Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ
- binhminh212
- Lục đẳng
- Bài viết: 3518
- Tham gia: 14:46, 09/11/09
- Đến từ: Đảo Hoa Đào nhưng không có đào hoa
TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ
Mong cái tháng thị phi - phi qua mau cho em Mỹ Thịnh, chúc em may mắn, bình an!
Được cảm ơn bởi: teamoon, Nhất Niệm, Onedream, mythinh1912
TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ
@ em Teamoon: Thanks for sharing, em. Bà cụ đó có nét hiền lành quá hả em
@ em Mythinh: Em cố gắng niệm Phật, lạy Phật sám hối, và nhớ dùng bài giải oan cho các oan gia trái chủ theo HT Tịnh Không bày, em nhé!
@ em PhongDat: Chào em! Dạo này việc niệm Phật của em tới đâu rồi!?
@ em BillGates: Chào em! Em ráng tinh tấn lên nhé!
@ all: Chúc tất cả 1 ngày ấm êm, hạnh phúc, tinh tấn trong viê.c niệm Phâ.t
Nam Mô A Di Đà Phật _()_

@ em Mythinh: Em cố gắng niệm Phật, lạy Phật sám hối, và nhớ dùng bài giải oan cho các oan gia trái chủ theo HT Tịnh Không bày, em nhé!
@ em PhongDat: Chào em! Dạo này việc niệm Phật của em tới đâu rồi!?
@ em BillGates: Chào em! Em ráng tinh tấn lên nhé!
@ all: Chúc tất cả 1 ngày ấm êm, hạnh phúc, tinh tấn trong viê.c niệm Phâ.t
Nam Mô A Di Đà Phật _()_
Được cảm ơn bởi: teamoon, cocacola, Onedream, mythinh1912
TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ
CON ĐƯỜNG TÂY PHƯƠNG
Tịnh Sĩ biên soạn
Mục Lục
- Con đường Tây Phương
- I. Giai đoạn trao dồi thiện tâm
- II. Giai đoạn rèn tâm giải thoát
- III. Giai đoạn chuyên tu giải thoát
- Những điều cần biết khi tĩnh tọa niệm Phật
- Đường về Nhất Tâm
Khải ngôn
2. Giai đoạn rèn tâm giải thoát
3. Giai đoạn chuyên tu niệm Phật, thành tựu niệm Phật tam muội.
Tịnh Sĩ biên soạn
Mục Lục
- Con đường Tây Phương
- I. Giai đoạn trao dồi thiện tâm
- II. Giai đoạn rèn tâm giải thoát
- III. Giai đoạn chuyên tu giải thoát
- Những điều cần biết khi tĩnh tọa niệm Phật
- Đường về Nhất Tâm
Khải ngôn
Hóa thành không phải là Bảo sở nhưng muốn đi đến Bảo sở không thể không đi đến Hóa thành.
Giới, định, tuệ chưa phải là cứu cánh Niết bàn. Song muốn chứng cứu cánh Niết bàn không thể không thành tựu giới, định, tuệ. Hay nói cách khác, muốn đắc thành Phật đạo không thể không đi vào cảnh giới thanh tịnh.
Đó chính là lý do Ngài Nhứt Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến Bồ tát vì cầu thành Phật lại phải kinh hành và thiêu mình cúng dường Đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai cả mười mấy ngàn năm để được sinh vào gia đình vua Tịnh Đức.
Và cũng lẽ ấy nên Đức Thế Tôn không ai hỏi mà tự nói pháp môn niệm Phật, khuyên chúng sinh nguyện về Tây phương Tịnh độ để chứng đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Như vậy, sinh về Tây phương Tịnh độ là điều cần yếu cho tất cả những ai muốn giải thoát thành tựu Phật đạo.
Tuy nhiên, làm sao sinh về Tịnh độ ? Hành giả phải trải qua một ngã đường như thế nào để đến được Tây phương ?
Không ngại sự thấy biết nông cạn, bút giả xin bàn bạc cùng chư huynh đệ con đường Tây phương an lành ấy.
Tịnh Sĩ
CON ĐƯỜNG TÂY PHƯƠNG
Tất cả các pháp đều do tâm biến hiện ra. Ta bà hay Phật cảnh đều do tâm mà thành, chúng sinh hay Phật đều từ tâm mà có, … Tâm vốn không, chư Phật và chúng sinh cũng không. Tâm là huyễn, Phật và chúng sinh cũng huyễn. Một là huyễn thì tất cả đều huyễn, một là không thì tất cả đều không. Không mà huyễn, huyễn mà không, ấy là tướng thật của vạn pháp.Ta bà hay Tịnh độ đều chẳng ngoài tâm. Cả hai đều là không, cả hai đều là huyễn, là huyễn mà không, là không mà huyễn. Tất cả đều đồng nhất là giả tướng của huyễn. Tất cả đều vô biệt ở đường thể không. Thế nên Ta bà không thì Tịnh độ cũng không, Ta bà huyễn thì Tịnh độ cũng huyễn; nghĩa là xét thể tánh thì tất cả đều không, nhìn ở giả tướng thì tất cả đều huyễn hữu, và khởi huyễn hữu tâm thì huyễn hữu sinh huyễn hữu Ta bà hay Tịnh độ.
Từ vô thỉ đến nay, chúng sinh luôn luôn khởi tâm và bởi tâm đó mà có ra các cảnh giới. Tâm địa ngục thành cõi địa ngục, tâm con người xây dựng thế giới loài người, tâm Phật kiến tạo cõi Phật.
Nếu thấy được con người là không thì thấy chư Phật cũng không. Còn đã bảo loài người hiện có thì phải nhận cõi Phật cũng có, tức là có thế giới con người thì có cảnh giới Phật, có Phật A Di Đà, có Tịnh độ Tây phương.
Có con người, có chư Phật, có cõi người, có cõi Phật, có trầm luân, có giải thoát, có vãng sinh có thành Phật, …
Là chúng sinh giác ngộ muốn trở về với sự sáng suốt chân thật, thành tựu Bồ đề, chứng Chánh Đẳng Giác, chúng ta không thể không đi theo con đường của chư Phật, rèn luyện tâm hồn bằng sự thực hành tu tập.
Trong các đường lối pháp môn tu thành Phật, pháp môn niệm Phật là con đường thẳng tắt nhất, và trong các phương pháp niệm Phật giải thoát, phương pháp trì niệm hồng danh A Di Đà Phật cầu sinh Tây phương Cực lạc là dễ dàng nhất. Với pháp môn này, hành giả chỉ cần có niềm tin vững chắc, thành thật nguyện sinh Tây phương và thường xuyên trì niệm hồng danh đức Phật A Di Đà, thực hành chuyên cần và thuần thục, hành giả sẽ vãng sinh về thế giới Cực lạc của Phật A Di Đà khi mãn báo thân người. An trú trong cảnh giới thuần tịnh, giải thoát này, mỗi vị đã được sinh về sẽ khai phát sự giác ngộ, chứng bất thối chuyển và cuối cùng thành Phật. Tùy trình độ tâm linh của mỗi vị, sự khai phát ấy có nhanh chậm khác nhau.
Đó là đường lối của pháp môn thẳng tắt dễ dàng niệm hồng danh A Di Đà Phật. Tuy nhiên, trên phương diện thực hành, hành giả cần phải biết rõ cách thức ứng dụng tu tập, có vậy sự dụng công phu tu tập mới thu được kết quả tốt đẹp, bằng chẳng thấu suốt cách dụng công thì sự thực hành phải gặp nhiều chướng ngại, tốn nhiều công sức và kết quả không như ý nguyện.
Tây phương Cực lạc là cảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnh là vô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian. Như vậy, muốn về Tây phương Cực lạc, hành giả cần phải có tâm thanh tịnh giải thoát, thuần thiện ly thế gian.
Tâm thanh tịnh hay tâm thuần thiện trong sạch là tâm dứt bặt mọi phiền não ác nghiệp nhiễm ô. Tâm giải thoát hay tâm ly thế gian là tâm không còn vương mang ái dục phàm phu thế tục.
Tóm lại, muốn chắc chắn vào được cảnh giới Tây phương Tịnh độ, hành giả phải rèn luyện thành thục tâm mình đến chỗ thánh thiện không còn ái dục nhiễm ô.
Để được như thế về thực hành, hành giả cần tu tập theo trình tự ba giai đoạn:
1. Giai đoạn trao dồi thiện tâm 2. Giai đoạn rèn tâm giải thoát
3. Giai đoạn chuyên tu niệm Phật, thành tựu niệm Phật tam muội.
Được cảm ơn bởi: teamoon, cocacola, Onedream, mythinh1912
TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ
I. Giai đoạn trao dồi thiện tâm
Giai đoạn này cũng là giai đoạn gột rửa tâm hồn, vì ở giai đoạn này, hành giả dùng mọi phương tiện để giải trừ tất cả tập khí xấu ác của bao đời trước (kiếp trước) giúp tâm trở nên trong sạch hiền thiện, đảm bảo không sa vào ác đạo.
Cũng gọi là giai đoạn nuôi dưỡng đức hạnh. Hành giả song song với việc xả ác, luôn luôn rèn luyện, dưỡng nuôi tất cả các phẩm hạnh thanh cao, các đức tính quý báo để chuẩn bị cho việc tu tập giải thoát, đảm bảo đường tu không bị chướng ngại.
Đây là giai đoạn rất quan trọng, là căn bản của mọi sư tu hành giống như nền móng của căn nhà, nếu không trải qua một sự tu tập thuần thục vững chắc ở giai đoạn này, thì mọi sự tu tập giải thoát nào khác đều bị thất bại.
Không gột rửa tâm trở nên hiền thiện, cứ để mầm ác ẩn tàng trong tâm thức thì khó tránh khỏi lạc vào tà đạo. Một khi đủ duyên, ý ác sinh khởi, nó sẽ biến mọi Phật sự thành ma sự, phá hoại tất cả các công đức lành.
Nếu không rèn luyện đức hạnh, cứ để các thói quen xấu như dễ xao động, dễ thối lui, thiếu nhẫn nhục, thiếu khiêm tốn, hòa hợp,… thì khó tránh sự gẫy đổ và các chướng ngại trên đường tu tập khiến không thành tựu kết quả.
Bởi chúng ta từ vô thỉ đến nay đã huân tập vô số chủng tử bất thiện, chúng luôn luôn ẩn tàng trong tâm, mỗi khi đủ duyên, chúng sẽ khởi dậy, giống như các hạt giống cỏ dại trong nền đất lặng lẽ, khi đủ điều kiện nước, ánh sáng, … liền tự mọc mầm.
Những chủng tử bất thiện như tham lam, ích kỷ, gian xảo, sân hận, thù hiềm, ganh ghét, đố kỵ, phá hoại, đam mê, điên đảo, ngã mạn, khinh người, không nhận lỗi, chê thiện, vui ác, … chúng là nguyên nhân gây ra các tội lỗi, lôi kéo chúng sinh vào ba đường ác, chúng liên kết với nhau khiến hành giả bỏ mất đạo tâm.
Như tu hành còn tham danh tất thường khoe khoang, gặp người hơn mình thì ghen tỵ, dèm chê, tìm cách hại danh dự người, … tâm hồn cứ loanh quanh vấn đề danh dự. Mọi việc làm đều do tâm cầu danh sai sử, trở thành bè đảng của ma, dù có làm việc thiện cũng là ma sự. Khi bị trái ý tổn hại đến danh dự mình thì trở nên sân hận, hiềm thù. Điều ác còn chưa đoạn được thì mong gì thành tựu giải thoát.
Hoặc tu đạo mà ôm lòng ngã mạn, tự cao tự đại, xét lỗi người, đối trên bất kính, nhìn xuống khinh thường, chẳng học hỏi người, chẳng sửa lỗi mình. Như vậy tâm hồn chỉ chứa đựng đầy thứ xấu xa tội lỗi, khó vươn tới chỗ thanh cao đạo đức. Há có thể giải thoát sinh tử?
Bên cạnh những chủng tử bất thiện ấy, con người chúng ta còn có rất nhiều thói quen không tốt như thiếu bền chí, thiếu cam nhẫn, không tri túc, lười biếng, ỷ lại, đa ngôn, hấp tấp, không tự tin, không chú tâm, không chuyên nhất, hí luận, trạo cử, cố chấp, hơn thua, sợ hãi, … Trong đời sống tu hành không ai tránh khỏi những khó khăn do nghiệp chướng hoặc ngoại cảnh đưa đến, đồng thời công phu giải thoát cũng đòi hỏi hành giả phải có một nhân cách hoàn hảo. Nếu còn những thói quen không tốt thì trên đường tu tập, hành giả khó vượt qua chướng duyên, khó đạt đến chỗ giải thoát trọn vẹn. Do đó, bước vào con đường giải thoát, muốn có sự vững chắc và nhẹ tiến, trước tiên hành giả phải thanh lọc tâm mình, rèn trau đức hạnh. Đây chính là chỗ nói: “Muốn tu tiên đạo trước tu nhân đạo”, hoặc “Nhân đạo bất tu, tiên đạo viễn hỷ” ấy vậy.
Tu dưỡng thiện tâm, hành giả phải thông suốt nhân quả nghiệp báo, biết rõ ràng tất cả đều do duyên sinh, phân biệt thế nào là thiện ác ngay trong mỗi điều giới luật nhỏ nhặt và phải thấy tầm quan trọng của nó.
Hành giả phải thường xuyên tìm xét lỗi mình, ở mỗi hành động, lời nói và ý nghĩ do mình khởi ra, đều phải thành thật nhận biết tính chất thiện ác, hay dở, lợi hại, đúng sai của nó. Thấy ác, sai dở thì lập tức xả bỏ; thấy thiện, đúng hay thì cố gắng hành thêm. Bởi có thấy được lỗi của mình thì mới lo tu sửa, càng thấy mình nhiều lỗi lầm khuyết điểm, tâm càng thêm hỗ thẹn, càng tinh tấn rèn luyện học hỏi tu tập. Hành giả chỉ nên chú ý lỗi mình, không nên tìm xét lỗi người, không nghĩ xấu về người, … Vì xét lỗi người, nghĩ xấu về người sẽ làm tâm hành giả chất chứa thêm nhiều điều bất thiện. Trong mọi việc sai trái, phải thấy có lỗi mình trong đó.
Song song với việc xét lỗi mình, hành giả phải chú ý điều hay của người, tìm học các gương sáng, các đức tính quý giá của những bậc tiền bối, của chư thánh hiền và của tất cả chư Phật. Luôn luôn chiêm nghiệm tưởng nhớ công đức, đạo hạnh của các Ngài, để các đức tính quý báo ấy thâm nhập mạnh mẽ trong tâm thức, làm tiêu hoại những chủng tử nhiễm ô đã huân tập từ vô thỉ.
Do đó, ở giai đoạn này, hành giả có thể tập tu: đọc kinh, sám hối, lễ Phật, niệm Phật, suy tư, đọc sách, làm phước thiện, …
Đối với tất cả các việc thiện, hành giả phải sốt sắng vui vẻ thực hành, tùy theo khả năng mà làm, không nên vì lười biếng mà bỏ qua. Dù là việc nhỏ nhặt cũng không được coi thường, sẵn sàng xả thân cho các việc thiện ấy. Tâm say mê với việc lợi mình lợi người, có như thế những chủng tử xấu ác mới không còn dịp sinh khởi. Hành giả phải làm với tâm niệm trưởng dưỡng thiện căn và lợi ích chúng sinh, không nên làm vì lợi ích cá nhân, thỏa mãn tính hiếu thắng cầu danh dự và tình cảm. Được như vậy, việc hành thiện mới không bị chướng ngại khi gặp khó khăn, mới không phát sinh phiền não khi gặp điều trái ý và không trở thành ma sự khi mình được lợi. Tùy theo nghiệp chướng của người và của mình mà làm thiện cho phù hợp, nhằm đoạn trừ ác nghiệp. Tham xẻn thì thường bố thí buông xả, khuyên người thí xả, tưởng niệm nhân quả phước điền vị tha; nghiệp sân độc thì nói lời lành, gần người hiền đức, tập nhu hòa, tưởng niệm từ bi, nhẫn nhục; nghiệp si mê tà kiến thì lo đọc kinh, nghe pháp, khuyên người học chánh pháp, bố thí kinh điển, cung kính bậc trí tuệ,…
Tóm lại, làm thiện theo nhân duyên như tùy bệnh cho thuốc, bệnh gì thuốc nấy sao cho người mình trở nên thiện lành.
Mỗi một cảnh duyên thuận nghịch nào đưa đến, hành giả cần nên nghĩ tưởng “đó là do nghiệp quả của mình chiêu cảm và theo nghiệp mà thay đổi”. Hành giả không trốn tránh, không say đắm, bình thản đón nhận. Thường hay quán sát nhân quả của mình trong mọi hình thức sinh hoạt hằng ngày, hành giả sẽ giữ được sự an bình, tự chủ và sáng suốt khi đối diện với gió đời vui buồn, vinh nhục … Giai đoạn này, hành giả không được để tâm ngừng nghỉ mà phải thường xuyên vận dụng nó, nhờ nó quán xét suy tư sự thật của cuộc đời theo ánh sáng chân lý, khiến tâm thức thấm nhuần đạo pháp.
Điều nên chú ý là khi thấy mình có nhiều lỗi lầm khó sửa đổi cũng không được bi quan buồn chán. Hãy nghĩ rằng “chúng sinh ai cũng có lỗi, nghiệp chướng nào cũng khó trừ, chỉ cần cố gắng, tất cả đều có ngày cùng tận, tánh xấu có lúc phải hết”.
Ngay thấy mình có các lỗi lầm, hành giả phải suy xét nguyên do sinh ra lỗi ấy, sự lợi hại của nó và xả bỏ nó. Biết rõ các lỗi lầm như thế, hành giả sẽ dễ dàng dứt khoát đoạn trừ, đoạn trừ ngay tận gốc của nó. Hành giả không nên sợ hãi đối mặt với tính xấu của mình, dù nó đê tiện cũng nhắm ngay nó mà quan sát phân tích cho thấu đáo, sau đó mới dứt khoát quên đi để rèn luyện đức tính ngược lại nó. Vì khi thấu triệt rồi, không cần nghĩ đến nó nữa, cứ tưởng niệm pháp thiện thường xuyên thì các nghiệp ác ấy sẽ dần dần tiêu mất.
Ví dụ thấy mình còn sân hận, biết rõ là mình chấp ngã, tham danh, cố chấp sự tướng … Thấy sự lợi hại của việc sân hận là thỏa mãn bản ngã, phá tiêu thiện tâm công đức, khổ mình, khổ người, chiêu cảm ác báo… Nhận biết nếu đoạn dứt được sân hận thì tâm hồn luôn an lạc, thiện tâm tăng trưởng, thiện nghiệp phước thiện tăng mãn, đưa đến giải thoát sinh tử… Quan sát thường xuyên như thế, nghiệp sân sẽ bị mất gốc, hành giả trở nên an tâm, không còn theo đuổi niệm sân hận. Bấy giờ hành giả cứ chuyên tâm niệm tưởng đức từ bi của chư Phật thánh hiền, hoặc nguyện cầu chúng sinh đều sống từ bi. Không nhớ nghĩ đến chuyện sân hận của mình nữa, nhưng mỗi khi vừa muốn sân thì phải trực nhận liền, rồi phát tâm từ bi thông cảm khiến nó tiêu tan. Đối trị nghiệp tham đắm, ích kỷ, ngã mạn, cố chấp…cũng phải quan sát và khéo léo tu tập như thế. Được như vậy mới gọi là lấy gươm trí tuệ đoạn trừ nghiệp chướng hay biến phiền não thành Bồ đề vậy.
Rèn luyện tánh hạnh tốt, hành giả phải thực hiện ngay nơi việc mình làm hằng ngày, dù là việc nhỏ nhặt cũng phải làm trong ý thức tu tập.
Như rèn luyện “bền chí” thì ngay nơi các việc làm, dù đơn giản hay khó khăn, lớn hay nhỏ phải thực hành chu đáo tới nơi tới chốn. Ví dụ: xách nước vào lu, xách đến khi đầy lu mới thôi; quét sân thì quét giáp sân mới nghỉ mà không bỏ dở nửa chừng. Việc khó khăn lớn nhỏ đều bền chí tới cùng như vậy. Ngay nơi việc nhỏ nhặt tập luyện được, lâu ngày sẽ thành thói quen. Về sau này gặp việc khó khăn quan trọng mới có thể kiên tâm đến đích.
Xả trừ thói quen hấp tấp loạn động, rèn hạnh từ tốn thung dung cũng ngay nơi sinh hoạt hằng ngày, không gián đoạn ở thời khắc nào. Đi đứng nằm ngồi, nói năng làm việc, nhất nhất đều thong thả cẩn thận.
Rèn luyện nhẫn nhục, tinh tấn, hỷ xả, hòa hợp, tự chủ, chuyên tâm … cũng thế.
Tóm lại, hành giả phải coi tất cả các hoạt động thường ngày là môi trường rèn trau đức hạnh của mình. Mọi lời nói, cử chỉ đều cần phải chú tâm luyện tập cho được tốt đẹp, ý nghĩa là tu trong mọi lúc, mọi nơi.
Hành giả cũng thường nên khởi các lời nguyện cầu để trưởng dưỡng thiện tâm đến chỗ hoàn mỹ. Như nguyện tất cả chúng sinh đều được an lành, nguyện tất cả chúng sinh đều được thanh tịnh, nguyện tất cả chúng sinh đều sống hỷ xả, từ bi, nguyện tất cả chúng sinh đều được giải thoát…hoặc khởi các lời nguyện như các vị Bồ tát trong kinh Hoa Nghiêm thường phát nguyện như thế. Những chủng tử lành thấm sâu nơi tâm thức hành giả sẽ tôi luyện tâm hồn thuần tịnh cao thượng, tràn đầy từ bi, dứt bặt ác nghiệp, giống như ly tách có mùi hôi, nay đựng đầy một thứ rất thơm tho ngon ngọt, ly tách liền trở nên thơm tốt vậy.
Giai đoạn này chú trọng việc tu thiện, chỉ lo bồi dưỡng thiện tâm, không quan tâm đến sự phan duyên động niệm hay đoạn tuyệt ái dục, do đó, hành giả còn nhiều ý niệm ái dục và thiếu định tâm. Tuy vậy, hành giả không nên lo sợ, cứ phát khởi tâm lành cho đến khi tâm tràn đầy từ bi, không còn ác nghiệp phiền não và thành tựu các đức hạnh cần yếu cho việc tu tập giải thoát, có điều là tránh các duyên làm tâm ái dục thêm mạnh, hoặc các duyên làm tâm khó định tỉnh để giữ gìn đạo tâm mà thôi.
Khi nào hành giả nhận thấy tâm mình đã đạt được sự hài hòa, đối với các cảnh thuận nghịch đều giữ được sự trong sạch không phiền não ác niệm và các đức tánh khiêm tốn, bền chí, nhẫn nhục, giản dị, hòa hợp, chuyên tâm, cần mẫn, trang nghiêm, kham khổ, cầu tiến, rộng lượng, từ ái, vị tha, bình tĩnh, hỷ xả, tự tin, tự chủ, chú tâm, chuộng thiện, tàm quý, tri túc, an bần, chân thật, lạc quan, thanh tịnh, xả ác, ẩn đức, kính nhân, trọng đạo…đều đã được rèn luyện vững chắc, bây giờ có thể xem như thành tựu giai đoạn tu dưỡng thiện tâm này. Hành giả đã đủ khả năng đi vào con đường giải thoát.
Được cảm ơn bởi: teamoon, cocacola, Onedream, mythinh1912
TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ
II. Giai đoạn rèn tâm giải thoát
Cũng gọi là giai đoạn xả ly thế gian. Hành giả dứt trừ ái dục, sống nếp sống ngoài vòng tục lụy.
Cũng gọi là giai đoạn hướng về Tây phương. Hành giả chuyên tâm cầu sinh Tây phương Cực lạc, thành thực chí nguyện giải thoát.
Ở giai đoạn rèn tâm hành thiện trên, hành giả chỉ mới cải đổi tâm trở nên tốt đẹp, sống với niệm từ ái, yêu thương, hành giả còn khởi các ham muốn tốt lành để diệt trừ nghiệp ác. Do vậy, tâm ái dục của hành giả vẫn còn, hành giả còn bị thế gian chi phối, tâm yêu tiếc thế gian còn mạnh, ý rong ruổi thế gian còn nhiều, chí giải thoát còn yếu. Thế nên, khi tâm mình trở nên hiền thiện rồi, hành giả phải tiếp tục giải thoát, xả ly ái dục của thế gian.
“Ái” ở đây không có nghĩa là riêng chỉ cho tình thương nam nữ, vợ chồng, mà bao gồm mọi sự đắm trước của chúng sinh đối với muôn loài vạn vật. Tình thương dù với ý nghĩa gì nếu không chừng mực, không có lý trí soi sáng, không hướng thượng và có tính cách ràng buộc, đều gọi là ái. Đắm luyến sự vật cũng gọi là ái. Còn ái luyến thế gian tất còn trở lại thế gian.
“Dục” tức ham muốn. Dục ở đây không phải riêng nói về dục lạc xác thịt mà gôm chỉ hết tất cả các ham muốn ở thế gian, từ những ham muốn xấu xa đến các ham muốn tốt và các loại ham muốn vô nghĩa, không thiện không ác. Những ham muốn xấu ác, ở giai đoạn đầu hành giả phải trừ sạch. Trong giai đoạn này, hành giả còn các ham muốn thiện và vô ký (không thiện không ác) ngoại trừ mong muốn giải thoát, tất cả các mong muốn thiện và vô ký ấy đều phải được xả bỏ. Ví dụ chúng là thiện, chúng còn là thế gian hữu lậu sinh tử. Hành giả chỉ sống và làm những việc cần thiết phải làm chứ không được muốn làm. Muốn hay không muốn đều trái với tâm giải thoát.
Ở giai đoạn trước, hành giả cần khởi tâm muốn làm các việc lành. Nhưng ở giai đoạn này thì không được muốn nữa. Vì “muốn” là biểu hiện của sự chưa cần và không thật ích. Thực hành công phu giải thoát mà còn ham làm việc này việc nọ, muốn món này món kia thì khó tránh loạn động, không thể xa lìa thế gian, làm sao đạt kết quả giải thoát ? Đối với sự vật, dù biết là tốt cũng không được muốn. Tâm muốn vi tế đưa đến tâm tham luyến, tâm muốn thô tháo đưa đến tâm tham cầu, cả hai đều là ràng buộc, cả hai đều đến lo âu phiền não khi không thành tựu. Mọi vật, mọi việc đúng duyên phải đến thì không tránh nó, nhưng chưa đến thì không nên muốn, còn đã mất đi thì không nên luyến tiếc.
Tâm ái làm cho con người đắm say khi tiếp đối thế gian và khiến người ta tiếc nuối lúc xả ly thế gian. Tâm dục (ham muốn) làm con người tầm cầu dong ruổi theo thế gian. Tâm ái dục này thường gây ra sự sợ hãi lo âu và phiền não khi xa lìa thế gian và gặp cảnh trái với nó, khiến chúnh sinh quay cuồng trong các sự việc thế gian, nó là cội gốc của sự luân hồi không dứt.
Hành giả tu giải thoát phải tỉnh giác nhận rõ những biểu hiện của ái dục và ngăn trừ khi nó vừa phát khởi nơi tâm. Từ chỗ tiếp xúc với các thứ thuận lợi vừa ý, tâm sinh nên thích, đây là cội nguồn của ái. Mến thích đưa đến thân hậu, lo lắng, chăm nom, tức là ái đã hình thành. Từ thân hậu lo lắng, chăm nom trở nên sợ hãi khi nghĩ nó hoại mất là ái đã mạnh hơn lý trí và buồn nhớ tiếc nuối khi những thứ ấy mất mát hoặc lìa xa, tức đã bị ràng buộc, ái đã ăn sâu nơi tâm thức. Tâm ham muốn phát sinh từ sự phân biệt thấy lợi vừa ý hoặc do lòng ái trước đưa đẩy để thỏa tính tham nhiều. Một ý niệm ham muốn vừa khởi nếu không được tự chủ đoạn trừ sẽ đưa đến sự tìm cầu, suy tính lo âu, sợ hãi và não phiền điên đảo.
Hai tâm ái và dục này trợ giúp nhau, nối tiếp nhau làm hành giả luôn loạn động quay cuồng thiếu tỉnh giác, khó chuyên nhất trong việc tu hành.
Để xả ái dục, hành giả hãy quán sát về nó để thấu rõ bản chất của nó, rồi chuyên tâm cầu sinh Tây phương. Đây là phương pháp tuyệt diệu nhất.
Hành giả quán sát thế gian, quán sát sự vô thường giả ảo và khổ đau của tất cả mọi thứ danh lợi tình cảm và sự vật trên thế gian, quán sát sự ràng buộc của thời gian, sự khổ đau trong vòng sinh tử. Quán sát sự điên đảo thấp thỏi ràng buộc ngu si và đau khổ khi còn sống với tâm ái dục, quán sát sự thanh thoát, an lạc, sáng ngời, cao quý khi đoạn dứt ái dục. Bằng sự quan sát chân thật, rõ ràng sâu xa, hành giả sẽ không còn mù mờ về bản chất của ái dục và thế gian. Hành giả sẽ mong muốn xả ly thế gian và dũng mãnh đoạn trừ ái dục, tức đã chặt đứt cội gốc của ái dục. Vì biết rõ bản chất và tướng trạng ô nhiễm của ái dục thì không bị nó lừa gạt, lôi cuốn, thấy nó đưa đến nhiễm ô ràng buộc, đau khổ và u tối thì sẵn sàng từ bỏ.
Hành giả không nên đè ép cố quên khi thấy mình khởi sinh ái dục mà phải mạnh dạn đối đầu quán sát tường tận nó để đoạn trừ nó. Vì các vấn đề do hành giả cố quên chỉ vô ích trong khi tâm vẫn thấy thích thú hay đau khổ vì nó. Vì các vấn đề do hành giả cố quên chưa giải quyết sẽ dồn chứa lại nơi tâm, lâu ngày trở nên mạnh mẽ. Một ngày nào đó đủ duyên, chúng sẽ bừng dậy. Lúc ấy, hành giả không thể tự chủ được, hoặc chúng cứ âm thầm phá hoại tâm thức hành giả khiến trở nên cuồng si u tối. Một tâm niệm ham muốn, khao khát tiềm tàng lâu ngày, một ý tưởng yêu thương ẩn chứa nhiều tháng năm do sự chèn ép cố quên không chịu quan sát để phá vỡ, đều là mối nguy hại vô cùng.
Đồng thời với việc quan sát ái dục, hành giả cần thường xuyên khởi tâm nguyện cầu sinh Tây phương và tập lối sống không trụ trước, không cố định ở một cảnh, không nương mãi một duyên, không thân không hậu riêng ai, sẵn lòng buông xả những gì mình thích quý, cũng không nên cố thủ ham muốn cái dở xấu, vì ham muốn yêu tiếc vật tốt hay xấu cũng đều là ái dục cả.
Khi đã thấu suốt ái dục và thế gian rồi, tâm hành giả sẽ bình tĩnh, sáng suốt, tự chủ trước các cảnh duyên, không cho say đắm với tất cả người hay vật nào. Nhìn mọi thứ, hành giả đều thấy trong đó có mầm khổ đau, ràng buộc, vô thường, u tối sinh tử, trầm luân và hành giả cũng thấy mọi khổ đau của mình và của người, đều có thể trong mọi lúc, mọi nơi luôn luôn nguyện cầu sinh về Tây phương, không nghĩ tưởng gì nữa.
Nên nhớ, khi chưa thấu triệt ái dục, tâm còn quay cuồng với những ham muốn tiếc thương thì còn chướng ngại lớn trong việc tu hành; dù có cố gắng nguyện cầu sinh về Tây phương, cũng khó tránh khỏi bị tâm ái dục ấy làm đình trệ gián đoạn, vì muốn về Tây phương mà cứ nắm cả Ta bà thì làm sao về Tây phương được.
Cũng như muốn kéo cây cho nghiêng về một phía mà cứ để gốc rễ bám cứng vào đất thì làm sao kéo được. Quan sát thấy rõ ái dục để khai phát tâm xả ly thế gian tức là chặt đứt các rễ cây ấy vậy. Có sợ Ta bà mới thật sự thích Tịnh độ, có chán thế gian mới thành tâm cầu về Tây phương.
Tuy nhiên, lúc quan sát ái dục vẫn luôn luôn nguyện sinh Tây phương để gieo trồng sâu hạt giống vãng sinh, đồng thời cũng để trợ giúp hành giả buông xả sự đắm trước thế gian. Vì tuy quán sát rõ ái dục, tâm có thể phát sinh xả ly, nhưng do nghiệp ô nhiễm của hành giả nhiều đời huân tập sâu dày và nghị lực của hành giả còn yếm kém, hành giả vẫn còn cảm thấy sung sướng khi tiếp xúc với ái dục. Mặc dù lý trí thì muốn xả bỏ nhưng thói quen vẫn muốn tìm cầu nắm bắt, vả lại cuộc đời luôn có các duyên khiến nghiệp ái dục tăng trưởng lấn áp cả lý trí. Do đó, song song với sự quán sát để xả ly ái, rất cần có chí nguyện vãng sinh cầu giải thoát để giúp hành giả đủ tâm lực dứt khoát thế gian đoạn trừ ái dục.
Nguyện vãng sinh, hành giả phải khởi nguyện liên tục giống như niệm Phật. Hành giả có thể khởi nguyện như thế này:
“Nam Mô A Di Đà Phật
Con nguyện sinh về Tây phương Cực lạc
Xin Phật từ bi đến tiếp độ con”.
Hoặc nguyện theo bài kệ:
“Quy mạng lễ A Di Đà Phật
Ở phương Tây thế giới an lành
Con nay xin phát nguyện vãng sinh
Cuối xin đức từ bi tiếp độ”
Con nguyện sinh về Tây phương Cực lạc
Xin Phật từ bi đến tiếp độ con”.
Hoặc nguyện theo bài kệ:
“Quy mạng lễ A Di Đà Phật
Ở phương Tây thế giới an lành
Con nay xin phát nguyện vãng sinh
Cuối xin đức từ bi tiếp độ”
Hoặc niệm theo các bài sám văn của chư Tổ soạn. Lời nguyện cốt yếu càng đơn giản, càng hướng mạnh mẽ về Tây phương càng tốt.
Với các lời nguyện như thế, hành giả luôn luôn khởi phát nơi tâm, khiến nó ngày càng thấm sâu vào tiềm thức và mạnh mẽ không thay đổi. Một lời nguyền duy nhất như thần chú bất động, hành giả sẽ rèn được tâm vãng sinh kiên cố giống như cây đã nghiêng hẳn về một hướng. Tâm nguyện vững chắc như vậy đã nghiêng về một hướng rồi thì không còn lo bị thế gian ràng buộc. Dù mai kia ngọn lửa vô thường nào thổi lên, cây tâm linh cũng chỉ ngã về phía Tây.
Bất cứ trong hoàn cảnh nào, gặp đối tượng gì cũng chỉ một câu nguyện. Lúc này hành giả không nên bận tâm những vấn đề nào khác. Hãy phó mặc cho tất cả nhân duyên định đoạt. Dù cảnh chướng duyên hay thuận duyên cũng không lo nghĩ. Biết mình nhiều nghiệp chướng và kém phước cũng không nên lo sợ tìm cầu làm các việc để tránh nghiệp hay tạo thêm phước. Phải biết rằng nghiệp quả không thể tránh, hãy bình thản đón nhận, có điều không gây thêm nghiệp chướng nữa mà thôi, vì phải tin tưởng hoàn toàn rằng tâm thệ nguyện này vẫn đủ năng lực giúp hành giả vượt qua mọi dòng nghiệp thế gian.
Ngay cả các việc phước thiện, nếu do nhân duyên đưa đến thì sẵn lòng không từ khước, nhưng hành giả giải thoát không nên chủ tâm tìm việc để làm, vì tất cả đều là thế gian hữu lậu. Phước vô lậu và tâm giải thoát ở giai đoạn trước, hành giả có thể chuyển lo làm phước để nuôi lớn thiện căn phá trừ ác nghiệp. Nay ở giai đoạn này đặt nặng việc giải thoát, mọi việc lành đều làm với tính cách từ bi tế độ thuận theo nhân duyên, hành giả không làm vì tham muốn phước lạc và dù làm việc gì cũng luôn khởi niệm cầu sinh về Tây phương không gián đoạn. Khởi niệm đến khi nào ở mọi lúc, mọi nơi, mọi đối tượng, tâm hồn chỉ biết có Tây phương. Hướng về người cũng chỉ biết có Tây phương, không còn thích muốn gì nữa, chẳng chán ghét gì nữa. Tâm trong lành với ý niệm Tây phương.
Trong giai đoạn này, hành giả có thể thấy mình còn phan duyên động niệm, tâm thức chưa sáng trong tĩnh lặng, xác thân còn khởi động dục nhiễm. Hành giả không nên quan tâm lo nghĩ về những vấn đề đó, phải biết mình đang thực hành trong giai đoạn rèn chí giải thoát, chưa phải lúc chuyên tu định huệ giải thoát cứu cánh. Do đó, hành giả không nên sợ hãi, lo lắng làm dao động việc tu tập hiện tại. Nếp sống xả ly thế gian, tâm hồn không đắm say ái dục, luôn luôn hướng về Tây phương là cốt yếu của giai đoạn này. Cố gắng nguyện cầu không ngừng đến khi tâm hồn trở nên bình thản với thế gian, không còn biết ghét thương ham muốn, chỉ có Tây phương là lẽ sống, là nguồn hạnh phúc của cuộc đời. Như thế là thành tựu được giai đoạn thứ hai trên con đường về đến Tây phương này.
Từ đây, hành giả có thể an tâm với thánh đạo giải thoát. Niềm an lạc thanh tịnh đã bao trùm cuộc sống hành giả. Hành giả có thể tiến từng bước vững chắc trở về với thanh cảnh giác ngộ tột cùng. Nhờ sự quán xét tường tận ái dục, hành giả có thể tự chủ trước tình cảm, không đắm luyến mặc dù còn rung động trước nó. Người xuất gia không còn sự mê đắm trong vòng tục lụy. Nhờ luôn luôn nguyện sinh Tây phương, chí hướng ngày càng vững mạnh ăn sâu nơi tâm tưởng, con đường Tây phương được thông suốt, hành giả chắc chắn sẽ được vãng sinh.
Chú ý, ở giai đoạn này hành giả vẫn niệm Phật theo thời khóa hoặc thường niệm nhưng chú trọng việc cầu vãng sinh. Có thể chỉ sau vài câu Phật hiệu thì khởi kỳ một lời nguyện và cứ thế hành trì mãi. Ngay ở giai đoạn đầu cũng vậy, cũng vẫn niệm Phật và cầu sinh Tây phương theo thời khóa hoặc thỉnh thoảng khởi tâm niệm Phật cầu nguyện trong các sinh hoạt bình thường, có điều ở giai đoạn đầu thì niệm nguyện để cho tâm được trong lành thuần thiện và không cần chuyên nhất.
