏe Hoàng cô sa sút trầm trọng, lại sợ Hoàng cô quá buồn thảm, có thể đi đến tuyệt vọng mà liều lĩnh gây chuyện nguy hiểm có hại cho chùa nên Thị giả đành phải cho Hoàng cô biết là Hòa thượng Liên Hoa đã lên chùa Đại Giác ở Cù lao Phố, tỉnh Biên Hòa để nhập thất hai năm. Sau khi biết tin đó, Hoàng cô báo cho quan Trấn Gia Định là Hoàng cô sẽ lên tỉnh Biên Hòa để cùng dường cho chùa Đại Giác. Hôm sau quan Trấn cử phái đoàn hộ tống, đưa Hoàng cô lên chùa Đại Giác. Đến chùa Đại Giác, sau khi được Hòa thượng trụ trì tiếp đón và dâng lễ cúng dường mấy trăm quan, Hoàng cô nhờ Thị giả Mật Dĩnh đưa đến tịnh thất của Hòa thượng Liên Hoa. Cửa thất đóng kín,H oàng cô quỳ trước cửa, lễ ba lễ và thưa rằng: “Đệ tử sắp hồi kinh nên đến đây xin Hòa thượng cho diện kiến lần chót trước khi lên đường”. Hòa thượng vẫn không trả lời. Hoàng cô đi vòng quanh chùa và sau đó lại trước cửa thất quì xuống thưa rằng: “Bạch Hòa thượng, nếu Hòa thượng không tiện ra tiếp, xin Hòa thượng cho con nhìn thấy bàn tay Hòa thượng, đệ tử cũng hân hoan ra về”.
Im lặng trong vài phút…Hòa thượng trong thất đưa bàn tay ra cửa nhỏ, nơi dùng để đưa thức ăn vào thất. Hoàng cô vội ôm lấy bàn tay hôn một cách trìu mến, rồi sụp lạy ba lạy và khóc sướt mướt. Nhưng sau đó Hoàng cô cho biết là bà sẽ ở lại chùa Đại Giác nghỉ vài ngày.
Đến giữa đêm đó, vào khoảng canh ba, trong khi mọi người đang an giấc, bỗng thấy lửa cháy rực ở tịnh thất của Hòa thượng Liên Hoa. Mọi người trong chùa hoảng hốt, cùng nhau chạy đến dập tắt ngọn lửa, nhưng tịnh thất cháy rụi, xác thân Hòa thượng Liên Hoa cũng cháy thiêu. Mọi người đang bàn tán xôn xao, có người phát hiện được bài kệ Niết bàn do Hoà thượng Liên Hoa viết bằng mực đen trên vách chánh điện:
THIỆT đức rèn kinh vẹn kiếp trần
THÀNH không vẩn đục vẫn trong ngần
LIỄU tri mộng huyễn chơn như huyễn
ĐẠT đạo mình vui đạo mấy lần.
Phía dưới có đề: Sa môn Thiệt Thành hiệu Liễu Đạt.
Hay tin Hòa thượng Liên Hoa-Hòa thượng của hoàng gia, Bổn sư của Hoàng cô và một số người trong cung nhà Nguyễn đã viên tịch, các quan tỉnh Biên Hòa và các quan thuộc dinh Tổng Trấn ở Gia Định phái báo tin về triều và họp nhau tổ chức lễ tang. Sau khi làm lễ nhập tháp Hòa thượng Liên Hoa xong, Hoàng cô rất buồn bã và cho biết rằng bà sẽ ở lại chùa Đại Giác cho đến ngày khai mộ mới hồi kinh. Nhưng ngay ngày hôm sau Hoàng cô uống độc dược tự tử tại hậu tiêu chùa Đại Giác nhằm ngày mùng 2 tháng 11 năm Quý Mùi (1823), thọ 65 tuổi.
Hòa thượng Viên Quang trụ trì Giác Lâm họp cùng Thiền sư Tế Tánh Chánh Trực, Trụ trì chùa Từ Ân và Chư Tăng ở các chùa trong môn pháo lo lễ nhâp tháp Hòa thượng Liên Hoa và lo lễ an táng Hoàng cô, rồi thỉnh long vị Hòa thượng Liên Hoa và linh vị của Hoàng cô về thờ ở chùa Sắc Tứ Từ Ân.Long vị của Hòa thượng thờ ở bàn thờ tổ, linh vị của Hoàng cô thờ ở bàn thờ bá tánh. Nhưng sau đó, chùa Từ Ân bỗng nhiên xảt ra nhiều sự việc cãi vã, xào xáo trong chùa. Chùa Từ Ân là chùa quan, tức chùa do vua sắc tứ và hộ trì. Mọi việc trong chùa vốn có nghi lễ nghiêm minh, Chư Tăng đều giữ đạo hạnh, cư xử lễ độ, hòa thuận. Nay có chuyện như vậy là điều bất thường.
Thiền sư Trụ trì lại là Sư Tế Tánh Chánh Trực, đệ tử của Hòa thượng Liên Hoa, dàn xếp mãi vẫn không yên. Thiền sư Tế Tánh phải tham khảo ý kiến Hòa thượng Viên Quang. Sau một thời gian thiền quán để tìm nguyên nhân và tìm cách giải quyết những bất ổn ở chùa Từ Ân, Hòa thượng Viên Quang mới nghiệm được là: Có thể Hoàng cô có thần thức luyến ái quá mạnh và muốn được gần Hòa thượng Viên Quang, nên gây ra xáo trộn để yêu sách. Vì vậy Hòa thượng Viên Quang đề nghị với Thiền sư Bổn Giác cho đưa linh vị của Hoàng cô thờ chung với long vị của Hòa thượng ở bàn thờ Tổ. Quả nhiên, sau khi làm như thế, trong chùa Từ Ân trở lại bình thường, không còn xáo trộn như trước. Vì vậy cho đến ngày nay, ở chùa Từ Ân, trên bàn thờ tổ, bên cạnh long vị của Hòa thượng Liên Hoa có linh vị của Hoàng cô: “Pháp danh Thích môn hộ giáo. Từ Ân tự Lâm tế chánh tông Hoàng cô sùng tu Bồ-tát giới, đệ tử pháp danh Tế Minh, tự Thiên Nhựt giác linh chi vị”.
Tục truyền đến cuối tháng chạp hàng năm, chùa có lệ làm lễ tắm Phật, quét dọn lau chùi các bài vị để sửa sọan đón Tết, rủi có vị tiểu tăng nào vô ý để sai chỗ bài vị Hòa thượng Liên Hoa và Hoàng cô lệch qua một bên thì y rằng trong chùa sẽ có chuyện bất hòa. Do vậy mà từ ấy cho đến nay hai bài vị ấy hầu như luôn luôn để cạnh nhau.
(Theo: Gia Định xưa và nay của Huỳnh Minh và Thiền sư Việt Nam của Thích Thanh Từ)