
Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ
TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ
Tại hôm trước Mythinh nói ko biết mặt e Ver với ss Sầu Riêng nào. Lúc sau thì hỏi a One thì e mới nhớ ra vụ fb, rồi search ra thấy ảnh nên e gửi link cho xem thôi ạ 

- vo_danh_00
- Thất đẳng
- Bài viết: 6278
- Tham gia: 10:12, 03/05/10
- Đến từ: nam định
TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ
he he bỏ chút công sức sẽ tìm được mà
chỉ cần là đã đăng ảnh thì mọi dấu vết đều còn lưu 


-
- Lục đẳng
- Bài viết: 3820
- Tham gia: 14:25, 07/08/11
TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ
Được cảm ơn bởi: Nhất Niệm
TL: Re: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ
Trời, bộ em muốn bị thất tình hay sao mà cứ muốn bị thất tình trong khi ko có tình để mà thất thế hảmythinh1912 đã viết:Nhất Niệm đã viết:
Chứ chị lại tưởng tha hồ quậy phá chứ
Ráng vui lên em ơi! Đời có bao nhiêu đâu mà mãi sầu!?
Hôm nay có người phá chị cũng bị giận; có người chiều giờ chắc cũng đang bị buồn (gọi phone, text nhiều lần) mà chị đang cho điện thoại nghỉ vacation 1 ngày; mai tính! CHị hiện ko có giận, nhưng vậy cho tởn hết tật chọc phá như khỉ! \/
Em hiền lắm, kô có quậy fá đâu chị ). Em đùa chị thôi, chứ có tình đâu mà thất, mà bùn.
Híhí chiêu chị làm em cũng hay làm lắm đó. Nhiều khi kô giận mà làm bộ mặt giận, kô thèm nghe máy, off đt cho giang hồ sợ chơi, nhìu lúc nghĩ lại thấy mình ác như cá thác lác.
Hix, em mới bị ói. Em thèm mì gói quá nên nấu mì ăn, ăn vào ói ra hết. Đúng là em phải tẩy chay forever với món mì khoái khẩu thôi.

Ko có chiêu gì hết, em ơi! Do chị ko muốn bị phá thế nên ko thích thế thôi



Em thích ăn mì ăn liền hay sao vậy hả!?
Được cảm ơn bởi: mythinh1912
TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ
Ráng in ra và ấn tống đi emOnedream đã viết: Vâng chị. Em sẽ đi in và hôm tới mang ra chùa.
Dạo này, em lu bu mất phương hướng trong công việc quá chị àh. Thấy nó tăm tối và bất định quá. Em chỉ biết đợi chờ bởi đã làm mọi cách trong khả năng rồi.


Hôm nay chị in mấy tấm và đem đến chùa ấn tống . Có vị thích quá nên đã gửi chị tiền in 10 hình để đem ấn tống dùm họ


Ráng lên em ơi! Cuộc sống là đầy thử thách! Càng cao danh vọng, càng nhiều gian nan! Cố lên nhé em! CHúc em vạn sự bình an.
Được cảm ơn bởi: Onedream
TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ
NHÂN QUẢ THỜI ĐẠI KHOA HỌC
(Dịch từ nguyên bản tiếng hoa của tác giả Ngô Cẩm Tiêu)
Lời Giới Thiệu
Hiện nay là thời đại văn minh khoa học, bàn về chuyện nhân quả chẳng phải là mê tín lắm sao? Thật ra, vấn đề mà khoa học nghiên cứu là những quan hệ nhân quả và quy luật của giới tự nhiên, bất cứ một hiện tượng nào đều có quy luật nhất định. Nhưng đằng sau nguyên nhân sâu xa của nhân quả ấy thì khoa học thật khó mà giải thích, chứng minh được đối với những hoạt động tinh thần, những điều bí ẩn bên trong thế giới tâm linh, nhân quả của tiền kiếp hay hậu kiếp. Vì thế, vấn đề này chỉ có thể dùng triết học và tôn giáo để lý giải và xử lý.
Kinh nhân quả ba đời đã từng nói: “Dục tri tiền thế nhân, kinh sinh thụ giả thị, dục tri lai thế quả, kim sinh tác giả thị” (Muốn biết nhân đời trước, xem quả hưởng đời này, muốn biết quả tương lai, xét nhân gieo hiện tại). Điều này nói lên mối quan hệ chặt chẽ giữa kiếp trước, hiện tại và kiếp sau mà quy luật của nó là tự làm tự chịu.
Thái Thượng cảm ứng Thiên đã từng nói: “Họa phúc vô môn, duy nhân tự triệu, thiện ác chi báo, như ảnh tùy hình. Khi con người làm việc ác, vô tình đã gieo một hạt giống, khi thời cơ chín mùi, điều kiện thích hợp thì nội cảm ngoại ứng nhân quả lập tức hiệu nghiệm giống như bị ma sai quỷ khiến vậy. Đúng với câu nói: “Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo”. Các nhà Nho cũng rất coi trọng nhân quả, trong Kinh Dịch đã từng viết: “Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương”. (Thường xuyên hành công đức, tích đức thì nhất định sau này sẽ được phước báo; ngược lại, thường xuyên hành ác thì nhất định sẽ gặp họa kiếp, tai ương).