Hành giả không nên vì ham thích định tâm hay lười khởi niệm mà bỏ qua hoặc lơ là việc nguyện cầu này. Bỏ qua việc nguyện sinh Tây phương cho dù hành giả có chuyên tâm niệm Phật thì cũng khó được vãng sinh. Vì chỉ chuyên tâm niệm Phật, lúc niệm Phật tâm tuy thanh tịnh, quên các duyên ngoài, nhưng tư tưởng ái dục còn mạnh, chí giải thoát còn yếu, sự chuyên niệm ấy cũng khó bền bỉ khi tâm ái dục khởi sinh. Hành giả để gián đoạn việc dụng công và chạy theo ngoại cảnh, hoặc biến việc niệm Phật thành một phương tiện để thành tựu ý tưởng ái dục. Hoặc niệm Phật mà khởi niệm ham thích làm vua, làm quan hay sinh cõi trời này, cõi nước kia. Như vậy, việc niệm Phật trở thành phương tiện để tạo phước hữu lậu thế gian. Đây chính là nguyên nhân làm biết bao người chuyên tu niệm Phật vẫn bị luân hồi. Giống như cái cây không kéo nghiêng hẳn về một phía tốt, cứ để nó nghiêng theo hướng xấu mà nuôi cho cây cao lớn; gặp phải ngọn gió vô thường bật gốc, nó sẽ ngã theo chiều hướng xấu của nó.
Mặc dầu có tha lực tiếp dẫn, nhưng tâm hành giả chẳng hướng về Tây phương thì tha lực này cũng không làm sao tiếp dẫn được, vì tha lực của chư Phật đây chẳng phải là loại thần lực thế gian của các quỷ thần. Tha lực này bình đẳng, không vọng động, phát xuất từ một linh thể bên ngoài, mà nó khởi nguồn từ tâm ý hành giả, nó tùy thuộc vào tâm lực nguyện cầu của hành giả mà mạnh hay yếu, giống như tiếng vang nơi hang núi. Do đó, hành giả càng khởi tâm nguyện sâu xa thì tha lực càng trở nên mạnh mẽ; còn ngược lại, ít khởi nguyện thì đương nhiên bị yếu kém, yếu kém thì không đưa hành giả về Tây phương được. Chính vì lẽ đó mà có chỗ nói “tha lực tùy thuộc tự lực” hay “tha lực cũng là tự lực”.
Được cảm ơn bởi: teamoon, cocacola, Onedream, mythinh1912
TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ
III. Giai đoạn chuyên tu giải thoát
(Cảm tác sau khi thực nghiệm lại phương pháp niệm Phật:
kính tặng tất cả hành giả niệm Phật).
Con Đường Tây Phương
Word File: http://www.mediafire.com/?pp1asbwuwaus70d
PDF File: http://www.mediafire.com/?a9hcwor42k8hohm
Đây là giai đoạn cuối cùng của con đường Tịnh độ. Hành giả có thể chứng nghiệm Tây phương ngay nơi tâm hồn mình, Tịnh độ trong cuộc sống của mình.
Đã tôi luyện vững chắc tâm giải thoát về Tây phương không còn luyến tiếc thế gian, bây giờ hành giả có thể buông các duyên bên ngoài thôi quán sát, chỉ chuyên tâm niệm Phật không gián đoạn.
Đi niệm Phật, ngồi niệm Phật, đứng niệm Phật, làm việc cũng niệm Phật, nói năng cũng niệm Phật, …Tất cả đều niệm Phật, chỉ có niệm Phật, không cần nghĩ biết mình, người, vui, khổ, hơn kém, thân sơ … Ta bà, Tây phương gì cũng mặc, cứ A Di Đà Phật. Một cành cây một ngọn cỏ đều A Di Đà Phật. Chẳng xét nghĩ mà cứ như ngây như khờ với A Di Đà Phật.
Ban đầu hành giả niệm ra tiếng, nghe tiếng rành rõ, niệm liên tục không cần đếm mấy câu, chỉ có biết âm thanh A Di Đà Phật, vọng tưởng có sinh cũng đừng quan tâm, chỉ chú ý vào câu A Di Đà Phật. Bên ngoài ồn náo hay yên tịnh gì cũng mặc, cứ lo niệm A Di Đà Phật, niệm đến khi thuần thục, nghe rõ ràng, không bỏ sót một Phật hiệu nào, không duyên theo cảnh ngoài, tâm thích thú với danh hiệu đơn độc A Di Đà Phật do mình khởi phát.
Bây giờ hành giả tập lặng lẽ niệm Phật nơi tâm, nghe rõ từng âm thanh do tâm khởi niệm. Lúc khởi, lúc ngưng, lúc có tiếng, lúc yên lặng đều nhận biết. Dù nghe thấy biết sự vật chung quanh tâm cũng vẫn khởi niệm luôn luôn không cho gián đoạn, mới còn gắng công, dần dần về sau không gắng công khởi niệm nữa chỉ lắng nghe câu A Di Đà Phật do tâm tự phát ra, khi tâm không phát ra được nữa thì hành giả dụng công niệm trở lại, có thể niệm ra tiếng huân tập Phật hiệu vào tâm. Sau đó lại thả cho tâm tự niệm và chỉ lắng nghe. Cứ như vậy thực hành cho đến khi sự lắng nghe thuần thục, luôn luôn rõ biết không sót các Phật hiệu nơi tâm và đối trước tất cả cảnh duyên, trong tâm vẫn đều đặn tuôn trào Phật hiệu một cách tự nhiên. Khi khởi khi ngưng cũng đều biết rõ. Tâm bên trong và cảnh bên ngoài, hành giả không gì không nhận biết.
Lúc ấy, hành giả có thể cảm thấy tròng mắt mình như đứng lại nhưng mát mẻ, tâm thức trở nên trong sáng bình lặng giống như tấm gương trong suốt cả hai mặt, trong ngoài đều rõ bóng. Tâm tuy trong sáng nhưng hồng danh Phật vẫn hiển hiện đều đặn tự nhiên. Trong ngần tĩnh lặng, không khởi niệm mà câu niệm vẫn thường hằng, đây là “niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm”.
An trú trạng thái này, hành giả sẽ cảm thấy an lạc vô cùng, không cần biết gì là ưu khổ. Thế gian dường như là thánh cảnh trang nghiêm. Nhìn ra ngoài, trước mặt mọi vật đều sáng đẹp lạ thường, tất cả dường như đồng nhất với nhau, đều là hình ảnh của một bức tranh tuyệt mỹ sống động. Cái gì cũng đẹp, cây khô cũng đẹp, cây tươi cũng đẹp, đống rác cũng đẹp, cái khăn cũng đẹp, miếng giẻ lau cũng đẹp… tất cả đều là hoạt cảnh vĩ đại. Tất cả đến một cách rõ ràng trước mắt và đi qua không lưu lại giấu vết gì nơi tâm thức lặng trong, an bình của hành giả. Soi lại mình, hành giả có thể trực nhận bằng chính ánh mắt mình, mình đang trong cảnh mộng. Xác thân này là một bóng hình sinh động trong hoạt cảnh trang nghiêm mộng mị. Chú ý mọi hành động, cử chỉ, lời nói của nó, hành giả cảm thấy như mình đang xem cuốn phim hiện thực, trong đó mình là kẻ đóng tuồng với hình thức con người. Nếu đã từng suy cứu về bản ngã, ngay tâm trạng này, hành giả có thể thực chứng “ngủ uẩn này không phải là mình, mình chẳng thật là nam, là nữ, chẳng thật là người, là vật, chẳng thật là gì cả mà cũng là tất cả”. Hành giả không còn chấp ngã, không dừng trụ ở cảnh trạng ấy, hành giả tiếp tục dụng công. Hành giả phản văn sâu xa hơn, lắng nghe câu Phật hiệu trong tâm chuyên chú hơn. Từ chỗ còn nghe biết âm thanh bên ngoài, cuối cùng không nghe gì bên ngoài nữa, tâm thức hoàn toàn chuyên chú vào hồng danh Phật trong tâm. Lúc niệm Phật, mọi âm thanh bên ngoài dường như không có đối với hành giả vì nhĩ thức đã quay vào trong, ý thức cũng tập trung mạnh mẽ vào âm thanh của tâm. Thường xuyên thuần thục công phu như thế, hành giả đạt đến chỗ quên cảnh, quên thân. Tâm thức trở thành một chuỗi Phật hiệu không đầu mối, không cùng tận, là một dòng niệm A Di Đà Phật không gián đoạn. Sắc, thinh, hương, vị, xúc bên ngoài không còn hiện hữu đối với hành giả, thời gian, không gian như tiêu mất đối với hành giả. Chìm đắm hoàn toàn với ý niệm A Di Đà Phật, không một tâm niệm nào khác. Đây là nhất tâm bất loạn, trạng thái nhất tâm này, hành giả chỉ đạt được khi thân tâm ở trong tư thế bình tịnh bất động tĩnh tọa niệm Phật, hoặc đứng yên, hoặc nằm lặng lẽ đều có thể thành tựu trạng thái này. Đạt được mức độ này, ngũ quan nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân của hành giả tinh tế lạ thường, tâm niệm tư tưởng hành giả trở nên rất mạnh mẽ và có sức cảm ứng kỳ diệu. Hành giả tự chủ được những xao động của thân tâm khi đối diện với ngoại cảnh. Một ý nghĩ thoáng sinh sẽ có sức tác động đến chư Thiên, quỷ thần. Ở đây, hành giả đã đủ khả năng vãng sinh với ý niệm và tâm thuần tịnh A Di Đà Phật của mình.
Tuy vậy, hành giả hãy tiếp tục dụng công để đạt đến chỗ trọn vẹn. Bấy giờ, hành giả chuyển từ tâm niệm thô A Di Đà trở thành vi tế nhiệm nhặt và luôn luôn phản chiếu nơi tâm. Tâm niệm vi tế A Di Đà dần dần nhưng không còn âm thanh và lan tỏa hoàn toàn vào tâm thức theo sự trong sáng bình tĩnh.Vận dụng miên mật sự phản chiếu, trí giác của hành giả cũng dần dần trở nên vi tế bình tịnh và hướng vào tâm một cách trọn vẹn. Hành giả công phu tinh tiến, tâm niệm vi tế A Di Đà Phật sẽ hòa hợp với sự phản chiếu vi tế bình tịnh ấy. Hành giả dần dần đi vào trạng thái thuần tịnh trong sáng thanh thoát kỳ diệu, ngoại cảnh thân tâm, thời gian không gian đều bặt dứt, mọi cảm thọ tư tưởng đều diệt tận. Đây là niệm Phật tam muội.
An trú chánh định này, tâm sinh lý của hành giả được cải đổi toàn bộ hoàn toàn thanh khiết, đồng thời khai thác các năng lực trí tuệ siêu phàm. Vận dụng trí lực này để quan sát, hành giả sẽ đạt các biện tài vô ngại, thần thông thấu suốt tất cả các pháp; gột rửa hoàn toàn các chấp trước nhiễm ô. Từ đây, hành giả có thể thành tựu thánh đạo giải thoát và độ sinh một cách tự tại. Hành giả sẵn sàng trở về với thánh cảnh Tây phương bất cứ lúc nào hoặc khi báo thân này mãn hạn. Hành giả sẽ hóa sinh thượng phẩm về Thường Tịch Quang Tịnh Độ.
Nên biết trong quá trình từ động sang tịnh, từ thô vào tế, thân tâm hành giả cũng phải được vận dụng hòa hợp. Khi công phu hành giả có thể gặp những hiện tượng lạ. Những hiện tượng xuất hiện ở trong tâm, nơi xác thân hoặc ở ngoài cảnh, tốt hoặc xấu, đây là do tâm sinh lý của hành giả biến đổi mà ra hoặc do hành giả khởi vọng hay dụng công bất hòa mà có. Hành giả không nên quan tâm chấp trước hoặc vui theo hoặc sợ hãi, chỉ nên nhiếp tâm vào A Di Đà Phật, mặc kệ tất cả, có thể điều chỉnh sự dụng tâm cho điều hòa, khởi niệm đều đặn thong thả, lắng nghe hay quan sát một cách tự nhiên không cố sức. Bình thản dụng công với chí khí buông xả thân mạng, mọi thứ đều sẽ an lành.
Trên đây là sơ lược ba giai đoạn chính trong tiến tình tu tập, đưa hành giả từ phàm nhân đầy nhiễm ô phiền não trở thành thánh nhân thuần tịnh thoát trần. Nếu y theo đây mà thực hiện công phu tu tập thì hành giả ít gặp chướng duyên trong lúc dụng công, dễ dàng vượt qua khi có chướng ngại và nhanh chóng đi đến đỉnh giải thoát, không luống uổng một đời người.
Ba giai đoạn với những việc làm tuy đơn giản nhưng rất quan trọng và thực tế áp dụng không phải là dễ dàng, hành giả cần phải sáng suốt biết rõ tường tận và khéo léo thực hành.
Đối với các nghiệp chướng trong tâm khởi phát, các gió nghiệp báo bên ngoài thổi tới, hành giả cũng phải thông suốt và vượt qua. Tùy mỗi người, mỗi thời điểm mà có các nghiệp chướng khác nhau thô hoặc tế. Nghiệp chướng nào cũng có thể làm đạo tâm hành giả lay chuyển. Do đó, hành giả phải có một niềm tin kiên cố và thâm sâu vào pháp môn mình đang tu tập này, nó sẽ đủ năng lực giúp hành giả vượt qua tất cả. Từ đó, tinh tiến công phu không thay đổi, không lo sợ. Xác định mình đang tu trong giai đoạn nào, hành giả có thể căn cứ theo đó mà tùy tiện uyển chuyển đối tiếp các duyên để tu tập. Tùy duyên mà không đổi chí. Giai đoạn tu thiện thì phải chấp nhận điều gì, phải dứt khoát việc gì. Giai đoạn tu giải thoát thì xả bỏ việc gì, phải thành tựu điều gì. Biết rõ như thế mà thủ xả thì không còn lo ngại. Bằng không rõ thủ xả lộn lạo sẽ làm chướng ngại cho việc tu tiến, không đến được mục đích cứu cánh. Đây là chỗ nói bắt chước vẽ cọp, vẽ không ra cọp mà thành ra chó; bắt chước làm thánh, không trở thành thánh mà trở thành quỷ… Hành giả cần phải lưu ý kinh điển, là kim chỉ nam dẫn lối, nghiên cứu kỹ lưỡng sẽ giúp hành giả rất nhiều trên đường tu tập. Nhưng cần phải biết ý nghĩa và đối tượng của mỗi lời dạy. Đừng thấy tán dương Bồ tát rồi bắt chước làm theo các việc của Bồ tát. Đừng thấy ca ngợi cư sĩ rồi ham cầu làm các việc của cư sĩ. Phải biết chỗ đứng của mình, mình đang ở mức độ nào, hạnh nào cần tu, hạnh nào chưa thể làm, hạnh nào không cần thiết phải làm… Rõ như thế thì không uổng phí tâm sức và không bị thất bại.
Hành giả nên biết đường đời nẻo đạo đều có rất nhiều thăng trầm. Đạo tâm tu hành cũng vẫn thường như thế, có lúc hứng khởi tu, có lúc lại lơ là buông trôi không gắng sức. Đó cũng là biểu hiện nhân duyên thiện căn phước báo của hành giả. Hành giả cần tỉnh giác biết rõ từng chặn đường tâm hồn ấy của mình, đồng thời nương vào duyên mà hành đạo. Không nên cố chấp một hình thức nào, miễn là làm sao giữ được đạo tâm luôn luôn mạnh mẽ, không biến đổi nhạt phai. Lúc đó, thể hiện thì hiện, khi cần ẩn thì ẩn, nương vào duyên nào mới dễ tu thì nương vào duyên ấy, gần duyên gì bất lợi thì đừng gần, gặp phải chướng duyên tránh được thì tránh, tránh không được thì bình thản chấp nhận, thường nghĩ đến đạo pháp và mục đích tu hành để duy trì đạo tâm. Như thấy có học mới ham tu thì hãy học, nếu buông các duyên tu mới tiến thì buông các duyên. Gần huynh đệ mới tinh tấn thì cứ gần huynh đệ, ở một mình tâm mới thanh tịnh thì hãy sống một mình.
Tuy vậy, dù sống trong môi trường làm đạo tâm suy thoái mà không thể thoát ra được, hành giả cần nên thường xuyên tưởng niệm mục đích tu hành của mình, các gương giải thoát của người xưa và nhất là giữ vững chánh kiến chờ đợi duyên lành thuận đạo. Giống như đi đường, con đường có đoạn khô sạch, có đoạn bùn lầy, có đoạn đá sỏi … liên tiếp nối nhau hết đoạn này đến đoạn khác không đồng nhất. Người đi lúc nào cũng theo chỗ khô sạch mà đi, nhưng bất đắc dĩ phải lội bùn thì cứ lội qua bùn để tiến tới, không ngại sợ, có thể tiến mãi đến mục tiêu cuối cùng. Nên nhớ, tất cả đều có lúc phải hết. Do đó, gặp vui không ham, gặp khổ không sợ. Hành giả hãy vượt qua, vượt qua tất cả để đến bờ giải thoát. Tất cả chung cùng đều giải thoát về cõi Tây phương.
NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT
KHI TỊNH TỌA NIỆM PHẬT
Trong lúc thực hành niệm Phật, nhất là khi tịnh tọa hành giả có thể thường gặp những hiện tượng: hôn trầm, tán loạn, vô ký, phan duyên. Trường hợp này hành giả cũng cần phải biết cách đối trị mới dễ dàng khắc phục. Nếu không biết cách thì khó hàng phục được các hiện tượng ấy, lâu ngày có thể khiến hành giả chán sợ, lười dụng công.
NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT
KHI TỊNH TỌA NIỆM PHẬT
Trong lúc thực hành niệm Phật, nhất là khi tịnh tọa hành giả có thể thường gặp những hiện tượng: hôn trầm, tán loạn, vô ký, phan duyên. Trường hợp này hành giả cũng cần phải biết cách đối trị mới dễ dàng khắc phục. Nếu không biết cách thì khó hàng phục được các hiện tượng ấy, lâu ngày có thể khiến hành giả chán sợ, lười dụng công.
1. Về hôn trầm: Tức là tâm mờ mịt như buồn ngủ, có hai loại:
* Tâm thức tự nhiên lờ mờ, còn biết niệm Phật nhưng không sáng tỉnh, thỉnh thoảng đầu bị gục. Đây là hôn trầm do khí hỏa hư trong người thăng lên lấn áp tinh thần. Hành giả nên niệm ra tiếng liên tục và hơi nhanh thì trị được. Đó là dùng sự cử động của bên ngoài để điều hòa giải trừ khí hư.
* Tâm có vẻ hơi mỏi, khởi niệm gượng gạo, thỉnh thoảng bị ngáp hơi, ngồi lâu muốn ngủ, trạng thái này diễn biến càng lúc càng nhiều. Đây là hôn trầm do thiếu hăng hái tinh tấn. Hành giả hãy mặc nhiên và niệm nhanh (có thể động môi) để kích thích tinh thần. Nhờ bắt tâm khởi niệm nhanh nên tinh thần mới phấn chấn tươi tỉnh.
2. Về tán loạn: Cũng có hai loại:
* Tâm nghĩ ngợi nhớ tưởng lung tung, quên việc niệm Phật hiện tại, tinh thần mệt mỏi, không tự chủ, không tỉnh minh, muốn xả công phu. Đây là tán loạn do tâm nóng nảy phát sinh. Nguyên nhân là khi niệm Phật, hành giả lại niệm gấp gấp nên ngồi lâu tim nóng mới bị tán loạn. Gặp trường hợp này, hành giả nên niệm ra tiếng một cách chậm rãi thong thả, có thể ngân nga. Như thế tâm sẽ trở nên dịu mát và an bình.
Nếu tinh thần vẫn an bình nhưng tâm thức thỉnh thoảng lại khởi nhớ việc này việc nọ. Mặc dù biết được vọng niệm, nhưng không tránh khỏi sự duyên theo hoặc khó dừng nó. Và mỗi khi vọng niệm, thì ngưng niệm Phật. Đây là do hành giả thiếu chủ tâm, không tập trung vào câu niệm Phật nên thói quen dịch chuyển của tâm thức mới có dịp khởi động. Hành giả chỉ cần tập trung lắng nghe tâm niệm, nghe từng tiếng từng câu rõ ràng thì hàng phục được.
3. Về phan duyên và vô ký:
* Phan duyên: là thói quen âm ưa rong ruổi bên ngoài, cũng là một loại động loạn, nhưng có điều nó lặng lẽ, như ngồi niệm Phật mà tai lại lắng nghe người ngoài nói chuyện hoặc mắt theo dõi cảnh vật chung quanh… tức là năm thức duyên theo năm trần cảnh. Đây là nguyên nhân làm công phu bị gián đoạn và mất chánh niệm. Hành giả không biết, tưởng mình không vọng niệm rồi chẳng lo đoạn trừ, lâu ngày thành thói quen nặng, ngồi niệm Phật mà chỉ huân tập vào tâm những chuyện vô ích bên ngoài, tu nhiều mà tâm không định.
* Vô ký: là một thái cực đối lập với phan duyên, tức là tâm thức biến mất, hành giả ngồi niệm Phật đến một lúc tự nhiên không nhận biết gì cả, quên niệm Phật, như người chết có khi trải qua hàng giờ. Nếu không biết lại cho là được định tâm, đắm thích theo nó khiến uổng phí ngày giờ gieo trồng chủng tử gỗ đá vô tri.
Để đối trị tâm phan duyên và vô ký này, hành giả có thể khởi niệm Phật rõ ràng từng niệm ba câu hay năm câu, mười câu cho liên tiếp, rồi ngừng khoảng hai giây, sau đó khởi niệm trở lại ba hay năm, mười câu liên tiếp nữa, rồi lại ngừng, ngừng rồi lại niệm. Cứ như thế mà hành trì niệm Phật, vừa niệm vừa lắng nghe kiểm soát rõ ràng. Thực hành như vậy tâm sẽ tập trung mạnh mẽ.
Cần biết thêm là trừ tâm phan duyên thì niệm ra tiếng, còn đoạn vô ký thì niệm thầm. Dù niệm ra tiếng hay niệm thầm, đều kiểm soát ghi nhận rõ ràng từng đợt mấy câu. Sở dĩ trường hợp phan duyên đuổi theo cảnh, thì cảnh do mình để kéo về mới kết quả và đoạn tâm vô ký là ý thức chìm mất, vì vô ký là ý thức hay chìm mất, nên bắt ý thức làm việc và kiểm soát nó thì nó sẽ không mất nữa.
Đó là khái quát cách đối trị các bệnh hôn trầm, tán loạn, phan duyên và vô ký. Tuy nhiên, hành giả cũng cần biết khi cơ thể mệt mỏi suy kém do làm việc nhiều hoặc bệnh tật cũng thường gây ra các chứng bệnh ấy. Trường hợp này, hành giả phải nghỉ ngơi để bồi dưỡng cho thân được điều hòa, không nên gượng ép công phu vô ích.
Lại nữa, khi hành giả niệm Phật đã thành thạo, tiếng Phật không mất mà vẫn phát động đều đặn, tâm an bình, tỉnh táo, nghe biết rõ ràng. Nơi tâm tự nhiên sinh khởi các ý tưởng vọng động kèm theo câu Phật hiệu của hành giả. Đây là do tâm của hành giả đạt đến chỗ bình lặng, làm lưu xuất các chủng tử trong tạng thức. Trường hợp này hành giả không cần quan tâm, cứ chú ý câu Phật hiệu của mình. Các chủng tử được lưu xuất ấy lần lần bặt dứt, sẽ trở lại sự trong sáng tự nhiên nơi tâm.
Điều cần nhớ nữa là khi các vọng niệm khởi sinh, hành giả đã cố gắng dụng công niệm Phật mà các vọng ấy cứ gợi lên hoài có thể khiến hành giả duyên theo, nhất là các vọng thuộc về nghiệp nặng của mình. Mỗi người đều có nghiệp nặng của mình, những vọng tưởng về các nghiệp ấy thường rất khó trừ. Ví dụ: người nghiệp sâu nặng, ngồi tu lại có các vọng về sự việc trái ý tổn hại sinh ra. Các vọng này rất khó trừ vì nó khởi động nghiệp của các hành giả, khiến hành giả khó bình tâm bỏ qua. Hoặc người nghiệp ái nặng, các vọng tưởng về người thân xa lìa, chết chóc, tai nạn… cũng thế. Đối với các vọng này, hành giả không nên gượng tránh vô ích, vì chúng sẽ không dứt khi chưa được giải quyết. Cho nên, hành giả phải suy xét về nhân duyên, nhân quả, từ bi, hỷ xả, vô ngã, vô thường… tùy theo mỗi loại mà quán sát các pháp thích hợp. Vọng về sân thì quán từ bi, hỷ xả, nghiệp báo; vọng về ái thì quán sát bất tịnh, vô thường, vô ngã… Như thế mới chặt được gốc của các vọng, các vọng sẽ tự tiêu diệt. Sau đó hành giả trở lại niệm Phật như cũ. Nhờ quán sát như thế, nghiệp của hành giả từ từ nhẹ bớt. Về sau các vọng này có khởi lên, nếu hành giả vẫn tỉnh giác biết rõ nó vô lý và không bị động vì nó, thì không cần quan sát nữa, cứ tiếp tục niệm Phật, không cần quan tâm. Vì nó giống như một cái cây đã bị đốn ngã, tuy còn dư tàn các lá mầm nhưng chẳng có gì nguy hiểm, không bao lâu chúng sẽ chết hẳn.
Đôi khi các vọng thuộc về hằng ngày như suy tính, xét nét, lo lắng,… Hành giả mặc dù nhận biết được chúng nhưng tâm lại không muốn xả trừ, mà cố tưởng đuổi theo nghĩ tưởng. Rõ mình muốn đuổi theo như thế, hành giả hãy dũng mãnh cảnh sách rằng “đang niệm Phật thì lo niệm Phật, làm việc gì chỉ nghĩ việc ấy. Mọi thứ đều có nhân duyên, hãy phó mặc cho nhân duyên của nó”. Có như vậy mới trừ được thói quen phóng tâm nắm níu các duyên ấy.
Hành giả nếu khéo điều tâm, ngay từ lúc bắt đầu vào tịnh tọa cho đến khi cuối thời công phu, tâm luôn luôn tươi vui hăng hái, thích thú tập trung thì không vướng phải các bệnh hôn trầm, tán loạn,… trên. Niệm từng câu lắng nghe rõ ràng, say sưa, thích thú với các âm thanh Phật hiệu. Ấy là phương pháp thần diệu giúp hành giả quên hết tất cả cảnh duyên bên ngoài và mọi nỗi lo phiền suy tính trong tâm.
Hành giả cũng nên biết, khi tâm đã có phần khó tập trung bởi hôn trầm tán loạn thì cố gắng tập thường xuyên lặng lẽ niệm Phật. Vì còn niệm ra tiếng, tâm tất còn duyên ra bên ngoài, sức quán chiếu nội tâm còn yếu và khi đối cảnh khó giữ được câu niệm liên tục, không gián đoạn, lại hao nhiều sức khỏe. Chỉ khi thường xuyên chăm chú lắng nghe câu niệm nơi tâm, sự quán chiếu nội tâm mới trở nên mạnh mẽ, đủ sức giúp hành giả quên hoàn toàn ngoại cảnh, để đạt được chánh định (tam muội) và giữ cho hành giả vẫn niệm Phật không gián đoạn khi làm việc hay đối cảnh, lại không tổn hao sức khỏe. Dĩ nhiên, lúc mới chuyển từ to tiếng niệm sang mặc niệm, do sức mặc niệm còn yếu, vọng tưởng có thể sinh khởi nhiều. Hành giả không sợ hãi thối thất, cứ cố gắng mặc niệm từng tiếng, lắng nghe rõ ràng hoặc niệm từng chập liên tiếp vài câu rồi ngưng, ngưng rồi niệm liên tiếp nữa… kiểm soát số câu không quên. Như vậy lâu ngày, sức mặc niệm sẽ mạnh.
Thực hành niệm Phật một cách đúng đắn như trên tất được định tâm nhanh chóng, dễ dàng, ít tổn tâm lực và sức khỏe hành giả niệm Phật, hãy tinh tấn thực hành.
Nguyện tất cả chúng sinh
Đồng sanh Tây phương
Đồng thành Phật đạo.
ĐƯỜNG VỀ NHẤT TÂM Đồng sanh Tây phương
Đồng thành Phật đạo.
(Cảm tác sau khi thực nghiệm lại phương pháp niệm Phật:
kính tặng tất cả hành giả niệm Phật).
Hãy lắng nghe, hãy bình thản lắng nghe, lắng nghe rõ ràng không bỏ sót, lắng nghe trong lòng đang niệm Phật A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, …
Hành giả hãy lẳng lặng lắng nghe, bền bỉ lắng nghe. Trong lòng niệm A Di Đà Phật như thế nào mặc kệ, cứ lắng nghe đừng cố gắng làm gì cả, lắng nghe A Di Đà Phật nơi tâm chẳng cần biết bên ngoài.
Mắt khi nào phải nhắm thì nhắm, đừng kiềm, âm thanh A Di Đà Phật có nhỏ, thây kệ, đừng cố gắng niệm to. Nơi thân nơi tâm có cảm gì cứ tự nhiên. Chỉ chăm chú lắng nghe, mặc tất cả, luôn luôn lắng nghe, lắng nghe mải miết A Di Đà Phật nơi tâm.
A Di Đà Phật dù có nhỏ, A Di Đà Phật dù có xa, A Di Đà Phật dù có đi xa hút cũng vẫn cứ lắng nghe âm thanh càng vi tế, sự lắng nghe càng tinh tường. Rồi thì một âm cũng tròn đủ A Di Đà Phật, không âm cũng tròn đủ A Di Đà Phật, một cái lấp lánh của tâm cũng tròn đủ A Di Đà Phật, một cái dao động vô hình cũng tròn đủ A Di Đà Phật, vẫn lắng nghe rõ, biết rõ, thấy rõ nơi tâm như vậy.
Sẽ đến lúc toàn thể thân tâm tràn đầy thanh tịnh vắng lặng, tâm thức là một khối kiên cố, không một vọng tưởng nào xen được, đỉnh đầu dần dần gom cứng và như bị xuyên thủng một cách an lạc, A Di Đà Phật vẫn nghe rõ ràng. Sau cùng tất cả tan vỡ, tâm hoàn toàn phẳng lặng, A Di Đà Phật nhẹ nhàng thong thả đi qua, đi qua, như từng áng mây bay qua bầu trời trong vắt không một chướng ngại. Cái nghe bây giờ không còn gắng nữa vì đã tự nhiên rồi. Tất cả an tịnh, thân tâm quên hết rồi, sự sáng suốt và thanh tịnh bao trùm.
Hành giả hãy lắng nghe đi, thật kỳ diệu !
Hãy bền chí nhưng đừng trông mong, đừng gián đoạn, gián đoạn không thành. Liên tục nửa giờ, một giờ, hai ba giờ sẽ đến nhất tâm! Liên tục không gián đoạn tôi nhận rõ. Đừng nghe A Di Đà Phật bên ngoài, buông bỏ chuỗi, ngồi bình thường an trú giữa không gian yên tịnh, niệm Phật trong chánh niệm sẽ thành tựu !
HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC
Nguyện đem công đức này
Trang nghiêm Phật Tịnh độ
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ ba đường Nếu có ai thấy nghe
Đều phát lòng Bồ đề
Hết một báo thân này
Sinh qua cõi Cực lạc
Nam Mô A Di Đà Phật.
Trang nghiêm Phật Tịnh độ
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ ba đường Nếu có ai thấy nghe
Đều phát lòng Bồ đề
Hết một báo thân này
Sinh qua cõi Cực lạc
Nam Mô A Di Đà Phật.
MẤY LỜI TÂM HUYẾT
Thuyết pháp giảng kinh, viết sách giáo lý nhà Phật hoặc in kinh sách đem phát cho mọi người xem, để họ sớm giác ngộ, được như thế hạnh phúc không gì bằng, đó gọi là pháp thí.
Nếu không đủ điều kiện làm những việc ấy, chúng ta thỉnh một số kinh sách chịu khó đem đến từng nhà cho mượn đọc, sau đó lần lượt cho nhà khác mượn, hoặc đọc cho kẻ khác nghe, nhất là cho người không biết chữ. Việc làm này quý giá vô biên, đây cũng gọi là pháp thí.
Chính đức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí, pháp thí có công đức lớn nhất, không công đức nào có thể sánh bằng”.
Tưởng về lợi cũng như về danh, chúng ta đừng nên lo nghĩ, mà điều tối cần là làm sao cho rạng rỡ chánh đạo. Đó là mục đích chính, thiêng liêng và cao cả nhất của chúng ta. Nền móng đạo pháp cần nhờ sự chung lưng góp sức của chúng ta. Vậy mỗi người nên xây đắp vào đó một ít vôi, một ít nước, một tảng đá hay một viên gạch, v.v… ngõ hầu cái nền móng ấy được thêm bền vững và kiên cố đời đời.
Chúng ta không nên quan niệm về công đức, hãy nên nghĩ nhiều đến những người lầm đường lạc lối, sống trong vòng tội lỗi không lối thoát xung quanh chúng ta. Hãy mau cứu vớt họ, cảnh tỉnh họ để cùng quay về chân lý, giúp họ tìm ra nhiều lẽ sống, niềm vui. Được thế, chính ta đã làm lợi ích cho Phật pháp vậy.
Với hoài bão cuộc đời, chúng ta hãy “Tất cả vì Phật pháp”. Hy vọng mấy lời tâm huyết này được nhiều vị hảo tâm in kinh sách cho mọi người xem !
Được vậy, niềm phúc lạc vô bờ chắc chắn sẽ đến với chúng ta ! Tha thiết mong mỏi như thế !
Tặng cho thân nhân một số tiền nhỏ, lòng mình không vui, nhưng mình không đủ sức tặng nhiều hơn nữa. Chỉ có một cách là tặng các loại sách tu hành để xây dựng cho đời sống thanh cao, thì dù một quyển sách giá chỉ vài ngàn, nhưng vẫn quý hơn tiền trăm, bạc triệu.
Tải bài trên về tại đây:Con Đường Tây Phương
Word File: http://www.mediafire.com/?pp1asbwuwaus70d
PDF File: http://www.mediafire.com/?a9hcwor42k8hohm
Được cảm ơn bởi: teamoon, cocacola, Onedream, mythinh1912
TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ
TÂY PHƯƠNG YẾU QUYẾT
Đại Sư Khuy Cơ soạn
Nguyên Trang dịch
Thích Nguyên Chơn hiệu đính
Mục lục:
- Phần 1
- Phần 2
- Phần 3
- Phần 4
- Phần 5
- Phần 6
- Phần 7
- Phần 8
- Phần 9
- Phần 10
- Phần 11
- Phần 12, 13, 14
- Lời Bạt
- Tiểu sử đại sư Khuy Cơ
- Làm rõ mối nghi về chân tạo ngụy tạo
Kính nghĩ, Đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho những chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả. Người đích thân gặp được Như Lai giáo hóa thì tỏ ngộ Ba thừa , còn kẻ nhân sơ phước bạc thì khuyên quay về Tịnh độ. Tu tập pháp môn ấy là chuyên niệm A-di-đà, đồng thời đem tất cả thiện căn hồi hướng nguyện sinh. Bởi vì bản nguyện của đức A-di-đà là thệ độ cõi Ta-bà, nên hoặc niệm suốt cả một đời, hoặc mười niệm lúc lâm chung, chắc chắn đều được vãng sinh Tịnh độ.
Người học ngày nay, thường mang nhiều nghi vấn, vì văn từ trong kinh luận mâu thuẫn nhau. Nếu không dung thông thì mối nghi ấy không bao giờ dứt. Nay tôi lược nêu ra mười bốn trường hợp để giải quyết những mối nghi ấy. Mong rằng những bậc tài cao học rộng tham cứu nơi đây mà hiểu được!
Kinh ghi: “Nếu dùng sắc để thấy ta, dùng âm thanh cầu ta thì người đó hành theo tà đạo, không thể thấy Đức Như Lai”. Hỏi: Kinh Kim Cang nói dùng hình sắc và âm thanh cầu Phật là tà đạo. Vậy, các kinh A-di-đà và kinh Quán Vô Lượng Thọ v.v… chỉ dạy quán thân tướng Phật và niệm danh hiệu Phật. Như thế, không lìa âm thanh và sắc tướng mà cầu Phật, tại sao không rơi vào tà đạo? Nếu quay về đường chánh thì Tịnh độ là nơi đáng nương tựa nhất mà kinh lại cho là tà đạo, dẫu có muốn thực hành cũng sợ rơi vào cảnh giới ma. Hai đường chánh tà khó quyết, đúng sai xin được giải bày? Đáp: Đức Đại sư thuyết giáo có rất nhiều môn, mỗi môn đều xứng hợp với thời và cơ, nhưng bình đẳng không sai khác. Những điều được dạy trong kinh Kim Cang Bát-nhã riêng thành một môn, những nghĩa trong kinh A-di-đà và kinh Quán Vô Lượng Thọ v.v… lại là một lý. Vì sao? Vì tất cả chư Phật đều có ba thân. Pháp thân vốn không hình thể, chẳng phải âm thanh, sắc tướng. Nếu dùng âm thanh và sắc tướng để nắm bắt thì đó là tà đạo. Vì rằng, hàng Nhị thừa và tiểu Bồ-tát nghe nói ba thân không khác, liền cho là đều có âm thanh và sắc tướng. Chỉ thấy sắc tướng của Hóa thân bèn chấp Pháp thân cũng như vậy, nên mới ở nơi tướng Hóa thân mà cầu thấy Pháp thân. Bởi vì lý vi diệu mầu nhiệm, vĩnh viễn bặt dứt âm thanh và sắc tướng, lại dùng âm thanh và sắc tướng để cầu thấy, cho nên nói tà đạo. Các kinh A-di-dà và Quán Vô Lượng Thọ v.v… khuyên niệm danh hiệu Phật, quán tướng hảo cầu sinh về Tịnh độ, chỉ vì phàm phu nghiệp chướng nặng nề mà Pháp thân sâu kín, Pháp thể khó duyên. Hơn nữa, dạy môn niệm Phật, quán tướng, lễ tán là để đoạn trừ nghiệp chướng, phát sinh phước thiện, nguyện hạnh trợ nhau, cầu sinh Tịnh độ, mong gặp Hóa Phật để làm duyên lành bất thoái. Cho nên, những bậc tiền bối thông đạt đều nương vào giáo môn này, quán tướng hảo, niệm danh hiệu cầu thấy Hóa thân Phật, mong rằng đến khi lâm chung được đích thân Ngài đến tiếp dẫn, cảm đến đức hóa chủ A-di-đà, rủ lòng thương đến đón rước, nghiệp báo dứt sạch, ngồi trên hoa sen, liền sinh về nước ấy. Kinh trước nói về tâm, kinh sau nói cảnh, lý khế hợp không trái nhau. Vậy niệm danh hiệu, quán thân tướng đều không phải tà đạo. Lẽ nào cứ chấp chặt một pháp, không thấu tỏ ý Phật, tạo ra dị thuyết rối ren, khiến người khác phải nghi ngờ. Xét rõ ngọn nguồn ấy thì đủ phân biệt được đúng sai, không còn do dự. Hãy chuyên tâm nơi Tịnh nghiệp, chớ sinh loạn tưởng, lại đọa ba đường, khổ đau hành hạ, ăn năn làm sao kịp nữa!
