Có tin, Phật giáo không hoài nghi có tồn tại thiên đường và địa ngục, bởi vì thiên đường, địa ngục đều cùng nằm trong phạm vi luân hồi, sinh tử. Phật giáo cho rằng, con người khi chưa thoát khỏi giới hạn của sinh tử luân hồi thì vẫn có khả năng thực nghiệm thiên đường và địa ngục, thậm chí có thể nói, mọi người đều đã từng sống qua ở thiên đường và địa ngục. Sống theo 5 giới và 10 thiện ở cấp cao thì sẽ sinh ở thiên đường. Phạm các tội lớn như 10 ác, 5 nghịch thì đọa địa ngục. Chịu khổ báo hết rồi, chúng sinh ở địa ngục vẫn có thể sinh lên thiên đường. Ở thiên đường, hưởng phúc báo hết rồi, chúng sinh ở thiên đường lại có thể xuống địa ngục. Vì vậy, Phật giáo cho rằng thiên đường tuy là cảnh giới sung sướng, nhưng không phải là nơi an lạc cứu kính, địa ngục tuy là cảnh giới khổ, nhưng cũng có ngày thoát khổ.
Đồng thời, tu thiện nghiệp có cao thấp khác nhau, cho nên thiên đường cũng có thứ bậc. Do ác nghiệp cũng có nặng nhẹ khác nhau, cho nên địa ngục cũng có đẳng cấp.
Thiên đường của Phật giáo chi làm 28 cõi Trời, thuộc 3 giới. Có sáu cõi Trời Dục giới, gần gũi với cõi người. Cao hơn nữa, có 18 cõi Trời thuộc Sắc giới. Và ở trên Sắc giới, có 4 cõi Trời thuộc Vô sắc giới. Trên sự thực, làm người mà tu thiện nghiệp chỉ có thể sinh ở 6 cõi trời và Dục giới. Trong các cõi Trời thuộc Sắc giới, trừ cõi trời Tịnh cư thiên ở Sắc giới, còn thì tất cả các cõi trời khác đều là những cảnh giới thiền định, do tu thiền mà đạt được.
Địa ngục trong Phật giáo, lớn nhỏ có rất nhiều, không kể xiết, do khổ báo của chúng sinh ở địa ngục có khác biệt, chủ yếu phân thành 3 loại địa ngục lớn : Căn bản địa ngục, cận biên địa ngục và cô độc địa ngục. Loại địa ngục thường được nói tới trong kinh Phật là căn bản địa ngục. Căn bản địa ngục lại chia thành tám địa ngục đại nhiệt (nóng dữ) và tám địa ngục đại hàn (lạnh giá). Chúng sinh, tùy theo tội ác đã phạm mà đọa vào các cấp địa ngục khác nhau. Người thế gian nói rằng, người làm ác bị quỷ sứ ở địa ngục bắt trói nhưng thực ra, lên thiên đường hay xuống địa ngục, đều do nghiệp lực thúc đẩy, dắt dẫn. Nghiệp lực hướng lên các cõi trời thì được sinh lên các cõi trời để hưởng phúc. Nghiệp lực hướng xuống địa ngục, thì đọa xuống các địa ngục để chịu khổ.
ĐỊA NGỤC
Căn bản ngục, Cận biên ngục, Cô độc ngục, mỗi ngày không còn dựng lên một nơi mà đã tràn lan khắp nơi trong cuộc sống….
Địa ngục có nhiều truyền thuyết diễn nghĩa và cũng tùy theo những khái niệm riêng của mỗi tôn giáo. Trong lãnh vực Văn học dân gian, Địa ngục được xem như một địa danh siêu nhiên, nơi của các linh hồn đến sau khi chết.
Phần lớn các tôn giáo đều cho rằng địa ngục là nơi giam giữ, trừng phạt các linh hồn tội lỗi, và đây cũng là nơi để cho các linh hồn được ăn năn sám hối, trước khi đi đầu thai. Phản nghĩa của Địa ngục là Thiên đàng.
Có nhiều người không tin có địa ngục. Bởi vì họ cho rằng Thấy rồi họ mới tin. Nhưng dù có dùng lý luận khoa học hay phương tiện nào đó đễ chứng minh, thì rất khó để làm họ tin được.