Vào thời nhà Chu, vua Nghiêu, vua Thuấn dạy dân làng trồng ngũ cốc, nuôi sống dân làng, công đức vô lượng, đến con cháu đời thứ mười hai lại giúp nhân dân an cư lạc nghiệp. Nam hữu phân, nữ hữu quy, vì thế sinh ra Chu Văn Vương, Văn Vương sinh ra Võ Vương Chu Công, một họ tam Thánh, không những phát dương Chu bang mà còn truyền bá đạo thống văn hóa của Đông Thổ, lưu danh cho đời. Ngược lại, Tần Thủy Hòang hùng bá thiên hạ, dùng quân pháp để trị quốc mà giành lấy giang sơn nhưng sau cùng cũng bị sụp đổ, hai mươi lăm người con của ông đều bị mất mạng dưới tay họ Triệu, bị mang tiếng hôn quân, suốt đời rửa không sạch tội. Đó chính là thiện ác của nhân quả báo ứng, càng chứng minh được đạo lý sâu xa của đạo lý định nghiệp bất diệt ấy.
Khảo cổ học ngày nay có thể được coi là một ngành tiêu biểu nhất. Chẳng hạn sự phát hiện khủng long hóa thạch, thu hút lòng say mê, kéo con người về với thời đại xa xưa, sinh vật tồn tại và sinh sống lâu năm, lúc lại phát hiện xương hóa thạch cách đây ba nghìn năm là hiện thân rõ ràng của nhân quả cảm ứng thiên như thể có thể quyết định sự thịnh suy cũng như thất bại của một vương triều. Mười năm gần đây, ở những ngôi mộ khai quật lên ở Đại Lục xuất hiện những giống cây trồng lâu năm nhưng vẫn có thể mọc rễ, đâm chồi, hoa lá xanh tốt. Không gian, thời gian xuyên suốt quy luật nhân quả và quy luật của giới tự nhiên đều đáng tin cậy và không thể hoài nghi.
Thật ra, những chặng đường lịch sử của nhân loại có thể coi là những mẫu chuyện nhân quả. Chẳng qua vì mắt con người quá hạn hẹp, kiến thức còn nông cạn, nên cố lừa dối chính mình, coi đó như một trò chơi trẻ con, thậm chí nhắm mắt lại tưởng rằng không ai thấy, không ai nghe được! Trong thời thời khắc khắc của mỗi chúng ta, nhân quả tuần hòan vẫn không ngừng tiếp diễn cho dù con người có muốn phủ nhận chúng.
Tác giả quyển sách là GS Ngô Cẩm Tiêu, người Triều Châu, con trai thứ hai của ông Ngô Trường Cao (người đắc quả vị Thanh Hòa Đại Tiên), sau khi cùng huynh trưởng là ĐTS cầu được con đường Thiên Đạo không ngừng phát tâm tu luyện, đi khắp nơi để khai mở Đạo, ông đã từng chứng kiến sự nhiễu nhương của thời đại, sự suy đồi đạo đức, nhân tâm của con người, đời sống nhân dân ngày một đói khổ, phẩm giá không còn thuần phác như xưa, kẻ tham sân si, người oán hận. Với tấm lòng từ bi, ông phát tâm bôn ba lặn lội để tìm những câu chuyện nhân quả có thật. Sau khi được xem xét, bình luận thì được chùa Linh Âm in ra thành sách mang tên “Nhân quả thời đại khoa học”. Hy vọng qua những mẫu chuyện này làm thức tỉnh lương tâm mọi người, thường xuyên tu thân lập đức, hành thiện, không còn hành nghề sát sinh, để tránh phải chịu nỗi đau đớn khôn lường của quả báo luân hồi.
Sách được in ấn tại đạo trường Linh Âm, được Thiên Ân Sư Đức, Tiền Nhân đại đức khổ tâm giúp đỡ. Xin các vị sau khi đọc qua hãy thật tâm phản tỉnh chính mình để đạt đến thế giới thanh bình, hạnh phúc của thiên đường nhân gian.
Kinh nhân quả ba đời đã từng nói: “Dục tri tiền thế nhân, kinh sinh thụ giả thị, dục tri lai thế quả, kim sinh tác giả thị” (Muốn biết nhân đời trước, xem quả hưởng đời này, muốn biết quả tương lai, xét nhân gieo hiện tại). Điều này nói lên mối quan hệ chặt chẽ giữa kiếp trước, hiện tại và kiếp sau mà quy luật của nó là tự làm tự chịu.
Thái Thượng cảm ứng Thiên đã từng nói: “Họa phúc vô môn, duy nhân tự triệu, thiện ác chi báo, như ảnh tùy hình. Khi con người làm việc ác, vô tình đã gieo một hạt giống, khi thời cơ chín mùi, điều kiện thích hợp thì nội cảm ngoại ứng nhân quả lập tức hiệu nghiệm giống như bị ma sai quỷ khiến vậy. Đúng với câu nói: “Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo”. Các nhà Nho cũng rất coi trọng nhân quả, trong Kinh Dịch đã từng viết: “Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương”. (Thường xuyên hành công đức, tích đức thì nhất định sau này sẽ được phước báo; ngược lại, thường xuyên hành ác thì nhất định sẽ gặp họa kiếp, tai ương).
