Liệu... điều đó có xảy ra??? Việt Nam ơi...
-
- Tam đẳng
- Bài viết: 552
- Tham gia: 12:23, 08/09/10
Liệu... điều đó có xảy ra??? Việt Nam ơi...
"Một mặt, Trung Quốc thể hiện ý định giải quyết thông qua đàm phán song phương, mặt khác nước này tiến hành các biện pháp "gây hấn" tại Biển Đông, ra dấu hiệu mạnh mẽ về quân sự để khẳng định vai trò của mình", Tiến sĩ Nguyễn Toàn Thắng phân tích.
Tiến sĩ Nguyễn Toàn Thắng, Khoa Pháp luật quốc tế - ĐH Luật Hà Nội, từng bảo vệ thành công luận án tiến sĩ về Luật Biển tại Bỉ. Tòa soạn trích đăng bài viết của ông gửi đến VnExpress nhân sự kiện tàu Bình Minh 02.
Đánh giá mục đích chiến lược của Trung Quốc
Về phương diện pháp lý quốc tế, Trung Quốc không thể biện minh cho hành vi vi phạm luật quốc tế của ba tàu hải giám Trung Quốc. Vậy mà Trung Quốc vẫn "ngang nhiên" cho rằng những tàu đó đang thực hiện "hoạt động chấp pháp bình thường" trên biển. Kết nối sự kiện tàu Bình Minh 02 với các hoạt động của Trung Quốc trên Biển Đông trong thời gian qua, có thể thấy rõ cách hành xử và ý định của Trung Quốc.
Thử thái độ Việt Nam và các nước ASEAN: Với hành động trực tiếp xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, Trung Quốc đã tiến thêm một bước mới trong "phép thử" Việt Nam và ASEAN để dần "hiện thực hóa" tham vọng tại Biển Đông, nhằm khẳng định cái mà Trung Quốc gọi là "chủ quyền" của họ. Mức độ phản ứng của Việt Nam và ASEAN trong trường hợp này sẽ là cơ sở để Trung Quốc xem xét các bước đi tiếp theo. Nếu Việt Nam phản ứng không dứt khoát, không kiên quyết bảo vệ quyền chủ quyền và quyền tài phán của mình; nếu ASEAN giữ quan điểm "không can thiệp" và nếu các quốc gia Đông Nam Á chỉ đứng ngoài "quan sát", Trung Quốc sẽ tiếp tục có những hành động tương tự trong thời gian tới. Với lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015, ASEAN cần chứng tỏ vai trò của một tổ chức quốc tế khu vực, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các quốc gia thành viên.
Mục tiêu hiện thực hóa "đường lưỡi bò", tiến tới bá chủ trên Biển Đông: Trong thời gian qua, Trung Quốc thường thực hiện các hành vi "gây hấn" tại những vùng biển tranh chấp. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc công khai phá hoại, cản trở hoạt động thăm dò khai thác dầu khí bình thường của Việt Nam tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, đồng thời "ngang nhiên" tuyên bố đó là "khu vực tranh chấp", "khu vực thuộc quyền quản lý" của Trung Quốc. Hành động trên cho thấy Trung Quốc đang cố tình đánh lạc hướng dư luận, khiến cộng đồng quốc tế hiểu lầm Việt Nam và tình hình trên Biển Đông. Đây là bước leo thang mới của Trung Quốc, thể hiện rõ tham vọng kiểm soát toàn bộ vùng biển này mà trước hết là mục tiêu của Trung Quốc trong việc: biến việc tàu hải giám Trung Quốc thực hiện hành vi vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam thành việc tàu thăm dò Việt Nam xâm phạm vùng biển của Trung Quốc; biến các vùng biển thuộc quyền chủ quyền của Việt Nam, thiết lập phù hợp với quy định của Công ước Luật biển năm 1982, thành "vùng biển thuộc quyền quản lý" của Trung Quốc – một khái niệm chưa từng tồn tại và không được ghi nhận trong Công ước Luật biển năm 1982; biến khu vực không có tranh chấp, hoàn toàn thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, thành khu vực tranh chấp. Trung Quốc đang cố gắng tạo ra tiền lệ về tranh chấp trên một khu vực vốn không hề có tranh chấp, tiến tới "tranh chấp hóa" toàn bộ Biển Đông. Đây là chiến lược củng cố và hiện thực hóa yêu sách "đường lưỡi bò" mà Trung Quốc đã chính thức tuyên bố năm 2009. Vì vậy, Việt Nam và các nước ASEAN cần có thái độ cương quyết trước "phép thử" của Trung Quốc.
Chiến lược "đàm phán" và "đe dọa sử dụng vũ lực" của Trung Quốc: Hành động của Trung Quốc trong vụ Bình Minh 02 là tương đối nhất quán với cách ứng xử của quốc gia này trong thời gian gần đây. Một mặt, Trung Quốc thể hiện ý định giải quyết thông qua đàm phán song phương, không muốn mở rộng vấn đề theo cách mà Trung Quốc gọi là "gây không khí căng thẳng", mặt khác Trung Quốc tiến hành các biện pháp "gây hấn" trên thực địa, ra dấu hiệu mạnh mẽ về quân sự để khẳng định vai trò của mình. Chiến lược này được Trung Quốc áp dụng không chỉ đối với Việt Nam mà đối với các quốc gia ASEAN khác. Vì vậy, nếu các nước ASEAN không thống nhất quan điểm, Trung Quốc sẽ có nhiều lợi thế để thực hiện mục tiêu của mình, phân hóa các nước ASEAN, tiến tới giành quyền kiểm soát thật sự trên Biển Đông.