Thí dụ trong đời sống hàng ngày chúng ta, ai ai cũng biết, vạn vật sống trên trái đất này đều phải nhờ không khí, nhưng không khí ở dạng vô hình làm sao thấy được, do đó chúng ta vẫn phải tin rằng nếu không có không khí thì chúng ta sẽ chết, đó là chuyện thực tế không ai chối cãi được.
Thêm một thí dụ thực tế khác nữa : Trong đời chúng ta thường nghe nói về nguồn gốc tổ tiên của chúng ta, mặc dù không thấy mặt được họ, nhưng chúng ta vẫn phải tin rằng, bằng một lý lẽ đơn giản: Nếu không có ông bà tổ tiên, thì làm sao ngày nay chúng ta được sống hiện diện tại đây.
Những chuyện đơn giản trước mắt có thể hiểu và tìm hiểu được bằng thực chất so sánh mà còn nghi ngờ thì những việc khác không dùng mắt để thấy được thì làm sao mà có thể tin. Cũng như : người ta không thấy được ánh sáng là tại vì người ta mù, chứ không phải người mù mà không biết ánh sáng.
Người con Phật tin Phật là qua trí tuệ chứng đắc của Ngài, bởi vì Ngài đã thấy rõ mọi sự việc trên thế gian và đã kể lại cho những đồ đệ của Ngài nghe những việc như thế để viết thành kinh để răn dạy người đời. Còn tin hay không, là chuyện cá nhân của mỗi người. Đạo Phật hay Đức Phật không kêu gọi và cũng chẳng bắt ai phải tin theo.
Giáo lý của Đức Phật như ngọn đèn soi sáng trong cuộc sống thực tế, vậy thì thực tế trong cuộc sống là gì? Tất cả mọi sinh hoạt thực tế trong cuộc sống đều phải bị chi phối bởi nghiệp lực, vô thường, khổ, không, và vô ngã.
Có một điều chắc chắn : không có hôm qua thì không có hôm nay và ngày mai sẽ không có. Nhân và quả tạo thành cái giải luân hồi vô tận và chúng ta nên nghĩ rằng : Nhân tốt sẽ không bao giờ sanh trái đắng.
Đức Phật có nói : Chúng sanh bị đọa vào địa ngục vì đã tạo nhiều nghiệp ác, tà kiến. Chúng ta nhờ tạo dựng nghiệp nhân làm người, sống giữa cõi người, còn những chúng sanh nào tạo nghiệp nhân địa ngục thì sống trong địa ngục v.v... Đây là một sự thật của nhân quả, nghiệp báo, vì thế địa ngục là một cảnh giới, một cõi sống cụ thể, không phải là ẩn dụ hay biểu tượng.
Ngày nay, địa ngục không phải chỉ xuất hiện ở một thế giới xa lạ và bí mật nào, như chúng ta đã tham khảo sơ qua trong những đoạn kinh ở trên hay trong kho tàng văn học dân gian, mà địa ngục hiện hữu luôn nằm ngay trong cuộc đời hiện hữu của chúng ta.
Bởi vì ở đâu có đau khổ, có máu và nước mắt là ở đấy có địa ngục.Thế giới hiện đang chiêu cảm nhiều thiên tai chết chốc, giết chốc tàn khốc bởi chiến tranh đang diển ra khắp nơi. Mỗi ngày hàng vạn con vật bị lên lò sát sanh, hàng ngàn người bị tra tấn trong mọi lao tù. Đây mới chính là hình ảnh thực tế của một địa ngục hiện hữu trần gian một cách trọn vẹn.
Căn bản ngục, Cận biên ngục, Cô độc ngục, mỗi ngày không còn dựng lên một nơi mà đã tràn lan khắp nơi trong cuộc sống, không do sự xúi giục của Ngạ Quỷ, đầu trâu mặt ngựa, mà do tự bàn tay tàn bạo của chính con người tự tạo ra, để rồi con người phải tự chính mình tự chôn vào đó, cũng chỉ vì Nhân loại tranh chấp nhau vì những lợi quyền kinh tế, chánh trị và tranh chấp nhau vì tư tưởng.
Những tâm niệm xấu xa, ích kỷ, kiêu mạn, tham lam và tàn bạo, là một địa ngục sâu thẳm trong mỗi tâm hồn nhân loại và cũng là nguồn gốc tạo ra các loại địa ngục khác trên thế gian.