Vào thời nhà Chu, vua Nghiêu, vua Thuấn dạy dân làng trồng ngũ cốc, nuôi sống dân làng, công đức vô lượng, đến con cháu đời thứ mười hai lại giúp nhân dân an cư lạc nghiệp. Nam hữu phân, nữ hữu quy, vì thế sinh ra Chu Văn Vương, Văn Vương sinh ra Võ Vương Chu Công, một họ tam Thánh, không những phát dương Chu bang mà còn truyền bá đạo thống văn hóa của Đông Thổ, lưu danh cho đời. Ngược lại, Tần Thủy Hòang hùng bá thiên hạ, dùng quân pháp để trị quốc mà giành lấy giang sơn nhưng sau cùng cũng bị sụp đổ, hai mươi lăm người con của ông đều bị mất mạng dưới tay họ Triệu, bị mang tiếng hôn quân, suốt đời rửa không sạch tội. Đó chính là thiện ác của nhân quả báo ứng, càng chứng minh được đạo lý sâu xa của đạo lý định nghiệp bất diệt ấy.
Khảo cổ học ngày nay có thể được coi là một ngành tiêu biểu nhất. Chẳng hạn sự phát hiện khủng long hóa thạch, thu hút lòng say mê, kéo con người về với thời đại xa xưa, sinh vật tồn tại và sinh sống lâu năm, lúc lại phát hiện xương hóa thạch cách đây ba nghìn năm là hiện thân rõ ràng của nhân quả cảm ứng thiên như thể có thể quyết định sự thịnh suy cũng như thất bại của một vương triều. Mười năm gần đây, ở những ngôi mộ khai quật lên ở Đại Lục xuất hiện những giống cây trồng lâu năm nhưng vẫn có thể mọc rễ, đâm chồi, hoa lá xanh tốt. Không gian, thời gian xuyên suốt quy luật nhân quả và quy luật của giới tự nhiên đều đáng tin cậy và không thể hoài nghi.
Thật ra, những chặng đường lịch sử của nhân loại có thể coi là những mẫu chuyện nhân quả. Chẳng qua vì mắt con người quá hạn hẹp, kiến thức còn nông cạn, nên cố lừa dối chính mình, coi đó như một trò chơi trẻ con, thậm chí nhắm mắt lại tưởng rằng không ai thấy, không ai nghe được! Trong thời thời khắc khắc của mỗi chúng ta, nhân quả tuần hòan vẫn không ngừng tiếp diễn cho dù con người có muốn phủ nhận chúng.
Tác giả quyển sách là GS Ngô Cẩm Tiêu, người Triều Châu, con trai thứ hai của ông Ngô Trường Cao (người đắc quả vị Thanh Hòa Đại Tiên), sau khi cùng huynh trưởng là ĐTS cầu được con đường Thiên Đạo không ngừng phát tâm tu luyện, đi khắp nơi để khai mở Đạo, ông đã từng chứng kiến sự nhiễu nhương của thời đại, sự suy đồi đạo đức, nhân tâm của con người, đời sống nhân dân ngày một đói khổ, phẩm giá không còn thuần phác như xưa, kẻ tham sân si, người oán hận. Với tấm lòng từ bi, ông phát tâm bôn ba lặn lội để tìm những câu chuyện nhân quả có thật. Sau khi được xem xét, bình luận thì được chùa Linh Âm in ra thành sách mang tên “Nhân quả thời đại khoa học”. Hy vọng qua những mẫu chuyện này làm thức tỉnh lương tâm mọi người, thường xuyên tu thân lập đức, hành thiện, không còn hành nghề sát sinh, để tránh phải chịu nỗi đau đớn khôn lường của quả báo luân hồi.
Sách được in ấn tại đạo trường Linh Âm, được Thiên Ân Sư Đức, Tiền Nhân đại đức khổ tâm giúp đỡ. Xin các vị sau khi đọc qua hãy thật tâm phản tỉnh chính mình để đạt đến thế giới thanh bình, hạnh phúc của thiên đường nhân gian.
Trung Hoa Dân Quốc, tháng 4 năm 2002
Hội biên soạn chùa Tam Hiệp Linh Âm
Được cảm ơn bởi: teamoon, cocacola, Onedream, BillGates6868, mythinh1912
TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ
Nhân quả thời đại khoa học - Anh cả giết heo
Lễ Phật đản tháng tư năm nay, tại Phật đường phía Nam biên cương đất Thái đang giảng một tiết học: “Nhân quả báo ứng và lục đạo luân hồi”, các vị thiện nam tín nữ đều tham gia rất hăng hái, ban đêm ở lại tá túc Phật đường. Vì thời gian còn sớm nên chúng tôi trò chuyện với nhau về một số vấn đề liên quan đến Phật học thường thức. Vì kiến thức còn nông cạn nên tôi còn nhiều vấn đề chưa thể giải quyết được; nhất là có một cô đưa ra một vấn đề nan giải khiến tôi nhất thời không thể giải đáp, thậm chí đến hôm nay vẫn còn vướng mắc trong lòng.
Cô ấy khoảng bốn mươi tuổi, đối với nhân quả hoàn toàn tin tưởng, tuyệt đối không hoài nghi. Trong lúc học cô nghe được câu chuyện kể về người sát sanh, lúc lâm chung đau đớn tội nghiệp chịu đủ mọi sự đau đớn giày vò đến lúc tắt thở. Đó là một anh làm nghề giết heo, còn gọi là “Anh cả giết heo”, thời trung niên mắc phải chứng nan y, không thể chữa trị được, phải nằm trên giường suốt mấy tháng, thường xuyên phát ra những tiếng kêu giống như heo. Con cái không nhẫn tâm nhìn thấy cha phải chịu nỗi đau đớn cực hình như thế, bèn van xin bác sĩ kê toa thuốc để cha sớm ngày ra đi thanh thản nhưng bác sĩ không chịu “Lương y như mẹ hiền, lẽ nào người mẹ lại giết con”. Hơn nữa làm như vậy là phạm pháp. Sau cùng được vị lão tiền bối có kinh nghiệm dạy họ chuẩn bị một con dao và một chén nước trắng, giống như cách mà anh ấy giết heo vậy, để ở đầu giường, không bao lâu người đó liền tắt thở, chấm dứt sự hành hạ bi thảm.