Các giải pháp cho Việt Nam
Là thành viên của Hiến chương Liên hợp quốc, Công ước Luật biển năm 1982 cũng như Tuyên bố về ứng xử của các bên tại biển Đông (DOC), Việt Nam luôn tuân thủ các quy định của luật quốc tế, kiên trì con đường hòa bình, giải quyết các vấn đề phát sinh trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau. Đối với các tranh chấp trong Biển Đông, Việt Nam luôn giải quyết bằng biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực và không có hành động làm phức tạp thêm tình hình.
Tuy nhiên, tại các vùng biển không phải là khu vực tranh chấp, hoàn toàn thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển, Việt Nam có quyền áp dụng các biện pháp cần thiết, phù hợp với quy định của Công ước Luật biển năm 1982 để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, buộc các chủ thể vi phạm phải tuân thủ và tôn trọng. Điều 73 của Công ước quy định "Trong việc thực hiện các quyền thuộc chủ quyền (…) của vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có thể thi hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả việc khám xét, kiểm tra, bắt giữ và khởi tố tư pháp để bảo đảm việc tôn trọng các luật và quy định mà mình đã ban hành theo đúng Công ước".
Trước tham vọng kiểm soát Biển Đông, hiện thực hóa "đường lưỡi bò" của Trung Quốc, Việt Nam cần có những biện pháp thích đáng ở các cấp độ khác nhau: song phương, khu vực và toàn cầu. Một măt, chúng ta kiên trì theo đuổi các biện pháp hòa bình, phù hợp với quy định của luật quốc tế, đặc biệt là Công ước Luật biển năm 1982, nhưng kiên quyết, không khoan nhượng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đã được Công ước thừa nhận.
Mặt khác, Việt Nam cần sử dụng hiệu quả cơ chế khu vực, thông qua vai trò của ASEAN để giải quyết vấn đề Biển Đông. Với tư cách là tổ chức quốc tế khu vực Đông Nam Á, ASEAN cần có tiếng nói, thể hiện rõ quan điểm đối với hành vi vi phạm luật quốc tế của Trung Quốc, xâm phạm đến quyền chủ quyền và quyền tài phán của một quốc gia thành viên ASEAN – Việt Nam. Trên thực tế, Trung Quốc đã, đang và sẽ áp dụng chính sách vừa "xoa dịu", vừa "đe dọa" đối với từng quốc gia thành viên ASEAN để thực hiện tham vọng tại Biển Đông. Vì vậy, sự đồng thuận của 10 quốc gia ASEAN trong thời điểm này là hết sức cần thiết, và đó sẽ là một điểm tựa vững chắc để đối phó với chính sách ngày càng leo thang của Trung Quốc. Bên cạnh đó, Việt Nam cần tranh thủ sự ủng hộ của các nước tại các diễn đàn đa phương, đặc biệt là Liên hợp quốc để cộng đồng quốc tế hiểu đúng về tình hình Biển Đông, hiểu đúng chiến lược "tranh chấp hóa" Biển Đông của Trung Quốc, cũng như hành vi vi phạm của Trung Quốc tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam.
Dưới góc độ luật quốc tế, Việt Nam và Trung Quốc có thể thỏa thuận đưa vụ việc ra giải quyết tại cơ quan tài phán quốc tế. Trong trường hợp không có thỏa thuận của Trung Quốc, Việt Nam có quyền khởi kiện theo cơ chế của Công ước Luật biển năm 1982, buộc quốc gia này bồi thường thiệt hại cho phía Việt Nam.
Trong vụ Bình Minh 02, tàu hải giám Trung Quốc thực hiện hành vi cắt cáp, cản trở hoạt động thăm dò khai thác dầu khí của tàu Bình Minh 02 tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. Đối với Việt Nam, hành động của Trung Quốc là vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, phù hợp với quy định tại các điều 56, 58, 76 và 77 của Công ước Luật biển năm 1982. Trong khi đó, Trung Quốc cho rằng "việc phía Việt Nam tiến hành hoạt động thăm dò dầu khí tại vùng biển do Trung Quốc quản lý đã làm tổn hại lợi ích và quyền quản lý của Trung Quốc". Hành động của phía Trung Quốc là "hoạt động giám sát và chấp pháp trên biển" trong vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc. Như vậy, tranh chấp phát sinh giữa Việt Nam và Trung Quốc liên quan đến việc giải thích và áp dụng các điều 56, 58, 76 và 77 của Công ước về việc thực hiện quyền chủ quyền của quốc gia ven biển đối với hoạt động thăm dò khai thác nguồn tài nguyên dầu khí ở đáy biển và lòng đất dưới đáy bên dưới vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Tranh chấp này không liên quan đến các tranh chấp được đề cập trong tuyên bố ngày 25/8/2006 của Trung Quốc, cụ thể (i) không liên quan đến vấn đề phân định biển; (ii) không liên quan đến hoạt động quân sự; (iii) không liên quan đến hoạt động nghiên cứu khoa học biển; (iv) không liên quan đến hoạt động đánh bắt hải sản và (v) không thuộc thẩm quyền của Hội đồng bảo an. Việt Nam và Trung Quốc đều không có tuyên bố lựa chọn các cơ quan tài phán nên sẽ được xác định là chấp nhận thẩm quyền của Tòa án trọng tài thành lập theo Phụ lục VII của Công ước. Vì vậy, Việt Nam có thể chuẩn bị hồ sơ, khởi kiện Trung Quốc theo thủ tục trọng tài nói trên.