Phần 2
Kinh Phật Tạng ghi: “Nếu Tỳ-kheo nào thấy có Phật, Pháp, Tăng và Giới để thọ trì thì người đó là quyến thuộc của ma, chẳng phải đệ tử của ta, ta cũng không phải thầy và cũng không tiếp nhận người đó”. Hỏi: Theo kinh Phật Tạng, ngoài tâm thấy Phật đều cho là ma, Phật không phải thầy họ và nói họ chẳng phải đệ tử của Phật. Như thế, pháp môn Tịnh Độ dạy người chuyên niệm danh hiệu Phật, quán tướng hảo Phật, cầu sinh Phật quốc, vậy người ấy chẳng phải đệ tử Phật, Phật không phải thầy của người ấy, làm sao được Phật hộ niệm để sinh về cõi Tịnh? Xét hai pháp môn ấy đều là lời Phật dạy, nhưng lại khác nhau, vậy nên định đoạt thế nào? Đáp: Giáo môn có muôn ngàn sai biệt, nhưng cùng trở về một thể chân thật, tùy theo căn cơ mà lập nghĩa, nên ngôn giáo có sai biệt. Nghiên cứu kỹ hai kinh, văn tuy khác nhau, nhưng lý cùng một thể. Vì sao? Vì Phật, Pháp, Tăng và Giới có ba ý nghĩa: - Chân đế.
- Biệt tướng.
- Trụ trì. 1. Chân đế: Thể chân như thanh tịnh, bặt dứt phiền não chướng và sở tri chướng , bản giác sáng ngời đó là Chân Phật. Giữ gìn thể tánh không biến đổi, chư Phật từ đây mà thành tựu, bậc Đại sĩ đồng nương gá, muôn hạnh nhân đây mà hiển bày, đó chính là Chân Pháp. Thầm thể hội muôn pháp, dứt bặt ngôn từ, hý luận, đó chính là Chân Tăng. Tánh thanh tịnh trang nghiêm, thể tinh khiết vô cấu đó chính là Chân Giới. Căn cứ vào những nghĩa thù thắng này, cho nên nói là Chân đế, đó cũng là điều mà kinh Niết-bàn ghi: “Quán Tam Bảo thường trụ đồng với Chân đế, chính là thệ nguyện tối thượng của chư Phật”. 2. Biệt tướng: Phật có ba thân: Pháp thân, Báo thân và Hóa thân . Pháp có bốn loại là giáo, lý, hạnh và quả. Tăng có hai loại là Hữu vi và Vô vi. Giới là tất cả các giới phẩm Chỉ trì và Tác trì mà người xuất gia và tại gia phải thực hành. Nhưng tu Biệt tướng là để cầu chứng Chân đế, hàng Khởi hạnh vừa biết Biệt tướng lại cho là cứu cánh nên không ngộ được nguồn chân. Còn hàng Học giới thì cho tất cả đều là trợ đạo. Danh tướng Phật ứng hiện chẳng phải chân thật, nhưng để tiếp độ hàng phàm phu mà phương tiện lập ra Hóa thành . Kẻ thấp kém không hiểu được mới chấp là chân thật, nên bị Đức Phật quở trách, cho là quyến thuộc của ma. Là Phật tử cần phải đạt được Hai không , xa thì hợp chân như, gần thì đúng với bổn nguyện, nếu cứ chấp chặt mãi danh tướng mà không ngộ được chân không thì lại rơi vào chốn ma, xa Phật trái Pháp. Muốn vượt Ấm ma phải nhờ Pháp thân thường trụ; trừ Phiền não chướng cần nương vào Định hư không; ra khỏi cõi Thiên ma nên nhờ sức định Từ; cầu vượt Tử ma phải khéo nương vào định Thần túc. Xem khắp bốn phương, chẳng phải Đại thánh thì không ai có thể làm được, chinh phục Bốn ma đâu phải khả năng của kẻ phàm phu. Nếu không để tâm vào chí đạo, thì biết lấy gì để dứt trừ lưới ái. Còn buộc niệm hướng về chân thì ngăn dứt các nẻo trong đường sinh tử. Thế nên, Đức Phật chỉ dạy hàng phàm phu hãy nên học quán môn Tịnh độ. Nếu nghĩ đến Tây Phương thì phải cầu sự bất thoái, được sinh cõi Tịnh, thấy Hóa thân Phật, đức Hóa chủ dẫn dắt, đạt Vô sinh nhẫn , tỏ ngộ pháp giới bình đẳng. Nương vào thần lực ấy phá các lưới ma, gần thì vượt khỏi ba cõi, xa thì được chứng đắc Bồ-đề. Nếu không như thế lại chìm trong đường ác, thọ khổ dài lâu, không bao giờ giải thoát. Hiểu rõ hai nguyên nhân này hoàn toàn không khác nhau, chớ chấp một bên nào để sinh tâm nghi ngờ. Thuận pháp môn cơ bản này mà quán tưởng cõi kia, lìa hẳn Ta-bà, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi; suy nghiệm pháp môn này rồi theo đó tu hành, quán nhân duyên cạn sâu, tự có lợi ích. Rõ ràng do niệm mà khế hợp với bản nguyện, nào có sai khác! (Phần Trụ trì trong nguyên bản Hán, tác giả không đề cập đến).
Phần 3
Kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Tu tập trong cõi này (tức cõi Ta-bà) một ngày một đêm hơn hẳn cõi Phật khác trăm năm”. Kinh Duy-ma ghi: “Quốc độ Ta-bà có mười việc thiện mà cõi Phật khác không có, đó là bố thí nhiếp phục sự nghèo khó…”. Hỏi: Theo kinh này dạy, tu tập ở cõi Ta-bà hơn hẳn ở các phương khác. Vậy tại sao phải nhọc sức chuyên niệm A-di-đà, nguyện sinh về nước Cực Lạc, bỏ chỗ tốt tìm đến chỗ kém, hành nghiệp khó thành tựu. Hai con đường ấy, lấy bỏ thế nào, xin được giải bày chi tiết? Đáp: Những pháp môn của Đức Phật đều vì lợi ích chúng sinh, mỗi mỗi tùy thuận một đường, nhưng lý không trái nhau. Vì sao? Căn cơ tu hành có hai giai vị. Nếu chưa bước lên ngôi vị Bất thoái thì khó ở cõi uế, muốn tu tập hạnh tự lợi thì phần nhiều bị lui sụt, gặp việc thuận nghịch lại sinh tâm vui buồn, khởi lòng yêu ghét thì nghiệp ác càng thêm, không có cách gì làm an ổn cho chính mình, ngược lại chìm vào đường ác. Kẻ đã tu nhân nhiều kiếp, thành tựu Pháp nhẫn , đủ sức ở trong cõi uế, mới có thể lợi ích cho hữu tình. Đã thành tựu hạnh tự lợi, thoát khỏi luân hồi, ở cõi này thực hành mười việc lợi tha, thì phương khác không bằng. Bởi vì cõi Phật khác, y báo tốt đẹp, đầy đủ không thiếu, muốn gì cũng đều được; đã không thiếu thốn thì còn bố thí cho ai! Còn chín việc khác căn cứ theo đây thì rõ. Cho nên tự biết không lui sụt, thì trụ nơi này đã không ngăn ngại lại còn làm lợi ích cho người hơn hẳn cõi Phật khác. Những người học ngày nay, cách Phật quá xa, ba độc lừng lẫy, chưa được tự tại, nếu được sinh cõi Tịnh, nhờ thắng duyên, nương oai lực Phật, mới được bất thoái. Cho nên cần phải sinh về nước kia, thành tựu nhân tự lợi. Căn cứ theo đây thì hai kinh ấy có gì trái nhau!
Phần 4
Kinh Di-lặc Vấn ghi: “Niệm Phật thì chẳng phải niệm phàm phu, không xen niệm kết sử, mới được sinh về cõi A-di-đà”. Hỏi: Theo kinh này dạy, hễ niệm Phật thì chẳng có niệm phàm phu, chẳng xen niệm kết sử mới thành tựu Tịnh nghiệp. Ngày nay, người tu tập vẫn còn là phàm phu, kết sử chưa trừ thì làm sao vãng sinh được? Nay Ngài niệm Phật, công phu thành tựu, lưới nghi đã dứt, vậy xin giải bày tường tận? Đáp: Xiển dương giáo pháp tùy theo căn cơ, nhưng ý chỉ bí mật rất khó tỏ ngộ, còn văn chương dù có bóng bẩy vẫn có thể hiểu được trong chớp mắt, cho nên không biết lấy hay bỏ, liền vọng sinh nghi chấp. Vì sao? Đức Phật vì hàng phàm phu mà chỉ dạy cho họ tu tập Tịnh nghiệp, nếu họ đã tin sâu nhân nhân quả thì đâu phải là ngu! Nay giải thích phàm ngu có bốn trường hợp: 1. Phàm mà không ngu: Những chúng sinh từ cõi thiện cho đến địa vị cuối cùng của Thập tín không đạt được Trí tương tợ duy thức, nên gọi là phàm. Nhưng có lòng tin sâu xa đối với pháp Tứ đế và Duyên sinh, khởi tâm lấy bỏ, lợi hay hại đều có thể biết được, đó chính là không ngu. 2. Ngu mà không phàm: Hàng Bồ-tát từ Thập giải trở lên chưa chứng đắc cảnh giới Chân như nên nói là ngu; đạt được Trí tương tợ vô lậu, suy xét biết được Hai vô ngã , không trôi theo dòng sinh tử, nên được cho là chẳng phàm. Lại giải thích: Bồ-tát từ Sơ địa trở lên đối với Thắng tấn phần vẫn còn bị Vô minh chướng ngại, nên gọi là ngu; do đạt được Thánh pháp nên chẳng phải phàm. 3. Vừa phàm vừa ngu: Tất cả chúng sinh từ cõi thiện trở về trước, chưa hiểu giáo lý Đức Phật nên gọi là phàm, không rõ nhân quả nên gọi là ngu. 4. Chẳng phải phàm chẳng phải ngu: Chính là Đức Như Lai có đầy đủ Thánh trí, dứt sạch hai chướng , nên chẳng phải phàm, ngu. Nói “phàm”: nghĩa là trôi nổi, đối với pháp trị thế thì không phân biệt được tổn hại hay lợi ích, trôi nổi thọ sinh thì chính là phàm; thiện ác đến đi, nặng nhẹ không hề hay biết, đó chính là ngu. Nay, người tu tập muốn vãng sinh cõi Tịnh phải biết chốn Ta-bà này đầy dẫy khổ đau, rất mực nhàm chán, không muốn ở lâu; nghe nói Tây Phương an vui vô cùng, chí thành quán tưởng, nguyện thệ vãng sinh thì vĩnh viễn diệt trừ dòng đau khổ, từ bỏ hẳn cảnh giới nhiễm ô. Như thế, họ đâu phải hạng tầm thường, trôi nổi thọ sinh. Chỉ cần niệm Phật cầu vãng sinh, tỏ ngộ vô sinh, tương lai sẽ làm Phật, chuyên tâm hóa độ pháp giới chúng sinh. Người nào phát khởi tâm này nhất định được sinh về cõi vi diệu. Vì có sự hiểu biết này nên chẳng phải ngu. Nói “không xen niệm kết sử”: kết sử là mười sử, chín kết . Tâm niệm Phật chính là thức thứ sáu. Khi Tâm vương sinh khởi muốn làm việc ác, kết sử phiền não mới bộc phát. Khi đang niệm Phật thì tâm niệm Phật cùng với năm pháp Biến hành , mười một Tâm sở thiện tương ưng không phát động các kết sử, các kết sử không có nhân sinh khởi. Tâm duyên với cảnh khác, kết sử liền phát sinh. Khi quán tưởng Phật, kết sử bị khống chế, nên nói “không xen niệm kết sử”. Nguyện sinh cõi Tịnh thì không nên nói xen tạp, bởi do kết sử chưa đoạn nên có xen tạp, nếu đã diệt trừ thì không xen tạp. Thế thì do chưa đoạn nên kết sử có lúc hiện hành. Tâm thanh tịnh niệm Phật thì trái ngược với kết sử, tâm đang niệm Phật thì kết sử không hiện hành. Ở đây nói “không xen tạp” là không để tâm niệm Phật bị gián đoạn, phòng ngừa không cho kết sử sinh khởi, chứ không nói diệt hết kết sử là không xen tạp. Thánh nhân đã dứt sạch phiền não, ở cõi này an ổn, không nhọc niệm Phật để cầu sinh.
Phần 5
Kinh Tối Thắng Diệu Định ghi: “Nếu có người nào xây dựng vô số chùa tháp, không bằng trong thời gian ngắn đoan tâm chánh niệm”. Lại trong các bộ kinh Đại thừa nói về lý Vô sinh, bảo người tu đạo học tuệ. Hỏi: Theo kinh này, Đức Phật ca ngợi Vô sinh là đặc biệt tối tôn, tối thắng trong các hành nghiệp, nhưng các kinh A-di-đà và Quán Vô Lượng Thọ thì lại khuyên vãng sinh Tây Phương, nhàm chán cõi Ta-bà, nguyện sinh cõi Tịnh. Thế nhưng, sinh là đầu mối của tai họa, sinh chấm dứt thì họa diệt. Ở đây lại bỏ sinh để cầu sinh thì nhân của tai họa lại càng thêm lớn. Sao không tu tập hạnh Vô sinh để ngộ Pháp thân. Còn niệm thân tướng Phật mà nhân của sinh không diệt, dù có vãng sinh về cõi kia thì đâu khác gì sinh ở cõi này? Chỉ cần quán Vô sinh thì cách Phật không xa, tâm chính là Phật, đâu nhờ tìm cầu nơi khác? Hành nghiệp này Ngài đã thuần thục, xin được chỉ bày lý sâu xa? Đáp: Hạnh do giáo mà khởi, tất cả đều vì lợi sinh. Giáo thuyết bất đồng bởi do căn cơ sai khác. Vì sao? Luận chung về căn cơ, nêu sơ lược hai ý: Nghiệp sâu và Hành cạn. Hạng Nghiệp sâu có thể học pháp Vô sinh, còn kẻ Hành cạn cần phải cầu sinh về cõi Tịnh. Luận về tu tập cũng có hai điều: trở lại và xuất ly. Trở lại là tuy học Phật pháp, nhưng chỉ vì tiếng tăm, không sợ mai sau sinh tử hiểm nguy; tham cầu sự hiểu biết thù thắng mà lại còn chấp nhân ngã, cho mình là đúng còn kẻ khác thì sai, không tu ba nghiệp, miệng nói vô tướng mà tâm chấp chặt tướng. Dù học pháp Vô sinh, nhưng chỉ là nghệ thuật xem chơi. Kẻ ấy thấy người khác niệm Phật liền giận hờn ganh tỵ, đến nỗi khiến cho người ta phải thoái tâm. Miệng họ thì nói thuốc hay mà sợ không dám uống, trở lại uống phải độc dược nên phát bệnh. Tâm này tạo nghiệp, tâm luôn ruổi rong, tâm đã không thật chưa thể chế ngự được mà tự nói ta ngộ. Khi nghiệm xét lại thì hoàn toàn trống không, bất chợt mạng chung, lại chìm trong sinh tử, chịu khổ triền miên, không biết khi nào thoát khỏi! Đây gọi là Trở lại. Xuất ly có hai trường hợp là Vô sinh và Hữu tướng. Vô sinh tức là giữ tâm điềm tĩnh, phân biệt rõ ngoại duyên, khéo biết lấy bỏ hai tướng hữu vô. Chế ngự tâm, tự tại không trụ vào nhị biên , miệng nói tâm hành, theo việc mà suy xét; dù nghịch hay thuận tâm vẫn quân bình. Giống như ăn tro than không khác gì ăn món ngon. Đối với cảnh thuận nghịch đều đạt được, như vậy thì mới có khả năng ở lâu trong cõi Ta-bà mà không thoái tâm, rồi chuyển cõi Ta-bà ấy thành Tịnh độ. Công lực như vậy mới thành tựu sự xuất ly. Hữu tướng tức là do duyên cấu uế hoặc chướng ngại sâu nặng, khó thành tựu Vô tướng. Nếu ở cõi này thì chồng chất thêm những khổ đau. Muốn tâm tĩnh lặng thì bị cảnh lăng xăng bên ngoài lôi kéo, tâm lại chạy theo cảnh thì biết khi nào mới ngộ được Vô sinh? Tâm nên duyên nhất Phật, quán niệm A-di-đà, không tạo nghiệp ác, cầu sinh cõi Tịnh; thấy người tu tập pháp môn khác thì khen ngợi tán dương, nghe nói lỗi người cũng không sinh tâm khinh chê; buộc tâm một chỗ, nghĩ đến cảnh Tây Phương, ba nghiệp hỗ trợ cho nhau thì nhất định được sinh về cõi ấy, cũng thành tựu hạnh xuất ly. Xin các vị hãy dùng trình độ của mình để xét nghiệm giáo pháp, pháp nào phù hợp thì hành trì. Người hành nghiệp đã sâu, đạt địa vị Bất thoái, chẳng nhọc công chấp tướng, nguyện sinh về Tây Phương. Còn hạng căn cơ thấp kém, chưa thoát khỏi luân hồi thì cần phải chứng Vô sinh, mới được xuất triền . Rất nhiều người miệng nói Vô sinh mà không có ai chứng đắc. Vậy, muốn đạt được Vô sinh cần nương vào thắng cảnh . Vì thế, nên lấy việc cầu vô sinh thấy Phật làm duyên chứng ngộ. Ở lâu trong cõi Diêm-phù, thường gặp bạn tốt, tuy ngày đêm nghe chánh pháp, nhưng người thuyết vẫn còn là phàm, cho nên chưa chứng được lý. Kinh Duy-ma ghi: “Suốt ngày thuyết pháp mà không thể khiến cho người khác chứng Diệt tu Đạo, đó chính là hý luận, chứ chẳng phải cầu pháp”. Cho dù đời tương lai có gặp bạn tốt, phát khởi nhân ngày nay thì cũng trở thành hý luận, chi bằng cầu sinh Tịnh độ, chấm dứt luân hồi, chứng nhập rừng báu, vừa nghe chánh ngữ, tức thời thành tựu vô số Pháp nhẫn. Xét kỹ hai duyên này thì chớ có do dự!
Đại Sư Khuy Cơ soạn
Nguyên Trang dịch
Thích Nguyên Chơn hiệu đính
Mục lục:
- Phần 1
- Phần 2
- Phần 3
- Phần 4
- Phần 5
- Phần 6
- Phần 7
- Phần 8
- Phần 9
- Phần 10
- Phần 11
- Phần 12, 13, 14
- Lời Bạt
- Tiểu sử đại sư Khuy Cơ
- Làm rõ mối nghi về chân tạo ngụy tạo
Kính nghĩ, Đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho những chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả. Người đích thân gặp được Như Lai giáo hóa thì tỏ ngộ Ba thừa , còn kẻ nhân sơ phước bạc thì khuyên quay về Tịnh độ. Tu tập pháp môn ấy là chuyên niệm A-di-đà, đồng thời đem tất cả thiện căn hồi hướng nguyện sinh. Bởi vì bản nguyện của đức A-di-đà là thệ độ cõi Ta-bà, nên hoặc niệm suốt cả một đời, hoặc mười niệm lúc lâm chung, chắc chắn đều được vãng sinh Tịnh độ.
Người học ngày nay, thường mang nhiều nghi vấn, vì văn từ trong kinh luận mâu thuẫn nhau. Nếu không dung thông thì mối nghi ấy không bao giờ dứt. Nay tôi lược nêu ra mười bốn trường hợp để giải quyết những mối nghi ấy. Mong rằng những bậc tài cao học rộng tham cứu nơi đây mà hiểu được!
*
Phần 1Kinh ghi: “Nếu dùng sắc để thấy ta, dùng âm thanh cầu ta thì người đó hành theo tà đạo, không thể thấy Đức Như Lai”. Hỏi: Kinh Kim Cang nói dùng hình sắc và âm thanh cầu Phật là tà đạo. Vậy, các kinh A-di-đà và kinh Quán Vô Lượng Thọ v.v… chỉ dạy quán thân tướng Phật và niệm danh hiệu Phật. Như thế, không lìa âm thanh và sắc tướng mà cầu Phật, tại sao không rơi vào tà đạo? Nếu quay về đường chánh thì Tịnh độ là nơi đáng nương tựa nhất mà kinh lại cho là tà đạo, dẫu có muốn thực hành cũng sợ rơi vào cảnh giới ma. Hai đường chánh tà khó quyết, đúng sai xin được giải bày? Đáp: Đức Đại sư thuyết giáo có rất nhiều môn, mỗi môn đều xứng hợp với thời và cơ, nhưng bình đẳng không sai khác. Những điều được dạy trong kinh Kim Cang Bát-nhã riêng thành một môn, những nghĩa trong kinh A-di-đà và kinh Quán Vô Lượng Thọ v.v… lại là một lý. Vì sao? Vì tất cả chư Phật đều có ba thân. Pháp thân vốn không hình thể, chẳng phải âm thanh, sắc tướng. Nếu dùng âm thanh và sắc tướng để nắm bắt thì đó là tà đạo. Vì rằng, hàng Nhị thừa và tiểu Bồ-tát nghe nói ba thân không khác, liền cho là đều có âm thanh và sắc tướng. Chỉ thấy sắc tướng của Hóa thân bèn chấp Pháp thân cũng như vậy, nên mới ở nơi tướng Hóa thân mà cầu thấy Pháp thân. Bởi vì lý vi diệu mầu nhiệm, vĩnh viễn bặt dứt âm thanh và sắc tướng, lại dùng âm thanh và sắc tướng để cầu thấy, cho nên nói tà đạo. Các kinh A-di-dà và Quán Vô Lượng Thọ v.v… khuyên niệm danh hiệu Phật, quán tướng hảo cầu sinh về Tịnh độ, chỉ vì phàm phu nghiệp chướng nặng nề mà Pháp thân sâu kín, Pháp thể khó duyên. Hơn nữa, dạy môn niệm Phật, quán tướng, lễ tán là để đoạn trừ nghiệp chướng, phát sinh phước thiện, nguyện hạnh trợ nhau, cầu sinh Tịnh độ, mong gặp Hóa Phật để làm duyên lành bất thoái. Cho nên, những bậc tiền bối thông đạt đều nương vào giáo môn này, quán tướng hảo, niệm danh hiệu cầu thấy Hóa thân Phật, mong rằng đến khi lâm chung được đích thân Ngài đến tiếp dẫn, cảm đến đức hóa chủ A-di-đà, rủ lòng thương đến đón rước, nghiệp báo dứt sạch, ngồi trên hoa sen, liền sinh về nước ấy. Kinh trước nói về tâm, kinh sau nói cảnh, lý khế hợp không trái nhau. Vậy niệm danh hiệu, quán thân tướng đều không phải tà đạo. Lẽ nào cứ chấp chặt một pháp, không thấu tỏ ý Phật, tạo ra dị thuyết rối ren, khiến người khác phải nghi ngờ. Xét rõ ngọn nguồn ấy thì đủ phân biệt được đúng sai, không còn do dự. Hãy chuyên tâm nơi Tịnh nghiệp, chớ sinh loạn tưởng, lại đọa ba đường, khổ đau hành hạ, ăn năn làm sao kịp nữa!
Phần 2
Kinh Phật Tạng ghi: “Nếu Tỳ-kheo nào thấy có Phật, Pháp, Tăng và Giới để thọ trì thì người đó là quyến thuộc của ma, chẳng phải đệ tử của ta, ta cũng không phải thầy và cũng không tiếp nhận người đó”. Hỏi: Theo kinh Phật Tạng, ngoài tâm thấy Phật đều cho là ma, Phật không phải thầy họ và nói họ chẳng phải đệ tử của Phật. Như thế, pháp môn Tịnh Độ dạy người chuyên niệm danh hiệu Phật, quán tướng hảo Phật, cầu sinh Phật quốc, vậy người ấy chẳng phải đệ tử Phật, Phật không phải thầy của người ấy, làm sao được Phật hộ niệm để sinh về cõi Tịnh? Xét hai pháp môn ấy đều là lời Phật dạy, nhưng lại khác nhau, vậy nên định đoạt thế nào? Đáp: Giáo môn có muôn ngàn sai biệt, nhưng cùng trở về một thể chân thật, tùy theo căn cơ mà lập nghĩa, nên ngôn giáo có sai biệt. Nghiên cứu kỹ hai kinh, văn tuy khác nhau, nhưng lý cùng một thể. Vì sao? Vì Phật, Pháp, Tăng và Giới có ba ý nghĩa: - Chân đế.
- Biệt tướng.
- Trụ trì. 1. Chân đế: Thể chân như thanh tịnh, bặt dứt phiền não chướng và sở tri chướng , bản giác sáng ngời đó là Chân Phật. Giữ gìn thể tánh không biến đổi, chư Phật từ đây mà thành tựu, bậc Đại sĩ đồng nương gá, muôn hạnh nhân đây mà hiển bày, đó chính là Chân Pháp. Thầm thể hội muôn pháp, dứt bặt ngôn từ, hý luận, đó chính là Chân Tăng. Tánh thanh tịnh trang nghiêm, thể tinh khiết vô cấu đó chính là Chân Giới. Căn cứ vào những nghĩa thù thắng này, cho nên nói là Chân đế, đó cũng là điều mà kinh Niết-bàn ghi: “Quán Tam Bảo thường trụ đồng với Chân đế, chính là thệ nguyện tối thượng của chư Phật”. 2. Biệt tướng: Phật có ba thân: Pháp thân, Báo thân và Hóa thân . Pháp có bốn loại là giáo, lý, hạnh và quả. Tăng có hai loại là Hữu vi và Vô vi. Giới là tất cả các giới phẩm Chỉ trì và Tác trì mà người xuất gia và tại gia phải thực hành. Nhưng tu Biệt tướng là để cầu chứng Chân đế, hàng Khởi hạnh vừa biết Biệt tướng lại cho là cứu cánh nên không ngộ được nguồn chân. Còn hàng Học giới thì cho tất cả đều là trợ đạo. Danh tướng Phật ứng hiện chẳng phải chân thật, nhưng để tiếp độ hàng phàm phu mà phương tiện lập ra Hóa thành . Kẻ thấp kém không hiểu được mới chấp là chân thật, nên bị Đức Phật quở trách, cho là quyến thuộc của ma. Là Phật tử cần phải đạt được Hai không , xa thì hợp chân như, gần thì đúng với bổn nguyện, nếu cứ chấp chặt mãi danh tướng mà không ngộ được chân không thì lại rơi vào chốn ma, xa Phật trái Pháp. Muốn vượt Ấm ma phải nhờ Pháp thân thường trụ; trừ Phiền não chướng cần nương vào Định hư không; ra khỏi cõi Thiên ma nên nhờ sức định Từ; cầu vượt Tử ma phải khéo nương vào định Thần túc. Xem khắp bốn phương, chẳng phải Đại thánh thì không ai có thể làm được, chinh phục Bốn ma đâu phải khả năng của kẻ phàm phu. Nếu không để tâm vào chí đạo, thì biết lấy gì để dứt trừ lưới ái. Còn buộc niệm hướng về chân thì ngăn dứt các nẻo trong đường sinh tử. Thế nên, Đức Phật chỉ dạy hàng phàm phu hãy nên học quán môn Tịnh độ. Nếu nghĩ đến Tây Phương thì phải cầu sự bất thoái, được sinh cõi Tịnh, thấy Hóa thân Phật, đức Hóa chủ dẫn dắt, đạt Vô sinh nhẫn , tỏ ngộ pháp giới bình đẳng. Nương vào thần lực ấy phá các lưới ma, gần thì vượt khỏi ba cõi, xa thì được chứng đắc Bồ-đề. Nếu không như thế lại chìm trong đường ác, thọ khổ dài lâu, không bao giờ giải thoát. Hiểu rõ hai nguyên nhân này hoàn toàn không khác nhau, chớ chấp một bên nào để sinh tâm nghi ngờ. Thuận pháp môn cơ bản này mà quán tưởng cõi kia, lìa hẳn Ta-bà, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi; suy nghiệm pháp môn này rồi theo đó tu hành, quán nhân duyên cạn sâu, tự có lợi ích. Rõ ràng do niệm mà khế hợp với bản nguyện, nào có sai khác! (Phần Trụ trì trong nguyên bản Hán, tác giả không đề cập đến).
Phần 3
Kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Tu tập trong cõi này (tức cõi Ta-bà) một ngày một đêm hơn hẳn cõi Phật khác trăm năm”. Kinh Duy-ma ghi: “Quốc độ Ta-bà có mười việc thiện mà cõi Phật khác không có, đó là bố thí nhiếp phục sự nghèo khó…”. Hỏi: Theo kinh này dạy, tu tập ở cõi Ta-bà hơn hẳn ở các phương khác. Vậy tại sao phải nhọc sức chuyên niệm A-di-đà, nguyện sinh về nước Cực Lạc, bỏ chỗ tốt tìm đến chỗ kém, hành nghiệp khó thành tựu. Hai con đường ấy, lấy bỏ thế nào, xin được giải bày chi tiết? Đáp: Những pháp môn của Đức Phật đều vì lợi ích chúng sinh, mỗi mỗi tùy thuận một đường, nhưng lý không trái nhau. Vì sao? Căn cơ tu hành có hai giai vị. Nếu chưa bước lên ngôi vị Bất thoái thì khó ở cõi uế, muốn tu tập hạnh tự lợi thì phần nhiều bị lui sụt, gặp việc thuận nghịch lại sinh tâm vui buồn, khởi lòng yêu ghét thì nghiệp ác càng thêm, không có cách gì làm an ổn cho chính mình, ngược lại chìm vào đường ác. Kẻ đã tu nhân nhiều kiếp, thành tựu Pháp nhẫn , đủ sức ở trong cõi uế, mới có thể lợi ích cho hữu tình. Đã thành tựu hạnh tự lợi, thoát khỏi luân hồi, ở cõi này thực hành mười việc lợi tha, thì phương khác không bằng. Bởi vì cõi Phật khác, y báo tốt đẹp, đầy đủ không thiếu, muốn gì cũng đều được; đã không thiếu thốn thì còn bố thí cho ai! Còn chín việc khác căn cứ theo đây thì rõ. Cho nên tự biết không lui sụt, thì trụ nơi này đã không ngăn ngại lại còn làm lợi ích cho người hơn hẳn cõi Phật khác. Những người học ngày nay, cách Phật quá xa, ba độc lừng lẫy, chưa được tự tại, nếu được sinh cõi Tịnh, nhờ thắng duyên, nương oai lực Phật, mới được bất thoái. Cho nên cần phải sinh về nước kia, thành tựu nhân tự lợi. Căn cứ theo đây thì hai kinh ấy có gì trái nhau!
Phần 4
Kinh Di-lặc Vấn ghi: “Niệm Phật thì chẳng phải niệm phàm phu, không xen niệm kết sử, mới được sinh về cõi A-di-đà”. Hỏi: Theo kinh này dạy, hễ niệm Phật thì chẳng có niệm phàm phu, chẳng xen niệm kết sử mới thành tựu Tịnh nghiệp. Ngày nay, người tu tập vẫn còn là phàm phu, kết sử chưa trừ thì làm sao vãng sinh được? Nay Ngài niệm Phật, công phu thành tựu, lưới nghi đã dứt, vậy xin giải bày tường tận? Đáp: Xiển dương giáo pháp tùy theo căn cơ, nhưng ý chỉ bí mật rất khó tỏ ngộ, còn văn chương dù có bóng bẩy vẫn có thể hiểu được trong chớp mắt, cho nên không biết lấy hay bỏ, liền vọng sinh nghi chấp. Vì sao? Đức Phật vì hàng phàm phu mà chỉ dạy cho họ tu tập Tịnh nghiệp, nếu họ đã tin sâu nhân nhân quả thì đâu phải là ngu! Nay giải thích phàm ngu có bốn trường hợp: 1. Phàm mà không ngu: Những chúng sinh từ cõi thiện cho đến địa vị cuối cùng của Thập tín không đạt được Trí tương tợ duy thức, nên gọi là phàm. Nhưng có lòng tin sâu xa đối với pháp Tứ đế và Duyên sinh, khởi tâm lấy bỏ, lợi hay hại đều có thể biết được, đó chính là không ngu. 2. Ngu mà không phàm: Hàng Bồ-tát từ Thập giải trở lên chưa chứng đắc cảnh giới Chân như nên nói là ngu; đạt được Trí tương tợ vô lậu, suy xét biết được Hai vô ngã , không trôi theo dòng sinh tử, nên được cho là chẳng phàm. Lại giải thích: Bồ-tát từ Sơ địa trở lên đối với Thắng tấn phần vẫn còn bị Vô minh chướng ngại, nên gọi là ngu; do đạt được Thánh pháp nên chẳng phải phàm. 3. Vừa phàm vừa ngu: Tất cả chúng sinh từ cõi thiện trở về trước, chưa hiểu giáo lý Đức Phật nên gọi là phàm, không rõ nhân quả nên gọi là ngu. 4. Chẳng phải phàm chẳng phải ngu: Chính là Đức Như Lai có đầy đủ Thánh trí, dứt sạch hai chướng , nên chẳng phải phàm, ngu. Nói “phàm”: nghĩa là trôi nổi, đối với pháp trị thế thì không phân biệt được tổn hại hay lợi ích, trôi nổi thọ sinh thì chính là phàm; thiện ác đến đi, nặng nhẹ không hề hay biết, đó chính là ngu. Nay, người tu tập muốn vãng sinh cõi Tịnh phải biết chốn Ta-bà này đầy dẫy khổ đau, rất mực nhàm chán, không muốn ở lâu; nghe nói Tây Phương an vui vô cùng, chí thành quán tưởng, nguyện thệ vãng sinh thì vĩnh viễn diệt trừ dòng đau khổ, từ bỏ hẳn cảnh giới nhiễm ô. Như thế, họ đâu phải hạng tầm thường, trôi nổi thọ sinh. Chỉ cần niệm Phật cầu vãng sinh, tỏ ngộ vô sinh, tương lai sẽ làm Phật, chuyên tâm hóa độ pháp giới chúng sinh. Người nào phát khởi tâm này nhất định được sinh về cõi vi diệu. Vì có sự hiểu biết này nên chẳng phải ngu. Nói “không xen niệm kết sử”: kết sử là mười sử, chín kết . Tâm niệm Phật chính là thức thứ sáu. Khi Tâm vương sinh khởi muốn làm việc ác, kết sử phiền não mới bộc phát. Khi đang niệm Phật thì tâm niệm Phật cùng với năm pháp Biến hành , mười một Tâm sở thiện tương ưng không phát động các kết sử, các kết sử không có nhân sinh khởi. Tâm duyên với cảnh khác, kết sử liền phát sinh. Khi quán tưởng Phật, kết sử bị khống chế, nên nói “không xen niệm kết sử”. Nguyện sinh cõi Tịnh thì không nên nói xen tạp, bởi do kết sử chưa đoạn nên có xen tạp, nếu đã diệt trừ thì không xen tạp. Thế thì do chưa đoạn nên kết sử có lúc hiện hành. Tâm thanh tịnh niệm Phật thì trái ngược với kết sử, tâm đang niệm Phật thì kết sử không hiện hành. Ở đây nói “không xen tạp” là không để tâm niệm Phật bị gián đoạn, phòng ngừa không cho kết sử sinh khởi, chứ không nói diệt hết kết sử là không xen tạp. Thánh nhân đã dứt sạch phiền não, ở cõi này an ổn, không nhọc niệm Phật để cầu sinh.
Phần 5
Kinh Tối Thắng Diệu Định ghi: “Nếu có người nào xây dựng vô số chùa tháp, không bằng trong thời gian ngắn đoan tâm chánh niệm”. Lại trong các bộ kinh Đại thừa nói về lý Vô sinh, bảo người tu đạo học tuệ. Hỏi: Theo kinh này, Đức Phật ca ngợi Vô sinh là đặc biệt tối tôn, tối thắng trong các hành nghiệp, nhưng các kinh A-di-đà và Quán Vô Lượng Thọ thì lại khuyên vãng sinh Tây Phương, nhàm chán cõi Ta-bà, nguyện sinh cõi Tịnh. Thế nhưng, sinh là đầu mối của tai họa, sinh chấm dứt thì họa diệt. Ở đây lại bỏ sinh để cầu sinh thì nhân của tai họa lại càng thêm lớn. Sao không tu tập hạnh Vô sinh để ngộ Pháp thân. Còn niệm thân tướng Phật mà nhân của sinh không diệt, dù có vãng sinh về cõi kia thì đâu khác gì sinh ở cõi này? Chỉ cần quán Vô sinh thì cách Phật không xa, tâm chính là Phật, đâu nhờ tìm cầu nơi khác? Hành nghiệp này Ngài đã thuần thục, xin được chỉ bày lý sâu xa? Đáp: Hạnh do giáo mà khởi, tất cả đều vì lợi sinh. Giáo thuyết bất đồng bởi do căn cơ sai khác. Vì sao? Luận chung về căn cơ, nêu sơ lược hai ý: Nghiệp sâu và Hành cạn. Hạng Nghiệp sâu có thể học pháp Vô sinh, còn kẻ Hành cạn cần phải cầu sinh về cõi Tịnh. Luận về tu tập cũng có hai điều: trở lại và xuất ly. Trở lại là tuy học Phật pháp, nhưng chỉ vì tiếng tăm, không sợ mai sau sinh tử hiểm nguy; tham cầu sự hiểu biết thù thắng mà lại còn chấp nhân ngã, cho mình là đúng còn kẻ khác thì sai, không tu ba nghiệp, miệng nói vô tướng mà tâm chấp chặt tướng. Dù học pháp Vô sinh, nhưng chỉ là nghệ thuật xem chơi. Kẻ ấy thấy người khác niệm Phật liền giận hờn ganh tỵ, đến nỗi khiến cho người ta phải thoái tâm. Miệng họ thì nói thuốc hay mà sợ không dám uống, trở lại uống phải độc dược nên phát bệnh. Tâm này tạo nghiệp, tâm luôn ruổi rong, tâm đã không thật chưa thể chế ngự được mà tự nói ta ngộ. Khi nghiệm xét lại thì hoàn toàn trống không, bất chợt mạng chung, lại chìm trong sinh tử, chịu khổ triền miên, không biết khi nào thoát khỏi! Đây gọi là Trở lại. Xuất ly có hai trường hợp là Vô sinh và Hữu tướng. Vô sinh tức là giữ tâm điềm tĩnh, phân biệt rõ ngoại duyên, khéo biết lấy bỏ hai tướng hữu vô. Chế ngự tâm, tự tại không trụ vào nhị biên , miệng nói tâm hành, theo việc mà suy xét; dù nghịch hay thuận tâm vẫn quân bình. Giống như ăn tro than không khác gì ăn món ngon. Đối với cảnh thuận nghịch đều đạt được, như vậy thì mới có khả năng ở lâu trong cõi Ta-bà mà không thoái tâm, rồi chuyển cõi Ta-bà ấy thành Tịnh độ. Công lực như vậy mới thành tựu sự xuất ly. Hữu tướng tức là do duyên cấu uế hoặc chướng ngại sâu nặng, khó thành tựu Vô tướng. Nếu ở cõi này thì chồng chất thêm những khổ đau. Muốn tâm tĩnh lặng thì bị cảnh lăng xăng bên ngoài lôi kéo, tâm lại chạy theo cảnh thì biết khi nào mới ngộ được Vô sinh? Tâm nên duyên nhất Phật, quán niệm A-di-đà, không tạo nghiệp ác, cầu sinh cõi Tịnh; thấy người tu tập pháp môn khác thì khen ngợi tán dương, nghe nói lỗi người cũng không sinh tâm khinh chê; buộc tâm một chỗ, nghĩ đến cảnh Tây Phương, ba nghiệp hỗ trợ cho nhau thì nhất định được sinh về cõi ấy, cũng thành tựu hạnh xuất ly. Xin các vị hãy dùng trình độ của mình để xét nghiệm giáo pháp, pháp nào phù hợp thì hành trì. Người hành nghiệp đã sâu, đạt địa vị Bất thoái, chẳng nhọc công chấp tướng, nguyện sinh về Tây Phương. Còn hạng căn cơ thấp kém, chưa thoát khỏi luân hồi thì cần phải chứng Vô sinh, mới được xuất triền . Rất nhiều người miệng nói Vô sinh mà không có ai chứng đắc. Vậy, muốn đạt được Vô sinh cần nương vào thắng cảnh . Vì thế, nên lấy việc cầu vô sinh thấy Phật làm duyên chứng ngộ. Ở lâu trong cõi Diêm-phù, thường gặp bạn tốt, tuy ngày đêm nghe chánh pháp, nhưng người thuyết vẫn còn là phàm, cho nên chưa chứng được lý. Kinh Duy-ma ghi: “Suốt ngày thuyết pháp mà không thể khiến cho người khác chứng Diệt tu Đạo, đó chính là hý luận, chứ chẳng phải cầu pháp”. Cho dù đời tương lai có gặp bạn tốt, phát khởi nhân ngày nay thì cũng trở thành hý luận, chi bằng cầu sinh Tịnh độ, chấm dứt luân hồi, chứng nhập rừng báu, vừa nghe chánh ngữ, tức thời thành tựu vô số Pháp nhẫn. Xét kỹ hai duyên này thì chớ có do dự!