Vấn đề ở đây là: Mẹ của cô vì hoàn cảnh bần cùng phải nuôi mười đứa con, từ ngày kết hôn đến nay đã hành nghề sát sanh, giết vịt để làm vịt quay bán. Mỗi ngày chồng đi bán, vợ ở nhà giết vịt và làm vịt quay. Vì bán đắc nên một ngày phải giết khoảng ba mươi con vịt béo, cứ thế kéo dài hơn ba mươi năm nay. Mãi cho đến khi hai đứa con gái xuất giá, chồng qua đời mới nghe lời khuyên của con gái bỏ nghề. Năm ngoái, mẹ cô bệnh suốt một năm. Từng chữa trị ở khắp các bệnh viện lớn nhỏ có tiếng ở Thái Lan nhưng cũng không khỏi bệnh. Bốn tháng trước, bác sĩ trả về nhà dặn dò chuẩn bị hậu sự. Người Trung Quốc có tập quán là ba mẹ lúc lâm chung phải được chết tại nhà của mình cho yên tâm.
Khi được trả về nhà, bốn tháng qua bà đều trong trạng thái hôn mê, có lúc tỉnh dậy như gặp phải chuyện gì đó hoảng sợ, phát ra những tiếng kêu như vịt khiến con cái lo lắng bi thương, bác sĩ không thể chữa trị được, chỉ còn cách là phải nhờ vào Tiên Phật Thần Minh, cầu xin Ơn Trên nhanh chóng tiếp dẫn bà ra đi để khỏi phải chịu sự giày vò tàn khốc như thế này.
Gần đây có một hôm nhận được thông báo của bệnh viện yêu cầu bệnh nhân tới kiểm tra, cắt thêm một lỗ nhỏ trong cổ họng. Hai tuần sau đó về nhà, hiện nay đang nằm mê man, có lúc phát ra những tiếng kêu như vịt.
Vấn đề ở chỗ: Cô ta có thể làm như câu chuyện “Anh cả giết heo” đã giảng hôm nay là chuẩn bị một con dao và một chén nước để tiễn người mẹ ra đi thanh thản được không?
Câu phát biểu này khiến cho tôi giật mình toát cả mồ hôi. Nói đến mẫu chuyện “Anh cả giết heo”, người ta muốn nhấn mạnh đến tính hiện thực của nhân quả báo ứng, cảnh tỉnh những kẻ hung tợn sát hại những sinh vật vô tội. Đối với một số người làm nghề sát sanh, trong hoàn cảnh đó nên chuyển nghề, như Phật đã từng nói: “Lấy mạng người ta để nuôi mạng mình gọi là tà mạng”. Không ngờ chân lý đó lại sống động hiệu nghiệm đến như vậy.
Một lúc không trả lời được câu hỏi đó có lúc tôi hối hận vì đã kể chuyện này, chỉ biết khuyên cô: “Việc này hoàn toàn không thể làm, chúng ta không thể nhẫn tâm nhìn thấy cha mẹ tự sát, vô hình giống như tận tay giết hại cha mẹ vậy”. Cô ấy nức nở hỏi tôi: “Thế thì còn phương pháp gì khiến cho mẹ tôi hoặc sống hoặc chết chứ đừng phải chịu sự giày vò đau đớn như vậy”.
Tôi rất đồng cảm, an ủi đôi lời, khuyên cô hãy phát nguyện tài thí xây chùa, xây bệnh viện hoặc ăn chay trường lấy công đức của mình hồi hướng cho mẹ, để mẹ cô có thể tiêu oan giải nghiệp. Suốt đời cha mẹ không ngừng tạo nghiệp cũng là vì nuôi sống con cái, vì con cái mà hy sinh tất cả, thậm chí dù bị đày trong địa ngục trần gian hay dưới địa phủ cha mẹ cũng chấp nhận. Vì thế con cái phải bù đắp những tội lỗi của cha mẹ để báo đáp công ơn nuôi dưỡng của Người. Tôi còn giải thích những điều hiếu đạo của người làm con:
Tiểu hiếu: Phụng dưỡng cha mẹ, thích ăn gì thì cung phụng đầy đủ.
Trung hiếu: Thuận theo lời, theo ý của cha mẹ.
Đại hiếu: Ngoài việc phụng dưỡng theo ý của cha mẹ còn làm những việc ích nước lợi nhà đem tiếng thơm cho cha mẹ.
Đại đại hiếu: Ngoài việc thực hiện đầy đủ ba điều hiếu trên còn phải biết tìm cách giúp cha mẹ tiêu oan giải nghiệp, lúc còn sống không bị đày đoạ về thể xác, lúc chết cũng không bị đày xuống lục đạo luân hồi, thoát khỏi cảnh giới sinh tử.