Tóm lại, việc Trung Quốc cho tàu hải giám căt cáp thăm dò, cản trở hoạt động của tàu Bình Minh 02 khi tàu này đang hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam là hành vi vi phạm nghiêm trọng Công ước Luật biển năm 1982. Tuy nhiên, đây có thể chỉ là bước "khởi đầu" của chiến lược hiện thực hóa "đường lưỡi bò" của Trung Quốc. Trước nguy cơ này, Việt Nam cần thể hiện thái độ kiên quyết, giải quyết mọi xung đột, mâu thuẫn bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau và tuân thủ luật pháp quốc tế, nhưng đấu tranh không khoan nhượng, thực hiện mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích quốc gia, mà cụ thể đã được ghi nhận trong Công ước Luật biển năm 1982.
Tiến sĩ Nguyễn Toàn Thắng
Tiến sĩ Nguyễn Toàn Thắng, Khoa Pháp luật quốc tế - ĐH Luật Hà Nội, từng bảo vệ thành công luận án tiến sĩ về Luật Biển tại Bỉ. Tòa soạn trích đăng bài viết của ông gửi đến VnExpress nhân sự kiện tàu Bình Minh 02.
Đánh giá mục đích chiến lược của Trung Quốc
Về phương diện pháp lý quốc tế, Trung Quốc không thể biện minh cho hành vi vi phạm luật quốc tế của ba tàu hải giám Trung Quốc. Vậy mà Trung Quốc vẫn "ngang nhiên" cho rằng những tàu đó đang thực hiện "hoạt động chấp pháp bình thường" trên biển. Kết nối sự kiện tàu Bình Minh 02 với các hoạt động của Trung Quốc trên Biển Đông trong thời gian qua, có thể thấy rõ cách hành xử và ý định của Trung Quốc.
Thử thái độ Việt Nam và các nước ASEAN: Với hành động trực tiếp xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, Trung Quốc đã tiến thêm một bước mới trong "phép thử" Việt Nam và ASEAN để dần "hiện thực hóa" tham vọng tại Biển Đông, nhằm khẳng định cái mà Trung Quốc gọi là "chủ quyền" của họ. Mức độ phản ứng của Việt Nam và ASEAN trong trường hợp này sẽ là cơ sở để Trung Quốc xem xét các bước đi tiếp theo. Nếu Việt Nam phản ứng không dứt khoát, không kiên quyết bảo vệ quyền chủ quyền và quyền tài phán của mình; nếu ASEAN giữ quan điểm "không can thiệp" và nếu các quốc gia Đông Nam Á chỉ đứng ngoài "quan sát", Trung Quốc sẽ tiếp tục có những hành động tương tự trong thời gian tới. Với lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015, ASEAN cần chứng tỏ vai trò của một tổ chức quốc tế khu vực, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các quốc gia thành viên.
Mục tiêu hiện thực hóa "đường lưỡi bò", tiến tới bá chủ trên Biển Đông: Trong thời gian qua, Trung Quốc thường thực hiện các hành vi "gây hấn" tại những vùng biển tranh chấp. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc công khai phá hoại, cản trở hoạt động thăm dò khai thác dầu khí bình thường của Việt Nam tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, đồng thời "ngang nhiên" tuyên bố đó là "khu vực tranh chấp", "khu vực thuộc quyền quản lý" của Trung Quốc. Hành động trên cho thấy Trung Quốc đang cố tình đánh lạc hướng dư luận, khiến cộng đồng quốc tế hiểu lầm Việt Nam và tình hình trên Biển Đông. Đây là bước leo thang mới của Trung Quốc, thể hiện rõ tham vọng kiểm soát toàn bộ vùng biển này mà trước hết là mục tiêu của Trung Quốc trong việc: biến việc tàu hải giám Trung Quốc thực hiện hành vi vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam thành việc tàu thăm dò Việt Nam xâm phạm vùng biển của Trung Quốc; biến các vùng biển thuộc quyền chủ quyền của Việt Nam, thiết lập phù hợp với quy định của Công ước Luật biển năm 1982, thành "vùng biển thuộc quyền quản lý" của Trung Quốc – một khái niệm chưa từng tồn tại và không được ghi nhận trong Công ước Luật biển năm 1982; biến khu vực không có tranh chấp, hoàn toàn thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, thành khu vực tranh chấp. Trung Quốc đang cố gắng tạo ra tiền lệ về tranh chấp trên một khu vực vốn không hề có tranh chấp, tiến tới "tranh chấp hóa" toàn bộ Biển Đông. Đây là chiến lược củng cố và hiện thực hóa yêu sách "đường lưỡi bò" mà Trung Quốc đã chính thức tuyên bố năm 2009. Vì vậy, Việt Nam và các nước ASEAN cần có thái độ cương quyết trước "phép thử" của Trung Quốc.
Chiến lược "đàm phán" và "đe dọa sử dụng vũ lực" của Trung Quốc: Hành động của Trung Quốc trong vụ Bình Minh 02 là tương đối nhất quán với cách ứng xử của quốc gia này trong thời gian gần đây. Một mặt, Trung Quốc thể hiện ý định giải quyết thông qua đàm phán song phương, không muốn mở rộng vấn đề theo cách mà Trung Quốc gọi là "gây không khí căng thẳng", mặt khác Trung Quốc tiến hành các biện pháp "gây hấn" trên thực địa, ra dấu hiệu mạnh mẽ về quân sự để khẳng định vai trò của mình. Chiến lược này được Trung Quốc áp dụng không chỉ đối với Việt Nam mà đối với các quốc gia ASEAN khác. Vì vậy, nếu các nước ASEAN không thống nhất quan điểm, Trung Quốc sẽ có nhiều lợi thế để thực hiện mục tiêu của mình, phân hóa các nước ASEAN, tiến tới giành quyền kiểm soát thật sự trên Biển Đông.