Khi ngọn lửa tâm tưởng xấu xa, ích kỷ, kiêu mạn, tham lam và tàn bạo còn bừng cháy trong mỗi cá nhân, thì ngọn lửa khổ đau của toàn thể nhân loại không thể nào dập tắt được nữa. Thế giới ngoại cảnh biến hiện tùy thuộc vào tâm thức của mỗi người. Khi đôi mắt đã nhuộm màu đỏ của sự tàn ác, thì cảnh vật bên ngoài làm gì không ngập đầy máu đau thương !.
Muốn cứu độ nhân loại đang thoi thóp trong đau khổ và hận thù trong các địa ngục, thì mỗi cá nhân phải tự cứu mình trước đã. Đây chính là cuộc cách mạng vĩ đại nhất rất khó làm.
Tất cả địa ngục không còn giá trị, khi trong lòng mỗi người không còn những ngọn lửa tâm tưởng xấu xa, ích kỷ, kiêu mạn, tham lam và tàn bạo.
MA VÀ NGẠ QUỶ
Nếu không có linh hồn, thì địa ngục có hay không? Ngạ Quỷ là ai ? Nhà họ ở đâu ? Họ sống bằng cách nào ? Lễ Vu Lan có phải cũng là lễ cúng cô hồn hay không? Ngày đại lễ Vu Lan có phần cúng Mông Sơn Thí Thực, người hay đi chùa chỉ nghe nói cúng Mông Sơn, mà ít nghe nói cúng thí. Vậy Mông Sơn Thí Thực, bốn chữ này phải có ý nghĩa gì đặc biệt mà người ta phải dùng?. Một mâm lễ nhỏ, một nồi cháo trắng gọi là cúng cháo. Tại sao phải cúng cháo?
Ngày nay, Ma vẫn là bí ẩn đối với nhân loại, có những câu chuyện nói về Ma, nhưng cũng không thể kết luận được là có Ma.
Qua cái nhìn của Văn hóa và Tôn giáo Việt Nam, thì con người gồm có một phần xác và một phần hồn. Khi phần xác chết thì phần hồn sẽ lìa khỏi xác và phần này được gọi là linh hồn. Nếu linh hồn đó không có cơ hội đầu thai hoặc nơi trú ngụ, mà còn vương vất ở những nơi có liên quan đến họ khi còn sống, thì từ ngữ bình dân thường gọi là : Ma, Hồn ma, Quỷ, Cô hồn...
Ma hay Hồn ma, là một khái niệm trừu tượng, trên thực tế, khi nói đến ma người ta thường diễn tả thấy một dáng người, trắng bạc, hay một cái bóng lờ mờ, hoặc một đống đen thùi lùi, còn chỗ ở của ma là những ngôi mộ, nhưng ma cũng có thể vương vất ở những nơi tăm tối, vắng vẻ. Theo quan điểm một số người nói là : chỉ có người có duyên với Ma thì mới có thể nhìn thấy được Ma hay những người có khả năng đặc biệt còn gọi là các nhà ngoại cảm là có thể thấy và nói chuyện được với Ma.
Một số khác cho rằng Ma có thể biết được tất cả những gì người sống nghĩ và các việc đã, đang và sắp xảy ra như kết quả xổ số, đồng thời cũng có khả năng tác nhập xác của người sống như hiện tượng lên đồng, tác động lên cảm quan người sống như dắt người sống đi lạc vào bụi, xúi người sống ăn đất mà tưởng ăn bánh hoặc ma có thể tác động lên vật chất như tạo ra tiếng động, rung cây, xô lệch bàn ghế... Đại đa số người ta chỉ nói : Ma chỉ nhát người chứ không hại người. Những người thường hay tin có Ma là phụ nữ, trẻ em, người già, sống ở vùng miền quê.
Ngày nay, Ma vẫn là bí ẩn đối với nhân loại, có những câu chuyện nói về Ma, nhưng cũng không thể kết luận được là có Ma. Sự bí ẩn này còn bị hạn chế trong tầm hiểu biết của con người. Các nhà cận tâm lý học có rất nhiều nghiên cứu về hiện tượng ma quỷ nhưng vẫn chưa có khẳng định khoa học nào.