Nghe xong cô ngậm ngùi nước mắt, làm lễ ra về. Giữa tháng chín năm nay được Phật đường mời đến, tôi lại giảng tiết học nhân quả, tối đến lại tá túc Phật đường một đêm. Lúc đó, có một người nói với tôi một tin tức khiến tôi suốt đời không thể quên. Thì ra giữa tháng tư năm nay tôi đã giảng câu chuyện nhân quả, người hỏi tôi về mẹ của cô ấy vì không nhẫn tâm nhìn thấy mẹ mình phải chịu sự giày vò về thể xác, đau đớn về tinh thần, rốt cuộc đã học theo chuyện “Anh cả giết heo”, lấy một con dao sắc và một chén nước trắng lén lút đặt tại đầu giường mẹ nằm, rồi chạy ra sau bếp quỳ khóc. Đến sáng, mẹ cô liền tắt thở. Cô ôm xác mẹ khóc thảm thiết, tưởng chừng như muốn lấy một con dao tự sát theo mẹ xuống suối vàng nhưng lại không đủ dũng khí.
Được cảm ơn bởi: teamoon, cocacola, Onedream, BillGates6868, mythinh1912
TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ
Nhân quả thời đại khoa học - Bà lão bán "nông chân"
Tại nơi bố thí chùa Phật, lần đầu tiên tôi gặp lại người bạn cũ thời niên thiếu. Đó là bà lão bán “nông chân”.“Nông chân” là tên gọi một món ăn đặc sản của người Thái được làm từ bột gạo xay nhuyễn, thêm ớt, nước dừa và cá. Đó vốn là món ăn phụ của người Trung Hoa: “nông” có nghĩa là “thức ăn phụ”, “chân” có nghĩa là thuộc về Trung Quốc.
Mười mấy năm không gặp, bà lão nhìn thấy tôi liền nhận ra ngay bởi vì lúc nhỏ tôi vốn là khách quen của bà. Bà bán rất rẻ, một đĩa “nông chân” nóng hổi thêm một chút ớt cay đến nỗi chảy cả nước mũi. Hồi trước bà còn trẻ, vừa lái thuyền vừa rao: “nông chân đây! Nông chân nóng hổi đây!”. Thật giống như những bài hát truyền thống của người phụ nữ dân tộc ở tỉnh Quảng Tây Trung Quốc vậy.
Bà lão tuy chưa đầy sáu mươi tuổi nhưng xem ra thật tiều tụy, dáng đi vừa lửng thửng vừa bất tiện. Vả lại, không biết tự bao giờ lại mắc cái tật: cái đầu cứ lắc liên tục không ngừng. Bất kể ngồi hay đứng, đi hay nói chuyện, cái đầu cứ đưa đi đưa lại. Ngoại trừ buổi tối, còn lại hầu như lúc nào cũng lắc, có lúc bị cơn chấn động làm tỉnh cả giấc ngủ. Xem ra đây không phải là tật mà là bệnh.
Tôi cứ khuyên bà đừng khẩn trương khi nói chuyện, cái đầu đừng lắc qua lắc lại. Bà cố kiềm chế nhưng cái đầu dường như không theo sự điều khiển ấy: “Không được đâu, không được đâu!”. Tôi hỏi bà tại sao không đi khám bác sĩ để xem là bệnh gì nhưng bà cứ lắc đầu trả lời: “Bà đã khám không biết bao nhiêu là bác sĩ, bệnh viện giỏi nhất cũng đã khám rồi, nhưng cũng không phát hiện ra mắc phải bệnh gì. Thậm chí cũng đã hỏi Thần Minh nhưng tất cả đều vô dụng”.
Tôi hỏi bà đã mắc chứng bệnh này từ lúc nào, hay là đã mắc một chứng bệnh khác khiến bà bị nhiễm chứng lắc đầu? Bà kể bà đã mắc chứng bệnh này hơn mười năm rồi. Lúc mới phát bệnh đúng là bị nhiễm phong hàn, đầu óc choáng váng như có ai dùng gậy đập vào; tỉnh lại liền thấy mơ mơ hồ hồ, cái đầu từ đó tự nhiên lắc một cách thoải mái, cứ một lúc lại phải lắc, dần dần tự nhiên lắc liên tục một cách khổ sở, tưởng chừng như có ai gõ mạnh vào đầu vậy. Thật là đau đớn và khó chịu đến nỗi nhiều khi muốn tự sát nhưng không thành. Sau đó nản lòng không muốn buôn bán nữa, nhiều lần theo người ta đến chùa bố thí, bệnh có đỡ hơn.
Bà lão dắt tôi đến một cây Bồ Đề thỏ thẻ với tôi rằng chứng lắc đầu của bà có liên quan tới việc buôn bán “nông chân”, nhờ tôi chuyển lời tới mọi người rằng: Bất cứ nghề gì cũng có thể làm nhưng nhất thiết đừng buôn bán “nông chân”.
Tôi cảm thấy rất kì lạ: chứng lắc đầu ấy thì có liên quan gì tới việc bán “nông chân”, vả lại hiện nay ở Thái Lan vẫn có rất nhiều người bán “nông chân”, ở đâu cũng thấy. “ Nông chân” không chỉ là món ăn phụ mà đã trở thành món cao lương mỹ vị ở các nhà hàng lớn. Không chỉ người Thái thích ăn mà ngay cả những khách du lịch ngoại quốc cũng thích, bởi lẽ vừa rẻ, vừa tiện lợi, vừa nóng, lại vừa thơm.
Nói chuyện phiếm cả nửa ngày, bà lão rốt cuộc cũng giải thích cho tôi lý do không nên bán “nông chân”. Thì ra là thế này: “Nông chân”vốn là thức ăn làm từ bột gạo xay nhuyễn, điều đó không thành vấn đề; vấn đề ở chỗ nguyên liệu phụ chủ yếu của nó là cá, trộn chung với ớt và nước dừa giã cho đến khi nát nhừ.