Các giải pháp cho Việt Nam
Là thành viên của Hiến chương Liên hợp quốc, Công ước Luật biển năm 1982 cũng như Tuyên bố về ứng xử của các bên tại biển Đông (DOC), Việt Nam luôn tuân thủ các quy định của luật quốc tế, kiên trì con đường hòa bình, giải quyết các vấn đề phát sinh trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau. Đối với các tranh chấp trong Biển Đông, Việt Nam luôn giải quyết bằng biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực và không có hành động làm phức tạp thêm tình hình.
Tuy nhiên, tại các vùng biển không phải là khu vực tranh chấp, hoàn toàn thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển, Việt Nam có quyền áp dụng các biện pháp cần thiết, phù hợp với quy định của Công ước Luật biển năm 1982 để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, buộc các chủ thể vi phạm phải tuân thủ và tôn trọng. Điều 73 của Công ước quy định "Trong việc thực hiện các quyền thuộc chủ quyền (…) của vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có thể thi hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả việc khám xét, kiểm tra, bắt giữ và khởi tố tư pháp để bảo đảm việc tôn trọng các luật và quy định mà mình đã ban hành theo đúng Công ước".
Trước tham vọng kiểm soát Biển Đông, hiện thực hóa "đường lưỡi bò" của Trung Quốc, Việt Nam cần có những biện pháp thích đáng ở các cấp độ khác nhau: song phương, khu vực và toàn cầu. Một măt, chúng ta kiên trì theo đuổi các biện pháp hòa bình, phù hợp với quy định của luật quốc tế, đặc biệt là Công ước Luật biển năm 1982, nhưng kiên quyết, không khoan nhượng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đã được Công ước thừa nhận.
Mặt khác, Việt Nam cần sử dụng hiệu quả cơ chế khu vực, thông qua vai trò của ASEAN để giải quyết vấn đề Biển Đông. Với tư cách là tổ chức quốc tế khu vực Đông Nam Á, ASEAN cần có tiếng nói, thể hiện rõ quan điểm đối với hành vi vi phạm luật quốc tế của Trung Quốc, xâm phạm đến quyền chủ quyền và quyền tài phán của một quốc gia thành viên ASEAN – Việt Nam. Trên thực tế, Trung Quốc đã, đang và sẽ áp dụng chính sách vừa "xoa dịu", vừa "đe dọa" đối với từng quốc gia thành viên ASEAN để thực hiện tham vọng tại Biển Đông. Vì vậy, sự đồng thuận của 10 quốc gia ASEAN trong thời điểm này là hết sức cần thiết, và đó sẽ là một điểm tựa vững chắc để đối phó với chính sách ngày càng leo thang của Trung Quốc. Bên cạnh đó, Việt Nam cần tranh thủ sự ủng hộ của các nước tại các diễn đàn đa phương, đặc biệt là Liên hợp quốc để cộng đồng quốc tế hiểu đúng về tình hình Biển Đông, hiểu đúng chiến lược "tranh chấp hóa" Biển Đông của Trung Quốc, cũng như hành vi vi phạm của Trung Quốc tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam.
Dưới góc độ luật quốc tế, Việt Nam và Trung Quốc có thể thỏa thuận đưa vụ việc ra giải quyết tại cơ quan tài phán quốc tế. Trong trường hợp không có thỏa thuận của Trung Quốc, Việt Nam có quyền khởi kiện theo cơ chế của Công ước Luật biển năm 1982, buộc quốc gia này bồi thường thiệt hại cho phía Việt Nam.
Trong vụ Bình Minh 02, tàu hải giám Trung Quốc thực hiện hành vi cắt cáp, cản trở hoạt động thăm dò khai thác dầu khí của tàu Bình Minh 02 tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. Đối với Việt Nam, hành động của Trung Quốc là vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, phù hợp với quy định tại các điều 56, 58, 76 và 77 của Công ước Luật biển năm 1982. Trong khi đó, Trung Quốc cho rằng "việc phía Việt Nam tiến hành hoạt động thăm dò dầu khí tại vùng biển do Trung Quốc quản lý đã làm tổn hại lợi ích và quyền quản lý của Trung Quốc". Hành động của phía Trung Quốc là "hoạt động giám sát và chấp pháp trên biển" trong vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc. Như vậy, tranh chấp phát sinh giữa Việt Nam và Trung Quốc liên quan đến việc giải thích và áp dụng các điều 56, 58, 76 và 77 của Công ước về việc thực hiện quyền chủ quyền của quốc gia ven biển đối với hoạt động thăm dò khai thác nguồn tài nguyên dầu khí ở đáy biển và lòng đất dưới đáy bên dưới vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Tranh chấp này không liên quan đến các tranh chấp được đề cập trong tuyên bố ngày 25/8/2006 của Trung Quốc, cụ thể (i) không liên quan đến vấn đề phân định biển; (ii) không liên quan đến hoạt động quân sự; (iii) không liên quan đến hoạt động nghiên cứu khoa học biển; (iv) không liên quan đến hoạt động đánh bắt hải sản và (v) không thuộc thẩm quyền của Hội đồng bảo an. Việt Nam và Trung Quốc đều không có tuyên bố lựa chọn các cơ quan tài phán nên sẽ được xác định là chấp nhận thẩm quyền của Tòa án trọng tài thành lập theo Phụ lục VII của Công ước. Vì vậy, Việt Nam có thể chuẩn bị hồ sơ, khởi kiện Trung Quốc theo thủ tục trọng tài nói trên.