Được cảm ơn bởi: cocacola, Onedream, mythinh1912
TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ
Phần 6
Kinh Niết-bàn ghi: “A-nan gặp nạn ma, bồ-tát Văn Thù đến cứu giúp”. Kinh Đại Phẩm ghi: “Ma vương biến làm Phật, mọi người không thể biết”. Kinh Ưu-ba-cúc-đa ghi: “Ma biến làm Phật, Tôn giả đảnh lễ”.Hỏi: A-nan đã chứng quả Dự lưu thường bị ma quấy phá, Đức Phật sai bồ-tát Văn-thù đến cứu mà đạt được bổn tâm. Lại nữa, ma có thể hóa làm thân Phật thuyết pháp cho người, hàng Bồ-tát hạnh còn cạn mỏng đều không hay biết. Tôn giả Cúc-đa tu tập đạt đến địa vị Vô học thấy ma biến làm Phật, không biết mà quy y. Nay muốn quán tưởng Phật A-di-đà để đến khi lâm chung được thấy Phật. Đây đều là cảnh giới của ma làm sao nương được. Nếu như cảnh thấy đó là chân thật thì đúng là một liều thuốc hay, còn gặp phải ma thì chắc chắn rơi vào dòng tà. Khối nghi chưa trừ, rất mong được dung thông?Đáp: Đấng Đại Giác phương tiện thị hiện thân tướng siêu việt, dù cho ma có giả hiện quấy nhiễu thì thì cũng khác biệt. Bởi trải qua nhiều kiếp siêng năng tu tập, nhân thì thù thắng tròn đầy, quả thì thành tựu vạn đức, tướng hảo siêu việt, tệ ma đâu có sánh bằng. Vì sao? Vì thân Như Lai như Tử ma kim , tướng hảo rực rỡ, sáng ngời như minh châu vượt hẳn muôn vạn mặt trời. Cho dù Ma vương có biến hiện cũng không thể có được tướng hảo như vậy. Những việc của kẻ hạ phàm làm sao sánh với bậc tôn quý. A-nan đã ở trong hàng Thanh văn mà thị hiện chứng quả Dư lưu, nhưng theo thật hạnh thì Ngài đã chứng Sơ địa từ lâu. Bởi nghĩ đến sau khi Đức Phật diệt độ, người tu hành thường bị ma phá hoại tịnh tâm, không sao chế phục được, cho nên thị hiện bị rơi vào lưới ma để thỉnh Phật cứu giúp. Thần chú đã tuyên làm nhân khởi mãi mãi lưu truyền về sau để người học phá ma chứ chẳng phải Thánh nhân, vì phàm phu mới mắc vào lưới ma.Kinh Đại Phẩm ghi: “Ma biến làm Phật mê hoặc phàm phu, Bồ-tát ở giai vị thấp, không phân biệt được”. Đó là kinh Đại Phẩm chưa luận về nhân duyên khởi giáo phương tiện, còn trong hội Niết-bàn, nhân hỏi mà thuyết pháp, Ca-diếp hỏi rằng: “Làm sao biết được Phật thuyết hay ma Ba-tuần thuyết?”. Đức Phật bảo Ca-diếp: “Giống như kẻ trộm ban đêm đột nhập vào nhà. Nếu người giữ nhà biết được thì tên trộm liền rút lui”. Hành giả cũng vậy, đã vào ngôi nhà Phật pháp, được món ăn ngon, không nghĩ đến ma. Tôn nghi của Đức Phật thì trang nghiêm tuyệt diệu. Ma có đến che lấp sự thật, thì người tu Phật nên khéo phân biệt: Giữa chặng mày Đức Phật có tướng bạch hào, xoay về bên phải tạo thành vòng tròn, ngoài kín mà trong rỗng, ánh sáng chiếu khắp, rực rỡ tinh khiết, sáng sạch như lưu ly, dung nghi rạng ngời như ánh mặt trời. Nhục kế Ngài nhô cao, tóc xanh biếc, từng sợi từng sợi uyển chuyển xoay vòng về bên phải. Nếu thấy được những tướng hảo thù thắng ấy chính là thấy tôn nghi chân chánh của Đức Phật; nếu thấy tướng khác thì đều là ma. Ngài Ưu-ba-cúc-đa không nhận ra ma, bởi vì Ngài sinh sau thời Đức Phật, theo thứ tự truyền pháp thì Ngài làm Tổ thứ năm, thuyết pháp giáo hóa, độ rất nhiều chúng sinh. Một hôm Ma vương tuôn mưa hoa xuống pháp hội rối loạn tâm đại chúng, khiến cho tất cả không thể lãnh ngộ được. Chúng lại còn bố thí mũ báu để làm mê hoặc lòng người. Tôn giả rủ lòng thương xót, vui vẻ đón nhận, nhân đó nói với Ma vương rằng: “Ta vâng theo lời dạy của Đức Phật, biết nghĩa biết ân. Ngươi đã bố thí mũ báu cho ta, ta cũng có xâu chuỗi báu xin đáp tặng lại cho ngươi”. Thế rồi, Ngài đem ba loại tử thi là người, chó và rắn biến làm xâu chuỗi báu đeo vào trong cổ của Ma vương.Ma Ba-tuần mừng rỡ nói: “Tôn giả Cúc-đa thần lực siêu việt, giáo hóa chúng sinh, đã bước lên quả thánh. Vậy mà, bọn ma chúng ta dụ dẫn khiến ông ấy đã nhận mũ báu, lại còn dùng chuỗi ngọc đáp lễ. Cúc-đa đã rơi vào lưới ma, đường ác tăng thêm, còn quyến thuộc của ta không bị hao tổn”. Nói xong, bọn chúng vô cùng vui mừng, liền kéo nhau trở về cung. Vừa đến cõi trời Tứ thiên vương , Ngài Cúc-đa bèn thâu nhiếp thần lực, chuỗi báu anh lạc lại biến thành tử thi, sình trướng hôi hám, máu mủ lan tràn. Ma Ba-tuần buồn bã không vất đi được, bèn đi khắp các cõi trời cầu xin trừ bỏ. Nhưng các vị trời đều nói: “Chúng tôi không có khả năng, Ưu-ba-cúc-đa này là đệ tử của Đức Thích-ca Như Lai. Vì các ngươi không biết mới cả gan quấy nhiễu, nên Ngài tạm dùng việc này để chiết phục thân tâm của ngươi, mau mau quy y Ngài để tránh khỏi tai họa”. Ma Ba-tuần bay xuống đến trước Thánh giả, năm vóc sát đất chí thành cầu xin sám hối. Tôn giả Cúc-đa thương xót trừ bỏ các tử thi và nói rằng: “Ta sinh sau thời Phật, không gặp được Đức Như Lai. Ngươi có thể biến làm hình Phật cho ta chiêm ngưỡng được không?”.Ma liền vào trong khu rừng biến thành thân Phật. Ngài Cúc-đa thấy vậy trải tòa đảnh lễ. Ma rất kinh sợ thưa rằng: “Đệ tử ngu muội, không dám trái lời Ngài dạy, tuy con biến làm Phật, nhưng vẫn còn ở trong trần tục, Tôn giả đảnh lễ, e rằng con mất vô lượng phước đức”. Tôn giả đáp: “Ta gần thì đảnh lễ tượng Phật, xa là cung kính đức Đại sư. Ngươi là ma không phải đối tượng để ta cung kính. Nay ngươi chớ lo, đừng lầm sợ mất phước!”. Thế là, Ma vương vô cùng vui vẻ, xả bỏ các tạp hạnh, quy y Phật, Pháp, Tăng, đảnh lễ Ưu-ba-cúc-đa rồi trở về cung, không còn xuất hiện nữa. Như vậy, làm sao nghi ngờ nói ngài Ưu-ba-cúc-đa không nhận ra ma? Giống như nhiều người tài giỏi trợ giúp một người thì kẻ hung ác không thể nào xâm hại được. Người tu hành cũng như vậy, khi đã niệm chí thành, quyết định sinh về cõi kia thì được mười phương chư Phật cùng trợ giúp, cho đến khi hết báo thân này, ma vẫn không thể nào nhiễu loạn được. Đức A-di-đà giáo hóa chúng sinh, chiếu ánh sáng từ bi để tiếp dẫn hữu tình, khiến họ lên được bến bờ an vui tối thượng, đừng sợ ma quấy nhiễu mà không tu nhân tốt đẹp!
Phần 7
Kinh Niết-bàn ghi: “A-nan gặp nạn ma, bồ-tát Văn Thù đến cứu giúp”. Kinh Đại Phẩm ghi: “Ma vương biến làm Phật, mọi người không thể biết”. Kinh Ưu-ba-cúc-đa ghi: “Ma biến làm Phật, Tôn giả đảnh lễ”.Hỏi: A-nan đã chứng quả Dự lưu thường bị ma quấy phá, Đức Phật sai bồ-tát Văn-thù đến cứu mà đạt được bổn tâm. Lại nữa, ma có thể hóa làm thân Phật thuyết pháp cho người, hàng Bồ-tát hạnh còn cạn mỏng đều không hay biết. Tôn giả Cúc-đa tu tập đạt đến địa vị Vô học thấy ma biến làm Phật, không biết mà quy y. Nay muốn quán tưởng Phật A-di-đà để đến khi lâm chung được thấy Phật. Đây đều là cảnh giới của ma làm sao nương được. Nếu như cảnh thấy đó là chân thật thì đúng là một liều thuốc hay, còn gặp phải ma thì chắc chắn rơi vào dòng tà. Khối nghi chưa trừ, rất mong được dung thông?Đáp: Đấng Đại Giác phương tiện thị hiện thân tướng siêu việt, dù cho ma có giả hiện quấy nhiễu thì thì cũng khác biệt. Bởi trải qua nhiều kiếp siêng năng tu tập, nhân thì thù thắng tròn đầy, quả thì thành tựu vạn đức, tướng hảo siêu việt, tệ ma đâu có sánh bằng. Vì sao? Vì thân Như Lai như Tử ma kim , tướng hảo rực rỡ, sáng ngời như minh châu vượt hẳn muôn vạn mặt trời. Cho dù Ma vương có biến hiện cũng không thể có được tướng hảo như vậy. Những việc của kẻ hạ phàm làm sao sánh với bậc tôn quý. A-nan đã ở trong hàng Thanh văn mà thị hiện chứng quả Dư lưu, nhưng theo thật hạnh thì Ngài đã chứng Sơ địa từ lâu. Bởi nghĩ đến sau khi Đức Phật diệt độ, người tu hành thường bị ma phá hoại tịnh tâm, không sao chế phục được, cho nên thị hiện bị rơi vào lưới ma để thỉnh Phật cứu giúp. Thần chú đã tuyên làm nhân khởi mãi mãi lưu truyền về sau để người học phá ma chứ chẳng phải Thánh nhân, vì phàm phu mới mắc vào lưới ma.Kinh Đại Phẩm ghi: “Ma biến làm Phật mê hoặc phàm phu, Bồ-tát ở giai vị thấp, không phân biệt được”. Đó là kinh Đại Phẩm chưa luận về nhân duyên khởi giáo phương tiện, còn trong hội Niết-bàn, nhân hỏi mà thuyết pháp, Ca-diếp hỏi rằng: “Làm sao biết được Phật thuyết hay ma Ba-tuần thuyết?”. Đức Phật bảo Ca-diếp: “Giống như kẻ trộm ban đêm đột nhập vào nhà. Nếu người giữ nhà biết được thì tên trộm liền rút lui”. Hành giả cũng vậy, đã vào ngôi nhà Phật pháp, được món ăn ngon, không nghĩ đến ma. Tôn nghi của Đức Phật thì trang nghiêm tuyệt diệu. Ma có đến che lấp sự thật, thì người tu Phật nên khéo phân biệt: Giữa chặng mày Đức Phật có tướng bạch hào, xoay về bên phải tạo thành vòng tròn, ngoài kín mà trong rỗng, ánh sáng chiếu khắp, rực rỡ tinh khiết, sáng sạch như lưu ly, dung nghi rạng ngời như ánh mặt trời. Nhục kế Ngài nhô cao, tóc xanh biếc, từng sợi từng sợi uyển chuyển xoay vòng về bên phải. Nếu thấy được những tướng hảo thù thắng ấy chính là thấy tôn nghi chân chánh của Đức Phật; nếu thấy tướng khác thì đều là ma. Ngài Ưu-ba-cúc-đa không nhận ra ma, bởi vì Ngài sinh sau thời Đức Phật, theo thứ tự truyền pháp thì Ngài làm Tổ thứ năm, thuyết pháp giáo hóa, độ rất nhiều chúng sinh. Một hôm Ma vương tuôn mưa hoa xuống pháp hội rối loạn tâm đại chúng, khiến cho tất cả không thể lãnh ngộ được. Chúng lại còn bố thí mũ báu để làm mê hoặc lòng người. Tôn giả rủ lòng thương xót, vui vẻ đón nhận, nhân đó nói với Ma vương rằng: “Ta vâng theo lời dạy của Đức Phật, biết nghĩa biết ân. Ngươi đã bố thí mũ báu cho ta, ta cũng có xâu chuỗi báu xin đáp tặng lại cho ngươi”. Thế rồi, Ngài đem ba loại tử thi là người, chó và rắn biến làm xâu chuỗi báu đeo vào trong cổ của Ma vương.Ma Ba-tuần mừng rỡ nói: “Tôn giả Cúc-đa thần lực siêu việt, giáo hóa chúng sinh, đã bước lên quả thánh. Vậy mà, bọn ma chúng ta dụ dẫn khiến ông ấy đã nhận mũ báu, lại còn dùng chuỗi ngọc đáp lễ. Cúc-đa đã rơi vào lưới ma, đường ác tăng thêm, còn quyến thuộc của ta không bị hao tổn”. Nói xong, bọn chúng vô cùng vui mừng, liền kéo nhau trở về cung. Vừa đến cõi trời Tứ thiên vương , Ngài Cúc-đa bèn thâu nhiếp thần lực, chuỗi báu anh lạc lại biến thành tử thi, sình trướng hôi hám, máu mủ lan tràn. Ma Ba-tuần buồn bã không vất đi được, bèn đi khắp các cõi trời cầu xin trừ bỏ. Nhưng các vị trời đều nói: “Chúng tôi không có khả năng, Ưu-ba-cúc-đa này là đệ tử của Đức Thích-ca Như Lai. Vì các ngươi không biết mới cả gan quấy nhiễu, nên Ngài tạm dùng việc này để chiết phục thân tâm của ngươi, mau mau quy y Ngài để tránh khỏi tai họa”. Ma Ba-tuần bay xuống đến trước Thánh giả, năm vóc sát đất chí thành cầu xin sám hối. Tôn giả Cúc-đa thương xót trừ bỏ các tử thi và nói rằng: “Ta sinh sau thời Phật, không gặp được Đức Như Lai. Ngươi có thể biến làm hình Phật cho ta chiêm ngưỡng được không?”.Ma liền vào trong khu rừng biến thành thân Phật. Ngài Cúc-đa thấy vậy trải tòa đảnh lễ. Ma rất kinh sợ thưa rằng: “Đệ tử ngu muội, không dám trái lời Ngài dạy, tuy con biến làm Phật, nhưng vẫn còn ở trong trần tục, Tôn giả đảnh lễ, e rằng con mất vô lượng phước đức”. Tôn giả đáp: “Ta gần thì đảnh lễ tượng Phật, xa là cung kính đức Đại sư. Ngươi là ma không phải đối tượng để ta cung kính. Nay ngươi chớ lo, đừng lầm sợ mất phước!”. Thế là, Ma vương vô cùng vui vẻ, xả bỏ các tạp hạnh, quy y Phật, Pháp, Tăng, đảnh lễ Ưu-ba-cúc-đa rồi trở về cung, không còn xuất hiện nữa. Như vậy, làm sao nghi ngờ nói ngài Ưu-ba-cúc-đa không nhận ra ma? Giống như nhiều người tài giỏi trợ giúp một người thì kẻ hung ác không thể nào xâm hại được. Người tu hành cũng như vậy, khi đã niệm chí thành, quyết định sinh về cõi kia thì được mười phương chư Phật cùng trợ giúp, cho đến khi hết báo thân này, ma vẫn không thể nào nhiễu loạn được. Đức A-di-đà giáo hóa chúng sinh, chiếu ánh sáng từ bi để tiếp dẫn hữu tình, khiến họ lên được bến bờ an vui tối thượng, đừng sợ ma quấy nhiễu mà không tu nhân tốt đẹp!
Phần 7
So sánh sự hơn kém giữa Tây Phương Tịnh độ và cung trời Đâu-suất. Hỏi: Tịnh độ của Phật A-di-đà cách đây rất xa, cung trời Đâu-suất của Phật Di-lặc ở tại cõi Dục này, sao không nguyện sinh về Đâu-suất, mà lại hướng đến Tây Phương? Bỏ dễ cầu khó, há chẳng phải là trở ngại ư? Đáp: Có rất nhiều điểm để so sánh hai cõi. Nay nêu sơ lược 10 điểm sai biệt để đả thông các mối nghi: 1. Thọ mạng có dài ngắn: thọ mạng của chư thiên ở cung trời Đâu-suất chỉ 4000 tuổi; còn thọ mạng của người ở cõi Cực Lạc đến trăm ngàn vạn ức na-do-tha a-tăng-kỳ kiếp. 2. Chỗ ở có trong ngoài: ở cung trời Đâu-suất, nếu trí huệ nhiều, liền được sinh vào Nội viện, được làm thị giả Đức Phật Di-lặc. Nếu phước nhiều mà huệ ít, thì sinh ở Ngoại viện, không được gặp Đức Từ Thị. Còn ở Tịnh độ hoàn toàn không có trong ngoài, báo thân tuy có hơn kém, song đều là Thánh hiền. 3. Cảnh có tịnh uế: nếu được sinh vào Nội viện Đâu-suất thì thấy được Thánh hội của Đức Phật Di-lặc, thường phát khởi duyên thanh tịnh; còn ở Ngoại viện thì tất cả các thứ hương hoa, lầu gác, âm nhạc đều làm khởi tâm đắm nhiễm. Còn Tây Phương Cực Lạc, khi sáu căn tiếp xúc với cây, chim, nước, lưới, âm nhạc thì đều nuôi dưỡng đạo tâm. 4. Báo thân khác nhau: chánh báo ở Đâu-suất thì nam nữ khác biệt, càng đắm nhiễm lẫn nhau, chướng ngăn đạo nghiệp. Người được vãng sinh Tây Phương đều là bậc trượng phu, thân mình và người đều thanh tịnh, không đắm nhiễm. 5. Chủng tử và hiện hành có sai khác: nếu người sinh về Đâu-suất thì chủng tử phiền não và hiện hành phiền não đều phát khởi, nhưng người sinh về Tây Phương Tịnh độ, chỉ có chủng tử phiền não, hoàn toàn không có hiện hành phiền não. 6. Việc tu tập có tinh tấn, lui sụt khác nhau: nếu sinh về Đâu-suất, do có nam nữ, nên năng lực trí tuệ còn yếu kém, do đó đa số đều bị lui sụt. Còn sinh về Cực Lạc thì năng lực trí tuệ lớn mạnh, không còn các hoạt động của dục, chỉ chuyên tinh tấn tu hành. 7. Giới và phi giới khác nhau: sinh về Đâu-suất chưa lìa khỏi cõi Dục, nếu có nạn lửa phát khởi thì bị thiêu đốt. Còn sinh về Tây Phương hoàn toàn vượt khỏi ba cõi, các nạn nước, lửa, gió v.v… đều không thể hại được. Do ở cõi Tịnh có hình chất nên chẳng phải là cõi Vô sắc; nương vào đất mà ở, nhưng không nhiễm cảnh sắc, cho nên chẳng phải cõi Sắc; không có dâm cho đến đoàn thực, cho nên chẳng phải cõi Dục. 8. Hình tướng đẹp xấu trái nhau: sinh về Đâu-suất thì nam nữ không đồng, đẹp xấu khác biệt. Nếu sinh về Tịnh độ thì thân sắc vàng ròng, hoàn toàn sáng rỡ, đều là tướng đại trượng phu. 9. Xả bỏ thân mạng để vãng sinh về hai cõi không giống nhau: khi xả bỏ thân mạng sinh về Đâu-suất, không có người đến tiếp dẫn. Còn khi sinh về Tịnh độ thì Thánh chúng đến đón rước. 10. Kinh khuyến khích có nhiều ít: khuyên sinh về Đâu-suất chỉ có kinh Di-lặc Thượng Sinh Đâu-suất, nhưng văn kinh không thiết tha ân cần, chỉ khuyên tu một cách sơ lược. Còn Tịnh độ thì rất nhiều kinh luận khuyên sinh về, Đức Phật ân cần, hết lòng khuyên vãng sinh. Lại hỏi: Tây Phương Tịnh độ, cõi nước thù thắng, thời đại an ổn, tất cả hàng phàm phu căn cơ thấp kém làm sao được vãng sinh? Đáp: Cõi Cực Lạc thanh tịnh nhiệm mầu, muốn vãng sinh về đó thật rất khó, nhưng nhờ sức Phật gia trì, nên vãng sinh trở nên dễ dàng!
Phần 8
Kinh Vô Lượng Thọ (Đại bản) ghi: “Người sinh về Cực Lạc, trụ trong Chánh định tụ ”. Kinh A-di-đà ghi: “Chúng sinh sinh về cõi Cực Lạc đều là bậc A-bệ-bạt-trí ”. Hỏi: Nếu luận bàn rộng về quả vị Bất thoái, phải nói đến công đức tu tập trong vạn kiếp, nhưng sao chỉ niệm Phật một đời, thậm chí chỉ mười niệm lúc sắp chết đều được Đức Phật A-di-đà tiếp dẫn sinh về cõi Cực Lạc, chứng được Bất thoái. Chỉ luận về công hạnh hẳn đã có sai khác như thế, thì làm sao phù hợp?
Đáp: Bất thoái và Chánh định, tuy khác tên gọi nhưng ý nghĩa giống nhau. Người tu hành có hai loại: người ở cõi uế, kẻ ở cõi tịnh. Tu nhân ở cõi uế, cần phải trải qua vạn kiếp; còn khởi hạnh ở cõi tịnh vốn có nhiều đường. Nay trình bày về Bất thoái. Luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa nêu ra bốn loại: 1. Vị Bất thoái: chính là vạn kiếp tu nhân, ý nói thành tựu được Duy thức quán thì không rơi vào hạnh Ác luật nghi , không còn luân hồi sinh tử nữa.
2. Hạnh Bất thoái: đã được Sơ địa, thành tựu Chân Duy thức quán, xả bỏ tâm Nhị thừa, bất thoái hạnh lợi tha. 3. Niệm Bất thoái: địa thứ Tám trở lên, thật chứng Trí vô công dụng , lúc định hoặc tán đều được tự tại, không có niệm lui sụt. 4. Xứ Bất thoái: tuy không có văn kinh luận minh chứng, nhưng dựa vào lý để thành lập. Vì sao? Như luận Tỳ-bà-sa nói: “Hàng A-la-hán căn thoái, nếu đắc quả trong cõi người thuộc Dục giới, thì gặp năm duyên lui sụt, sợ mất Thánh quả, khởi tu hoặc . Đó là: đi xa, nhiều bệnh, thích tụng kinh điển, thích hòa giải tranh tụng, thích làm việc Tăng. Nếu đắc quả trong cõi trời, không gặp các duyên lui sụt, liền đạt được Bất thoái, chứng nhập Vô dư Niết-bàn ”. Hành giả cũng như vậy, chưa đạt được ba Bất thoái trước trong cõi người, nếu ở Ta-bà thì sẽ trôi lăn trong sinh tử, đó là lẽ tất nhiên. Bởi vì cõi nhiễm này có năm duyên lui sụt: 1. Mạng sống ngắn ngủi, nhiều bệnh tật.
2. Nhiều duyên xấu ràng buộc, ngăn ngại tịnh tâm.
3. Những tạp thiện của ngoại đạo làm loạn chánh hạnh.
4. Cảnh giới sáu trần khuấy động tịnh tâm.
5. Không thường thấy Phật, chẳng nghe được lời chỉ dạy của Phật. Nếu thường ở trong cõi này thì gặp năm duyên lui sụt đó. Nhưng vãng sinh Tịnh độ thì gặp được năm duyên tối thắng: 1. Mạng sống lâu dài, không có bệnh tật.
2. Bạn tốt dìu dắt.
3. Toàn là chân chánh, không có tà vạy.
4. Hoàn toàn thanh tịnh, không có cấu nhiễm.
5. Luôn luôn phụng sự chư Phật. Nhờ năm duyên này, nên được Bất thoái. Xét về hành vị không thể sánh bằng, nhưng được cõi tốt duyên lành, lại không lui sụt. Giống như người ác thường làm việc bất thiện, gặp được bạn lành, xót thương khuyên bảo không còn kết thân với kẻ ác nữa, thường theo người hiền, cho đến suốt đời không tạo tội ác nữa.
Phần 9
Kinh A-di-đà ghi: “Không thể với nhân duyên phước đức thiện căn nhỏ mà được vãng sinh Cực Lạc”. Hỏi: Vãng sinh Tịnh độ cần phải nhờ vào thiện lớn, hành trì đầy đủ các tịnh nghiệp mới được vãng sinh. Nếu chỉ niệm Phật suông như thế, làm sao vãng sinh Cực Lạc? Đáp: Nói về thiện căn nhiều ít thì chỉ cần căn cứ vào việc niệm Phật để trình bày. Nếu quá khứ không có nhiều duyên thiện thì đời này không được nghe danh hiệu Phật. Nhưng nay được nghe đến Tịnh độ, chuyên tâm niệm Phật, tức là do nhân thiện quá khứ; lại nhớ nghĩ Tây Phương, quyết tâm sinh về, đây là thiện căn lớn. Tuy nghe đến Tịnh độ của Phật A-di-đà, phát nguyện vãng sinh, nhưng việc tu không chuyên, tâm không quyết định, đó chỉ là thiện nhỏ không thể vãng sinh Tịnh độ được. Lại hỏi: Về việc niệm Phật, chỉ niệm danh hiệu, giả sử có chuyên tâm, nhưng chưa phải là thiện căn lớn, dẫu có xưng niệm danh hiệu Phật cũng đâu được vãng sinh? Đáp: Niệm Phật, là nói về pháp tu chung. Bởi vì căn cơ chúng sinh thọ nhận lợi ích khác nhau, do nguyện hạnh của chư Phật mà thành tựu danh hiệu Phật, do đó chỉ niệm danh hiệu Phật là bao hàm đầy đủ các công đức, cho nên trở thành thiện lớn, không trái nguyện vãng sinh. Nên kinh Duy-ma-cật ghi: “Ba danh hiệu trước của Phật , nếu Phật giảng rộng thì tôn giả A-nan trải qua muôn kiếp cũng không thể lãnh hội được”. Luận Thành Thật giải thích về danh hiệu Phật: chín danh hiệu trước của Phật, đều thành lập theo nghĩa riêng. Nay gom công đức của chín danh hiệu trước lập thành danh hiệu Phật Thế Tôn. Cho nên, nếu chỉ nói ba danh hiệu đầu tiên thì dù trải qua muôn kiếp cũng không cùng, A-nan không thể lãnh ngộ hết được, huống gì lại thêm sáu danh hiệu sau nữa để tạo thành danh hiệu Phật. Vì danh hiệu Phật có đầy đủ công đức thù thắng, cho nên niệm danh hiệu Phật trở thành thiện lớn.
Phần 8
Kinh Vô Lượng Thọ (Đại bản) ghi: “Người sinh về Cực Lạc, trụ trong Chánh định tụ ”. Kinh A-di-đà ghi: “Chúng sinh sinh về cõi Cực Lạc đều là bậc A-bệ-bạt-trí ”. Hỏi: Nếu luận bàn rộng về quả vị Bất thoái, phải nói đến công đức tu tập trong vạn kiếp, nhưng sao chỉ niệm Phật một đời, thậm chí chỉ mười niệm lúc sắp chết đều được Đức Phật A-di-đà tiếp dẫn sinh về cõi Cực Lạc, chứng được Bất thoái. Chỉ luận về công hạnh hẳn đã có sai khác như thế, thì làm sao phù hợp?
Đáp: Bất thoái và Chánh định, tuy khác tên gọi nhưng ý nghĩa giống nhau. Người tu hành có hai loại: người ở cõi uế, kẻ ở cõi tịnh. Tu nhân ở cõi uế, cần phải trải qua vạn kiếp; còn khởi hạnh ở cõi tịnh vốn có nhiều đường. Nay trình bày về Bất thoái. Luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa nêu ra bốn loại: 1. Vị Bất thoái: chính là vạn kiếp tu nhân, ý nói thành tựu được Duy thức quán thì không rơi vào hạnh Ác luật nghi , không còn luân hồi sinh tử nữa.
2. Hạnh Bất thoái: đã được Sơ địa, thành tựu Chân Duy thức quán, xả bỏ tâm Nhị thừa, bất thoái hạnh lợi tha. 3. Niệm Bất thoái: địa thứ Tám trở lên, thật chứng Trí vô công dụng , lúc định hoặc tán đều được tự tại, không có niệm lui sụt. 4. Xứ Bất thoái: tuy không có văn kinh luận minh chứng, nhưng dựa vào lý để thành lập. Vì sao? Như luận Tỳ-bà-sa nói: “Hàng A-la-hán căn thoái, nếu đắc quả trong cõi người thuộc Dục giới, thì gặp năm duyên lui sụt, sợ mất Thánh quả, khởi tu hoặc . Đó là: đi xa, nhiều bệnh, thích tụng kinh điển, thích hòa giải tranh tụng, thích làm việc Tăng. Nếu đắc quả trong cõi trời, không gặp các duyên lui sụt, liền đạt được Bất thoái, chứng nhập Vô dư Niết-bàn ”. Hành giả cũng như vậy, chưa đạt được ba Bất thoái trước trong cõi người, nếu ở Ta-bà thì sẽ trôi lăn trong sinh tử, đó là lẽ tất nhiên. Bởi vì cõi nhiễm này có năm duyên lui sụt: 1. Mạng sống ngắn ngủi, nhiều bệnh tật.
2. Nhiều duyên xấu ràng buộc, ngăn ngại tịnh tâm.
3. Những tạp thiện của ngoại đạo làm loạn chánh hạnh.
4. Cảnh giới sáu trần khuấy động tịnh tâm.
5. Không thường thấy Phật, chẳng nghe được lời chỉ dạy của Phật. Nếu thường ở trong cõi này thì gặp năm duyên lui sụt đó. Nhưng vãng sinh Tịnh độ thì gặp được năm duyên tối thắng: 1. Mạng sống lâu dài, không có bệnh tật.
2. Bạn tốt dìu dắt.
3. Toàn là chân chánh, không có tà vạy.
4. Hoàn toàn thanh tịnh, không có cấu nhiễm.
5. Luôn luôn phụng sự chư Phật. Nhờ năm duyên này, nên được Bất thoái. Xét về hành vị không thể sánh bằng, nhưng được cõi tốt duyên lành, lại không lui sụt. Giống như người ác thường làm việc bất thiện, gặp được bạn lành, xót thương khuyên bảo không còn kết thân với kẻ ác nữa, thường theo người hiền, cho đến suốt đời không tạo tội ác nữa.
Phần 9
Kinh A-di-đà ghi: “Không thể với nhân duyên phước đức thiện căn nhỏ mà được vãng sinh Cực Lạc”. Hỏi: Vãng sinh Tịnh độ cần phải nhờ vào thiện lớn, hành trì đầy đủ các tịnh nghiệp mới được vãng sinh. Nếu chỉ niệm Phật suông như thế, làm sao vãng sinh Cực Lạc? Đáp: Nói về thiện căn nhiều ít thì chỉ cần căn cứ vào việc niệm Phật để trình bày. Nếu quá khứ không có nhiều duyên thiện thì đời này không được nghe danh hiệu Phật. Nhưng nay được nghe đến Tịnh độ, chuyên tâm niệm Phật, tức là do nhân thiện quá khứ; lại nhớ nghĩ Tây Phương, quyết tâm sinh về, đây là thiện căn lớn. Tuy nghe đến Tịnh độ của Phật A-di-đà, phát nguyện vãng sinh, nhưng việc tu không chuyên, tâm không quyết định, đó chỉ là thiện nhỏ không thể vãng sinh Tịnh độ được. Lại hỏi: Về việc niệm Phật, chỉ niệm danh hiệu, giả sử có chuyên tâm, nhưng chưa phải là thiện căn lớn, dẫu có xưng niệm danh hiệu Phật cũng đâu được vãng sinh? Đáp: Niệm Phật, là nói về pháp tu chung. Bởi vì căn cơ chúng sinh thọ nhận lợi ích khác nhau, do nguyện hạnh của chư Phật mà thành tựu danh hiệu Phật, do đó chỉ niệm danh hiệu Phật là bao hàm đầy đủ các công đức, cho nên trở thành thiện lớn, không trái nguyện vãng sinh. Nên kinh Duy-ma-cật ghi: “Ba danh hiệu trước của Phật , nếu Phật giảng rộng thì tôn giả A-nan trải qua muôn kiếp cũng không thể lãnh hội được”. Luận Thành Thật giải thích về danh hiệu Phật: chín danh hiệu trước của Phật, đều thành lập theo nghĩa riêng. Nay gom công đức của chín danh hiệu trước lập thành danh hiệu Phật Thế Tôn. Cho nên, nếu chỉ nói ba danh hiệu đầu tiên thì dù trải qua muôn kiếp cũng không cùng, A-nan không thể lãnh ngộ hết được, huống gì lại thêm sáu danh hiệu sau nữa để tạo thành danh hiệu Phật. Vì danh hiệu Phật có đầy đủ công đức thù thắng, cho nên niệm danh hiệu Phật trở thành thiện lớn.
Phần 10
Kinh A-di-đà ghi: “Này các thiện nam, thiện nữ! Số Thanh văn niệm Phật cầu vãng sinh Cực Lạc rất đông, nhiều vô lượng vô biên”. Nhưng luận Tịnh Độ lại nói: “Đối với hàng căn khí Đại thừa thì hoàn toàn không có điều gì đáng nói, nhưng Nhị thừa, người nữ và người thiếu căn thì không được vãng sinh”. Hỏi: Như luận Tịnh Độ nói người nữ, người thiếu căn và hàng Nhị thừa đều không được vãng sinh. Nhưng kinh A-di-đà nói đều được vãng sinh Cực Lạc. Như thế cả hai kinh đều là Thánh giáo, tại sao mỗi kinh nói khác nhau? Đáp: Mỗi bộ kinh luận tùy theo một duyên, nhưng xét kỹ lại thì hoàn toàn không sai khác. Nói người nữ được vãng sinh, là do tâm tánh quyết định, vì quá nhàm chán thân nữ, hết lòng niệm danh hiệu Phật để cầu vãng sinh Tịnh độ, đến khi báo thân ở cõi Ta-bà hết, chuyển làm thân trượng phu, ngồi vào đài sen báu, liền được vãng sinh Tịnh độ. Nói người thiếu căn được vãng sinh, có năm hạng: Sinh, Kiền, Bán nguyệt, Đố, Nhị hình . Những người thiếu căn như thế, tâm tánh không bình thường, nhưng nếu phát tâm dõng mãnh, quyết chí xả bỏ thân tàn tật thiếu căn này, để cảm nhận thân đầy đủ căn, liền được vãng sinh Cực Lạc. Hàng Nhị thừa có hai: - Thứ nhất là hàng Ngu pháp, chỉ chứng lý Nhân không, không biết lý Pháp không, đạt được quả nhỏ , cho nên gọi là Ngu pháp. Hạng này chỉ mong cầu lợi mình, không thực hành hạnh lợi tha, vì thế không được vãng sinh Tịnh độ. - Thứ hai, hàng không Ngu pháp. Các vị này tuy chứng được quả A-la-hán, nhưng không trụ vào quả nhỏ mà theo các Bồ-tát phát khởi tâm Đại thừa, nguyện sinh về ngay trước Phật để phát khởi hạnh lợi tha, do đó được vãng sinh Tịnh độ. Hỏi: Luận Tịnh Độ nói: “Hàng Nhị thừa không được vãng sinh”. Vì sao Quán Kinh nói: “Được vãng sinh Tịnh độ, nhưng lại chứng quả nhỏ”? Đáp: Người này, trước có chủng tử Tiểu thừa, gặp được Thiện tri thức, phát khởi tâm Đại thừa, do nhân tu tập Tiểu thừa trước kia mà chứng ngộ được Tứ phi thường , rồi phát khởi túc nhân liền chứng được quả nhỏ, nhưng nhờ vào sức dẫn dắt của thiện hữu tri thức Đại thừa, nên không trụ vào quả Tiểu thừa, mà trở lại phát khởi niệm Đại thừa, do đó chẳng còn là Tiểu thừa. Tuy căn là người nữ, nhưng thường cầu Bồ-đề, tin sâu Phật tính của mình và người đều bình đẳng, liền phát thệ nguyện sẽ thành Phật, độ khắp chúng sinh, tâm muốn xả bỏ thân người nữ, liền được vãng sinh Tịnh độ, đến khi báo thân sắp hết, Hóa Phật đến tiếp dẫn, thành bậc đại trượng phu, ngồi vào đài sen, được Phật giúp cho tâm an ổn, liền vãng sinh Cực Lạc. Kinh căn cứ vào nghĩa này, nên nói người nữ đều được vãng sinh. Còn Luận không căn cứ vào nghĩa này, nên cho rằng không được vãng sinh. Hàng Thanh văn cần phải phát khởi tâm Đại thừa, nương theo đây tu tập, liền được vãng sinh. Nhưng vẫn lấy theo tên cũ mà gọi là Thanh văn. Hỏi: Hàng Thanh văn thường bị chê trách, vì sao họ sinh vào cõi kia vẫn còn gọi tên ấy? Đáp: Hàng Thanh văn ngu pháp, mắc lỗi tự lợi quá nặng, không thực hành hạnh lợi tha, cho nên bị chê trách. Tuy vẫn gọi tên xưa, nhưng bây giờ là Đại Thanh văn, hạnh lợi tha rất lớn, đó là mỹ danh. Do đó kinh Pháp Hoa nói: “Chúng ta ngày nay chính là Thanh văn, dùng âm thanh Phật đạo khiến cho tất cả đều được nghe”. Tây Phương cũng thế, tuy có Tiểu thừa, nhưng đều là Thanh văn chân chánh, cho nên không có lỗi bị chê trách.