Cá phải dùng loại cá còn sống, loại cá thích hợp nhất mà mọi người muốn ăn là cá lác. Loại cá này cần phải bằm nhuyễn, rút xương để tạo ra mùi vị thơm ngon cho món ăn. Món ăn Thái ngoài món ăn nổi tiếng là “nông chân” còn có một món nữa cũng dùng cá lác tươi roi rói để làm phụ liệu, cá chết thì mất đi mùi vị thơm ngon. Trước tiên dùng gậy đập vào đầu con cá còn sống, mổ bụng, rút xương. Nếu không đập đầu nó chết thì không còn cách nào để mổ bụng được.
Buôn bán phát đạt, bà lão mỗi ngày phải giết năm đến bảy con cá, mỗi con nặng hai đến ba kí. Vả lại trước khi giết nó phải dùng một cây gậy đập mạnh vào đầu, con cá giãy giụa đành đạch rồi chết. Bà lão đã hành nghề này từ mười bốn tuổi, cho đến khi năm mươi tuổi phát bệnh mới bỏ nghề. Cả một đời hành nghề đập chết vô số các loại cá đến nỗi đếm không xuể.
Người đời thường ngộ nhận một điều: cá tôm sinh ra và lớn lên là để cho con người làm thức ăn, coi đó là hợp lý. Vì thế mà Tiên Triết Tăng đã từng nói: “Dục tri thế thượng đao binh kiếp, nhĩ thính đồ môn dạ bán thanh” (Muốn biết kiếp nạn đao binh trên thế gian, hãy nghe âm thanh giết mổ trong đêm khuya). Bà lão mỗi ngày mỗi tháng mỗi năm đều không ngừng đập chết những con cá, đã giết chết không biết bao nhiêu chúng sinh vô tội. Những con cá trước khi chết, nó vẫn ve vẩy đuôi, vẫn lắc lắc cái đầu, vẫn giãy giụa đành đạch. Những con cá con tội nghiệp bị bà lão đập chết thật tàn nhẫn. Con người làm việc gì thì tâm linh cũng theo đó mà thành. Hành động và tâm linh nó luôn có liên quan mật thiết với nhau. Bà lão mỗi ngày đều phải chứng kiến cái đầu của những con cá run rẩy nên ý niệm cũng theo nó mà hợp thành. Vì thế mà cái đầu của bà cùng với cái đầu của cá hợp lại thành một.
Nghe xong những lời tâm sự của bà lão tôi càng cảm thông cho hoàn cảnh của bà. Sinh ra trong một gia đình nghèo khó lại không có học thức, chỉ biết dùng nghề sát sinh để nuôi sống cả gia đình. Lâm vào tình cảnh này, tôi cũng không biết an ủi bà ra sao, chỉ biết nhắc lại câu nói của cổ nhân: “Con người gieo giống nào, gặt quả ấy, làm việc tốt thì bản tính tốt, làm việc xấu thì bản tính trở nên xấu”. Con người hiện nay đang bị mê muội bởi vật chất hồng trần, kẻ đua đòi, kẻ tham lam, kẻ sát hại, nổi giận lên làm tổn hại tâm can thì làm sao mà không mắc bệnh được chứ! Bởi vì con người một khi có lòng tham, tâm sẽ cảm thấy phiền não, phiền não là căn nguyên của bệnh lý, nhất là những kẻ sát sinh, Phật gia gọi là tà mạng.
Tôi kể rất nhiều câu chuyện nhân quả báo ứng cho bà nghe và nói với bà: “Theo lý vì bà tàn sát quá nhiều sinh linh nên đáng lẽ không thể sống thọ như thế. Kinh Phật đã từng nói: phàm chúng sanh thích sát sanh sau này sẽ bị đọa vào Tam Ác Đạo (Địa Ngục Đạo, Ngạ Quỷ Đạo, Súc Sinh Đạo), lúc sống phải bị chết yểu”. Tôi khuyên bà hãy cố gắng ăn chay trường và thường xuyên bố thí hành công tích đức, nhằm giảm nhẹ những tội ác trước đây. Bà lão cũng rất ăn năn, theo lời khuyên thành khẩn của tôi, cố gắng ăn chay không ăn thịt, và cũng từ đó không còn khổ tâm vì cái chứng lắc đầu của mình, bởi lẽ bà nhận ra rằng, đây chính là sự trừng phạt hợp với luân lý làm người và cũng là hình phạt nhẹ nhất rồi.