Tóm lại, việc Trung Quốc cho tàu hải giám căt cáp thăm dò, cản trở hoạt động của tàu Bình Minh 02 khi tàu này đang hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam là hành vi vi phạm nghiêm trọng Công ước Luật biển năm 1982. Tuy nhiên, đây có thể chỉ là bước "khởi đầu" của chiến lược hiện thực hóa "đường lưỡi bò" của Trung Quốc. Trước nguy cơ này, Việt Nam cần thể hiện thái độ kiên quyết, giải quyết mọi xung đột, mâu thuẫn bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau và tuân thủ luật pháp quốc tế, nhưng đấu tranh không khoan nhượng, thực hiện mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích quốc gia, mà cụ thể đã được ghi nhận trong Công ước Luật biển năm 1982.
Tiến sĩ Nguyễn Toàn Thắng
-
- Tam đẳng
- Bài viết: 552
- Tham gia: 12:23, 08/09/10
TL: Liệu... điều đó có xảy ra??? Việt Nam ơi...
Và đây, các " ngôn từ" ngoại giao:
........Đối thoại Shangri La : Biển Đông sau những ngôn từ ngoại giao
SGTT – Thứ hai, ngày 06 tháng sáu năm 2011
....tweet0EmailIn ra......SGTT.VN - Trong bối cảnh vấn đề Biển Đông được dư luận trong nước và quốc tế quan tâm theo dõi tại hội nghị thượng đỉnh An ninh châu Á (Shangri La) tại Singapore (từ 3 – 5.6), thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên viện trưởng viện Nghiên cứu chiến lược và khoa học, bộ Công an đã có cuộc trao đổi với Sài Gòn Tiếp Thị về vấn đề này.
Thưa ông, trước khi Đối thoại Shangri La diễn ra, vụ việc tàu hải giám Trung Quốc xâm phạm lãnh thổ Việt Nam đã gây nên bức xúc trong dư luận. Nhiều người hy vọng với sự kiện này, Đối thoại Shangri La sẽ nóng lên, song thực tế hình như không phải vậy. Ông nhận định thế nào về thái độ của các nước tại Đối thoại Shangri La lần này?
Chúng ta hãy nhìn vào hai nước lớn là Mỹ và Trung Quốc. Trong chuyến thăm Mỹ hồi đầu năm 2011 của Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào, hai nước đã ngầm hứa hẹn với nhau sẽ không làm gì căng thẳng. Họ cam kết với nhau giữ gìn hoà bình. Đó là cái phông cơ bản quan hệ hai nước lớn.
Thứ hai, tại Đông Bắc Á, hôm 21.5 vừa qua, ba cường quốc là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc đã họp bàn với nhau. Họ đã tuyên bố với thế giới, hứa hẹn giải quyết các vấn đề ở vùng biển có liên quan đến ba nước bằng thương lượng và hoà bình. Như vậy, ba nước lớn ở Đông Bắc Á đã “dàn xếp” được với nhau.
Bên cạnh đó, hôm 25.5 (trước khi xảy ra vụ tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 2 của PVN vào 26.5), đại diện của Trung Quốc cũng đến thăm Indonesia, nước đang là chủ tịch ASEAN và là nước có lãnh thổ, dân số và tiềm lực kinh tế lớn nhất của Đông Nam Á.
Cảm nhận của ông về phát biểu của Trung Quốc và Mỹ tại hội nghị?
Trung Quốc vẫn lặp lại tuyên bố cam kết gìn giữ hoà bình ở khu vực, giống như ở Đối thoại Shangri La năm ngoái 2010. Điều đó không có gì mới cả, so với tất cả các cuộc tiếp xúc trước đây, dù ở cấp này hay cấp kia. Vẫn nguyên một luận điệu như vậy bởi suy cho cùng, khi các nước đến diễn đàn này thì không thể không nói đến gìn giữ hoà bình được. Nếu một nước nào không nói đến sẽ bị cô lập; dù họ có muốn hay không thì xu thế áp đảo trên thế giới hiện nay vẫn là hoà bình, ổn định. Do đó, buộc lòng bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt phải nói như vậy. Nhưng nói thế, còn hành động thế nào họ còn phải xem.
Về phía Mỹ, bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates cũng nói thẳng thắn, rằng Mỹ có lợi ích sống còn ở Đông Á. Việc đảm bảo thông thương ở Biển Đông gắn với lợi ích an ninh quốc gia của Mỹ. Mỹ phản đối mọi lực lượng, quốc gia ngăn cản thông thương. Do đó Mỹ sẽ củng cố quan hệ với các nước ASEAN và các bên liên quan đảm bảo hoà bình, ổn định ở Biển Đông.
Có thể thấy yêu cầu cao nhất của Mỹ là lưu thông hàng hải, có lợi ích kinh tế của họ. Nhưng Mỹ chỉ phát biểu đến thế thôi.Tôi muốn nói rằng, đối thoại Shangri La chỉ là nơi các nước thể hiện quan điểm, nhưng không thể đi đến kết luận nào.