Phần 11
Dung hội cho Hành giả Tam Giai . Hành giả Tam Giai có năm mối nghi nhỏ.
1. Hỏi: Chúng sinh bị trôi lăn trong sinh tử luân hồi chịu nhiều khổ não. Truy tìm nguyên do đều phát khởi từ ba tà độc. Nay chuyên tâm niệm Phật, nguyện vãng sinh Tây Phương, tà độc càng tăng trưởng, há chẳng phải là kiến giải điên đảo ư? Vì sao? Bởi vì cõi Ta-bà ô trược, lẽ ra phải thường ở, nhưng lại sinh nhàm chán xả bỏ, đó chính là Tà sân. Tây Phương Tịnh độ là nơi chư Thánh qua lại, không phải chỗ ở của phàm phu mà lại phát nguyện sinh về, tức là Tà tham. Sở dĩ như thế đều là do vô minh, đó là Tà si. Đây là ba mầm độc chất chứa trong ruộng tâm, giả sử có niệm Phật, thì cũng chiêu cảm đến thần, ma, quỷ…, làm sao được vãng sinh Tịnh độ?
Đáp: Giáo chỉ có sai khác, nhưng đều mong muốn làm lợi ích muôn loài, người học khéo biết lấy bỏ, mỗi mỗi tùy theo cơ duyên. Vì sao? Nếu như ngộ được Vô sinh, lẽ ra có thể ở lâu trong cõi Ta-bà, nhưng nếu chưa chứng được giai vị Bất thoái thì khó trụ nơi cõi uế. Nếu khế ngộ được Vô sinh thì Cực Lạc và Ta-bà không khác, chẳng cần nhàm chán cõi ô trược, ngưỡng cầu Tây Phương thanh tịnh. Nhưng nếu thân vẫn còn trong luân hồi, thì cần phải nguyện sinh cõi kia. Bồ-tát tuy trụ ở cõi uế, nhưng Lý và Giải đã thông, qua lại không còn cách trở. Hàng phàm phu chưa thành tựu thắng quán, tuy tạm thời dứt khổ, nhưng rồi vẫn trở lại dòng khổ đau. Do đó, xả bỏ cõi nhiễm, chẳng nuôi lớn Tà sân; còn ưa thích Tây Phương, thì Tà tham không khởi, đồng thời tương ưng với phân biệt huệ . Bên trong gom chứa ba thiện căn , bên ngoài chiêu cảm sự trợ giúp của chư Phật. Sau khi bỏ báo thân ở cõi này, liền được hoa báu cõi Tịnh nghinh đón. Chớ sợ thần, ma, quỷ mà không nỗ lực tu trì chánh nghiệp.
2. Hỏi: Nghiệp đạo như cán cân, thiện ác ắt có báo ứng. Từ lúc cảm nhận thân mạng đến nay, chúng sinh tạo ác rất nhiều, tại sao không nhận chịu quả báo mà được sinh thẳng về Tây Phương? Giả sử muốn được vãng sinh lẽ nào không bị chướng ngại?
Đáp: Hễ tạo nghiệp thì nhất định phải nhận quả báo khổ vui. Đã đồng là phàm ngu thì cái nhân tội lỗi chồng chất lâu ngày ấy không thể nói là không có. Ngày nay thọ nhận được báo thân người, nghiệp ác ấy đoạn trừ hết chưa? Nếu cho rằng đã đoạn hết, thì nay đâu còn ác để đoạn trừ. Nếu như chưa diệt sạch, thì tại sao không chướng ngại nhân thọ sinh? Này hành giả Tam Giai! Lúc thọ nhận thân mạng này, các nhân ác chưa đoạn trừ, nhưng do nghiệp cõi người mạnh hơn, nên ác kia không thể ngăn ngại, đến khi thiện căn đã hết thì sẽ phải thọ lãnh quả khổ. Cần phải nói lại rằng: tuy ác nghiệp chưa đoạn trừ, nhưng do nghiệp cõi người mạnh hơn, nên không mất việc chiêu cảm thân người, lại nhờ Tịnh nghiệp chuyển mạnh thì làm sao có thể ngăn ngại được việc vãng sinh! Vì sao? Bởi vì Tam quy, Ngũ giới chỉ là nhân thiện hữu lậu, nên vẫn bị điên đảo mộng tưởng dẫn dắt gá vào thai mẹ. Hạnh thấp kém này mà nghiệp ác còn không thể ngăn ngại, cho nên mới được thân người. Huống gì sức của nghiệp ác đã không mạnh, lại còn nhờ chánh hạnh từ quá khứ và sự phát tâm hiện tại, nguyện đoạn tận gốc rễ khổ đau, thì tương lai sẽ làm Phật, niệm niệm tinh tấn nguyện sinh Tây Phương. Khi báo thân này hết, có các Bồ-tát từ bi xót thương đến hộ niệm, khiến trụ vào chánh niệm, được thấy Thánh chúng trước mặt, chỉ khao khát muốn được vãng sinh, nhờ nhân duyên thù thắng này, cho nên vãng sinh được dễ dàng. Do đó, chớ nên hoài nghi mà không tinh tấn tu tập tịnh nghiệp!
3. Hỏi: Căn cứ vào việc tu hành ngày nay, mọi người đều lấy việc học hỏi kinh điển làm tông thú, chỉ niệm danh hiệu Đức Phật A-di-đà thì trở thành kiến chấp, lại chướng ngăn Thánh đạo, không thoát khỏi luân hồi, tại sao không lìa bỏ pháp môn tu riêng này để tu học tất cả các hạnh? Đáp: Tu học khắp các hạnh là lợi ích rất lớn, bậc hiền trí thông đạt mới có khả năng lĩnh hội; kẻ trí cạn sức hèn, khó mà kham nổi. Do đó, Đức Phật tùy theo cơ duyên chỉ dạy chúng sinh tu pháp môn riêng này, vì hợp với căn tánh, không tổn hại đến lý. Nếu nương vào pháp môn riêng biệt này làm nhân để tu tập thì thành tựu hành nghiệp rộng lớn.
4. Hỏi: Muốn tu Đạo lớn trước phải biết rõ nhân của khổ, truy xét nguồn gốc khổ đau đều do nghiệp ác mà khởi ra các cảnh ác. Ở cõi Ta-bà này không hiểu được lý tánh, lý tướng của chư Phật, nên tạo ra vô lượng vô biên nghiệp ác. Tất cả chúng sinh có hai đặc điểm: Một là Thật báo. Hai là Ứng hình. Thật báo tức chân thể, Phật tánh; hình tướng tức Phổ thân . Bởi vì chúng sinh mê bản thể, cho nên nơi Như Lai Tạng vọng khởi tâm tham, sân, si. Hình tướng tuy có sai khác, nhưng Phổ thân thì chỉ một. Do chúng sinh cách đời khác thì không còn nhận biết nhau, rồi vọng khởi lên tâm yêu ghét, thường đối với cha mẹ Phật tánh, mà tạo các hạnh sát, đạo, dâm v.v… Các bậc Thánh Tam thừa thương xót chúng sinh, ứng hiện thân đồng phàm phu, nhưng chúng sinh mê mờ không nhận biết, liền khinh thường, bức bách, làm tăng trưởng duyên ác. Do trước kia không biết rõ, bèn sinh mộng tưởng đảo điên. Ngày nay được khai ngộ, đối cảnh liền nhớ nghĩ đến lỗi lầm, cho nên diệt trừ tội ác đã làm, không cho phát sinh lỗi lầm mai sau. Nhưng ở cõi này sám hối, mọi tội lỗi có thể tiêu trừ, còn nhàm lìa cõi Ta-bà, thích sinh về Tịnh độ, lẽ nào không còn oán kết ư? Đáp: Muốn đạt được Đạo lớn cần cắt đứt nguồn gốc khổ đau, dứt trừ nguồn gốc khổ đau không gì hơn đoạn sạch hết các lỗi ác. Nơi tạo ra oan khiên chính ở cõi Ta-bà. Chất chứa những oán hiềm, trở thành ái kết , ngày nay xét kỹ, đều do điên đảo mộng tưởng trói buộc. Vì muốn cho chúng sinh hiểu rõ chân thể là Phật tánh, hình tướng là Phổ thân, cho nên chư Phật từ bi mở bày phương tiện, ứng khắp trong sáu đường, hiện thân đồng phàm phu. Kiến giải như thế, mọi người đều biết, nhưng luận về khởi hạnh tu tập thì hoàn toàn không. Vì thế hiểu biết thì dễ, nhưng thực hành lại khó. Chỉ nên nghĩ tưởng pháp môn này chân thật không hư dối, khởi tâm sám hối những tội ác đã làm, và nguyện không phạm những lỗi ở mai sau, chuyên tâm niệm danh hiệu Phật, và tu tất cả pháp môn, hồi hướng vãng sinh Tịnh độ, khẩn cấp như cứu lửa cháy đầu. Cõi này là chốn trầm luân, thở than muôn kiếp lạc đường, hãy an tâm nơi cõi Cực Lạc, chứng quả Vô sinh, thành tựu được hạnh tự lợi rồi, nên trở lại cõi Ta-bà, mở lòng đại bi giáo hóa chúng sinh, bình đẳng cứu giúp mọi loài, không dừng lại giữa đường, không rẽ sang lối khác. Chỉ vận tâm khởi niệm: trước vì đáp trả oán thù xưa, nguyện xả bỏ nhân khổ đau, cùng nhau sinh về Cực Lạc, khi họ đều đã lĩnh hội, liền xả bỏ được oán hiềm. Không nên do đây mà mãi ôm giữ mối nghi!
5. Hỏi: Ngày nay cách Phật quá xa, hàng phàm ngu thấp kém, cần phải lễ sám bồ-tát Địa Tạng, một vị Bồ-tát có duyên với chúng sinh ở cõi này, lẽ ra phải chuyên niệm danh hiệu Ngài và niệm Tam Bảo. Niệm danh hiệu Phật A-di-đà ở Tịnh độ là pháp môn tu hành của hàng thượng căn, và hàng căn cơ Đệ nhị giai mới có khả năng phát khởi niệm. Chúng sinh nay đã ở vào thời ác trược, tánh dục thấp hèn, làm sao thực hành được pháp môn tu tập của các bậc thượng căn? Bậc thượng căn tu học pháp của hàng hạ căn thì không hợp và chậm tiến đạo; còn hàng hạ căn tu tập pháp của bậc thượng căn thì chướng đạo, chịu khổ mà thôi. Pháp môn tu tập và căn cơ đã không khế hợp nhau thì có thể thành tựu được ư? Đáp: Những điều ông nêu ra thật cũng hợp với kinh giáo, bởi nếu tu tập chưa lâu thì sẽ phát khởi mối nghi này. Nhưng muốn dứt nghi, thì cần phải mở ra pháp tu thiết cận. Ở đây xin lược nêu hai nghĩa: thứ nhất là dẫn Thánh giáo; thứ hai là phân tích nghĩa môn. + Dẫn Thánh giáo: Nói về Thánh giáo thì rất nhiều bộ loại, nếu chép ra nhiều, thật khó nghiên cứu, ở đây chỉ trích dẫn sơ lược năm đoạn kinh quan trọng để nêu lên những điều hi hữu, ít thấy, nghe: 1. Kinh Đại Tập Hiền Hộ ghi: “Phật bảo Hiền Hộ: “Sau khi Như Lai Niết-bàn, các đệ tử hãy lưu truyền môn Tam-muội này. Các tỳ-kheo xấu ác, không thể tin thọ, cho là lời của ngoại đạo, lời của ma”. Phật lại bảo Hiền Hộ: “Khi tỳ-kheo làm việc xấu ác, khi các nước đánh nhau, hủy báng lẫn nhau, khi chúng sinh ở trong ác trược thì bốn chúng đệ tử có khả năng lưu truyền pháp này để làm lợi ích chúng sinh”. 2. Kinh Dược Sư ghi: “Bồ-tát Văn-thù vì chúng sinh thời Tượng pháp mà thỉnh: bốn chúng đệ tử cầu vãng sinh Tây Phương, nhưng tâm không quyết định thì niệm danh hiệu Dược Sư, liền đoạn trừ được lưới nghi, đến khi sắp chết có tám vị Bồ-tát dẫn dắt vãng sinh”. 3. Kinh A-di-đà ghi: “Chư Phật ở các phương khác đều khen ngợi Đức Phật Thích-ca ở trong cõi Ngũ trược lại nói được pháp khó tin nhận, chư Phật ở sáu phương đều hiện tướng lưỡi rộng dài nói lời chân thật để xác chứng”. 4. Quán Kinh ghi: “Hoàng hậu Vi-đề-hi vì những chúng sinh bị năm ác trược bất thiện, năm nỗi thống khổ bức bách, thỉnh Phật giảng pháp môn Niệm Phật cầu sinh Tịnh độ. Lại nữa, trong ba phẩm thuộc bậc hạ, toàn là những hạng người tạo nghiệp ác, cũng đều được vãng sinh”. 5. Kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Đức Phật Thích-ca vì chúng sinh trong cõi Ngũ trược mà thuyết pháp, giúp chúng sinh xa lìa năm việc xấu ác, trừ năm nỗi thống khổ, diệt năm ngọn lửa đốt thân . Lại, vào đời sau, khi các kinh Phật bị hủy diệt hết, Như Lai vì lòng từ bi thương xót chúng sinh, chỉ lưu truyền một bộ kinh này, lưu trụ lại trăm năm. Bấy giờ, chúng sinh khởi lên một niệm tín thọ liền được vãng sinh về Cực Lạc”.
Hỏi: Các đoạn kinh được trích dẫn chính thật do Phật nói, hoàn toàn không hư dối, nhưng chưa biết đó là pháp môn phương tiện hay là giáo lý rốt ráo? Đáp: Lời ông hỏi rất đúng. Các kinh giáo được viện dẫn đều là pháp môn rốt ráo. Vì sao? Vì nếu là giáo Bất liễu nghĩa thì Phật đã giải thích rõ nơi hội Niết-bàn. Nhưng pháp môn Tịnh độ này đã chẳng còn gì nghi để hỏi nơi Song thọ. Hơn nữa, chư Phật trong mười phương đều đã xác chứng. Căn cứ vào hai nghĩa này, cho nên đây chẳng phải là pháp phương tiện. Trên là trích dẫn sơ lược Thánh giáo để trình bày nhân của giáo thuyết. + Trình bày nghĩa môn: Giải thích sơ lược nghĩa môn, để trừ bỏ mối nghi. Nhất âm diễn xướng thì mỗi mỗi căn cơ liễu ngộ khác nhau. Tuy có muôn ngàn sai khác, nhưng đều được khế ngộ. Bồ-tát Địa Tạng phát nguyện rộng lớn vào cõi ác cứu độ chúng sinh. Đức Phật A-di-đà dùng lòng đại bi chỉ trong mười niệm tiếp dẫn hàm linh. Nếu không cầu vãng sinh Tịnh độ e rằng sẽ rơi vào ba đường ác. Niệm danh hiệu bồ-tát Địa Tạng là mong cầu cứu khổ. Nay khuyên chuyên tâm niệm danh hiệu Phật, phát nguyện vãng sinh Tây Phương, khi mạng sống sắp hết, chư Phật liền đến tiếp dẫn; đã được vãng sinh Tịnh độ, bặt dứt ba đường, không còn nếm chịu các khổ não, không nhọc công cầu xin cứu vớt. Tông chỉ của Tam giai giáo là tùy theo thời cơ mà nói, sau 1.500 năm không có người tu Tịnh nghiệp, giả sử có người tu tập, các hạnh đều thành tựu, đó là hạng Đệ nhị giai chứ chẳng phải là hàng phàm phu thấp kém. Nay xét ý này, thì hành nhân vừa nói chỉ gồm phẩm Thượng và Trung trong ba phẩm. Còn pháp môn Tịnh độ, định tán đều chung, tác nghiệp cạn hay sâu đều được vãng sinh Cực Lạc. Từ hàng xuất gia thanh tịnh hay kẻ tại gia tôn quý ở nơi vắng lặng, tâm trí không loạn, tu tập quán nghiệp, nhất định vãng sinh. Những người chẳng màn vinh hoa, chẳng để tâm đến các việc công tư, chẳng tham việc thế tục, siêng năng học hỏi, tu tập đạo nghiệp, đầy đủ Tán nhân ba phước , nhất định vãng sinh Cực Lạc. Người thiếu thốn của cải, công việc trói buộc, nhưng quyết một lòng tu hành, cũng được vãng sinh. Người đời nay gây tội, cho đến kẻ Nhất-xiển-đề khi mạng sống sắp hết, bị các thứ khổ bức bách, bỗng nhiên gặp được thiện hữu tri thức, hướng dẫn niệm danh hiệu Phật, tướng ác được tiêu trừ, liền vãng sinh Cực Lạc. Bậc thiện căn Đại thừa, từ người suốt đời không tạo lỗi, cho đến bậc Hồi hướng chung tâm , căn cứ vào tác nghiệp cạn hay sâu mà phân làm ba phẩm bậc Thượng. Người căn cơ Tiểu thừa, từ Thiện thú cho đến Thế đệ nhất pháp , chia làm ba phẩm bậc Trung. Hạng thuộc căn cơ Đại thừa hay Tiểu thừa, căn cứ theo lỗi nặng nhẹ, phân làm ba phẩm bậc Hạ. Đây là do tu đạo cạn hay sâu, tạo ác nặng hay nhẹ, nhưng đều phát tâm Bồ-đề, nguyện vãng sinh Tịnh độ, tùy theo nghiệp nhiều ít mà đều được vãng sinh. Không thể chấp lệch một bề, hủy báng nghi ngờ Tịnh nghiệp. Lại nói, thời ác trược ngày nay không thích hợp cho người niệm Phật nguyện cầu vãng sinh Tịnh độ. Lời này thật thiển cận! Kinh Vô Lượng Thọ (Đại bản) ghi: “Khi kinh Phật diệt hết, Đức Phật vì lòng từ bi thương xót chúng sinh, chỉ lưu lại kinh này một trăm năm. Lúc bấy giờ, chúng sinh nghe danh hiệu Phật mà phát khởi niềm tin, đều được vãng sinh Cực Lạc”. Ý muốn nói Như Lai thuyết giáo để làm lợi ích chúng sinh có thời hạn. Sau 10.000 năm mạt pháp, các kinh khác hoàn toàn diệt hết, chỉ có kinh A-di-đà làm lợi ích vô số chúng sinh, cho nên Đức Phật chỉ lưu lại kinh này trăm năm. Bấy giờ đã trải qua 10.000 năm thời mạt pháp, tất cả các kinh đều diệt hết, Đức Phật Thích-ca có ân đức lớn thương xót chúng sinh lưu lại giáo pháp 100 năm. Lúc ấy, người tu liền được vãng sinh Tịnh độ, tại sao còn nghi ngờ mà không phát nguyện vãng sinh? Xét rõ văn kinh này, đủ để trừ bỏ mối lo, chớ ôm giữ kiến chấp trong lòng mà không dung thông được các kinh.
Phần 12
Căn cứ vào luận Nhiếp Đại Thừa để dung thông nghĩa Biệt thời . Luận ghi: “Chỉ cần phát nguyện liền được vãng sinh về cõi An lạc. Đó là nghĩa Biệt thời”.Hỏi: Luận Nhiếp Đại thừa cho đó là Biệt thời. Nay kinh này dạy niệm Phật liền được vãng sinh thì thế nào? Đáp: Nghĩa Biệt thời của Nhiếp Luận và pháp môn Tịnh độ đâu có gì khác nhau. Vì sao? Bởi vì khi phát nguyện chưa thể vãng sinh ngay, nhưng từ tâm phát nguyện mà khởi hạnh niệm Phật mới thành tựu Tịnh nghiệp. Trước nguyện, sau hạnh nên nói là Biệt thời, chứ không phải cho rằng niệm Phật không vãng sinh ngay được.
Kinh A-di-đà ghi: “Này các thiện nam, thiện nữ! Số Thanh văn niệm Phật cầu vãng sinh Cực Lạc rất đông, nhiều vô lượng vô biên”. Nhưng luận Tịnh Độ lại nói: “Đối với hàng căn khí Đại thừa thì hoàn toàn không có điều gì đáng nói, nhưng Nhị thừa, người nữ và người thiếu căn thì không được vãng sinh”. Hỏi: Như luận Tịnh Độ nói người nữ, người thiếu căn và hàng Nhị thừa đều không được vãng sinh. Nhưng kinh A-di-đà nói đều được vãng sinh Cực Lạc. Như thế cả hai kinh đều là Thánh giáo, tại sao mỗi kinh nói khác nhau? Đáp: Mỗi bộ kinh luận tùy theo một duyên, nhưng xét kỹ lại thì hoàn toàn không sai khác. Nói người nữ được vãng sinh, là do tâm tánh quyết định, vì quá nhàm chán thân nữ, hết lòng niệm danh hiệu Phật để cầu vãng sinh Tịnh độ, đến khi báo thân ở cõi Ta-bà hết, chuyển làm thân trượng phu, ngồi vào đài sen báu, liền được vãng sinh Tịnh độ. Nói người thiếu căn được vãng sinh, có năm hạng: Sinh, Kiền, Bán nguyệt, Đố, Nhị hình . Những người thiếu căn như thế, tâm tánh không bình thường, nhưng nếu phát tâm dõng mãnh, quyết chí xả bỏ thân tàn tật thiếu căn này, để cảm nhận thân đầy đủ căn, liền được vãng sinh Cực Lạc. Hàng Nhị thừa có hai: - Thứ nhất là hàng Ngu pháp, chỉ chứng lý Nhân không, không biết lý Pháp không, đạt được quả nhỏ , cho nên gọi là Ngu pháp. Hạng này chỉ mong cầu lợi mình, không thực hành hạnh lợi tha, vì thế không được vãng sinh Tịnh độ. - Thứ hai, hàng không Ngu pháp. Các vị này tuy chứng được quả A-la-hán, nhưng không trụ vào quả nhỏ mà theo các Bồ-tát phát khởi tâm Đại thừa, nguyện sinh về ngay trước Phật để phát khởi hạnh lợi tha, do đó được vãng sinh Tịnh độ. Hỏi: Luận Tịnh Độ nói: “Hàng Nhị thừa không được vãng sinh”. Vì sao Quán Kinh nói: “Được vãng sinh Tịnh độ, nhưng lại chứng quả nhỏ”? Đáp: Người này, trước có chủng tử Tiểu thừa, gặp được Thiện tri thức, phát khởi tâm Đại thừa, do nhân tu tập Tiểu thừa trước kia mà chứng ngộ được Tứ phi thường , rồi phát khởi túc nhân liền chứng được quả nhỏ, nhưng nhờ vào sức dẫn dắt của thiện hữu tri thức Đại thừa, nên không trụ vào quả Tiểu thừa, mà trở lại phát khởi niệm Đại thừa, do đó chẳng còn là Tiểu thừa. Tuy căn là người nữ, nhưng thường cầu Bồ-đề, tin sâu Phật tính của mình và người đều bình đẳng, liền phát thệ nguyện sẽ thành Phật, độ khắp chúng sinh, tâm muốn xả bỏ thân người nữ, liền được vãng sinh Tịnh độ, đến khi báo thân sắp hết, Hóa Phật đến tiếp dẫn, thành bậc đại trượng phu, ngồi vào đài sen, được Phật giúp cho tâm an ổn, liền vãng sinh Cực Lạc. Kinh căn cứ vào nghĩa này, nên nói người nữ đều được vãng sinh. Còn Luận không căn cứ vào nghĩa này, nên cho rằng không được vãng sinh. Hàng Thanh văn cần phải phát khởi tâm Đại thừa, nương theo đây tu tập, liền được vãng sinh. Nhưng vẫn lấy theo tên cũ mà gọi là Thanh văn. Hỏi: Hàng Thanh văn thường bị chê trách, vì sao họ sinh vào cõi kia vẫn còn gọi tên ấy? Đáp: Hàng Thanh văn ngu pháp, mắc lỗi tự lợi quá nặng, không thực hành hạnh lợi tha, cho nên bị chê trách. Tuy vẫn gọi tên xưa, nhưng bây giờ là Đại Thanh văn, hạnh lợi tha rất lớn, đó là mỹ danh. Do đó kinh Pháp Hoa nói: “Chúng ta ngày nay chính là Thanh văn, dùng âm thanh Phật đạo khiến cho tất cả đều được nghe”. Tây Phương cũng thế, tuy có Tiểu thừa, nhưng đều là Thanh văn chân chánh, cho nên không có lỗi bị chê trách.
Phần 11
Dung hội cho Hành giả Tam Giai . Hành giả Tam Giai có năm mối nghi nhỏ.
1. Hỏi: Chúng sinh bị trôi lăn trong sinh tử luân hồi chịu nhiều khổ não. Truy tìm nguyên do đều phát khởi từ ba tà độc. Nay chuyên tâm niệm Phật, nguyện vãng sinh Tây Phương, tà độc càng tăng trưởng, há chẳng phải là kiến giải điên đảo ư? Vì sao? Bởi vì cõi Ta-bà ô trược, lẽ ra phải thường ở, nhưng lại sinh nhàm chán xả bỏ, đó chính là Tà sân. Tây Phương Tịnh độ là nơi chư Thánh qua lại, không phải chỗ ở của phàm phu mà lại phát nguyện sinh về, tức là Tà tham. Sở dĩ như thế đều là do vô minh, đó là Tà si. Đây là ba mầm độc chất chứa trong ruộng tâm, giả sử có niệm Phật, thì cũng chiêu cảm đến thần, ma, quỷ…, làm sao được vãng sinh Tịnh độ?
Đáp: Giáo chỉ có sai khác, nhưng đều mong muốn làm lợi ích muôn loài, người học khéo biết lấy bỏ, mỗi mỗi tùy theo cơ duyên. Vì sao? Nếu như ngộ được Vô sinh, lẽ ra có thể ở lâu trong cõi Ta-bà, nhưng nếu chưa chứng được giai vị Bất thoái thì khó trụ nơi cõi uế. Nếu khế ngộ được Vô sinh thì Cực Lạc và Ta-bà không khác, chẳng cần nhàm chán cõi ô trược, ngưỡng cầu Tây Phương thanh tịnh. Nhưng nếu thân vẫn còn trong luân hồi, thì cần phải nguyện sinh cõi kia. Bồ-tát tuy trụ ở cõi uế, nhưng Lý và Giải đã thông, qua lại không còn cách trở. Hàng phàm phu chưa thành tựu thắng quán, tuy tạm thời dứt khổ, nhưng rồi vẫn trở lại dòng khổ đau. Do đó, xả bỏ cõi nhiễm, chẳng nuôi lớn Tà sân; còn ưa thích Tây Phương, thì Tà tham không khởi, đồng thời tương ưng với phân biệt huệ . Bên trong gom chứa ba thiện căn , bên ngoài chiêu cảm sự trợ giúp của chư Phật. Sau khi bỏ báo thân ở cõi này, liền được hoa báu cõi Tịnh nghinh đón. Chớ sợ thần, ma, quỷ mà không nỗ lực tu trì chánh nghiệp.
2. Hỏi: Nghiệp đạo như cán cân, thiện ác ắt có báo ứng. Từ lúc cảm nhận thân mạng đến nay, chúng sinh tạo ác rất nhiều, tại sao không nhận chịu quả báo mà được sinh thẳng về Tây Phương? Giả sử muốn được vãng sinh lẽ nào không bị chướng ngại?
Đáp: Hễ tạo nghiệp thì nhất định phải nhận quả báo khổ vui. Đã đồng là phàm ngu thì cái nhân tội lỗi chồng chất lâu ngày ấy không thể nói là không có. Ngày nay thọ nhận được báo thân người, nghiệp ác ấy đoạn trừ hết chưa? Nếu cho rằng đã đoạn hết, thì nay đâu còn ác để đoạn trừ. Nếu như chưa diệt sạch, thì tại sao không chướng ngại nhân thọ sinh? Này hành giả Tam Giai! Lúc thọ nhận thân mạng này, các nhân ác chưa đoạn trừ, nhưng do nghiệp cõi người mạnh hơn, nên ác kia không thể ngăn ngại, đến khi thiện căn đã hết thì sẽ phải thọ lãnh quả khổ. Cần phải nói lại rằng: tuy ác nghiệp chưa đoạn trừ, nhưng do nghiệp cõi người mạnh hơn, nên không mất việc chiêu cảm thân người, lại nhờ Tịnh nghiệp chuyển mạnh thì làm sao có thể ngăn ngại được việc vãng sinh! Vì sao? Bởi vì Tam quy, Ngũ giới chỉ là nhân thiện hữu lậu, nên vẫn bị điên đảo mộng tưởng dẫn dắt gá vào thai mẹ. Hạnh thấp kém này mà nghiệp ác còn không thể ngăn ngại, cho nên mới được thân người. Huống gì sức của nghiệp ác đã không mạnh, lại còn nhờ chánh hạnh từ quá khứ và sự phát tâm hiện tại, nguyện đoạn tận gốc rễ khổ đau, thì tương lai sẽ làm Phật, niệm niệm tinh tấn nguyện sinh Tây Phương. Khi báo thân này hết, có các Bồ-tát từ bi xót thương đến hộ niệm, khiến trụ vào chánh niệm, được thấy Thánh chúng trước mặt, chỉ khao khát muốn được vãng sinh, nhờ nhân duyên thù thắng này, cho nên vãng sinh được dễ dàng. Do đó, chớ nên hoài nghi mà không tinh tấn tu tập tịnh nghiệp!
3. Hỏi: Căn cứ vào việc tu hành ngày nay, mọi người đều lấy việc học hỏi kinh điển làm tông thú, chỉ niệm danh hiệu Đức Phật A-di-đà thì trở thành kiến chấp, lại chướng ngăn Thánh đạo, không thoát khỏi luân hồi, tại sao không lìa bỏ pháp môn tu riêng này để tu học tất cả các hạnh? Đáp: Tu học khắp các hạnh là lợi ích rất lớn, bậc hiền trí thông đạt mới có khả năng lĩnh hội; kẻ trí cạn sức hèn, khó mà kham nổi. Do đó, Đức Phật tùy theo cơ duyên chỉ dạy chúng sinh tu pháp môn riêng này, vì hợp với căn tánh, không tổn hại đến lý. Nếu nương vào pháp môn riêng biệt này làm nhân để tu tập thì thành tựu hành nghiệp rộng lớn.
4. Hỏi: Muốn tu Đạo lớn trước phải biết rõ nhân của khổ, truy xét nguồn gốc khổ đau đều do nghiệp ác mà khởi ra các cảnh ác. Ở cõi Ta-bà này không hiểu được lý tánh, lý tướng của chư Phật, nên tạo ra vô lượng vô biên nghiệp ác. Tất cả chúng sinh có hai đặc điểm: Một là Thật báo. Hai là Ứng hình. Thật báo tức chân thể, Phật tánh; hình tướng tức Phổ thân . Bởi vì chúng sinh mê bản thể, cho nên nơi Như Lai Tạng vọng khởi tâm tham, sân, si. Hình tướng tuy có sai khác, nhưng Phổ thân thì chỉ một. Do chúng sinh cách đời khác thì không còn nhận biết nhau, rồi vọng khởi lên tâm yêu ghét, thường đối với cha mẹ Phật tánh, mà tạo các hạnh sát, đạo, dâm v.v… Các bậc Thánh Tam thừa thương xót chúng sinh, ứng hiện thân đồng phàm phu, nhưng chúng sinh mê mờ không nhận biết, liền khinh thường, bức bách, làm tăng trưởng duyên ác. Do trước kia không biết rõ, bèn sinh mộng tưởng đảo điên. Ngày nay được khai ngộ, đối cảnh liền nhớ nghĩ đến lỗi lầm, cho nên diệt trừ tội ác đã làm, không cho phát sinh lỗi lầm mai sau. Nhưng ở cõi này sám hối, mọi tội lỗi có thể tiêu trừ, còn nhàm lìa cõi Ta-bà, thích sinh về Tịnh độ, lẽ nào không còn oán kết ư? Đáp: Muốn đạt được Đạo lớn cần cắt đứt nguồn gốc khổ đau, dứt trừ nguồn gốc khổ đau không gì hơn đoạn sạch hết các lỗi ác. Nơi tạo ra oan khiên chính ở cõi Ta-bà. Chất chứa những oán hiềm, trở thành ái kết , ngày nay xét kỹ, đều do điên đảo mộng tưởng trói buộc. Vì muốn cho chúng sinh hiểu rõ chân thể là Phật tánh, hình tướng là Phổ thân, cho nên chư Phật từ bi mở bày phương tiện, ứng khắp trong sáu đường, hiện thân đồng phàm phu. Kiến giải như thế, mọi người đều biết, nhưng luận về khởi hạnh tu tập thì hoàn toàn không. Vì thế hiểu biết thì dễ, nhưng thực hành lại khó. Chỉ nên nghĩ tưởng pháp môn này chân thật không hư dối, khởi tâm sám hối những tội ác đã làm, và nguyện không phạm những lỗi ở mai sau, chuyên tâm niệm danh hiệu Phật, và tu tất cả pháp môn, hồi hướng vãng sinh Tịnh độ, khẩn cấp như cứu lửa cháy đầu. Cõi này là chốn trầm luân, thở than muôn kiếp lạc đường, hãy an tâm nơi cõi Cực Lạc, chứng quả Vô sinh, thành tựu được hạnh tự lợi rồi, nên trở lại cõi Ta-bà, mở lòng đại bi giáo hóa chúng sinh, bình đẳng cứu giúp mọi loài, không dừng lại giữa đường, không rẽ sang lối khác. Chỉ vận tâm khởi niệm: trước vì đáp trả oán thù xưa, nguyện xả bỏ nhân khổ đau, cùng nhau sinh về Cực Lạc, khi họ đều đã lĩnh hội, liền xả bỏ được oán hiềm. Không nên do đây mà mãi ôm giữ mối nghi!
5. Hỏi: Ngày nay cách Phật quá xa, hàng phàm ngu thấp kém, cần phải lễ sám bồ-tát Địa Tạng, một vị Bồ-tát có duyên với chúng sinh ở cõi này, lẽ ra phải chuyên niệm danh hiệu Ngài và niệm Tam Bảo. Niệm danh hiệu Phật A-di-đà ở Tịnh độ là pháp môn tu hành của hàng thượng căn, và hàng căn cơ Đệ nhị giai mới có khả năng phát khởi niệm. Chúng sinh nay đã ở vào thời ác trược, tánh dục thấp hèn, làm sao thực hành được pháp môn tu tập của các bậc thượng căn? Bậc thượng căn tu học pháp của hàng hạ căn thì không hợp và chậm tiến đạo; còn hàng hạ căn tu tập pháp của bậc thượng căn thì chướng đạo, chịu khổ mà thôi. Pháp môn tu tập và căn cơ đã không khế hợp nhau thì có thể thành tựu được ư? Đáp: Những điều ông nêu ra thật cũng hợp với kinh giáo, bởi nếu tu tập chưa lâu thì sẽ phát khởi mối nghi này. Nhưng muốn dứt nghi, thì cần phải mở ra pháp tu thiết cận. Ở đây xin lược nêu hai nghĩa: thứ nhất là dẫn Thánh giáo; thứ hai là phân tích nghĩa môn. + Dẫn Thánh giáo: Nói về Thánh giáo thì rất nhiều bộ loại, nếu chép ra nhiều, thật khó nghiên cứu, ở đây chỉ trích dẫn sơ lược năm đoạn kinh quan trọng để nêu lên những điều hi hữu, ít thấy, nghe: 1. Kinh Đại Tập Hiền Hộ ghi: “Phật bảo Hiền Hộ: “Sau khi Như Lai Niết-bàn, các đệ tử hãy lưu truyền môn Tam-muội này. Các tỳ-kheo xấu ác, không thể tin thọ, cho là lời của ngoại đạo, lời của ma”. Phật lại bảo Hiền Hộ: “Khi tỳ-kheo làm việc xấu ác, khi các nước đánh nhau, hủy báng lẫn nhau, khi chúng sinh ở trong ác trược thì bốn chúng đệ tử có khả năng lưu truyền pháp này để làm lợi ích chúng sinh”. 2. Kinh Dược Sư ghi: “Bồ-tát Văn-thù vì chúng sinh thời Tượng pháp mà thỉnh: bốn chúng đệ tử cầu vãng sinh Tây Phương, nhưng tâm không quyết định thì niệm danh hiệu Dược Sư, liền đoạn trừ được lưới nghi, đến khi sắp chết có tám vị Bồ-tát dẫn dắt vãng sinh”. 3. Kinh A-di-đà ghi: “Chư Phật ở các phương khác đều khen ngợi Đức Phật Thích-ca ở trong cõi Ngũ trược lại nói được pháp khó tin nhận, chư Phật ở sáu phương đều hiện tướng lưỡi rộng dài nói lời chân thật để xác chứng”. 4. Quán Kinh ghi: “Hoàng hậu Vi-đề-hi vì những chúng sinh bị năm ác trược bất thiện, năm nỗi thống khổ bức bách, thỉnh Phật giảng pháp môn Niệm Phật cầu sinh Tịnh độ. Lại nữa, trong ba phẩm thuộc bậc hạ, toàn là những hạng người tạo nghiệp ác, cũng đều được vãng sinh”. 5. Kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Đức Phật Thích-ca vì chúng sinh trong cõi Ngũ trược mà thuyết pháp, giúp chúng sinh xa lìa năm việc xấu ác, trừ năm nỗi thống khổ, diệt năm ngọn lửa đốt thân . Lại, vào đời sau, khi các kinh Phật bị hủy diệt hết, Như Lai vì lòng từ bi thương xót chúng sinh, chỉ lưu truyền một bộ kinh này, lưu trụ lại trăm năm. Bấy giờ, chúng sinh khởi lên một niệm tín thọ liền được vãng sinh về Cực Lạc”.