Được cảm ơn bởi: teamoon, cocacola, Onedream, mythinh1912
TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ
Nhân quả thời đại khoa học - Bệnh chân voi
Gần đây có một lần, tôi đến công hội thảo dược ở miền trung đất Thái để mở một cuộc hội nghị thường thức nói về các loại dược thảo, chủ đề là các loại bệnh nhiệt đới thường gặp, trong đó có đề cập đến “bệnh chân voi”. Người mắc bệnh này có cái chân phù to như chân voi nên mới có tên bệnh như thế. Đây vốn là một loại bệnh thường thấy ở Ấn Độ. Một làng nhỏ ở Thái Lan trước đây cũng mắc phải chứng bệnh này. Nhưng đã được chính phủ khống chế, từ đó về sau hiếm thấy người mắc phải bệnh này. Theo nhận định của Sở Y Tế, người mắc phải bệnh này cần phải điều trị lâu dài, hơn nữa chân không thể hồi phục lại như trước. Sau khi bàn xong, chúng tôi liền giới thiệu cách phòng bệnh cũng như cách chữa trị bằng thảo dược cho tất cả mọi người cùng nghe.Vào giờ nghỉ trưa, có vài hội viên hỏi tôi một số kiến thức thảo dược và cách dùng thuốc. Đây vốn là việc thường xuyên: Mỗi khi giảng xong một bài, những hội viên không hiểu đều có thể đến hỏi để mở mang kiến thức. Tôi không cảm thấy ái ngại, biết gì đáp đó, không biết thì không trả lời. Trong số họ có một vị thanh niên, bảo tôi hãy đến nhà anh để xem bệnh chân voi của cha mình và hỏi tôi có thể dùng những bài thuốc đã được giới thiệu để điều trị cho cha mình được không? Ở mảnh đất miền Trung ẩm ướt ấy, hiếm có mấy ai mắc phải bệnh này thậm chí không có. Nhưng cha của anh (Nãi Tố Sát) lại mắc chứng bệnh này. Điều đó khiến tôi rất hiếu kỳ, liền lập tức theo anh ấy đến nhà xem.
Cha của anh Tố Sát, là người Thái gốc Hoa, có thể nói thành thạo tiếng Triều Châu. Ông đã mắc phải chứng bệnh này hơn chín năm. Trước đó vốn đã được điều trị ở bệnh viện, sắp lành bệnh nhưng sau vì hoàn cảnh gia đình thay đổi không thể điều trị được nên bệnh vẫn chưa khỏi. Sau khi được Tố Sát giới thiệu, chúng tôi liền trò chuyện với nhau bằng tiếng Triều Châu. Ông họ Thái, vốn làm nghề thu mua đồ cũ. Trừ bàn chân phải sưng phù lên như voi còn tất cả các bộ phận khác đều bình thường, tinh thần đều rất minh mẫn. Tôi hỏi ông đã từng sống ở phía Nam đất Thái chưa? Ông ấy trả lời ông đã từng sống ở phía Nam Tổng Lý Phủ, cạnh đồn điền cao su của một bà con thân thuộc. Ông hỏi lại tôi làm sao biết ông đã từng sống ở phía Nam đất Thái. Tôi trả lời: “Theo những tư liệu có liên quan, bệnh này vốn bắt nguồn từ phía Nam nước Thái, những người sống ở những vùng ẩm ướt dễ bị mắc phải”. Ngày nay, bệnh này có thể điều trị khỏi bằng thảo dược nhưng phải qua một thời gian khá dài. Tố Sát nghe thấy thảo dược có thể điều trị được liền vội vàng xin tôi kê toa thuốc. Cha anh dường như không quan tâm gì đến bệnh, thản nhiên nói với con: “Không cần phải khẩn trương làm gì”.
Sau khi giải bày, tôi được biết ông ấy đã buông xuôi việc điều trị, bảo đứa con đừng bận tâm về việc này và nói rõ lý do từ bỏ việc điều trị bệnh.
Ông Thái thường ngày rất thích ăn thịt ngỗng. Vào mỗi bữa cơm tối đều nhấm nháp nửa bình rượu và một con ngỗng béo, một mình hưởng thụ hết ngày này qua ngày khác. Cách đây mấy năm theo đoàn du lịch đến tỉnh Đông Tam, Trung Quốc, thưởng thức món gấu trúc nướng, thật là ngon tuyệt! Về đến đất Thái, không được thưởng thức món ngon vật lạ chỉ có thể ăn thịt ngỗng hầm với thuốc, nhưng lại cảm thấy thịt không còn ngon liền đổi sang ăn chân ngỗng vì nghe nói chân ngỗng và chân gấu trúc đều có mùi vị như nhau. Vì thế mỗi bữa ăn đều không thể thiếu chân ngỗng và rượu.
Sau đó được người ta giới thiệu một phương pháp chế biến món ăn mới, không những giữ được mùi vị tươi ngon của món ăn mà còn bổ khí dưỡng thần. Theo cách chế biến chân ngỗng, ông chuẩn bị bốn miếng thép đóng thành cái lồng rồi đem con ngỗng nhốt vào trong, sau đó nhóm lửa, dùng lửa nhỏ từ từ làm chín, tấm thép dưới đáy cũng từ từ nóng lên, nóng đến nỗi con ngỗng chân nhúng chân co nhảy múa liên tục; khi đến độ cực nóng thì hai chân ngỗng hoàn toàn tê liệt sưng tấy lên, nhảy nhót lung tung càng lúc càng dữ dội, khóc lóc van xin thảm thiết, quỳ lạy xin tha mạng. Thấy vậy ông Thái vẫn không chút động lòng, liền chặt đứt đôi chân của con ngỗng nửa sống nửa chết. Con ngỗng đáng thương dường như không thể chịu nỗi cơn đau cực độ nên đã chết đi. Ông chỉ lo đến việc chặt da, mổ thịt chứ không đoái hoài đến con ngỗng đang chết tức tưởi.