Có nghĩa là vấn đề Biển Đông không được đưa đến “đúng tầm” như dư luận trong nước mong muốn?
Đúng vậy, Biển Đông, trước hết, là vấn đề toàn vẹn chủ quyền của Việt Nam. Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh trước diễn đàn đã gặp người đồng cấp Trung Quốc Lương Quang Liệt và khẳng định, Trung Quốc xâm phạm chủ quyền của Việt Nam, vi phạm DOC với ASEAN, đề nghị Trung Quốc không lặp lại và cùng giải quyết qua thương lượng.
Việt Nam tại Đối thoại Shangri La phải có lựa chọn đúng mức, phù hợp với xu thế chung của thế giới. Nếu chúng ta đi ngược lại xu thế thì thậm chí có thể gây nên tiêu cực. Chúng ta chỉ tận dụng ở diễn đàn đến thế thôi, còn phải làm nhiều việc khác.
Một trong những giải pháp được nhiều người trông cậy là tạo nên đoàn kết trong ASEAN, ông có bình luận gì về việc này?
Giới quan sát quốc tế vẫn thấy rằng, tranh chấp đền Preah Vihear giữa Thái Lan và Campuchia, dù là hai thành viên của ASEAN, cũng không ngồi lại được với nhau. Vai trò của ASEAN cũng mờ nhạt.
Điểm thứ hai, Biển Đông chỉ là liên quan đến một số nước trong hiệp hội, các nước không dính líu thì không có phản ứng gì. Có thể nói ASEAN chưa tạo được nhận thức chung về an ninh ở Biển Đông. Đó là điểm yếu của ASEAN, làm giảm sút uy tín của ASEAN. Trung Quốc biết rõ sự cố kết lỏng lẻo của ASEAN, nên họ mới lấn tới.
Theo ông, Việt Nam cần phải làm gì lúc này?
Đối với các nước ASEAN có liên quan như Philippines, Malaysia, Indonesia, Brunei, chúng ta phải ủng hộ họ bảo vệ những lợi ích chính đáng của họ ở Biển Đông, theo công ước Luật biển 1982 của Liên hiệp quốc. Có như vậy thì các nước này mới ủng hộ lại lợi ích chính đáng của chúng ta. Bên cạnh đó cần củng cố quan hệ với các nước khác như Mỹ, Nga, Nhật, Ấn Độ... và cộng đồng quốc tế. Đó chính là sức mạnh thời đại.
Điều đó giống với điều Việt Nam đã làm trong hai cuộc chiến tranh trước đây để được dư luận quốc tế ủng hộ?
Rõ ràng là như vậy. Chúng ta bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền là điều chính nghĩa. Trước đây chúng ta có được sự ủng hộ của các nước yêu chuộng hoà bình trên thế giới do chúng ta làm cho thế giới hiểu được bản chất cuộc chiến tranh chính nghĩa của Việt Nam, là gìn giữ chủ quyền, độc lập dân tộc.
Giờ đây Việt Nam cũng cần làm được điều tương tự. Chính phủ cần có tuyên bố để gần 90 triệu dân trong nước và 6 tỉ người trên thế giới hiểu rằng việc Trung Quốc “gây hấn” ở Biển Đông là xâm phạm chủ quyền của Việt Nam.
Nhưng người phát ngôn bộ Ngoại giao Nguyễn Phương Nga đã có tuyên bố phản đối Trung Quốc rồi, thưa ông?
Một chuyện hệ trọng như vậy thì người phát ngôn bộ Ngoại giao lên tiếng là chưa đủ liều lượng. Tôi cho rằng Nhà nước Việt Nam phải lên tiếng, Quốc hội phải bàn việc này, thường vụ Quốc hội phải bàn, phải làm cho toàn dân và thế giới hiểu rõ bản chất vấn đề. Điều đó mới thể hiện sự rõ ràng, kiên quyết của Việt Nam.
Ca Thy (thực hiện)
.....
Tôi nghe "mùi" manh mún như "mùi" của nước Đức trước đây. Một quốc gia mới nổi dậy về kinh tế, dân số đông nhất thế giới, chủ nghĩa yêu nước cực đoan. Và cũng là sự cả nể của các cường quốc quốc tế và khu vực. Đến bao giờ, " họ" mới giật mình đây? Và điều gì mới khiến họ giật mình?
........Đối thoại Shangri La : Biển Đông sau những ngôn từ ngoại giao
SGTT – Thứ hai, ngày 06 tháng sáu năm 2011
....tweet0EmailIn ra......SGTT.VN - Trong bối cảnh vấn đề Biển Đông được dư luận trong nước và quốc tế quan tâm theo dõi tại hội nghị thượng đỉnh An ninh châu Á (Shangri La) tại Singapore (từ 3 – 5.6), thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên viện trưởng viện Nghiên cứu chiến lược và khoa học, bộ Công an đã có cuộc trao đổi với Sài Gòn Tiếp Thị về vấn đề này.
Thưa ông, trước khi Đối thoại Shangri La diễn ra, vụ việc tàu hải giám Trung Quốc xâm phạm lãnh thổ Việt Nam đã gây nên bức xúc trong dư luận. Nhiều người hy vọng với sự kiện này, Đối thoại Shangri La sẽ nóng lên, song thực tế hình như không phải vậy. Ông nhận định thế nào về thái độ của các nước tại Đối thoại Shangri La lần này?