Hỏi: Các đoạn kinh được trích dẫn chính thật do Phật nói, hoàn toàn không hư dối, nhưng chưa biết đó là pháp môn phương tiện hay là giáo lý rốt ráo? Đáp: Lời ông hỏi rất đúng. Các kinh giáo được viện dẫn đều là pháp môn rốt ráo. Vì sao? Vì nếu là giáo Bất liễu nghĩa thì Phật đã giải thích rõ nơi hội Niết-bàn. Nhưng pháp môn Tịnh độ này đã chẳng còn gì nghi để hỏi nơi Song thọ. Hơn nữa, chư Phật trong mười phương đều đã xác chứng. Căn cứ vào hai nghĩa này, cho nên đây chẳng phải là pháp phương tiện. Trên là trích dẫn sơ lược Thánh giáo để trình bày nhân của giáo thuyết. + Trình bày nghĩa môn: Giải thích sơ lược nghĩa môn, để trừ bỏ mối nghi. Nhất âm diễn xướng thì mỗi mỗi căn cơ liễu ngộ khác nhau. Tuy có muôn ngàn sai khác, nhưng đều được khế ngộ. Bồ-tát Địa Tạng phát nguyện rộng lớn vào cõi ác cứu độ chúng sinh. Đức Phật A-di-đà dùng lòng đại bi chỉ trong mười niệm tiếp dẫn hàm linh. Nếu không cầu vãng sinh Tịnh độ e rằng sẽ rơi vào ba đường ác. Niệm danh hiệu bồ-tát Địa Tạng là mong cầu cứu khổ. Nay khuyên chuyên tâm niệm danh hiệu Phật, phát nguyện vãng sinh Tây Phương, khi mạng sống sắp hết, chư Phật liền đến tiếp dẫn; đã được vãng sinh Tịnh độ, bặt dứt ba đường, không còn nếm chịu các khổ não, không nhọc công cầu xin cứu vớt. Tông chỉ của Tam giai giáo là tùy theo thời cơ mà nói, sau 1.500 năm không có người tu Tịnh nghiệp, giả sử có người tu tập, các hạnh đều thành tựu, đó là hạng Đệ nhị giai chứ chẳng phải là hàng phàm phu thấp kém. Nay xét ý này, thì hành nhân vừa nói chỉ gồm phẩm Thượng và Trung trong ba phẩm. Còn pháp môn Tịnh độ, định tán đều chung, tác nghiệp cạn hay sâu đều được vãng sinh Cực Lạc. Từ hàng xuất gia thanh tịnh hay kẻ tại gia tôn quý ở nơi vắng lặng, tâm trí không loạn, tu tập quán nghiệp, nhất định vãng sinh. Những người chẳng màn vinh hoa, chẳng để tâm đến các việc công tư, chẳng tham việc thế tục, siêng năng học hỏi, tu tập đạo nghiệp, đầy đủ Tán nhân ba phước , nhất định vãng sinh Cực Lạc. Người thiếu thốn của cải, công việc trói buộc, nhưng quyết một lòng tu hành, cũng được vãng sinh. Người đời nay gây tội, cho đến kẻ Nhất-xiển-đề khi mạng sống sắp hết, bị các thứ khổ bức bách, bỗng nhiên gặp được thiện hữu tri thức, hướng dẫn niệm danh hiệu Phật, tướng ác được tiêu trừ, liền vãng sinh Cực Lạc. Bậc thiện căn Đại thừa, từ người suốt đời không tạo lỗi, cho đến bậc Hồi hướng chung tâm , căn cứ vào tác nghiệp cạn hay sâu mà phân làm ba phẩm bậc Thượng. Người căn cơ Tiểu thừa, từ Thiện thú cho đến Thế đệ nhất pháp , chia làm ba phẩm bậc Trung. Hạng thuộc căn cơ Đại thừa hay Tiểu thừa, căn cứ theo lỗi nặng nhẹ, phân làm ba phẩm bậc Hạ. Đây là do tu đạo cạn hay sâu, tạo ác nặng hay nhẹ, nhưng đều phát tâm Bồ-đề, nguyện vãng sinh Tịnh độ, tùy theo nghiệp nhiều ít mà đều được vãng sinh. Không thể chấp lệch một bề, hủy báng nghi ngờ Tịnh nghiệp. Lại nói, thời ác trược ngày nay không thích hợp cho người niệm Phật nguyện cầu vãng sinh Tịnh độ. Lời này thật thiển cận! Kinh Vô Lượng Thọ (Đại bản) ghi: “Khi kinh Phật diệt hết, Đức Phật vì lòng từ bi thương xót chúng sinh, chỉ lưu lại kinh này một trăm năm. Lúc bấy giờ, chúng sinh nghe danh hiệu Phật mà phát khởi niềm tin, đều được vãng sinh Cực Lạc”. Ý muốn nói Như Lai thuyết giáo để làm lợi ích chúng sinh có thời hạn. Sau 10.000 năm mạt pháp, các kinh khác hoàn toàn diệt hết, chỉ có kinh A-di-đà làm lợi ích vô số chúng sinh, cho nên Đức Phật chỉ lưu lại kinh này trăm năm. Bấy giờ đã trải qua 10.000 năm thời mạt pháp, tất cả các kinh đều diệt hết, Đức Phật Thích-ca có ân đức lớn thương xót chúng sinh lưu lại giáo pháp 100 năm. Lúc ấy, người tu liền được vãng sinh Tịnh độ, tại sao còn nghi ngờ mà không phát nguyện vãng sinh? Xét rõ văn kinh này, đủ để trừ bỏ mối lo, chớ ôm giữ kiến chấp trong lòng mà không dung thông được các kinh.
Phần 12
Căn cứ vào luận Nhiếp Đại Thừa để dung thông nghĩa Biệt thời . Luận ghi: “Chỉ cần phát nguyện liền được vãng sinh về cõi An lạc. Đó là nghĩa Biệt thời”.Hỏi: Luận Nhiếp Đại thừa cho đó là Biệt thời. Nay kinh này dạy niệm Phật liền được vãng sinh thì thế nào? Đáp: Nghĩa Biệt thời của Nhiếp Luận và pháp môn Tịnh độ đâu có gì khác nhau. Vì sao? Bởi vì khi phát nguyện chưa thể vãng sinh ngay, nhưng từ tâm phát nguyện mà khởi hạnh niệm Phật mới thành tựu Tịnh nghiệp. Trước nguyện, sau hạnh nên nói là Biệt thời, chứ không phải cho rằng niệm Phật không vãng sinh ngay được.
Phần 13
Dung thông với kinh Pháp Hoa. Kinh ghi: “Nếu người tâm tán loạn đi vào trong tháp miếu, vừa niệm Nam mô Phật, đều đã thành Phật đạo”. Hỏi: Người tâm tán loạn niệm danh hiệu Phật thì chưa thành tựu quả Phật ngay (chỉ mới thành tựu Phật đạo). Còn người một đời niệm danh hiệu Phật, tại sao lại vãng sinh về cõi Tịnh?Đáp: Tâm tán loạn xưng niệm liền thành Phật đạo, bởi Phật đạo là nhân, thật không hư dối. Niệm Phật vãng sinh cõi Tịnh, tức khi báo thân hết sẽ sinh về, cũng đâu có sai?
Phần 14
Trình bày sơ lược về phương pháp tu tập.Hỏi: Đã rõ niệm Phật để làm nhân vãng sinh, nhưng chưa biết phải hiểu như thế nào? Phương pháp chân chánh niệm Phật ra sao?Đáp: Xét từ quá khứ vô biên vô số kiếp, dẫu kẻ có tu nhân thì hư dối nhiều mà chân thật ít, chỉ cầu danh lợi, vọng chấp nhân ngã: Dù họ có làm nhiều thiện duyên cũng không phải vì chánh lý, do đó phải bị trôi lăn trong đường ác, chịu khổ vô cùng. Đức Thánh chủ A-di-đà để lại danh hiệu nhiếp hóa chúng sinh đời sau, Ngài đã thành tựu quả Phật trải qua 10 kiếp. Còn bọn chúng ta ngu si, chỉ biết tham làm điều ác, tuy học Phật pháp mà chỉ cầu danh hiện đời; tự cho mình đúng còn người khác là sai; tâm thường ngạo mạn, tìm cầu cơm áo, ngày đêm nhọc nhằn; nếu có lúc rảnh rỗi thì chạy theo bạn ác. Giả như không gặp được bạn tốt thì làm sao nghe được cõi Tịnh? Một mai vô thường thì rơi trở lại con đường ác. Nay gặp được bậc đại thiện hữu tri thức có duyên với ta, dạy ta tư duy, bỏ những hạnh ác, được nghe bổn nguyện từ bi của Đức Phật A-di-đà, từ mười kiếp đến nay thường hoằng hóa chánh pháp. Bởi ta bị nghiệp chướng nặng nề, nên ngày nay mới được nghe, trong lòng bi thương, vô cùng hổ thẹn, tham sân si sinh khởi dẫy đầy. Nhưng chỉ cần tu theo bốn cách để làm chánh nghiệp: 1. Tu thời gian dài, là từ khi phát tâm cho đến lúc thành Phật, luôn tạo nhân Tịnh độ, không hề thoái chuyển.2. Tu cung kính, ở đây lại có năm trường hợp: - Cung kính những bậc Thánh có duyên: nghĩa là khi đi, đứng, ngồi, nằm không quay lưng về phương Tây; hỷ mũi, khạc nhổ cũng không hướng về phương Tây.- Cung kính tượng và giáo có duyên: tượng là tạo Biến tướng Phật A-di-đà Tây Phương, nếu không vẽ được nhiều thì chỉ cần vẽ một hình Đức Phật và một hình Bồ-tát cũng được. Giáo là như các kinh A-di-đà v.v…, nên đựng trong đãy ngũ sắc, tự mình đọc tụng hoặc hướng dẫn mọi người đọc tụng. Những kinh và tượng này, nên an trí trong thất, sáu thời lễ sám, dâng hoa hương cúng dường, hết lòng cung kính tôn trọng.- Cung kính các bậc thiện hữu tri thức có duyên: nghĩa là những bậc tuyên giảng giáo nghĩa Tịnh độ, dù ở xa ngàn do-tuần , hay dưới 10 do-tuần cũng đều cung kính tôn trọng, thân cận cúng dường. Còn đối với những người tu học pháp môn khác cũng đều khởi tâm cung kính, xem họ không khác với mình, chỉ biết hết lòng kính trọng. Nếu khởi tâm khinh thường thì phạm tội rất nặng. Cho nên, cung kính hết thảy thì trừ được chướng ngại cho công hạnh tu tập.- Cung kính bạn đồng học: nghĩa là cung kính những người cùng tu Tịnh nghiệp với mình. Do nghiệp chướng của mình sâu dày, tự mình tu tập riêng biệt sẽ khó thành tựu, cho nên cần phải nương nhờ vào bạn tốt đồng tu mới có thể thành tựu đạo hạnh. Bạn bè đồng tu học nên cứu giúp những lúc hoạn nạn, phải hết lòng tương trợ, bảo vệ và tôn trọng lẫn nhau.- Cung kính Tam Bảo: Biệt tướng hay Đồng thể Tam Bảo đều phải hết lòng cung kính. Ở đây không ghi chép, vì e người tu hành cạn cợt không thật nương vào đó để tu tập, nên chỉ trình bày sơ lược về Trụ trì Tam Bảo để tạo nhân duyên lớn cho những hạng người ấy! + Phật bảo là những tượng Phật được chạm khắc bằng gỗ chiên-đàn, bằng vàng ròng, ngọc, hay thêu dệt trên lụa, hay tạo bằng đá, đất. Phải hết lòng cung kính những linh tượng này, rồi quán tướng để tiêu tội, tăng phước. Nếu khởi một mảy tâm khinh thường thì tội ác tăng trưởng, mất hết thiện căn, chìm mãi đường ác. Chỉ cần quán tưởng tượng Phật thì tương lai sẽ thấy chân Phật. + Pháp bảo là giáo chỉ Tam thừa của Phật, được lưu thông khắp pháp giới, được danh cú diễn đạt, là duyên phát sinh giải ngộ, cho nên cần phải trân trọng kính ngưỡng. Vì là nền tảng phát khởi trí tuệ, nên sao chép tôn kính, thường bảo quản trong hòm, an trí trong tịnh thất thật trang nghiêm. Mỗi khi đọc tụng, thân tâm phải thanh tịnh. + Tăng bảo là Thánh tăng Bồ-tát, đối với những người phá giới cũng nên bình đẳng khởi tâm cung kính, chớ sinh tâm khinh thường.3. Tu không gián đoạn: nghĩa là thường xuyên niệm Phật, phát tâm cầu vãng sinh, bất cứ lúc nào cũng khéo léo quán tưởng. Giống như có người bị bắt giam, làm kẻ tôi tớ, chịu đủ mọi cay đắng nhọc nhằn, bỗng nhớ đến cha mẹ, muốn trốn về quê cũ, nhưng hành trang chưa đủ, phải ở lại quê người, ngày đêm suy nghĩ, khổ đau tột cùng, không lúc nào không nhớ đến cha mẹ. Đến khi sự việc đã thành, liền được trở về quê, gần gũi cha mẹ, mặc tình vui sướng. Hành giả cũng vậy, trước kia do nhân phiền não làm nhiễu loạn thiện tâm, tài sản phước trí đều tan mất, đắm chìm lâu ngày trong sinh tử, bị phiền não khống chế, không được tự do, thường làm tôi tớ cho Ma vương, dong ruỗi trong sáu đường, đau đớn thân tâm. Nay gặp được duyên lành, chợt nghe được danh hiệu Đức Từ phụ A-di-đà, không trái với nguyện lớn, nguyện cứu vớt quần sinh, nên ngày đêm dốc lòng phát nguyện vãng sinh. Cho nên chuyên cần, không mệt mỏi, biếng trễ, luôn nhớ nghĩ ân Phật, tâm thường giữ chánh niệm đến hết báo thân này.4. Không tu pháp môn khác: nghĩa là chuyên tâm cầu sinh Cực Lạc, lễ bái xưng niệm danh hiệu Đức Phật A-di-đà, không được xen lẫn vào các pháp môn khác, hàng ngày cần phải tu tập như vậy, niệm Phật tụng kinh, không hành các khóa lễ khác.
Dung thông với kinh Pháp Hoa. Kinh ghi: “Nếu người tâm tán loạn đi vào trong tháp miếu, vừa niệm Nam mô Phật, đều đã thành Phật đạo”. Hỏi: Người tâm tán loạn niệm danh hiệu Phật thì chưa thành tựu quả Phật ngay (chỉ mới thành tựu Phật đạo). Còn người một đời niệm danh hiệu Phật, tại sao lại vãng sinh về cõi Tịnh?Đáp: Tâm tán loạn xưng niệm liền thành Phật đạo, bởi Phật đạo là nhân, thật không hư dối. Niệm Phật vãng sinh cõi Tịnh, tức khi báo thân hết sẽ sinh về, cũng đâu có sai?
Phần 14
Trình bày sơ lược về phương pháp tu tập.Hỏi: Đã rõ niệm Phật để làm nhân vãng sinh, nhưng chưa biết phải hiểu như thế nào? Phương pháp chân chánh niệm Phật ra sao?Đáp: Xét từ quá khứ vô biên vô số kiếp, dẫu kẻ có tu nhân thì hư dối nhiều mà chân thật ít, chỉ cầu danh lợi, vọng chấp nhân ngã: Dù họ có làm nhiều thiện duyên cũng không phải vì chánh lý, do đó phải bị trôi lăn trong đường ác, chịu khổ vô cùng. Đức Thánh chủ A-di-đà để lại danh hiệu nhiếp hóa chúng sinh đời sau, Ngài đã thành tựu quả Phật trải qua 10 kiếp. Còn bọn chúng ta ngu si, chỉ biết tham làm điều ác, tuy học Phật pháp mà chỉ cầu danh hiện đời; tự cho mình đúng còn người khác là sai; tâm thường ngạo mạn, tìm cầu cơm áo, ngày đêm nhọc nhằn; nếu có lúc rảnh rỗi thì chạy theo bạn ác. Giả như không gặp được bạn tốt thì làm sao nghe được cõi Tịnh? Một mai vô thường thì rơi trở lại con đường ác. Nay gặp được bậc đại thiện hữu tri thức có duyên với ta, dạy ta tư duy, bỏ những hạnh ác, được nghe bổn nguyện từ bi của Đức Phật A-di-đà, từ mười kiếp đến nay thường hoằng hóa chánh pháp. Bởi ta bị nghiệp chướng nặng nề, nên ngày nay mới được nghe, trong lòng bi thương, vô cùng hổ thẹn, tham sân si sinh khởi dẫy đầy. Nhưng chỉ cần tu theo bốn cách để làm chánh nghiệp: 1. Tu thời gian dài, là từ khi phát tâm cho đến lúc thành Phật, luôn tạo nhân Tịnh độ, không hề thoái chuyển.2. Tu cung kính, ở đây lại có năm trường hợp: - Cung kính những bậc Thánh có duyên: nghĩa là khi đi, đứng, ngồi, nằm không quay lưng về phương Tây; hỷ mũi, khạc nhổ cũng không hướng về phương Tây.- Cung kính tượng và giáo có duyên: tượng là tạo Biến tướng Phật A-di-đà Tây Phương, nếu không vẽ được nhiều thì chỉ cần vẽ một hình Đức Phật và một hình Bồ-tát cũng được. Giáo là như các kinh A-di-đà v.v…, nên đựng trong đãy ngũ sắc, tự mình đọc tụng hoặc hướng dẫn mọi người đọc tụng. Những kinh và tượng này, nên an trí trong thất, sáu thời lễ sám, dâng hoa hương cúng dường, hết lòng cung kính tôn trọng.- Cung kính các bậc thiện hữu tri thức có duyên: nghĩa là những bậc tuyên giảng giáo nghĩa Tịnh độ, dù ở xa ngàn do-tuần , hay dưới 10 do-tuần cũng đều cung kính tôn trọng, thân cận cúng dường. Còn đối với những người tu học pháp môn khác cũng đều khởi tâm cung kính, xem họ không khác với mình, chỉ biết hết lòng kính trọng. Nếu khởi tâm khinh thường thì phạm tội rất nặng. Cho nên, cung kính hết thảy thì trừ được chướng ngại cho công hạnh tu tập.- Cung kính bạn đồng học: nghĩa là cung kính những người cùng tu Tịnh nghiệp với mình. Do nghiệp chướng của mình sâu dày, tự mình tu tập riêng biệt sẽ khó thành tựu, cho nên cần phải nương nhờ vào bạn tốt đồng tu mới có thể thành tựu đạo hạnh. Bạn bè đồng tu học nên cứu giúp những lúc hoạn nạn, phải hết lòng tương trợ, bảo vệ và tôn trọng lẫn nhau.- Cung kính Tam Bảo: Biệt tướng hay Đồng thể Tam Bảo đều phải hết lòng cung kính. Ở đây không ghi chép, vì e người tu hành cạn cợt không thật nương vào đó để tu tập, nên chỉ trình bày sơ lược về Trụ trì Tam Bảo để tạo nhân duyên lớn cho những hạng người ấy! + Phật bảo là những tượng Phật được chạm khắc bằng gỗ chiên-đàn, bằng vàng ròng, ngọc, hay thêu dệt trên lụa, hay tạo bằng đá, đất. Phải hết lòng cung kính những linh tượng này, rồi quán tướng để tiêu tội, tăng phước. Nếu khởi một mảy tâm khinh thường thì tội ác tăng trưởng, mất hết thiện căn, chìm mãi đường ác. Chỉ cần quán tưởng tượng Phật thì tương lai sẽ thấy chân Phật. + Pháp bảo là giáo chỉ Tam thừa của Phật, được lưu thông khắp pháp giới, được danh cú diễn đạt, là duyên phát sinh giải ngộ, cho nên cần phải trân trọng kính ngưỡng. Vì là nền tảng phát khởi trí tuệ, nên sao chép tôn kính, thường bảo quản trong hòm, an trí trong tịnh thất thật trang nghiêm. Mỗi khi đọc tụng, thân tâm phải thanh tịnh. + Tăng bảo là Thánh tăng Bồ-tát, đối với những người phá giới cũng nên bình đẳng khởi tâm cung kính, chớ sinh tâm khinh thường.3. Tu không gián đoạn: nghĩa là thường xuyên niệm Phật, phát tâm cầu vãng sinh, bất cứ lúc nào cũng khéo léo quán tưởng. Giống như có người bị bắt giam, làm kẻ tôi tớ, chịu đủ mọi cay đắng nhọc nhằn, bỗng nhớ đến cha mẹ, muốn trốn về quê cũ, nhưng hành trang chưa đủ, phải ở lại quê người, ngày đêm suy nghĩ, khổ đau tột cùng, không lúc nào không nhớ đến cha mẹ. Đến khi sự việc đã thành, liền được trở về quê, gần gũi cha mẹ, mặc tình vui sướng. Hành giả cũng vậy, trước kia do nhân phiền não làm nhiễu loạn thiện tâm, tài sản phước trí đều tan mất, đắm chìm lâu ngày trong sinh tử, bị phiền não khống chế, không được tự do, thường làm tôi tớ cho Ma vương, dong ruỗi trong sáu đường, đau đớn thân tâm. Nay gặp được duyên lành, chợt nghe được danh hiệu Đức Từ phụ A-di-đà, không trái với nguyện lớn, nguyện cứu vớt quần sinh, nên ngày đêm dốc lòng phát nguyện vãng sinh. Cho nên chuyên cần, không mệt mỏi, biếng trễ, luôn nhớ nghĩ ân Phật, tâm thường giữ chánh niệm đến hết báo thân này.4. Không tu pháp môn khác: nghĩa là chuyên tâm cầu sinh Cực Lạc, lễ bái xưng niệm danh hiệu Đức Phật A-di-đà, không được xen lẫn vào các pháp môn khác, hàng ngày cần phải tu tập như vậy, niệm Phật tụng kinh, không hành các khóa lễ khác.
Được cảm ơn bởi: cocacola, Onedream, mythinh1912
TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ
LỜI BẠT
Đã sinh vào thời Tượng pháp, cách Phật quá xa, Đạo có ba thừa vẫn không sao khế ngộ. Hai cõi trời người, loạn động bất an, chỉ có bậc huệ tâm cao rộng, mới có thể ở lâu trong ấy; còn như kẻ trí cạn hạnh thô, e rằng mãi bị đắm chìm trong cõi tối tăm. Vì thế, thân cần phải lìa xa cõi Ta-bà, tâm gởi vào cảnh Tịnh. Kính xin những bậc cùng tu Tịnh nghiệp, phát khởi thân tâm, nương theo pháp niệm Phật này, nhất định sẽ lìa bỏ được cõi Ta-bà. Mong rằng mọi người chớ để tâm chạy theo danh lợi, luôn canh cánh nỗi sợ vô thường. Cho dù danh tiếng có đuổi kịp Huệ Viễn, Đạo An thì đâu khác nào bóng chớp; đức vượt xa Tăng Triệu, Đạo Sinh cũng giống như Càn thành ? Văn Tam không, Cửu đoạn , lý sâu kín mà ngôn từ lại quá đổi mênh mang; giáo Thập địa, Ngũ tu , nghĩa uyên áo mà lời lẽ vô cùng phức tạp. Chẳng thể với một ít công phu mà phải trải qua nhiều năm tư duy mới thành tựu Tịnh nghiệp, đâu có phần của khoảng sát-na? Niệm chất chứa như cát bụi, mới có thể tuyên dương sự diệu kì trong chín cõi ; tâm thường tạo cảnh mà cảnh hiển bày sự mầu nhiệm của Nhị vô . Nếu thức luyến tà ma, mà muốn làm lớn cái gốc đạt vọng , thì đời người lại quá ngắn ngủi; đợi gieo trồng trí hội chân, thì đường chết nào có hẹn? Chi bằng hãy lắng niệm trì trai mà dứt bỏ nghiệp rộng đa văn, an tâm nơi bến tuệ mà phát khởi pháp tu thiểu học . Thế thì lìa bỏ cõi Ta-bà mà dạo bước nơi Thượng uyển ở Lạc bang. Tâm ở nơi cõi Tịnh, thân nương nơi đài vàng, đồng đạt đạo nơi Đức Từ phụ A-di-đà, thì mối nghi nào không dứt. Cảm được lời dạy của Đức Phật, chứng nhập Vô sinh, lợi ích quá nhiều! Tôi lược nêu những điều thô thiển để mọi người chọn lấy ý hay, hầu gắng sức tiến tu thành tựu Tịnh nghiệp. Xin chớ bỏ qua!
Phụ lục 1:
TIỂU SỬ ĐẠI SƯ KHUY CƠ
Thích Khuy Cơ, tự Hồng Đạo, họ Uất Trì, người Kinh Triệu, Trường An, Trung Quốc. Tổ tiên dòng họ Uất Trì đồng thời với nhà Hậu Ngụy , lúc bấy giờ gọi là bộ lạc Uất Trì. Như các nước chư hầu của Trung Hoa, khi nhập vào nước này thì lấy tên bộ lạc làm họ. Cháu sáu đời của Bình Đông tướng quân tên Thuyết đời Ngụy là Mãnh Đô sinh ra La Ca. La Ca làm Tây Trấn tướng ở Đại Châu đời nhà Tùy, là tổ của Sư. Ông nội Sư húy là Tông, tước Hồng Do huyện Khai quốc công, chức Tả Kim Ngô tướng quân, Tùng châu Đô đốc vào đời nhà Đường. Còn cha của Sư là Ngạc quốc công Kính Đức. Sách Đường Thư ghi: “Mẹ Sư họ Bùi, nằm mộng thấy tay bắt lấy mặt trăng mà nuốt, khi thức dậy biết mình đã có thai. Thế rồi, ngày tháng khai hoa nở nhụy, Sư ra đời, dung mạo vượt xa những đứa trẻ khác. Mới mấy tuổi, Sư đã học tập, tâm trí rất sáng tỏ. Một hôm, đang đi trên đường, ngài Huyền Tráng thấy Sư có vẻ mặt khôi ngô tuấn tú, nhưng hành động lại thô lỗ, mới nói rằng: “Dòng giỏi tướng gia quả thật không sai! Nếu nhân duyên khế hợp độ làm đệ tử thì trong pháp của ta có bậc kỳ tài!”. Nhớ lại khi còn ở Ấn Độ, nghĩ đến lộ trình trở về, Sư đến chỗ Ni-kiền-tử bói được một quẻ rất tốt. Trong quẻ bảo rằng: “Sư cứ nhanh chóng trở về, bởi bậc minh triết nhờ đó mà xuất hiện”. Sau đó, Ngài đến Bắc Môn. Tướng quân tha thiết khuyên cho Khuy Cơ xuất gia. Người cha nói: “Nó tánh tình rất lỗ mãng đâu dễ gì chịu cho Sư dạy dỗ!”. Huyền Tráng nói: “Người có khí độ như thế không phải tướng quân thì không ai sinh ra được, chẳng phải tôi thì không ai có thể biết được”. Tuy người cha đã đồng ý, nhưng Khuy Cơ một mực cự tuyệt, phải cố gắng khuyên nhiều lần mới vâng chịu. Nhưng Khuy Cơ lại khẳng khái bảo rằng: “Chấp nhận cho ba việc thì con mới nguyện xuất gia: không đoạn tình dục, ăn mặn và ăn phi thời”. Ngài Huyền Tráng trước muốn dùng Dục để độ, sau giúp khai mở Phật trí nên giả vờ chấp nhận ba điều kiện trên. Bởi thế, về sau mỗi khi Ngài đi đâu đều chở đầy những vật mà Sư ưa thích. Cho nên, Quan Phố nói: “Hòa thượng Tam Xa”. Đó là vào niên hiệu Trinh Quán 22 (648)”. Có lần, Sư tự trình bày rằng: “Chín tuổi chịu biết bao gian nan, dần dần dứt bỏ trần tục”. Nếu đúng như vậy thì thuyết Tam xa quả là quá hư dối. Năm 17 tuổi Sư xuất gia, đến lúc vào đạo thì vâng chiếu làm đệ tử của ngài Huyền Tráng. Ban đầu Sư ở chùa Quảng Phước, lại vâng theo chiếu chỉ về việc tuyển chọn những bậc thông minh tài giỏi của triều đình, nên Sư đến chùa Từ Ân dốc lòng thờ ngài Huyền Tráng học ngôn ngữ Thiên Trúc, nhằm tháo gỡ những gút mắc, đồng thời tổng hợp và sắp xếp lại văn nghĩa có thứ tự; mọi người nghe thấy, không ai mà không thán phục. Cả trăm kiền-độ Bạt-cừ , một khi Sư đã xem qua thì nhớ kỹ không sai. Năm 25 tuổi, Sư vâng chiếu dịch kinh, giảng thuyết thông suốt hơn ba mươi bộ kinh luận Đại thừa, Tiểu thừa. Sư vừa chuyên tâm vừa sáng tạo, siêng năng trước tác, đồng thời luôn thưa hỏi những điều gần gũi, suy nghĩ những việc thiết thực, chớ không đàm luận những điều viễn vông. Sư sớ giải hơn trăm bộ. Bộ Duy Thức luận của ngài Huyền Tráng dịch, ban đầu Sư cùng với Huyền Phưởng, Gia Thượng và Phổ Quang lãnh nhiệm vụ nhuận sắc, ghi chép, kiểm văn và chứng nghĩa, được vài hôm thì Sư xin thôi. Ngài Huyền Tráng hỏi thì Sư đáp: “Đêm nằm mộng thấy người vàng, sáng đi đến chùa Bạch Mã. Tuy được cặn bã của pháp môn, nhưng lại đánh mất tinh túy giáo pháp, con nguyện không phí công với bản lộn xộn này nữa. Theo con thì nên hợp thành một bản, nhận trách nhiệm thì phải có chỗ quy hướng”. Ngài Huyền Tráng liền đồng ý, dùng những lý lẽ để từ chối ba vị kia, chỉ giao phó riêng cho Sư. Đây chính là ngài Huyền Trang lượng định tài mà giao cho nhiệm vụ. Khi ấy, Sư nhận lãnh trách nhiệm ghi lại điều đã nghe, lúc ngài Huyền Tráng giảng xong thì Sư chú sớ cũng hoàn tất. Không bao lâu sau, pháp sư Viên Trắc ở chùa Tây Minh cũng là bậc tài giỏi thông minh, lập kế dùng vàng đưa cho người canh cửa giảng đường Duy Thức Luận để được ẩn núp lén nghe liên tiếp nhiều buổi, cho nên cũng thông hiểu yếu chỉ của luận. Còn mấy buổi giảng nữa là xong, Viên Trắc bèn đánh kiền-chùy tập họp Tăng để giảng luận này, Khuy Cơ nghe việc này rất hổ thẹn, cho rằng mình kém hơn, nên không dấu được nỗi buồn bã tấm tức trong lòng. Ngài Huyền Tráng khích lệ: “Tuy Viên Trắc làm chú sớ, nhưng chưa đạt được Nhân minh”. Sư bèn giảng luận Trần-na , vì Sư rất giỏi về ba chi Nhân minh nên cứ mặc tình tung hoành lập phá, thuật, nghĩa, mệnh, chương, từ trước đến nay không ai có thể sánh bằng. Sư lại thỉnh thầy giảng luận Du-già cho riêng mình, nhưng lại bị Viên Trắc trộm nghe như trước. Ngài Huyền Tráng nói: “Tông Ngũ tánh chỉ có ông mới thấu triệt, còn người khác thì không”. Sau đó, Sư đến núi Ngũ Đài, leo lên Thái Hành, đến tá túc tại chùa Cổ Phật ở Tây Hà, nằm mộng thấy thân mình nằm ở giữa lưng chừng ngọn núi, nghe tiếng kêu khổ của vô số người ở dưới chân núi, âm thanh vang lên giữa đêm tối mịt mờ nghe thật bất nhẫn. Sư bèn dần dần trèo lên đỉnh núi, thấy toàn màu sắc lưu ly, nhìn rõ các quốc độ. Sư ngước nhìn một tòa thành thì trong thành đó vọng ra tiếng rằng: “Dừng lại! Dừng lại! Ôi, Khuy Cơ chưa thể đến đây được!”. Trong chốc lát, có hai thiên đồng từ trong thành đi ra hỏi: “Sư có thấy những chúng sinh đau khổ ở dưới núi không?”. Đáp: “Tôi chỉ nghe tiếng chứ không thấy hình”. Đồng tử liền ném cho một thanh kiếm và nói: “Mỗ bụng sẽ thấy”. Khuy Cơ tự mỗ bụng mình, trong bụng phát ra hai luồng ánh sáng rực rỡ chiếu xuống dưới núi thì thấy có vô số người đang chịu khổ. Lúc ấy, đồng tử đi vào trong thành mang ra hai cuộn giấy và bút trao cho, Sư tiếp nhận rồi ra đi mà trong lòng vẫn còn bàng hoàng kinh ngạc. Trải qua hai đêm, trong chùa phát ra ánh sáng mãi không tắt. Sư tìm hiểu thì phát hiện ánh sáng phát ra từ mấy cuộn giấy; khi mở cuộn giấy ra có được kinh Di-lặc thượng sinh. Sư liền nhớ lại giấc mộng trước đây: “Chắc ngài Từ Thị sai bảo ta tạo sớ để giải thích nghĩa lý!”. Khi Sư vừa hạ bút thì từ đầu ngọn bút rơi xuống mười bốn viên Xá-lợi, giống như hạt đào đất Ngô, màu hồng trông rất đẹp, kế đến lại rơi ra những hạt Xá-lợi như hạt hoàng lương. Có thuyết cho rằng lúc Sư đến Thái Nguyên truyền pháp, mang theo ba xe. Xe trước chở kinh luận, xe giữa mình ngồi, xe sau chở gia đình, kỷ nữ, tôi tớ và thức ăn. Khi đang đi trên đường, lại gặp một ông già hỏi: “Chở ai vậy?”. Sư đáp: “Gia đình quyến thuộc”. Ông già nói: “Đã biết pháp rất thanh tịnh như vậy mà mang theo gia đình, e rằng không xứng với giáo pháp”. Khuy Cơ nghe lời nói ấy, bỗng nhiên hối hận những điều sai phạm trước đây rồi, bỏ đi một mình. Ông già ấy chính là Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Thuyết này là quá thiển cận, thiếu suy nghĩ. Bởi lúc Sư theo ngài Huyền Tráng tham gia công tác phiên dịch ở cung Ngọc Hoa thì ba xe để ở chỗ nào? Sư giáo hóa khắp nơi, số người được lợi ích rất nhiều. Khi đi về phía Đông, đến Bác Lăng, có người thỉnh giảng kinh Pháp Hoa, Sư bèn tạo Đại sớ. Đến khi trở về bổn tự, thường trao đổi qua lại với những bậc cựu phiên dịch. Rất nhiều lần, Sư đến yết kiến luật sư Đạo Tuyên. Ngài Đạo Tuyên thường có sứ giả của các Thiên vương đến hầu hạ, hoặc thầm báo những việc trong ngày. Có một hôm nọ, Sư từ phương xa đến, ngài Đạo Tuyên lấy làm lạ vì các sứ giả đến rất trễ, bèn hỏi, thì họ thưa rằng: “Vừa rồi có Bồ-tát Đại thừa ở đây, thiện thần theo hầu rất đông. Con dù có thần thông nhưng đều bị bọn họ chế ngự, cho nên đến trễ”. Đến năm Vĩnh Thuần thứ nhất, nhằm năm Nhâm Ngọ, Sư phát bệnh. Vào ngày 13 tháng 11 năm đó, Sư an nhiên nhập diệt tại viện Dịch Kinh chùa Từ Ân, hưởng thọ 51 tuổi, an táng ở thôn Phiền, bên cạnh mộ tháp tam tạng pháp sư Huyền Tráng. Đệ tử vô cùng thương xót. Lễ tang của Sư, ngoài
những đệ tử, còn có rất đông đạo tục. Những trước tác của Sư: Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương, Du-già Luận Lược Toản, Bách Pháp Minh Môn Giải, Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận Sớ, Nhiếp Đại Thừa Luận Sao, Đối Pháp Luận Sao, Thắng Tông Thập Cú Nghĩa Chương, Pháp Hoa Huyền Tán, Di-đà Kinh Thông Tán Sớ, Kim Cương Bát-Nhã Kinh Huyền Ký, Thuyết Vô Cấu Xưng Kinh Tán. Khi còn sinh tiền, Sư là người có chí khí mạnh mẽ, tạo tượng Di-lặc và hàng ngày ở trước tượng tụng một thiên Bồ-tát giới, nguyện sinh Đâu-suất, cảm được tượng phát ra hào quang toàn thân rực rỡ. Sau đó, Sư đến Ngũ Đài sơn tạo tượng Bồ-tát Văn-thù bằng ngọc thạch, đồng thời viết kinh Bát-nhã bằng nhũ vàng, khi hoàn thành cũng có phát thần quang. Những đệ tử kế thừa đều lấy Sư làm chuẩn tắc và xem như ngài Huyền Tráng lúc còn sống. Ngày Quý Dậu, tháng bảy, năm Bính Tuất, nhằm năm Thái Hòa thứ tư, đệ tử dời tháp Sư về Bình Nguyên, sa-môn Lệnh Kiểm ở chùa Đại An Quốc kiểm tra tháp. Khi giở quan tài thấy Sư có bốn mươi chiếc răng, vẫn còn nguyên vẹn giống như ngọc. Mọi người bảo nhau rằng, đó là một trong những tướng hảo của Đức Phật. Ngày nay, tượng Sư thờ trong các chùa đều ghi là “Bách Bổn Sớ Chủ”. Vua Đường Cao Tông (có thuyết cho là Huyền Tông) có làm bài tán. Sư khôi ngô tuấn tú, có chí khí vô cùng mạnh mẽ, với tâm từ bi cứu độ, dạy người không mệt, sau cổ có ngọc chẫm , diện mạo hết sức trác tuyệt, hai bàn tay xếp lại giống như ấn khế. Chữ đầu tên húy của Sư phần lớn không giống nhau. Cho nên, trong truyện Từ Ân ghi: “Vào niên hiệu Long Sóc thứ ba, ở cung Ngọc Hoa, ngài Huyền Tráng dịch kinh Đại Bát-nhã xong. Ngày 22 tháng 11 năm đó sai Đại Thừa Cơ dâng biểu, thỉnh vua đề lời tựa. Ngày mồng 7 tháng 12, Thông sự xá nhân tên Phùng Nghĩa truyền sắc chỉ đọc là Linh Cơ. Trong Khai Nguyên Lục gọi là Khuy Cơ, hoặc Thừa Cơ là sai. Ngày nay, trong nước đều gọi Sư là Từ Ân pháp sư. Bài hệ ghi: “Nghĩa môn Tánh tướng đến đời Đường mới thấy hoàn bị. Tráng sư là Tổ, khai sáng Du-già Duy Thức, Khuy Cơ là Tông, theo văn trước thuật. Tổ và Tông trăm đời mãi mãi được kính thờ, bởi công đức lợi vật vô cùng rộng lớn. Nếu ngài Huyền Tráng mà không có Khuy Cơ thì làm sao phát triển lâu dài được cái học ấy và khai mở được mắt cho người trong thiên hạ? Công lao to lớn của hai Sư đã đi vào bất hủ. Vậy thì, Sư là con của Ngạc Công, đệ tử của Huyền Tráng. Đó gọi là con nhà tướng đến làm pháp tướng, ngàn năm chỉ có một người mà thôi! Cho nên, Kinh Thư có câu: “Cha cày con chịu gieo thì mới thu hoạch được”. Bách Bổn Sớ Chủ là như vậy đó!”.