Theo lời nhận định của ông Thái: Con ngỗng sau khi đã trải qua sự tra tấn tàn khóc, toàn thân máu dồn về hai chân nên ăn rất ngon, giàu giá trị dinh dưỡng. Đáng tiếc con ngỗng là do người khác nuôi, nếu do đích thân mình nuôi thì càng ngon và bổ dưỡng hơn, có thể nuôi nó bằng các dược thảo bổ dưỡng thì khi lớn lên thịt ngỗng lại càng bổ hơn, ngon hơn đặc biệt sau khi đã trải qua thời kỳ luyện đan (dùng lửa để dồn máu tập trung vào hai chân). Một ngày nếu ăn được một đôi chân ngỗng luyện đan cùng sáu gam đương quy, mười gam đương tâm, điền thất, kỉ tử thì tinh thần sẽ trở nên minh mẫn, bồi bổ khí huyết. Nghe nói Từ Hy Thái Hậu từ khi ăn món thịt ngỗng luyện đan mà trẻ mãi không già, không sợ bệnh tật. Ông Thái cũng theo cách đó mà ăn chân ngỗng hơn nhiều năm qua.
Lúc mới mắc bệnh chân voi, ông Thái vô cùng hoảng sợ, chạy xuôi chạy ngược để chữa trị. Sau đó trải qua một thời gian điều trị ở bệnh viện Nhiệt Đới, đôi chân đã giảm sáu bảy phần. Đến khi sắp khoẻ hẳn thì đột nhiên thuốc có tác dụng phụ làm loét dạ dày. Chỉ có cách là ngừng điều trị chân chuyển sang điều trị dạ dày. Sau khi đã điều trị dạ dày hơn một năm lại tiếp tục điều trị bệnh chân voi, uống thuốc, tiêm chích lại từ đầu. Xem ra cũng lành hết sáu bảy phần nhưng lại có tác dụng phụ khiến cho hai bên đùi bị tê liệt. Nghe nói vì chích thuốc quá nhiều nên buộc phải ngưng điều trị bệnh chân voi, điều trị đùi trái trước. Sau hơn một năm điều trị đùi trái, bệnh đã khoẻ hẳn, ông lại tiếp tục điều trị bệnh chân voi. Khi bệnh tình đã lành đến sáu bảy phần thì toàn thân lại bộc phát bệnh, cái đầu đau âm ĩ và ngứa ngáy. Dù đã điều trị cả Đông Tây y nhưng bệnh tình vẫn không hề thuyên giảm, mỗi ngày đều phải chịu đựng nỗi đau đớn kịch liệt, dai dẳng 24 giờ, mỗi năm phải chịu nỗi thống khổ đến 365 ngày. Cứ thế bị giày vò đau đớn thảm thiết đến sáu năm. Có lúc đau đến nỗi ông muốn tự sát nhưng nghĩ đến vợ hiền con thơ đành phải cắn răng chịu đựng mà sống, sống mà tưởng chừng như đã chết.
Một đêm nọ, trong mơ ông thấy có một đàn ngỗng không chân đến cắn ông. Ông giật mình tỉnh giấc, toàn thân toát mồ hôi lạnh. Lúc này, ông mới hiểu ra rằng chứng bệnh của ông lại có liên quan đến việc ăn chân ngỗng. Đem con ngỗng còn sống nhốt vào trong lồng mà đốt thì thật tàn nhẫn biết bao! Khi nhìn đôi chân vừa đỏ vừa sưng của mình thì thấy chẳng khác gì chân ngỗng khi bị đốt vậy. Ai ngờ đâu, việc ăn chân ngỗng lại gây ra tội nghiệp lớn như vậy khiến cho linh hồn của chúng phải đến đây đòi mạng. Báo ứng… báo ứng…! Nhân quả báo ứng xảy đến nhanh như vậy. Từ sáng tinh mơ, ông nhờ vợ đỡ ra ngoài trời hướng Tiên Phật sám hối, thề nguyện: Từ nay trở đi nguyện không sát sanh, thanh khẩu trường chay, phát tâm tu luyện. Vợ ông cũng phát nguyện cùng ông trì chay. Ông vốn cũng đã đọc sách kinh, nghĩ đến trong Lục Tổ Đàn Kinh có một đoạn sám hối văn: “Đột ngộ đại thừa chân sám hối, trừ tà hành chính tức vô tội” (chỉ cần thành tâm tu luyện, thật tâm sám hối thì mọi tội lỗi sẽ sớm tiêu tan). Kỳ lạ thay! Từ khi hướng Tiên Phật sám hối, lập nguyện, ngoại trừ cái chân phải còn sưng, còn các bệnh khác từ từ không thuốc mà khỏi, cái chân voi cũng bớt sưng bớt đau chỉ có đôi chút bất tiện.
Đến nay đã ba năm không uống thuốc điều trị, bởi ông biết rằng đây chính là oan nghiệp đến đòi mạng. Tất cả đã để lại cho đời một bài học quý giá: Chớ vì sự ngon miệng của mình mà sát hại chúng sinh, tạo ác nghiệt cho mình để rồi suốt đời không trả nổi phải trầm luân trong bể khổ.
Sau khi nghe ông Thái giải bày về câu chuyện chân voi của mình, chúng tôi chạnh lòng nhớ tới một câu nói trong Thái Thượng Cảm Ứng Thiên: “Họa phúc vô môn, duy nhân tự triệu, thiện ác chi báo, như ảnh tuỳ hình” (Phúc hay họa đều do con người định đoạt, thiện và ác luôn tuần hoàn theo nhân quả báo ứng như hình với bóng vậy). Tôi chỉ biết khuyên ông hãy làm nhiều việc thiện, hành công lập đức, chỉ có công đức mới có thể tiêu oan giải nghiệt. Khi oan nghiệt trả hết thì bệnh tình sẽ tự nhiên khỏi.
Được cảm ơn bởi: teamoon, cocacola, Onedream, BillGates6868, mythinh1912