Chúng ta hãy nhìn vào hai nước lớn là Mỹ và Trung Quốc. Trong chuyến thăm Mỹ hồi đầu năm 2011 của Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào, hai nước đã ngầm hứa hẹn với nhau sẽ không làm gì căng thẳng. Họ cam kết với nhau giữ gìn hoà bình. Đó là cái phông cơ bản quan hệ hai nước lớn.
Thứ hai, tại Đông Bắc Á, hôm 21.5 vừa qua, ba cường quốc là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc đã họp bàn với nhau. Họ đã tuyên bố với thế giới, hứa hẹn giải quyết các vấn đề ở vùng biển có liên quan đến ba nước bằng thương lượng và hoà bình. Như vậy, ba nước lớn ở Đông Bắc Á đã “dàn xếp” được với nhau.
Bên cạnh đó, hôm 25.5 (trước khi xảy ra vụ tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 2 của PVN vào 26.5), đại diện của Trung Quốc cũng đến thăm Indonesia, nước đang là chủ tịch ASEAN và là nước có lãnh thổ, dân số và tiềm lực kinh tế lớn nhất của Đông Nam Á.
Cảm nhận của ông về phát biểu của Trung Quốc và Mỹ tại hội nghị?
Trung Quốc vẫn lặp lại tuyên bố cam kết gìn giữ hoà bình ở khu vực, giống như ở Đối thoại Shangri La năm ngoái 2010. Điều đó không có gì mới cả, so với tất cả các cuộc tiếp xúc trước đây, dù ở cấp này hay cấp kia. Vẫn nguyên một luận điệu như vậy bởi suy cho cùng, khi các nước đến diễn đàn này thì không thể không nói đến gìn giữ hoà bình được. Nếu một nước nào không nói đến sẽ bị cô lập; dù họ có muốn hay không thì xu thế áp đảo trên thế giới hiện nay vẫn là hoà bình, ổn định. Do đó, buộc lòng bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt phải nói như vậy. Nhưng nói thế, còn hành động thế nào họ còn phải xem.
Về phía Mỹ, bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates cũng nói thẳng thắn, rằng Mỹ có lợi ích sống còn ở Đông Á. Việc đảm bảo thông thương ở Biển Đông gắn với lợi ích an ninh quốc gia của Mỹ. Mỹ phản đối mọi lực lượng, quốc gia ngăn cản thông thương. Do đó Mỹ sẽ củng cố quan hệ với các nước ASEAN và các bên liên quan đảm bảo hoà bình, ổn định ở Biển Đông.
Có thể thấy yêu cầu cao nhất của Mỹ là lưu thông hàng hải, có lợi ích kinh tế của họ. Nhưng Mỹ chỉ phát biểu đến thế thôi.Tôi muốn nói rằng, đối thoại Shangri La chỉ là nơi các nước thể hiện quan điểm, nhưng không thể đi đến kết luận nào.
Có nghĩa là vấn đề Biển Đông không được đưa đến “đúng tầm” như dư luận trong nước mong muốn?
Đúng vậy, Biển Đông, trước hết, là vấn đề toàn vẹn chủ quyền của Việt Nam. Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh trước diễn đàn đã gặp người đồng cấp Trung Quốc Lương Quang Liệt và khẳng định, Trung Quốc xâm phạm chủ quyền của Việt Nam, vi phạm DOC với ASEAN, đề nghị Trung Quốc không lặp lại và cùng giải quyết qua thương lượng.
Việt Nam tại Đối thoại Shangri La phải có lựa chọn đúng mức, phù hợp với xu thế chung của thế giới. Nếu chúng ta đi ngược lại xu thế thì thậm chí có thể gây nên tiêu cực. Chúng ta chỉ tận dụng ở diễn đàn đến thế thôi, còn phải làm nhiều việc khác.
Một trong những giải pháp được nhiều người trông cậy là tạo nên đoàn kết trong ASEAN, ông có bình luận gì về việc này?
Giới quan sát quốc tế vẫn thấy rằng, tranh chấp đền Preah Vihear giữa Thái Lan và Campuchia, dù là hai thành viên của ASEAN, cũng không ngồi lại được với nhau. Vai trò của ASEAN cũng mờ nhạt.
Điểm thứ hai, Biển Đông chỉ là liên quan đến một số nước trong hiệp hội, các nước không dính líu thì không có phản ứng gì. Có thể nói ASEAN chưa tạo được nhận thức chung về an ninh ở Biển Đông. Đó là điểm yếu của ASEAN, làm giảm sút uy tín của ASEAN. Trung Quốc biết rõ sự cố kết lỏng lẻo của ASEAN, nên họ mới lấn tới.
Theo ông, Việt Nam cần phải làm gì lúc này?
Đối với các nước ASEAN có liên quan như Philippines, Malaysia, Indonesia, Brunei, chúng ta phải ủng hộ họ bảo vệ những lợi ích chính đáng của họ ở Biển Đông, theo công ước Luật biển 1982 của Liên hiệp quốc. Có như vậy thì các nước này mới ủng hộ lại lợi ích chính đáng của chúng ta. Bên cạnh đó cần củng cố quan hệ với các nước khác như Mỹ, Nga, Nhật, Ấn Độ... và cộng đồng quốc tế. Đó chính là sức mạnh thời đại.
Điều đó giống với điều Việt Nam đã làm trong hai cuộc chiến tranh trước đây để được dư luận quốc tế ủng hộ?