Phụ lục 2
LÀM RÕ MỐI NGHI VỀ CHÂN TẠO NGỤY TẠO
SÁCH TÂY PHƯƠNG YẾU QUYẾT THÍCH NGHI
THÔNG QUY
Lưu Học Truyền Pháp Tướng Tông Sa-môn Thích Cơ Biện, tại chùa Dược Sư ở Nam Đô biên soạn.
Nay để bàn về thật và giả của người soạn cuốn sách này, ta chia ra ba phần: - Nêu điều nghi của người xưa.
- Nêu nhận định của người nay.
- Chính thức phán định. I. Nêu điều nghi của người xưa Có ba chủ trương: 1. Ngày xưa, có vị Tăng đô Tế Tiêm ở chùa Nhân Hòa tại vùng Nam Nhạc đã đưa ra năm mối nghi đối với sách này: - Sách này phán định sự khó dễ vãng sinh hoàn toàn trái với Thượng Sinh Kinh Sớ . Trong Sớ ghi: “Thiên cung có mười việc dễ sinh, Tịnh độ có bảy việc khó sinh”. Hơn nữa, trong phần Khuyến Nội Viện cũng có ghi: “Kẻ hạnh nghiệp cạn cợt nguyện sinh Tây Phương, lỡ không được, e rằng thành sai lầm. Thế nên, hành giả phải tu pháp môn này”. Chỉ một người giải thích, sao mà mâu thuẫn đến như vậy? Nên biết sách này không phải Khuy Cơ trước tác. - Trong sách này có nói về Bản giác viên minh, nên hoàn toàn trái với nghĩa Thỉ giác Bồ-đề. - Có nói về Đồng quy nhất thật nên không giống với yếu chỉ Ba thừa chân thật. - Phán định Đâu-suất có lui sụt thì phải giống với Sớ của chính tác giả soạn. Nhưng Sớ ghi: “Nếu sinh Ngoại viện, tuy bậc hạ hạ phẩm, nhưng mai sau cũng trở thành bất thoái”. Nay sao lại trái ngược như thế? - Định có và không về sự đến nghinh đón thì hoàn toàn trái với kinh Thượng Sinh. Kinh ghi: “Bấy giờ, Bồ-tát Di-lặc phóng ánh sáng lông trắng giữa chặng mày đến đón rước người này”. Nay nói không tiếp dẫn há chẳng phải hoàn toàn trái ngược sao? Vì có những sự trái ngược này nên nhất định không phải do Khuy Cơ sáng tác. 2. Gần đây có người nghi rằng: “Phàm phu được vãng sinh” là trích dẫn Cựu dịch chứ không theo Tân dịch, cho nên sinh nghi. 3. Trong đây nói: “Có ba thân không khác” thì không giống với thuyết của tông Pháp Tướng.
Giải thích nghi thứ năm: Đức Di-lặc không có bản nguyện, nên cảnh đến tiếp rước cũng ít có. Vì quá ít cho nên cũng xem như không. Giải thích mối nghi: “Chủ trương kia nói Hóa thân và quốc độ có ba: 1. Chỉ có Báo thân; 2. Chỉ có Biến hóa thân; 3. Chung cả Báo-Hóa”. Vì sao người cứ chấp chặt một phía? Nếu chấp chỉ có Báo thân thì chỉ là tự lực niệm Phật. Phàm căn cơ được sức bổn nguyện hộ trì thì bao gồm tất cả giai vị, năm thừa đều nhập. Thế nhưng, những căn cơ thuộc về bổn nguyện thâu nhiếp thì trong Duy Thức không hề phán định và cũng không thuộc về Tánh, Tướng. Huống gì là trong văn ghi: “Sinh vào Hóa độ thấy Hóa Phật”. Sao mà tối thế? Lại chỉ dẫn Cựu dịch là để gạn hỏi về tông nghĩa của các bản giải thích Quán Kinh… Giải thích mối nghi: “Ba thân không khác”: “Ở đây chẳng phải nói tương tức mà chỉ nói nhiếp tướng trở về tánh mà thôi”. Huyền Tán ghi: “Ứng thân và Hóa thân chẳng phải chân Phật, cũng chẳng phải là người thuyết pháp. Đó là quy công đức về bản thể, chính là Pháp thân”.
Về Tăng đô Nam Nhạc, thứ nhất là nghi về sự khó dễ của vãng sinh Đâu-suất và Tây Phương. Gần đây, các sư giải thích là tùy theo căn cơ bất đồng của chúng sinh nên Đức Phật diễn giáo cũng sai biệt. Nay phân tích rằng: Giải thích trên, về lý thì đúng như vậy, nhưng ý thú vẫn chưa rõ ràng, lại còn dẫn Truyền Đăng Lục của Vĩnh Siêu chùa Hưng Phước, rồi cho rằng Thông Tán là ngụy tạo. Bởi thế, người học vùng Nam Kinh cho rằng Thông Tán không phải là chính. Nhưng Tây Phương Yếu Quyết này, trong Vĩnh Siêu Lục cho là pháp sư Cơ soạn, Chú Tấn Lục của Tạng Tuấn cũng nói như vậy. Nhưng từ xưa tới nay, môn đồ chùa Hưng Phước hàng ngày chuyên đọc tụng sáu bộ kinh, mười một bộ luận và những sớ giải mà ngài Khuy Cơ đã biên soạn, trong đó có Tây Phương Yếu Quyết, nhưng không có Thông Tán Sớ. Do đó, nên biết rằng Yếu quyết này là do ngài Khuy Cơ biên soạn chứ không phải ngụy tạo. Gần đây, dùng Thông Tán để nói chung là quá sai lầm vậy. Nay nêu ra văn để chứng minh, dùng nghĩa “tùy cơ” để phán định về người được vãng sinh Đâu-suất trong Thượng Sinh Kinh Sớ. Sớ chủ giải thích, nêu lên ba hạng người: 1. Bồ-tát hành pháp không nhàm chán sinh tử, chịu khổ trong sinh tử làm lợi lạc, nên muốn sinh lên cõi trời, cần phải gá vào cảnh Sở y thù thắng để tu tập diệu hạnh. Cho nên, tất cả nơi thọ sinh đều tôn quý. Vì nơi thấp kém thì tự thể thực hành không toàn vẹn, vì sinh thiên được thấy Đức Phật Từ Thị, cho nên không giống với Nhị thừa nhàm chán khổ sinh tử, sợ cõi trời buông lung không thích vãnh sinh về. 2. Người tôn kính tâm vô thượng Bồ-đề thích tu thắng hạnh, cầu đại Bồ-đề, được ở trước đức Di-lặc nghe đại pháp. Còn kẻ không thích Đại thừa chỉ mong cầu quả nhỏ, tùy theo chỗ thọ sinh mà vui với Niết-bàn. 3. Người muốn làm đệ tử của ngài Di-lặc là nguyện ở trong cõi ác làm việc thiện lợi ích cho các hữu tình khổ đau. Chỉ mong cứu giúp, không nguyện sinh về Tịnh độ làm đệ tử của Phật khác, vì ở nơi kia không có hữu tình khổ đau để thực hành hạnh cứu độ, không có khổ để nhàm chán, nên tâm ưa thích cầu sinh không sâu. Do đó, nên biết vãng sinh Đâu-suất chỉ có căn cơ hàng Bồ-tát, vì họ có đủ khả năng, còn căn cơ của hàng nhị thừa Thanh văn và Duyên giác thì không được. Nội viện Đâu-suất có Đức Từ Tôn thuyết pháp cho chúng hội là hàng thiên tử, không nói cho chúng Thanh văn nghe. Tây Phương Tịnh độ thì không như vậy. Kinh A-di-đà ghi: “Lại nữa, Xá-lợi-phất, Đức Phật kia có vô lượng vô biên chúng đệ tử Thanh văn đều đắc quả A-la-hán, không thể dùng toán số để tính đếm được. Các chúng Bồ-tát cũng như vậy”. Trong Quán Kinh nói: “Ba phẩm trung vãng sinh được lợi ích, vì chứng quả A-la-hán, Tu-đà-hoàn”. Lại, kinh Vô Lượng Thọ nói: “Nếu trong trăm ngàn kiếp cùng tính đếm biết được số lượng Thanh văn, Duyên giác thì ta không nguyện thành Chánh Giác”. Do đó, nên biết vãng sinh Tây Phương đều dành cho tất cả mọi căn cơ. Vì sao? Vì tâm nhàm chán xa lìa cõi uế chính là tâm Nhị thừa. Tâm không nhàm chán xa lìa cõi uế cùng tột thì không thể nói: “Hết lòng tin ưa muốn sinh về nước ta. Ý ưa thích phải tăng trưởng, nếu ý ưa thích mà không tăng trưởng tột cùng thì chẳng phải chân thật nương vào nguyện lực Phật. Tâm nhàm chán xa lìa của Nhị thừa tuy là thấp kém, nhưng từ tâm thấp kém đó lại phát khởi chí tâm tin ưa, nương bổn nguyện Phật, thế là tâm thấp kém chuyển thành rộng lớn. Nếu nhân chuyển biến này giảm thì cần phải ra sức chuyển. Vả lại, nếu tâm vãng sinh Đâu-suất nhàm chán, khổ, thô, chướng của hạ địa thì sinh thẳng lên cõi trên, không thể sinh vào cõi trời Đâu-suất làm đệ tử của ngài Di-lặc. Cho nên Kinh nói: “Không cầu đoạn kết hoặc, tu mười thiện pháp, không nhàm chán sinh tử thích sinh lên cõi trời”, Sớ giải thích là chớ thực hành Sáu quán hạnh. Nên biết căn cơ thích hợp để vãng sinh Đâu-suất chỉ có hàng Bồ-tát. Lại nói việc vãng sinh khó và dễ cũng là đối với căn cơ bất đồng mà luận. Thực hành sáu Sự pháp trong Thượng Sinh Sớ là thuộc Thượng phẩm hạnh sinh. Sớ chủ giải thích ý kinh nói về sáu Sự pháp như sau: 1. Siêng năng tu tập hạnh nghiệp trong ruộng phước kính, ân và bi. 2. Đầy đủ oai nghi, giữ vững các giới hạnh và sống trong phép tắc. 3. Quét tháp, trang nghiêm đạo tràng và
tu sửa linh tháp. 4. Hoa hương cúng Phật, tứ sự cúng dường trai tăng. 5. Phàm phu thực hành Tam-muội văn, tư; Thánh nhân nhập chánh định, tùy theo từng địa vị mà đắc được quả thiền, hoặc phàm phu đã thực hành Tam-muội mà chẳng phải sáu hành định. Sáu Hành định thì chắc chắn sinh lên cõi trên, nên trụ sâu trong văn và tư cũng gọi là Tam-muội. 6. Đọc tụng kinh điển, diễn thuyết, tu tập và thực hành mười pháp thiện. Vả lại, khi nêu lên các hạnh thù thắng dễ tu bậc nhất thì có sáu việc này, trong đó mỗi mỗi đều thâu nhiếp các hạnh nghiệp. Nếu tu tập đầy đủ sáu hạnh, hoặc có thể tu tập năm hạnh thì Thượng phẩm thượng sinh; nếu tu tập ba, bốn hạnh thì Thượng phẩm trung sinh; nếu tu một hai phẩm thì Thượng phẩm hạ sinh. Tiếp theo, ba phẩm trung là bốn chúng, tám bộ không phạm giới cũng không tạo tội ác. Người nhẹ nhất, khi nghe đến danh hiệu thì tâm hoan hỷ, miệng nói lời cung kính và thân lễ bái. Nếu đầy đủ ba nghiệp nầy là Trung phẩm thượng sinh, chỉ đủ hai nghiệp thì Trung phẩm trung sinh, chỉ có một nghiệp thì Trung phẩm hạ sinh. Tiếp theo, ba phẩm hạ, tuy có mười hạnh nhưng gom thành sáu hạnh: sám hối, tạo tượng, cúng dường, lễ bái, buộc niệm, xưng danh hiệu. Có đầy đủ sáu hạnh trên đây là Hạ phẩm thượng sinh, chỉ có bốn hạnh đầu là Hạ phẩm trung sinh, chỉ có ba hạnh đầu là Hạ phẩm hạ sinh; hoặc trong sáu hạnh này tùy theo mỗi một hạnh phát nguyện thấy Đức Từ Thị, hoặc sinh Ngoại viện được bất thối cũng đều thuộc hạ phẩm hạ sinh. Thậm chí, nếu không phát nguyện, cho dù không sinh lên cõi trời đó thì người nầy sẽ được giải thoát trong Tam hội , như Thượng Sinh Kinh Sớ đã nói. Những hạnh như vậy, theo Quán Kinh nói: “Người tạo tội ác, đến khi lâm chung nhờ vào năng lực của bạn tốt nên chí tâm lắng nghe, đầy đủ mười niệm không gián đoạn thì tội liền diệt, được vãng sinh thấy Phật”. Vậy thì biết rằng chín phẩm ở Đâu-suất cũng đều rất khó thực hành. Tuy nhiên, mỗi mỗi hạnh đều là những hành động của tâm tán loạn trong đời sống thường nhật. Nếu nhìn từ mặt lâm chung rất khó phát khởi chí tâm tin ưa thì những hạnh ấy vẫn còn dễ. Vả lại, vãng sinh Tây Phương, tuy chí tâm tin ưa khó phát khởi, nhưng đối với những hạng người có tâm nhàm chán cõi uế tăng trưởng mạnh thì chí tâm tin ưa cũng tăng trưởng mạnh. Do đó, chỉ mười lần xưng danh hiệu liền được vãng sinh, cho nên vãng sinh Cực Lạc dễ. Vả lại, hàng căn cơ Bồ-tát sinh thiên thực hành hạnh lợi lạc, nếu sinh về Cực Lạc Tây Phương là nơi đã an lạc rồi, thì không thể thực hành hạnh nầy được. Cho dù trở lại cõi uế cứu độ trời người, nếu chẳng phải là hàng Thượng phẩm thượng sinh thì không thể mau chóng thực hành hạnh cứu độ. Còn những hạng căn cơ khác, sau khi vãng sinh, trải qua nhiều kiếp chứng được Hoan hỉ địa rồi mới nên làm Phật sự. Do đó, đối với căn cơ Bồ-tát khó thực hành, mới cho vãng sinh Đâu-suất là dễ thì đâu trái với ý tâm ưa thích. Cho nên biết rằng, Thượng sinh sớ nói dễ là chỉ cho căn cơ Bồ-tát. Nay, bộ Yếu quyết này đối với căn cơ ở trong cõi uế mà nói Tây Phương dễ vãng sinh thì ở trên mặt lý hoàn toàn không trái. Vả lại, trong Thượng Sinh Sớ, khi luận về vãng sinh khó và dễ có nói rằng: “Tây Phương có bảy việc khó vãng sinh, Đâu-suất có mười việc dễ vãng sinh”. Ở đây chỉ khuyến khích riêng căn cơ Bồ-tát chứ không dành cho tất cả mọi căn cơ. Cho nên, văn sớ kết luận: “Ở trong cõi uế tu tập hạnh thanh tịnh là chính hạnh của bậc Thánh, còn ở quốc độ nghiêm tịnh thì chẳng phải là chỗ giáo hóa của bậc Đại sĩ…”. Lại nói: “Hạnh nghiệp cạn cợt thì chẳng may không vãng sinh”. Đúng vậy, nếu thiếu chí tâm tin ưa thì có thể không được vãng sinh. Qua những văn trích dẫn trên thì chẳng nên nghi ngờ. Pháp sư Khuy Cơ ở chùa Đại Từ Ân chính là Bồ-tát Đại thừa, vì muốn những hạng căn cơ kia được lợi ích nên soạn ra hai cuốn sách này. Chúng ta cần phải nhìn một cách toàn diện vấn đề trên thì không còn nghi ngờ. Như Duy thức sớ dùng Duy Thức nói về Trung đạo. Pháp sớ thì dùng uẩn, xứ và giới của Đại thừa nói về Trung đạo; Tâm Kinh U tán dùng “không” nói về Trung đạo. Bởi thuyết giáo là tùy theo căn cơ, tuy có khác nhau giúp cho người ngộ nhập, nhưng tánh lìa ngôn ngữ thì đồng một vị mặn của biển, hoàn toàn không sai khác. Về câu “Bản giác viên minh”, theo giải thích gần đây thì có hai nghĩa: 1. Nói Thanh tịnh pháp giới là “bản giác”. Điều này không hợp, vì câu trên ghi: “Chân như thể tịnh là thanh tịnh pháp giới” mà lại cho là “bản giác”, e rằng mắc lỗi ngôn ngữ trùng lặp. Dẫu giải thích rằng: “Chân như thể tịnh là bản tịnh Niết-bàn” vốn tròn sáng (viên minh), là pháp giới chân thật thanh tịnh, sở chứng của Đức Phật, là sở y của thân Thọ dụng biến hóa bình đẳng. Như thế cũng không hợp đạo lý. Nói “viên minh” là dùng “xa lìa hý luận” giải thích; nếu lý kia chưa rõ thì bản giác Niết-bàn cũng chỉ là hý luận mà thôi! Đây cũng có lỗi trùng lặp ngôn ngữ, cho nên cách giải thích thứ nhất khó chấp nhận được. Tiếp theo, dùng nghĩa “Chủng tử vô lậu vốn có” để giải thích. Điều này đúng, tuy nhiên ý nghĩa chưa rõ. Nay giải thích “bản” là bản hữu, “giác” là chánh trí, dùng Tứ trí tâm phẩm làm thể. Duy thức luận, quyển 10 nói Tứ trí tâm phẩm là bản hữu năng sinh, chủng tử là sở sinh đắc. Nay gọi Tứ trí là Bản giác, Tứ trí viên minh chính là quả Phật hiển hiện. Câu trước gọi Tịnh pháp giới là Chân như thể tịnh. Câu tiếp theo, gọi Tứ trí hiện là Bản giác viên minh. Như trong Đối Pháp Sao Quy Kính Tụng ghi: “Cúi lạy Bản tánh vắng lặng viên minh”, viên minh là nêu Tứ trí, bản tánh vắng lặng là nói đến Tịnh pháp giới. Nếu lìa Tịnh pháp giới và Tứ trí tâm phẩm thì quả Phật không hiển hiện. Điều này nói đầy đủ trong luận Phật Địa. Về Đồng quy nhất thật, những nhà giải thích gần đây cho rằng Nhất thừa là Nhất thật. Đây chẳng phải ý chỉ của tông ta. Tông ta cho rằng Nhất thật nghĩa là Phế thuyên đàm chỉ . Nhất thật như chính là tên gọi của pháp giới thanh tịnh. Bộ Liễu nghĩa đăng v.v… cho rằng Giáo thể nhất chân như bình đẳng được Như Lai trình bày giống với ý này. Lại nữa, nghi về sự lui sụt và không lui sụt ở cõi Đô-sử (còn gọi là Đâu-suất-đà), các nhà giải thích gần đây căn cứ vào việc phần nhiều có lui sụt, (ở ngoại viện) tuy có lý, mà chưa rõ, nay sẽ giải thích thêm. Thượng Sinh Sớ ghi: “Nếu sinh về chúng ngoại viện, tuy thuộc về phẩm hạ của bậc hạ, nhưng tự nhiên tu tập một thời gian sau lại thành không lui sụt. Có Phật hiệu là Di-lặc, khéo tự tăng trưởng v.v…”. Trong đọan văn này ghi: “…Thời gian sau lại thành …”, như vậy là minh chứng rõ ràng có lui sụt! Nếu trước đã không lui sụt, tại sao lại nói “thời gian sau lại thành”? Dùng chữ “lại” là muốn nói rõ tuy có lui sụt, nhưng nhờ sức gia bị của Đức Từ Thị nên lại được không lui sụt. Chữ “thành” có nghĩa là “đạt được”. Lại nữa, sau khi được vãng sinh Tây Phương Tịnh độ, hành giả hoàn toàn không lui sụt. So sánh điểm khác biệt này, Yếu quyết ghi: “Cõi Đâu-suất có lui sụt, Tây Phương không lui sụt”. Huống gì nói “phần nhiều lui sụt”. Hai đoạn văn hoàn toàn không trái nhau. Nghi về việc lai nghinh hay không. Những nhà giải thích gần đây lấy việc hơn kém để biện luận là không thích đáng, nay sẽ giải thích rõ. Trong kinh Di-lặc Thượng Sinh ghi: “Ba tướng hành sinh” chung và riêng rất khó phân biệt, cho nên Sớ chủ chia ra chín phẩm để trình bày hành sinh riêng. Trong đó, chỉ có hàng Hạ phẩm thượng sinh nói có tướng lai nghinh của Đức Từ Thị, nhưng tám phẩm còn lại đều không hề nói đến. Tướng lai nghinh ở Tây Phương Tịnh độ, tuy Trung phẩm hạ sinh không nói tiếp dẫn, nhưng tám phẩm còn lại đều nói đến. Hạ phẩm hạ sinh nói thấy “hoa sen vàng”, đó cũng là tướng đến tiếp dẫn. Nay, Yếu quyết này căn cứ theo ý nghĩa phần nhiều trong chín phẩm vãng sinh đều nói đến lai nghinh mà cho rằng: Nếu sinh về Tịnh độ ắt có Thánh chúng đến tiếp dẫn. Lại căn cứ sáu phẩm thượng, trung và hạ phẩm hạ sinh, người sinh về Ngoại viện không có tướng lai nghinh thì cho rằng: nếu sau khi chết sinh về cõi trời thì không có người đến tiếp dẫn, bởi vì ít là đồng nghĩa với không có. 2. Phán định về mối nghi thứ hai: nghi sách này chấp nhận phàm phu vãng sinh và dẫn chứng Cựu dịch, mà không dẫn chứng Tân dịch. Những nhà giải thích gần đây cho là nhờ sức bản nguyện mà năm thừa đều được vào. Cho nên nghĩa phàm phu vãng sinh vào Báo độ thuộc về bản nguyện. Điều này, tông Duy Thức không hề phán định và cũng không thuộc về Tánh, Tướng. Lại nữa, trong sách này nói: “Sinh Hóa độ thấy Hóa Phật”, cho nên nêu lên ba nghĩa trong tông của ta để hội thông nghĩa Báo độ và Hóa độ rồi nói rằng: Người nghi sao tối thế? Nay trình bày: Hội thích này chưa được rõ ràng, tông của ta phán định Báo độ và Hóa độ ở cõi An Dưỡng có ba trường hợp: 1. Chỉ có Báo độ; 2. Chỉ có Hóa độ; 3. Cả Báo độ và Hóa độ. Thượng nhân Hải Trụ Sơn phán định theo trường hợp thứ ba là đúng. Đến nay, những người theo tông Pháp tướng ở Nam Kinh đều chấp nhận nghĩa này. Nay chọn những điểm chính để luận bàn, nếu cho rằng chỉ có Báo độ, không có Báo và Hóa độ thì chỉ có hàng Bồ-tát Địa thượng chứng được, còn hàng phàm phu không thể đạt đến. Điều này Thánh giáo ghi: “Nếu phàm phu nương nhờ nguyện lực cho là tự sinh, khi vừa sinh Báo độ liền thấy Báo thân Phật, thì sự thị hiện Hóa thân và Hóa độ của Đức Phật A-di-đà hoàn toàn vô dụng. Nếu Hóa thân và Hóa độ vô dụng là bản nguyện của đức Phật này thì lẽ ra không có Phật với ba thân viên mãn”. Do đó, nghĩa “duy báo” (chỉ có báo) không thành. Lại nữa, nếu cho rằng chỉ có Hóa thân, Hóa độ mà không có Báo thân, Báo độ thì các đức Phật khác cũng khiến cho phàm phu sinh về Hóa độ. Như thế có gì khác biệt để tôn xưng nguyện lực của đức Phật A-di-đà là Siêu thế biệt nguyện ? Do đó, nghĩa “duy hóa” (chỉ có hóa) cũng không được thành lập. Nói chung, cả Báo, Hóa đều đúng. Thế nào là nói chung? Đó là vì Hóa độ có hai trường hợp là Trường thời biến và Tạm thời biến. Tây Phương Tịnh độ gồm cả Hóa độ là Trường thời biến, tức do Báo độ hiện hóa, cho nên lìa Báo độ ắt không có Hóa độ. Đây cũng là đáp lại năng lực bản nguyện mà Trường thời hóa. Nếu nói theo tánh thì hóa tức Báo độ, điều này thù thắng hơn các Đức Phật khác, cho nên mới nói “Siêu thế biệt nguyện” vậy! Nhưng Yếu quyết này cho rằng: “Sinh Hóa độ thấy Hóa Phật”. Lại cho rằng: “Hành giả cầu thấy Hóa thân, liền cảm được đức Hóa chủ A-di-đà rủ lòng đến tiếp dẫn”. Đó là căn cứ vào ba phẩm hạ mà nói. Lời này có nghĩa là Đức Phật liền sai Hóa Phật, Hóa Bồ-tát Quán Thế Âm, Hóa Bồ-tát Thế Chí đến trước mặt hành giả. Cho nên các luận Duy Thức, luận Phật Địa v.v… cho rằng: “Biến hóa thân nương vào Biến hóa độ”. Do đó, nếu lìa quốc độ mà có thân, là hoàn toàn không thể được! Nay căn cứ phần đắc ích của ba phẩm hạ mà cho rằng: “Sinh Hóa độ được thấy Hóa Phật v.v…”. Về điều này tuy về cảnh thì đáp lại nguyện của Hóa Phật, không giống với các Đức Phật khác, nhưng lý không trái nhau. Hỏi: Nếu như thế thì tại sao Yếu quyết này cho rằng đức Hóa chủ tiếp dẫn, được Vô sinh nhẫn? Đáp: Vô sinh nhẫn là phần đắc ích của ba phẩm thượng.
Đáp: Cách thức trình bày trong Sớ chương của đại sư Khuy Cơ rất phong phú. Những tác phẩm được Ngài đích thân hiệu đính có cách thức trình bày giống nhau như Duy Thức Tam Thập Tụng Sớ, Duy Thức Nhị Thập Tụng Sớ, Duy Thức Nghĩa Lâm Chương v.v…; hoặc những bản chưa hiệu đính như Đối Pháp Sao Lục về sau; hoặc Sư chỉ đàm luận rồi đệ tử ghi chép lại như Thắng Man Kinh Sớ v.v… Sách này e rằng cũng do đệ tử ghi chép lại những văn nghĩa được Sư giảng thuyết, ắt hẳn đã được hiệu đính rồi! Do đó, không nên nghi ngờ cách thức trình bày trong chương sớ! Những lời bàn luận trên nhất định có điều sai sót, nhưng vì muốn sinh khởi thắng giải, nhàm chán cõi uế, ưa thích cõi tịnh, cho nên không ngại trí hiểu biết nông cạn, cố gắng cho hoàn thành tác phẩm.
Bài trên có thể tải về tại đây:
Tây Phương Yếu Quyết
-Word file: http://www.mediafire.com/?74jregmg1fbwwpr" target="_blank
-PDF file: http://www.mediafire.com/?2vxysm5rpj2s758" target="_blank
Đã sinh vào thời Tượng pháp, cách Phật quá xa, Đạo có ba thừa vẫn không sao khế ngộ. Hai cõi trời người, loạn động bất an, chỉ có bậc huệ tâm cao rộng, mới có thể ở lâu trong ấy; còn như kẻ trí cạn hạnh thô, e rằng mãi bị đắm chìm trong cõi tối tăm. Vì thế, thân cần phải lìa xa cõi Ta-bà, tâm gởi vào cảnh Tịnh. Kính xin những bậc cùng tu Tịnh nghiệp, phát khởi thân tâm, nương theo pháp niệm Phật này, nhất định sẽ lìa bỏ được cõi Ta-bà. Mong rằng mọi người chớ để tâm chạy theo danh lợi, luôn canh cánh nỗi sợ vô thường. Cho dù danh tiếng có đuổi kịp Huệ Viễn, Đạo An thì đâu khác nào bóng chớp; đức vượt xa Tăng Triệu, Đạo Sinh cũng giống như Càn thành ? Văn Tam không, Cửu đoạn , lý sâu kín mà ngôn từ lại quá đổi mênh mang; giáo Thập địa, Ngũ tu , nghĩa uyên áo mà lời lẽ vô cùng phức tạp. Chẳng thể với một ít công phu mà phải trải qua nhiều năm tư duy mới thành tựu Tịnh nghiệp, đâu có phần của khoảng sát-na? Niệm chất chứa như cát bụi, mới có thể tuyên dương sự diệu kì trong chín cõi ; tâm thường tạo cảnh mà cảnh hiển bày sự mầu nhiệm của Nhị vô . Nếu thức luyến tà ma, mà muốn làm lớn cái gốc đạt vọng , thì đời người lại quá ngắn ngủi; đợi gieo trồng trí hội chân, thì đường chết nào có hẹn? Chi bằng hãy lắng niệm trì trai mà dứt bỏ nghiệp rộng đa văn, an tâm nơi bến tuệ mà phát khởi pháp tu thiểu học . Thế thì lìa bỏ cõi Ta-bà mà dạo bước nơi Thượng uyển ở Lạc bang. Tâm ở nơi cõi Tịnh, thân nương nơi đài vàng, đồng đạt đạo nơi Đức Từ phụ A-di-đà, thì mối nghi nào không dứt. Cảm được lời dạy của Đức Phật, chứng nhập Vô sinh, lợi ích quá nhiều! Tôi lược nêu những điều thô thiển để mọi người chọn lấy ý hay, hầu gắng sức tiến tu thành tựu Tịnh nghiệp. Xin chớ bỏ qua!
Phụ lục 1:
TIỂU SỬ ĐẠI SƯ KHUY CƠ
Thích Khuy Cơ, tự Hồng Đạo, họ Uất Trì, người Kinh Triệu, Trường An, Trung Quốc. Tổ tiên dòng họ Uất Trì đồng thời với nhà Hậu Ngụy , lúc bấy giờ gọi là bộ lạc Uất Trì. Như các nước chư hầu của Trung Hoa, khi nhập vào nước này thì lấy tên bộ lạc làm họ. Cháu sáu đời của Bình Đông tướng quân tên Thuyết đời Ngụy là Mãnh Đô sinh ra La Ca. La Ca làm Tây Trấn tướng ở Đại Châu đời nhà Tùy, là tổ của Sư. Ông nội Sư húy là Tông, tước Hồng Do huyện Khai quốc công, chức Tả Kim Ngô tướng quân, Tùng châu Đô đốc vào đời nhà Đường. Còn cha của Sư là Ngạc quốc công Kính Đức. Sách Đường Thư ghi: “Mẹ Sư họ Bùi, nằm mộng thấy tay bắt lấy mặt trăng mà nuốt, khi thức dậy biết mình đã có thai. Thế rồi, ngày tháng khai hoa nở nhụy, Sư ra đời, dung mạo vượt xa những đứa trẻ khác. Mới mấy tuổi, Sư đã học tập, tâm trí rất sáng tỏ. Một hôm, đang đi trên đường, ngài Huyền Tráng thấy Sư có vẻ mặt khôi ngô tuấn tú, nhưng hành động lại thô lỗ, mới nói rằng: “Dòng giỏi tướng gia quả thật không sai! Nếu nhân duyên khế hợp độ làm đệ tử thì trong pháp của ta có bậc kỳ tài!”. Nhớ lại khi còn ở Ấn Độ, nghĩ đến lộ trình trở về, Sư đến chỗ Ni-kiền-tử bói được một quẻ rất tốt. Trong quẻ bảo rằng: “Sư cứ nhanh chóng trở về, bởi bậc minh triết nhờ đó mà xuất hiện”. Sau đó, Ngài đến Bắc Môn. Tướng quân tha thiết khuyên cho Khuy Cơ xuất gia. Người cha nói: “Nó tánh tình rất lỗ mãng đâu dễ gì chịu cho Sư dạy dỗ!”. Huyền Tráng nói: “Người có khí độ như thế không phải tướng quân thì không ai sinh ra được, chẳng phải tôi thì không ai có thể biết được”. Tuy người cha đã đồng ý, nhưng Khuy Cơ một mực cự tuyệt, phải cố gắng khuyên nhiều lần mới vâng chịu. Nhưng Khuy Cơ lại khẳng khái bảo rằng: “Chấp nhận cho ba việc thì con mới nguyện xuất gia: không đoạn tình dục, ăn mặn và ăn phi thời”. Ngài Huyền Tráng trước muốn dùng Dục để độ, sau giúp khai mở Phật trí nên giả vờ chấp nhận ba điều kiện trên. Bởi thế, về sau mỗi khi Ngài đi đâu đều chở đầy những vật mà Sư ưa thích. Cho nên, Quan Phố nói: “Hòa thượng Tam Xa”. Đó là vào niên hiệu Trinh Quán 22 (648)”. Có lần, Sư tự trình bày rằng: “Chín tuổi chịu biết bao gian nan, dần dần dứt bỏ trần tục”. Nếu đúng như vậy thì thuyết Tam xa quả là quá hư dối. Năm 17 tuổi Sư xuất gia, đến lúc vào đạo thì vâng chiếu làm đệ tử của ngài Huyền Tráng. Ban đầu Sư ở chùa Quảng Phước, lại vâng theo chiếu chỉ về việc tuyển chọn những bậc thông minh tài giỏi của triều đình, nên Sư đến chùa Từ Ân dốc lòng thờ ngài Huyền Tráng học ngôn ngữ Thiên Trúc, nhằm tháo gỡ những gút mắc, đồng thời tổng hợp và sắp xếp lại văn nghĩa có thứ tự; mọi người nghe thấy, không ai mà không thán phục. Cả trăm kiền-độ Bạt-cừ , một khi Sư đã xem qua thì nhớ kỹ không sai. Năm 25 tuổi, Sư vâng chiếu dịch kinh, giảng thuyết thông suốt hơn ba mươi bộ kinh luận Đại thừa, Tiểu thừa. Sư vừa chuyên tâm vừa sáng tạo, siêng năng trước tác, đồng thời luôn thưa hỏi những điều gần gũi, suy nghĩ những việc thiết thực, chớ không đàm luận những điều viễn vông. Sư sớ giải hơn trăm bộ. Bộ Duy Thức luận của ngài Huyền Tráng dịch, ban đầu Sư cùng với Huyền Phưởng, Gia Thượng và Phổ Quang lãnh nhiệm vụ nhuận sắc, ghi chép, kiểm văn và chứng nghĩa, được vài hôm thì Sư xin thôi. Ngài Huyền Tráng hỏi thì Sư đáp: “Đêm nằm mộng thấy người vàng, sáng đi đến chùa Bạch Mã. Tuy được cặn bã của pháp môn, nhưng lại đánh mất tinh túy giáo pháp, con nguyện không phí công với bản lộn xộn này nữa. Theo con thì nên hợp thành một bản, nhận trách nhiệm thì phải có chỗ quy hướng”. Ngài Huyền Tráng liền đồng ý, dùng những lý lẽ để từ chối ba vị kia, chỉ giao phó riêng cho Sư. Đây chính là ngài Huyền Trang lượng định tài mà giao cho nhiệm vụ. Khi ấy, Sư nhận lãnh trách nhiệm ghi lại điều đã nghe, lúc ngài Huyền Tráng giảng xong thì Sư chú sớ cũng hoàn tất. Không bao lâu sau, pháp sư Viên Trắc ở chùa Tây Minh cũng là bậc tài giỏi thông minh, lập kế dùng vàng đưa cho người canh cửa giảng đường Duy Thức Luận để được ẩn núp lén nghe liên tiếp nhiều buổi, cho nên cũng thông hiểu yếu chỉ của luận. Còn mấy buổi giảng nữa là xong, Viên Trắc bèn đánh kiền-chùy tập họp Tăng để giảng luận này, Khuy Cơ nghe việc này rất hổ thẹn, cho rằng mình kém hơn, nên không dấu được nỗi buồn bã tấm tức trong lòng. Ngài Huyền Tráng khích lệ: “Tuy Viên Trắc làm chú sớ, nhưng chưa đạt được Nhân minh”. Sư bèn giảng luận Trần-na , vì Sư rất giỏi về ba chi Nhân minh nên cứ mặc tình tung hoành lập phá, thuật, nghĩa, mệnh, chương, từ trước đến nay không ai có thể sánh bằng. Sư lại thỉnh thầy giảng luận Du-già cho riêng mình, nhưng lại bị Viên Trắc trộm nghe như trước. Ngài Huyền Tráng nói: “Tông Ngũ tánh chỉ có ông mới thấu triệt, còn người khác thì không”. Sau đó, Sư đến núi Ngũ Đài, leo lên Thái Hành, đến tá túc tại chùa Cổ Phật ở Tây Hà, nằm mộng thấy thân mình nằm ở giữa lưng chừng ngọn núi, nghe tiếng kêu khổ của vô số người ở dưới chân núi, âm thanh vang lên giữa đêm tối mịt mờ nghe thật bất nhẫn. Sư bèn dần dần trèo lên đỉnh núi, thấy toàn màu sắc lưu ly, nhìn rõ các quốc độ. Sư ngước nhìn một tòa thành thì trong thành đó vọng ra tiếng rằng: “Dừng lại! Dừng lại! Ôi, Khuy Cơ chưa thể đến đây được!”. Trong chốc lát, có hai thiên đồng từ trong thành đi ra hỏi: “Sư có thấy những chúng sinh đau khổ ở dưới núi không?”. Đáp: “Tôi chỉ nghe tiếng chứ không thấy hình”. Đồng tử liền ném cho một thanh kiếm và nói: “Mỗ bụng sẽ thấy”. Khuy Cơ tự mỗ bụng mình, trong bụng phát ra hai luồng ánh sáng rực rỡ chiếu xuống dưới núi thì thấy có vô số người đang chịu khổ. Lúc ấy, đồng tử đi vào trong thành mang ra hai cuộn giấy và bút trao cho, Sư tiếp nhận rồi ra đi mà trong lòng vẫn còn bàng hoàng kinh ngạc. Trải qua hai đêm, trong chùa phát ra ánh sáng mãi không tắt. Sư tìm hiểu thì phát hiện ánh sáng phát ra từ mấy cuộn giấy; khi mở cuộn giấy ra có được kinh Di-lặc thượng sinh. Sư liền nhớ lại giấc mộng trước đây: “Chắc ngài Từ Thị sai bảo ta tạo sớ để giải thích nghĩa lý!”. Khi Sư vừa hạ bút thì từ đầu ngọn bút rơi xuống mười bốn viên Xá-lợi, giống như hạt đào đất Ngô, màu hồng trông rất đẹp, kế đến lại rơi ra những hạt Xá-lợi như hạt hoàng lương. Có thuyết cho rằng lúc Sư đến Thái Nguyên truyền pháp, mang theo ba xe. Xe trước chở kinh luận, xe giữa mình ngồi, xe sau chở gia đình, kỷ nữ, tôi tớ và thức ăn. Khi đang đi trên đường, lại gặp một ông già hỏi: “Chở ai vậy?”. Sư đáp: “Gia đình quyến thuộc”. Ông già nói: “Đã biết pháp rất thanh tịnh như vậy mà mang theo gia đình, e rằng không xứng với giáo pháp”. Khuy Cơ nghe lời nói ấy, bỗng nhiên hối hận những điều sai phạm trước đây rồi, bỏ đi một mình. Ông già ấy chính là Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Thuyết này là quá thiển cận, thiếu suy nghĩ. Bởi lúc Sư theo ngài Huyền Tráng tham gia công tác phiên dịch ở cung Ngọc Hoa thì ba xe để ở chỗ nào? Sư giáo hóa khắp nơi, số người được lợi ích rất nhiều. Khi đi về phía Đông, đến Bác Lăng, có người thỉnh giảng kinh Pháp Hoa, Sư bèn tạo Đại sớ. Đến khi trở về bổn tự, thường trao đổi qua lại với những bậc cựu phiên dịch. Rất nhiều lần, Sư đến yết kiến luật sư Đạo Tuyên. Ngài Đạo Tuyên thường có sứ giả của các Thiên vương đến hầu hạ, hoặc thầm báo những việc trong ngày. Có một hôm nọ, Sư từ phương xa đến, ngài Đạo Tuyên lấy làm lạ vì các sứ giả đến rất trễ, bèn hỏi, thì họ thưa rằng: “Vừa rồi có Bồ-tát Đại thừa ở đây, thiện thần theo hầu rất đông. Con dù có thần thông nhưng đều bị bọn họ chế ngự, cho nên đến trễ”. Đến năm Vĩnh Thuần thứ nhất, nhằm năm Nhâm Ngọ, Sư phát bệnh. Vào ngày 13 tháng 11 năm đó, Sư an nhiên nhập diệt tại viện Dịch Kinh chùa Từ Ân, hưởng thọ 51 tuổi, an táng ở thôn Phiền, bên cạnh mộ tháp tam tạng pháp sư Huyền Tráng. Đệ tử vô cùng thương xót. Lễ tang của Sư, ngoài
những đệ tử, còn có rất đông đạo tục. Những trước tác của Sư: Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương, Du-già Luận Lược Toản, Bách Pháp Minh Môn Giải, Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận Sớ, Nhiếp Đại Thừa Luận Sao, Đối Pháp Luận Sao, Thắng Tông Thập Cú Nghĩa Chương, Pháp Hoa Huyền Tán, Di-đà Kinh Thông Tán Sớ, Kim Cương Bát-Nhã Kinh Huyền Ký, Thuyết Vô Cấu Xưng Kinh Tán. Khi còn sinh tiền, Sư là người có chí khí mạnh mẽ, tạo tượng Di-lặc và hàng ngày ở trước tượng tụng một thiên Bồ-tát giới, nguyện sinh Đâu-suất, cảm được tượng phát ra hào quang toàn thân rực rỡ. Sau đó, Sư đến Ngũ Đài sơn tạo tượng Bồ-tát Văn-thù bằng ngọc thạch, đồng thời viết kinh Bát-nhã bằng nhũ vàng, khi hoàn thành cũng có phát thần quang. Những đệ tử kế thừa đều lấy Sư làm chuẩn tắc và xem như ngài Huyền Tráng lúc còn sống. Ngày Quý Dậu, tháng bảy, năm Bính Tuất, nhằm năm Thái Hòa thứ tư, đệ tử dời tháp Sư về Bình Nguyên, sa-môn Lệnh Kiểm ở chùa Đại An Quốc kiểm tra tháp. Khi giở quan tài thấy Sư có bốn mươi chiếc răng, vẫn còn nguyên vẹn giống như ngọc. Mọi người bảo nhau rằng, đó là một trong những tướng hảo của Đức Phật. Ngày nay, tượng Sư thờ trong các chùa đều ghi là “Bách Bổn Sớ Chủ”. Vua Đường Cao Tông (có thuyết cho là Huyền Tông) có làm bài tán. Sư khôi ngô tuấn tú, có chí khí vô cùng mạnh mẽ, với tâm từ bi cứu độ, dạy người không mệt, sau cổ có ngọc chẫm , diện mạo hết sức trác tuyệt, hai bàn tay xếp lại giống như ấn khế. Chữ đầu tên húy của Sư phần lớn không giống nhau. Cho nên, trong truyện Từ Ân ghi: “Vào niên hiệu Long Sóc thứ ba, ở cung Ngọc Hoa, ngài Huyền Tráng dịch kinh Đại Bát-nhã xong. Ngày 22 tháng 11 năm đó sai Đại Thừa Cơ dâng biểu, thỉnh vua đề lời tựa. Ngày mồng 7 tháng 12, Thông sự xá nhân tên Phùng Nghĩa truyền sắc chỉ đọc là Linh Cơ. Trong Khai Nguyên Lục gọi là Khuy Cơ, hoặc Thừa Cơ là sai. Ngày nay, trong nước đều gọi Sư là Từ Ân pháp sư. Bài hệ ghi: “Nghĩa môn Tánh tướng đến đời Đường mới thấy hoàn bị. Tráng sư là Tổ, khai sáng Du-già Duy Thức, Khuy Cơ là Tông, theo văn trước thuật. Tổ và Tông trăm đời mãi mãi được kính thờ, bởi công đức lợi vật vô cùng rộng lớn. Nếu ngài Huyền Tráng mà không có Khuy Cơ thì làm sao phát triển lâu dài được cái học ấy và khai mở được mắt cho người trong thiên hạ? Công lao to lớn của hai Sư đã đi vào bất hủ. Vậy thì, Sư là con của Ngạc Công, đệ tử của Huyền Tráng. Đó gọi là con nhà tướng đến làm pháp tướng, ngàn năm chỉ có một người mà thôi! Cho nên, Kinh Thư có câu: “Cha cày con chịu gieo thì mới thu hoạch được”. Bách Bổn Sớ Chủ là như vậy đó!”.
Phụ lục 2
LÀM RÕ MỐI NGHI VỀ CHÂN TẠO NGỤY TẠO
SÁCH TÂY PHƯƠNG YẾU QUYẾT THÍCH NGHI
THÔNG QUY
Lưu Học Truyền Pháp Tướng Tông Sa-môn Thích Cơ Biện, tại chùa Dược Sư ở Nam Đô biên soạn.
Nay để bàn về thật và giả của người soạn cuốn sách này, ta chia ra ba phần: - Nêu điều nghi của người xưa.
- Nêu nhận định của người nay.
- Chính thức phán định. I. Nêu điều nghi của người xưa Có ba chủ trương: 1. Ngày xưa, có vị Tăng đô Tế Tiêm ở chùa Nhân Hòa tại vùng Nam Nhạc đã đưa ra năm mối nghi đối với sách này: - Sách này phán định sự khó dễ vãng sinh hoàn toàn trái với Thượng Sinh Kinh Sớ . Trong Sớ ghi: “Thiên cung có mười việc dễ sinh, Tịnh độ có bảy việc khó sinh”. Hơn nữa, trong phần Khuyến Nội Viện cũng có ghi: “Kẻ hạnh nghiệp cạn cợt nguyện sinh Tây Phương, lỡ không được, e rằng thành sai lầm. Thế nên, hành giả phải tu pháp môn này”. Chỉ một người giải thích, sao mà mâu thuẫn đến như vậy? Nên biết sách này không phải Khuy Cơ trước tác. - Trong sách này có nói về Bản giác viên minh, nên hoàn toàn trái với nghĩa Thỉ giác Bồ-đề. - Có nói về Đồng quy nhất thật nên không giống với yếu chỉ Ba thừa chân thật. - Phán định Đâu-suất có lui sụt thì phải giống với Sớ của chính tác giả soạn. Nhưng Sớ ghi: “Nếu sinh Ngoại viện, tuy bậc hạ hạ phẩm, nhưng mai sau cũng trở thành bất thoái”. Nay sao lại trái ngược như thế? - Định có và không về sự đến nghinh đón thì hoàn toàn trái với kinh Thượng Sinh. Kinh ghi: “Bấy giờ, Bồ-tát Di-lặc phóng ánh sáng lông trắng giữa chặng mày đến đón rước người này”. Nay nói không tiếp dẫn há chẳng phải hoàn toàn trái ngược sao? Vì có những sự trái ngược này nên nhất định không phải do Khuy Cơ sáng tác. 2. Gần đây có người nghi rằng: “Phàm phu được vãng sinh” là trích dẫn Cựu dịch chứ không theo Tân dịch, cho nên sinh nghi. 3. Trong đây nói: “Có ba thân không khác” thì không giống với thuyết của tông Pháp Tướng.
*
II. Nêu nhận định của người nay Gần đây, có người giải thích mối nghi thứ nhất của sư Nam Nhạc rằng: “Đức Như Lai lập giáo tùy theo căn cơ mà có sai khác, các bậc Đại sĩ xiển dương nghĩa lý cũng tùy nghi mà chỉ bày”. Hễ thâm nhập vào một môn thì đồng trở về nhất lý. Những điều nêu trong sách này có ý nghĩa như vậy. Như trong Thông Tán cũng có nêu mười việc thù thắng, chuyên khuyến khích Tịnh độ, mỗi mỗi tùy theo đường lối tu tập mà không hề trái nhau. Giải thích nghi thứ hai: theo luận Duy Thức, pháp giới thanh tịnh vô lậu tùy tăng , tánh thanh tịnh viên minh, tuy có khách trần, nhưng bổn tánh vẫn thanh tịnh, cho nên nói: “Dù cho chân thể bị chướng ngại, nhưng thể tánh này vốn có. Hai thân giác ngộ, tự tánh bình đẳng, có đầy đủ vô lượng công đức, lìa các hý luận”, nên nói: “Bản giác viên minh , hoặc pháp ấy vốn có chủng tử vô lậu nên gọi là Bản giác”. Nay Sư giải thích văn kinh Lăng-già mà có hai nghĩa này. Giải thích nghi thứ ba: căn cứ vào Bất định tánh hội ba thừa trở về Nhất thừa, nên gọi là Đồng quy nhất thật. Cho nên, không ra ngoài yếu chỉ ba thừa chân thật. Pháp Hoa Huyền Tán nói đây là Nhất thừa , nên nghĩa thông suốt tất cả. Giải thích nghi thứ tư: đây là nói sinh vào Ngoại viện, phần nhiều đều bị lui sụt nhưng cũng có người không lui sụt. Nay nói không lui sụt, là căn cứ theo số nhiều. Giải thích nghi thứ năm: Đức Di-lặc không có bản nguyện, nên cảnh đến tiếp rước cũng ít có. Vì quá ít cho nên cũng xem như không. Giải thích mối nghi: “Chủ trương kia nói Hóa thân và quốc độ có ba: 1. Chỉ có Báo thân; 2. Chỉ có Biến hóa thân; 3. Chung cả Báo-Hóa”. Vì sao người cứ chấp chặt một phía? Nếu chấp chỉ có Báo thân thì chỉ là tự lực niệm Phật. Phàm căn cơ được sức bổn nguyện hộ trì thì bao gồm tất cả giai vị, năm thừa đều nhập. Thế nhưng, những căn cơ thuộc về bổn nguyện thâu nhiếp thì trong Duy Thức không hề phán định và cũng không thuộc về Tánh, Tướng. Huống gì là trong văn ghi: “Sinh vào Hóa độ thấy Hóa Phật”. Sao mà tối thế? Lại chỉ dẫn Cựu dịch là để gạn hỏi về tông nghĩa của các bản giải thích Quán Kinh… Giải thích mối nghi: “Ba thân không khác”: “Ở đây chẳng phải nói tương tức mà chỉ nói nhiếp tướng trở về tánh mà thôi”. Huyền Tán ghi: “Ứng thân và Hóa thân chẳng phải chân Phật, cũng chẳng phải là người thuyết pháp. Đó là quy công đức về bản thể, chính là Pháp thân”.
*
III. Chính thức phán định Về Tăng đô Nam Nhạc, thứ nhất là nghi về sự khó dễ của vãng sinh Đâu-suất và Tây Phương. Gần đây, các sư giải thích là tùy theo căn cơ bất đồng của chúng sinh nên Đức Phật diễn giáo cũng sai biệt. Nay phân tích rằng: Giải thích trên, về lý thì đúng như vậy, nhưng ý thú vẫn chưa rõ ràng, lại còn dẫn Truyền Đăng Lục của Vĩnh Siêu chùa Hưng Phước, rồi cho rằng Thông Tán là ngụy tạo. Bởi thế, người học vùng Nam Kinh cho rằng Thông Tán không phải là chính. Nhưng Tây Phương Yếu Quyết này, trong Vĩnh Siêu Lục cho là pháp sư Cơ soạn, Chú Tấn Lục của Tạng Tuấn cũng nói như vậy. Nhưng từ xưa tới nay, môn đồ chùa Hưng Phước hàng ngày chuyên đọc tụng sáu bộ kinh, mười một bộ luận và những sớ giải mà ngài Khuy Cơ đã biên soạn, trong đó có Tây Phương Yếu Quyết, nhưng không có Thông Tán Sớ. Do đó, nên biết rằng Yếu quyết này là do ngài Khuy Cơ biên soạn chứ không phải ngụy tạo. Gần đây, dùng Thông Tán để nói chung là quá sai lầm vậy. Nay nêu ra văn để chứng minh, dùng nghĩa “tùy cơ” để phán định về người được vãng sinh Đâu-suất trong Thượng Sinh Kinh Sớ. Sớ chủ giải thích, nêu lên ba hạng người: 1. Bồ-tát hành pháp không nhàm chán sinh tử, chịu khổ trong sinh tử làm lợi lạc, nên muốn sinh lên cõi trời, cần phải gá vào cảnh Sở y thù thắng để tu tập diệu hạnh. Cho nên, tất cả nơi thọ sinh đều tôn quý. Vì nơi thấp kém thì tự thể thực hành không toàn vẹn, vì sinh thiên được thấy Đức Phật Từ Thị, cho nên không giống với Nhị thừa nhàm chán khổ sinh tử, sợ cõi trời buông lung không thích vãnh sinh về. 2. Người tôn kính tâm vô thượng Bồ-đề thích tu thắng hạnh, cầu đại Bồ-đề, được ở trước đức Di-lặc nghe đại pháp. Còn kẻ không thích Đại thừa chỉ mong cầu quả nhỏ, tùy theo chỗ thọ sinh mà vui với Niết-bàn. 3. Người muốn làm đệ tử của ngài Di-lặc là nguyện ở trong cõi ác làm việc thiện lợi ích cho các hữu tình khổ đau. Chỉ mong cứu giúp, không nguyện sinh về Tịnh độ làm đệ tử của Phật khác, vì ở nơi kia không có hữu tình khổ đau để thực hành hạnh cứu độ, không có khổ để nhàm chán, nên tâm ưa thích cầu sinh không sâu. Do đó, nên biết vãng sinh Đâu-suất chỉ có căn cơ hàng Bồ-tát, vì họ có đủ khả năng, còn căn cơ của hàng nhị thừa Thanh văn và Duyên giác thì không được. Nội viện Đâu-suất có Đức Từ Tôn thuyết pháp cho chúng hội là hàng thiên tử, không nói cho chúng Thanh văn nghe. Tây Phương Tịnh độ thì không như vậy. Kinh A-di-đà ghi: “Lại nữa, Xá-lợi-phất, Đức Phật kia có vô lượng vô biên chúng đệ tử Thanh văn đều đắc quả A-la-hán, không thể dùng toán số để tính đếm được. Các chúng Bồ-tát cũng như vậy”. Trong Quán Kinh nói: “Ba phẩm trung vãng sinh được lợi ích, vì chứng quả A-la-hán, Tu-đà-hoàn”. Lại, kinh Vô Lượng Thọ nói: “Nếu trong trăm ngàn kiếp cùng tính đếm biết được số lượng Thanh văn, Duyên giác thì ta không nguyện thành Chánh Giác”. Do đó, nên biết vãng sinh Tây Phương đều dành cho tất cả mọi căn cơ. Vì sao? Vì tâm nhàm chán xa lìa cõi uế chính là tâm Nhị thừa. Tâm không nhàm chán xa lìa cõi uế cùng tột thì không thể nói: “Hết lòng tin ưa muốn sinh về nước ta. Ý ưa thích phải tăng trưởng, nếu ý ưa thích mà không tăng trưởng tột cùng thì chẳng phải chân thật nương vào nguyện lực Phật. Tâm nhàm chán xa lìa của Nhị thừa tuy là thấp kém, nhưng từ tâm thấp kém đó lại phát khởi chí tâm tin ưa, nương bổn nguyện Phật, thế là tâm thấp kém chuyển thành rộng lớn. Nếu nhân chuyển biến này giảm thì cần phải ra sức chuyển. Vả lại, nếu tâm vãng sinh Đâu-suất nhàm chán, khổ, thô, chướng của hạ địa thì sinh thẳng lên cõi trên, không thể sinh vào cõi trời Đâu-suất làm đệ tử của ngài Di-lặc. Cho nên Kinh nói: “Không cầu đoạn kết hoặc, tu mười thiện pháp, không nhàm chán sinh tử thích sinh lên cõi trời”, Sớ giải thích là chớ thực hành Sáu quán hạnh. Nên biết căn cơ thích hợp để vãng sinh Đâu-suất chỉ có hàng Bồ-tát. Lại nói việc vãng sinh khó và dễ cũng là đối với căn cơ bất đồng mà luận. Thực hành sáu Sự pháp trong Thượng Sinh Sớ là thuộc Thượng phẩm hạnh sinh. Sớ chủ giải thích ý kinh nói về sáu Sự pháp như sau: 1. Siêng năng tu tập hạnh nghiệp trong ruộng phước kính, ân và bi. 2. Đầy đủ oai nghi, giữ vững các giới hạnh và sống trong phép tắc. 3. Quét tháp, trang nghiêm đạo tràng và
tu sửa linh tháp. 4. Hoa hương cúng Phật, tứ sự cúng dường trai tăng. 5. Phàm phu thực hành Tam-muội văn, tư; Thánh nhân nhập chánh định, tùy theo từng địa vị mà đắc được quả thiền, hoặc phàm phu đã thực hành Tam-muội mà chẳng phải sáu hành định. Sáu Hành định thì chắc chắn sinh lên cõi trên, nên trụ sâu trong văn và tư cũng gọi là Tam-muội. 6. Đọc tụng kinh điển, diễn thuyết, tu tập và thực hành mười pháp thiện. Vả lại, khi nêu lên các hạnh thù thắng dễ tu bậc nhất thì có sáu việc này, trong đó mỗi mỗi đều thâu nhiếp các hạnh nghiệp. Nếu tu tập đầy đủ sáu hạnh, hoặc có thể tu tập năm hạnh thì Thượng phẩm thượng sinh; nếu tu tập ba, bốn hạnh thì Thượng phẩm trung sinh; nếu tu một hai phẩm thì Thượng phẩm hạ sinh. Tiếp theo, ba phẩm trung là bốn chúng, tám bộ không phạm giới cũng không tạo tội ác. Người nhẹ nhất, khi nghe đến danh hiệu thì tâm hoan hỷ, miệng nói lời cung kính và thân lễ bái. Nếu đầy đủ ba nghiệp nầy là Trung phẩm thượng sinh, chỉ đủ hai nghiệp thì Trung phẩm trung sinh, chỉ có một nghiệp thì Trung phẩm hạ sinh. Tiếp theo, ba phẩm hạ, tuy có mười hạnh nhưng gom thành sáu hạnh: sám hối, tạo tượng, cúng dường, lễ bái, buộc niệm, xưng danh hiệu. Có đầy đủ sáu hạnh trên đây là Hạ phẩm thượng sinh, chỉ có bốn hạnh đầu là Hạ phẩm trung sinh, chỉ có ba hạnh đầu là Hạ phẩm hạ sinh; hoặc trong sáu hạnh này tùy theo mỗi một hạnh phát nguyện thấy Đức Từ Thị, hoặc sinh Ngoại viện được bất thối cũng đều thuộc hạ phẩm hạ sinh. Thậm chí, nếu không phát nguyện, cho dù không sinh lên cõi trời đó thì người nầy sẽ được giải thoát trong Tam hội , như Thượng Sinh Kinh Sớ đã nói. Những hạnh như vậy, theo Quán Kinh nói: “Người tạo tội ác, đến khi lâm chung nhờ vào năng lực của bạn tốt nên chí tâm lắng nghe, đầy đủ mười niệm không gián đoạn thì tội liền diệt, được vãng sinh thấy Phật”. Vậy thì biết rằng chín phẩm ở Đâu-suất cũng đều rất khó thực hành. Tuy nhiên, mỗi mỗi hạnh đều là những hành động của tâm tán loạn trong đời sống thường nhật. Nếu nhìn từ mặt lâm chung rất khó phát khởi chí tâm tin ưa thì những hạnh ấy vẫn còn dễ. Vả lại, vãng sinh Tây Phương, tuy chí tâm tin ưa khó phát khởi, nhưng đối với những hạng người có tâm nhàm chán cõi uế tăng trưởng mạnh thì chí tâm tin ưa cũng tăng trưởng mạnh. Do đó, chỉ mười lần xưng danh hiệu liền được vãng sinh, cho nên vãng sinh Cực Lạc dễ. Vả lại, hàng căn cơ Bồ-tát sinh thiên thực hành hạnh lợi lạc, nếu sinh về Cực Lạc Tây Phương là nơi đã an lạc rồi, thì không thể thực hành hạnh nầy được. Cho dù trở lại cõi uế cứu độ trời người, nếu chẳng phải là hàng Thượng phẩm thượng sinh thì không thể mau chóng thực hành hạnh cứu độ. Còn những hạng căn cơ khác, sau khi vãng sinh, trải qua nhiều kiếp chứng được Hoan hỉ địa rồi mới nên làm Phật sự. Do đó, đối với căn cơ Bồ-tát khó thực hành, mới cho vãng sinh Đâu-suất là dễ thì đâu trái với ý tâm ưa thích. Cho nên biết rằng, Thượng sinh sớ nói dễ là chỉ cho căn cơ Bồ-tát. Nay, bộ Yếu quyết này đối với căn cơ ở trong cõi uế mà nói Tây Phương dễ vãng sinh thì ở trên mặt lý hoàn toàn không trái. Vả lại, trong Thượng Sinh Sớ, khi luận về vãng sinh khó và dễ có nói rằng: “Tây Phương có bảy việc khó vãng sinh, Đâu-suất có mười việc dễ vãng sinh”. Ở đây chỉ khuyến khích riêng căn cơ Bồ-tát chứ không dành cho tất cả mọi căn cơ. Cho nên, văn sớ kết luận: “Ở trong cõi uế tu tập hạnh thanh tịnh là chính hạnh của bậc Thánh, còn ở quốc độ nghiêm tịnh thì chẳng phải là chỗ giáo hóa của bậc Đại sĩ…”. Lại nói: “Hạnh nghiệp cạn cợt thì chẳng may không vãng sinh”. Đúng vậy, nếu thiếu chí tâm tin ưa thì có thể không được vãng sinh. Qua những văn trích dẫn trên thì chẳng nên nghi ngờ. Pháp sư Khuy Cơ ở chùa Đại Từ Ân chính là Bồ-tát Đại thừa, vì muốn những hạng căn cơ kia được lợi ích nên soạn ra hai cuốn sách này. Chúng ta cần phải nhìn một cách toàn diện vấn đề trên thì không còn nghi ngờ. Như Duy thức sớ dùng Duy Thức nói về Trung đạo. Pháp sớ thì dùng uẩn, xứ và giới của Đại thừa nói về Trung đạo; Tâm Kinh U tán dùng “không” nói về Trung đạo. Bởi thuyết giáo là tùy theo căn cơ, tuy có khác nhau giúp cho người ngộ nhập, nhưng tánh lìa ngôn ngữ thì đồng một vị mặn của biển, hoàn toàn không sai khác. Về câu “Bản giác viên minh”, theo giải thích gần đây thì có hai nghĩa: 1. Nói Thanh tịnh pháp giới là “bản giác”. Điều này không hợp, vì câu trên ghi: “Chân như thể tịnh là thanh tịnh pháp giới” mà lại cho là “bản giác”, e rằng mắc lỗi ngôn ngữ trùng lặp. Dẫu giải thích rằng: “Chân như thể tịnh là bản tịnh Niết-bàn” vốn tròn sáng (viên minh), là pháp giới chân thật thanh tịnh, sở chứng của Đức Phật, là sở y của thân Thọ dụng biến hóa bình đẳng. Như thế cũng không hợp đạo lý. Nói “viên minh” là dùng “xa lìa hý luận” giải thích; nếu lý kia chưa rõ thì bản giác Niết-bàn cũng chỉ là hý luận mà thôi! Đây cũng có lỗi trùng lặp ngôn ngữ, cho nên cách giải thích thứ nhất khó chấp nhận được. Tiếp theo, dùng nghĩa “Chủng tử vô lậu vốn có” để giải thích. Điều này đúng, tuy nhiên ý nghĩa chưa rõ. Nay giải thích “bản” là bản hữu, “giác” là chánh trí, dùng Tứ trí tâm phẩm làm thể. Duy thức luận, quyển 10 nói Tứ trí tâm phẩm là bản hữu năng sinh, chủng tử là sở sinh đắc. Nay gọi Tứ trí là Bản giác, Tứ trí viên minh chính là quả Phật hiển hiện. Câu trước gọi Tịnh pháp giới là Chân như thể tịnh. Câu tiếp theo, gọi Tứ trí hiện là Bản giác viên minh. Như trong Đối Pháp Sao Quy Kính Tụng ghi: “Cúi lạy Bản tánh vắng lặng viên minh”, viên minh là nêu Tứ trí, bản tánh vắng lặng là nói đến Tịnh pháp giới. Nếu lìa Tịnh pháp giới và Tứ trí tâm phẩm thì quả Phật không hiển hiện. Điều này nói đầy đủ trong luận Phật Địa. Về Đồng quy nhất thật, những nhà giải thích gần đây cho rằng Nhất thừa là Nhất thật. Đây chẳng phải ý chỉ của tông ta. Tông ta cho rằng Nhất thật nghĩa là Phế thuyên đàm chỉ . Nhất thật như chính là tên gọi của pháp giới thanh tịnh. Bộ Liễu nghĩa đăng v.v… cho rằng Giáo thể nhất chân như bình đẳng được Như Lai trình bày giống với ý này. Lại nữa, nghi về sự lui sụt và không lui sụt ở cõi Đô-sử (còn gọi là Đâu-suất-đà), các nhà giải thích gần đây căn cứ vào việc phần nhiều có lui sụt, (ở ngoại viện) tuy có lý, mà chưa rõ, nay sẽ giải thích thêm. Thượng Sinh Sớ ghi: “Nếu sinh về chúng ngoại viện, tuy thuộc về phẩm hạ của bậc hạ, nhưng tự nhiên tu tập một thời gian sau lại thành không lui sụt. Có Phật hiệu là Di-lặc, khéo tự tăng trưởng v.v…”. Trong đọan văn này ghi: “…Thời gian sau lại thành …”, như vậy là minh chứng rõ ràng có lui sụt! Nếu trước đã không lui sụt, tại sao lại nói “thời gian sau lại thành”? Dùng chữ “lại” là muốn nói rõ tuy có lui sụt, nhưng nhờ sức gia bị của Đức Từ Thị nên lại được không lui sụt. Chữ “thành” có nghĩa là “đạt được”. Lại nữa, sau khi được vãng sinh Tây Phương Tịnh độ, hành giả hoàn toàn không lui sụt. So sánh điểm khác biệt này, Yếu quyết ghi: “Cõi Đâu-suất có lui sụt, Tây Phương không lui sụt”. Huống gì nói “phần nhiều lui sụt”. Hai đoạn văn hoàn toàn không trái nhau. Nghi về việc lai nghinh hay không. Những nhà giải thích gần đây lấy việc hơn kém để biện luận là không thích đáng, nay sẽ giải thích rõ. Trong kinh Di-lặc Thượng Sinh ghi: “Ba tướng hành sinh” chung và riêng rất khó phân biệt, cho nên Sớ chủ chia ra chín phẩm để trình bày hành sinh riêng. Trong đó, chỉ có hàng Hạ phẩm thượng sinh nói có tướng lai nghinh của Đức Từ Thị, nhưng tám phẩm còn lại đều không hề nói đến. Tướng lai nghinh ở Tây Phương Tịnh độ, tuy Trung phẩm hạ sinh không nói tiếp dẫn, nhưng tám phẩm còn lại đều nói đến. Hạ phẩm hạ sinh nói thấy “hoa sen vàng”, đó cũng là tướng đến tiếp dẫn. Nay, Yếu quyết này căn cứ theo ý nghĩa phần nhiều trong chín phẩm vãng sinh đều nói đến lai nghinh mà cho rằng: Nếu sinh về Tịnh độ ắt có Thánh chúng đến tiếp dẫn. Lại căn cứ sáu phẩm thượng, trung và hạ phẩm hạ sinh, người sinh về Ngoại viện không có tướng lai nghinh thì cho rằng: nếu sau khi chết sinh về cõi trời thì không có người đến tiếp dẫn, bởi vì ít là đồng nghĩa với không có. 2. Phán định về mối nghi thứ hai: nghi sách này chấp nhận phàm phu vãng sinh và dẫn chứng Cựu dịch, mà không dẫn chứng Tân dịch. Những nhà giải thích gần đây cho là nhờ sức bản nguyện mà năm thừa đều được vào. Cho nên nghĩa phàm phu vãng sinh vào Báo độ thuộc về bản nguyện. Điều này, tông Duy Thức không hề phán định và cũng không thuộc về Tánh, Tướng. Lại nữa, trong sách này nói: “Sinh Hóa độ thấy Hóa Phật”, cho nên nêu lên ba nghĩa trong tông của ta để hội thông nghĩa Báo độ và Hóa độ rồi nói rằng: Người nghi sao tối thế? Nay trình bày: Hội thích này chưa được rõ ràng, tông của ta phán định Báo độ và Hóa độ ở cõi An Dưỡng có ba trường hợp: 1. Chỉ có Báo độ; 2. Chỉ có Hóa độ; 3. Cả Báo độ và Hóa độ. Thượng nhân Hải Trụ Sơn phán định theo trường hợp thứ ba là đúng. Đến nay, những người theo tông Pháp tướng ở Nam Kinh đều chấp nhận nghĩa này. Nay chọn những điểm chính để luận bàn, nếu cho rằng chỉ có Báo độ, không có Báo và Hóa độ thì chỉ có hàng Bồ-tát Địa thượng chứng được, còn hàng phàm phu không thể đạt đến. Điều này Thánh giáo ghi: “Nếu phàm phu nương nhờ nguyện lực cho là tự sinh, khi vừa sinh Báo độ liền thấy Báo thân Phật, thì sự thị hiện Hóa thân và Hóa độ của Đức Phật A-di-đà hoàn toàn vô dụng. Nếu Hóa thân và Hóa độ vô dụng là bản nguyện của đức Phật này thì lẽ ra không có Phật với ba thân viên mãn”. Do đó, nghĩa “duy báo” (chỉ có báo) không thành. Lại nữa, nếu cho rằng chỉ có Hóa thân, Hóa độ mà không có Báo thân, Báo độ thì các đức Phật khác cũng khiến cho phàm phu sinh về Hóa độ. Như thế có gì khác biệt để tôn xưng nguyện lực của đức Phật A-di-đà là Siêu thế biệt nguyện ? Do đó, nghĩa “duy hóa” (chỉ có hóa) cũng không được thành lập. Nói chung, cả Báo, Hóa đều đúng. Thế nào là nói chung? Đó là vì Hóa độ có hai trường hợp là Trường thời biến và Tạm thời biến. Tây Phương Tịnh độ gồm cả Hóa độ là Trường thời biến, tức do Báo độ hiện hóa, cho nên lìa Báo độ ắt không có Hóa độ. Đây cũng là đáp lại năng lực bản nguyện mà Trường thời hóa. Nếu nói theo tánh thì hóa tức Báo độ, điều này thù thắng hơn các Đức Phật khác, cho nên mới nói “Siêu thế biệt nguyện” vậy! Nhưng Yếu quyết này cho rằng: “Sinh Hóa độ thấy Hóa Phật”. Lại cho rằng: “Hành giả cầu thấy Hóa thân, liền cảm được đức Hóa chủ A-di-đà rủ lòng đến tiếp dẫn”. Đó là căn cứ vào ba phẩm hạ mà nói. Lời này có nghĩa là Đức Phật liền sai Hóa Phật, Hóa Bồ-tát Quán Thế Âm, Hóa Bồ-tát Thế Chí đến trước mặt hành giả. Cho nên các luận Duy Thức, luận Phật Địa v.v… cho rằng: “Biến hóa thân nương vào Biến hóa độ”. Do đó, nếu lìa quốc độ mà có thân, là hoàn toàn không thể được! Nay căn cứ phần đắc ích của ba phẩm hạ mà cho rằng: “Sinh Hóa độ được thấy Hóa Phật v.v…”. Về điều này tuy về cảnh thì đáp lại nguyện của Hóa Phật, không giống với các Đức Phật khác, nhưng lý không trái nhau. Hỏi: Nếu như thế thì tại sao Yếu quyết này cho rằng đức Hóa chủ tiếp dẫn, được Vô sinh nhẫn? Đáp: Vô sinh nhẫn là phần đắc ích của ba phẩm thượng.
*
Hỏi: Điều này trái nhau như thế nào? Đáp: Vô sinh nhẫn, có hai trường hợp mà tông Pháp Tướng thường nói đến: 1. Căn cứ hàng Bát địa trở lên; 2. Căn cứ vào hàng Sơ địa trở lên, ba phẩm thượng nói Vô sinh nhẫn là Bát địa trở lên; 3 phẩm hạ nói Sơ địa trở lên. Hạ phẩm thượng sinh nói được nhập Sơ địa, nên Yếu quyết này cho vào Sơ địa là được Vô sinh nhẫn, lý hoàn toàn không trái nhau. Lại nữa, không dẫn chứng Tân dịch vì cho rằng vãng sinh Tây Phương chỉ nói trong bản kinh Cựu dịch, cho nên chỉ dẫn Cựu dịch để giải thích.
*
Hỏi: Nếu như thế, kinh Thượng Sinh cũng là Cựu dịch, vì sao lại kết hợp giải thích Tân dịch? Đáp: Thượng Sinh Kinh Sớ giải thích trọn vẹn kinh, cho nên kết hợp Tân và Cựu để dẫn chứng. Ở Yếu quyết này chỉ lập nghĩa giải thích, không giải thích kinh, cho nên chỉ dẫn kinh Cựu dịch, lý hoàn toàn không trái nhau.
*
Hỏi: Gần đây có người giải thích bản nguyện Phật, tông Duy Thức không phán định cũng không thuộc về tánh, tướng! Lý ấy đúng chăng? Đáp: Bồ-tát Thế Thân xác lập “tất cả pháp đều là thức biến”. Kinh Giải Thâm Mật v.v… cũng cho rằng: “Các pháp chỉ do thức, trong đó bao gồm tất cả pháp hữu lậu, vô lậu”. Trình bày đầy đủ như trong Nhị Thập Tụng Duy Thức Sớ v.v… nghĩa là Bản nguyện của Phật là những biến hiện trên thức của Phật, đó là tăng thượng duyên. Cho nên, hành giả niệm Phật, tâm tướng vãng sinh biến hiện trên ý thức. Như thế, tại sao cho rằng chẳng phải Duy thức phán định. Nếu gượng cho rằng bản nguyện của Phật chẳng phải do thức biến hiện, thì rơi vào cố chấp thật hữu. Tâm Phật làm gì có cố chấp! Lại nữa, cho bản nguyện Phật không thuộc về tánh tướng. Vậy, lìa tánh tướng thì có gì bàn luận, không luận thì thôi, ví như vừa khởi ngôn luận thì nghĩa tánh tướng được thành lập. Lại nữa, Siêu thế biệt nguyện của Phật A-di-đà không thể nghĩ bàn, không thể dùng ngôn ngữ để luận biện. Cho nên nói “Tánh tướng chưa phán định”, chính là Nhất pháp giới, là “Phế thuyên đàm chỉ”, là “Nhất thật như” được nói trong tông của ta. Chân nhờ tục mà lập, nếu nương vào cửa ngôn ngữ thì cũng giống như tánh tướng, nếu phế bỏ cửa ngôn ngữ thì làm gì có bản, có nguyện, mà chỉ gượng nói là “bản nguyện” thôi! Nếu có riêng một bản nguyện, thì hiện tiền lập một chút cũng gọi là sức bản nguyện, nhưng vì có sở đắc nên chẳng phải là bản nguyện chân Phật. Có thể đó chỉ là kiến giải Duy an lập của Tiểu thừa, chẳng phải kiến giải của Đại thừa. Cho nên nói “ không thuộc tánh tướng” chính là phán định sai lầm. 3. Phán định về mối nghi ba thân không khác: Gần đây, có người dùng nghĩa nhiếp tướng về tánh để hội thích. Nay cho rằng cách này chưa rốt ráo, như Thành Duy Thức, 10 ghi: “Pháp thân có ba: 1. Tự tánh thân; 2. Thọ dụng thân; 3. Biến hóa thân. Ba thân này đều là Pháp thân, đều là thân trang nghiêm của pháp Vô thượng tịch nhiên, cho nên không thể tách lìa. Đây chính là ba thân được lập trong tông của ta. Cho nên nói ba thân không khác, hoàn toàn không trái lý. Có người cho cách trình bày sách nầy không giống như Duy Thức Sớ v.v… cho nên vẫn còn nghi ngờ, là thế nào?Đáp: Cách thức trình bày trong Sớ chương của đại sư Khuy Cơ rất phong phú. Những tác phẩm được Ngài đích thân hiệu đính có cách thức trình bày giống nhau như Duy Thức Tam Thập Tụng Sớ, Duy Thức Nhị Thập Tụng Sớ, Duy Thức Nghĩa Lâm Chương v.v…; hoặc những bản chưa hiệu đính như Đối Pháp Sao Lục về sau; hoặc Sư chỉ đàm luận rồi đệ tử ghi chép lại như Thắng Man Kinh Sớ v.v… Sách này e rằng cũng do đệ tử ghi chép lại những văn nghĩa được Sư giảng thuyết, ắt hẳn đã được hiệu đính rồi! Do đó, không nên nghi ngờ cách thức trình bày trong chương sớ! Những lời bàn luận trên nhất định có điều sai sót, nhưng vì muốn sinh khởi thắng giải, nhàm chán cõi uế, ưa thích cõi tịnh, cho nên không ngại trí hiểu biết nông cạn, cố gắng cho hoàn thành tác phẩm.
Bài trên có thể tải về tại đây:
Tây Phương Yếu Quyết
-Word file: http://www.mediafire.com/?74jregmg1fbwwpr" target="_blank
-PDF file: http://www.mediafire.com/?2vxysm5rpj2s758" target="_blank
Được cảm ơn bởi: cocacola, Onedream, mythinh1912
TL: Hội cho những bạn mê TƯỚNG SỐ
Các em hãy thành kính đảnh lễ Tây Phương Tam Thánh (hình với dung lượng rất cao; nếu em nào chưa tải về để in ra thờ hay ấn tống thì nên tải về lưu lại nhé):
Nam Mô A Di Đà Phật _()_
http://www.mediafire.com/imageview.php? ... 6ogtpc9d8f" target="_blank
Nam Mô A Di Đà Phật _()_
http://www.mediafire.com/imageview.php? ... 6ogtpc9d8f" target="_blank
Được cảm ơn bởi: Onedream, Mango-style, mythinh1912