Rõ ràng là như vậy. Chúng ta bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền là điều chính nghĩa. Trước đây chúng ta có được sự ủng hộ của các nước yêu chuộng hoà bình trên thế giới do chúng ta làm cho thế giới hiểu được bản chất cuộc chiến tranh chính nghĩa của Việt Nam, là gìn giữ chủ quyền, độc lập dân tộc.
Giờ đây Việt Nam cũng cần làm được điều tương tự. Chính phủ cần có tuyên bố để gần 90 triệu dân trong nước và 6 tỉ người trên thế giới hiểu rằng việc Trung Quốc “gây hấn” ở Biển Đông là xâm phạm chủ quyền của Việt Nam.
Nhưng người phát ngôn bộ Ngoại giao Nguyễn Phương Nga đã có tuyên bố phản đối Trung Quốc rồi, thưa ông?
Một chuyện hệ trọng như vậy thì người phát ngôn bộ Ngoại giao lên tiếng là chưa đủ liều lượng. Tôi cho rằng Nhà nước Việt Nam phải lên tiếng, Quốc hội phải bàn việc này, thường vụ Quốc hội phải bàn, phải làm cho toàn dân và thế giới hiểu rõ bản chất vấn đề. Điều đó mới thể hiện sự rõ ràng, kiên quyết của Việt Nam.
Ca Thy (thực hiện)
.....
Tôi nghe "mùi" manh mún như "mùi" của nước Đức trước đây. Một quốc gia mới nổi dậy về kinh tế, dân số đông nhất thế giới, chủ nghĩa yêu nước cực đoan. Và cũng là sự cả nể của các cường quốc quốc tế và khu vực. Đến bao giờ, " họ" mới giật mình đây? Và điều gì mới khiến họ giật mình?

TL: Liệu... điều đó có xảy ra??? Việt Nam ơi...
Việt Nam không giật mình. Vì Việt Nam quá hiểu thế nào kẻ thù phương bắc từ vài nghìn năm trước.
-
- Lục đẳng
- Bài viết: 3378
- Tham gia: 10:29, 05/05/10
- Đến từ: Hoàng mai-HN 096 9898 159
- Liên hệ:
TL: Liệu... điều đó có xảy ra??? Việt Nam ơi...
Nhớ năm xưa
Bạch Đằng Giang vùi thây ô mã
rất có thể
ngàn năm sau
giữa Biển Đông chôn xác ôn-hồ
Bạch Đằng Giang vùi thây ô mã
rất có thể
ngàn năm sau
giữa Biển Đông chôn xác ôn-hồ
Được cảm ơn bởi: MenhVCDhn
-
- Ngũ đẳng
- Bài viết: 2263
- Tham gia: 08:59, 17/12/10
TL: Liệu... điều đó có xảy ra??? Việt Nam ơi...
Đúng là giọng quân nhân nha:Dluongthienxich đã viết:Nhớ năm xưa
Bạch Đằng Giang vùi thây ô mã
rất có thể
ngàn năm sau
giữa Biển Đông chôn xác ôn-hồ
Nhớ năm lớp 11 vì trót dại nói 1 câu giữa đội quân " Chân đồng vai sắt - Đánh giỏi bắn trúng" là: "giờ mà đánh nhau thì mình thua Mỹ là cái chắc" đã bị bố và mấy chú ở khu phân tích : này thì chúng đến nước ta ko thân thuộc địa hình, này thì tinh thần yêu nước....rồi bị mắng cho vì tội bọn trẻ bây giờ thế nọ thế chai...ê hết cả mặt.
Nên giờ thì: Yêu nước! yêu nước!yêu nước!:D Nào, nghe Gần lắm trường sa cho khí thế.
http://mp3.zing.vn/bai-hat/Gan-Lam-Truo ... AA7AF.html
Lý số có góp gạch xây Trường Sa không nhỉ?
Được cảm ơn bởi: thương thương
TL: Liệu... điều đó có xảy ra??? Việt Nam ơi...
Có thông tin cho biết giờ mà xảy ra chiến tranh thì hải quân VN trụ ko nổi đc 1 tuần. hic hic
TQ thâm hơn Mỹ nhiều. Nó ở gần VN như thế giờ chắc cũng thông thạo địa hình VN roài.
Tinh thần thì tin thần chứ. Ko có vũ khí thì chiến đấu bằng niềm tin ah? hay lại dùng kế hoạch "biển người biển lửa" cho giảm bớt dân số?
TQ thâm hơn Mỹ nhiều. Nó ở gần VN như thế giờ chắc cũng thông thạo địa hình VN roài.
Tinh thần thì tin thần chứ. Ko có vũ khí thì chiến đấu bằng niềm tin ah? hay lại dùng kế hoạch "biển người biển lửa" cho giảm bớt dân số?

Sửa lần cuối bởi ngo_ngot vào lúc 16:08, 15/06/11 với 1 lần sửa.
TL: Liệu... điều đó có xảy ra??? Việt Nam ơi...
Trung Quốc hăm Tát Việt Nam vỡ mặt
http://www.youtube.com/watch?v=I5mO3xNo88k" target="_blank
http://www.youtube.com/watch?v=I5mO3xNo88k" target="_blank
TL: Liệu... điều đó có xảy ra??? Việt Nam ơi...
Đàm Thùy 213 đã viết:Trung Quốc hăm Tát Việt Nam vỡ mặt
http://www.youtube.com/watch?v=I5mO3xNo88k" target="_blank
mấy tên tàu này hiếu chiến nhẩy. nhưng anh VN cũng khôn lỏi chả kém