Theo các giả thuyết khoa học Ma có thể là do các sóng hạ âm gây ra, gió biển mạnh thổi nhanh dọc theo các hành lang và tháp canh của những lâu đài và biệt thự cổ tạo ra các sóng hạ âm được cho là nguyên nhân gây ra hiện tượng nghe tiếng ma ở các nơi này.
Các nhà khoa học còn có giả thuyết: Mỗi con người chúng ta đều phát ra một từ trường có tần số dao động riêng, khi ta chết đi, nguồn sóng từ trường vẫn tồn tại. Khi có một ai đó có tần số phù hợp, sẽ kích thích từ trường này, làm cho người xung quanh nơi đó thấy lại những cảnh sinh hoạt trước đây của người chết.
Trong tín ngưỡng dân gian, người ta thường dùng các loại bùa chú, thánh giá, máu chó, tỏi, củ hành, cây dâu, cây đồng đình... để trừ ma, nhưng đôi khi các vật này không tác dụng gì với Ma mà họ cũng chẳng giải thích được tại sao Ma lại không sợ. Các thầy ngải dùng linh hồn, thường là chết oan, để trù ếm và luyện các các loại ngải có tác dụng hại người.
Mỗi quốc gia đều có những huyền thoại về Ma khác nhau, do đó Ma cũng trở thành đa dạng. Thí dụ như ở Việt Nam có ma da, ma le, ma gà, ma lai, ma trơi, ma không đầu, ma lưỡi dài, ma một mắt, ma cổ dài...Ở phương Tây thì có ma sói, ma cây, ma cà rồng.
Theo Phật giáo, Ma gọi đúng hơn là ngạ quỷ, là một trong lục đạo luân hồi, xếp trên súc sanh và địa ngục. Loài ngạ quỷ có hai nơi ở, một là nước Diêm La của nó, hai là sống trên dương gian cùng với người, vì vậy người ta hay nói đi đêm có khi gặp quỷ. Cuốn Petavatthu (Peta = Quỹ + vatthu = Truyện) là quyển sách thứ bảy trong Khuddaka Nikaya.
Kinh này tiếng Việt gọi là Tiểu bộ kinh, một bộ kinh mà Đức Phật đã dạy đầy đủ và chi tiết nhất cho các đệ tử của Ngài, đặc biệt là đệ tử xuất gia. Làm cách nào để từ cuộc sống đầy bùn nhơ này mà vươn lên được, cũng như hoa sen vươn lên được mà không bị bùn nhơ vấy bẩn?
Đọc Khuddaka Nikàya ta chúng ta sẽ ngạc nhiên khi thấy xã hội cách đây hơn 20 thế kỷ rồi, mà vẫn chẳng khác gì ờ đầu thế kỷ 21 này. Đức Phật và các đệ tử xuất gia của Ngài cũng bị chửi bới, cũng bị lăng nhục, như xã hội thời nay.
Kinh Bhàravàja (người cày ruộng) có ghi Đức Phật bị người ta kết án là ăn không ngồi rồi. Kinh Vasalasuttam (Kẻ bần tiện) Đức Phật bị người ta kêu la mắng chưởi giữa đường kẻ trọc đầu, sa môn ti tiện, bần tiện, hãy dừng lại.
Kinh Udana (ud.43) Đức Phật bị người ta vu oan qua mẩu chuyện các du sĩ ngoại đạo khác đã giết một nữ du sĩ có tên là Sundari, rồi đem chôn nàng vào cái hố trong cái mương tại Jetavana trong khu vườn của trưởng giả Anàthapindika. Sau khi đã thực hiện xong thủ đoạn, họ đến thưa với vua Pasenadi của nước Kosala.
Nhà vua lập tức hỏi họ xác của Sundari chôn ở đâu? Họ liền dẫn đến chỗ đã chôn xác Sundari, đào lên rồi khiêng xác đặt lên giường đi vào thành Savatthi từ đường này đến đường khác, chúng làm cho dân chúng tức giận nói rằng: “các người hãy xem công việc của các Thích tử! Vô liêm sĩ, là sa môn Thích tử này, theo ác giới, theo ác pháp, nói láo (….) sa môn hạnh của chúng đã đi đâu mất”[11].
Khuddaka Nikàya là quyển thứ năm của bộ Kinh Tạng (Sutta Pitaka). Bộ kinh này gồm có : Trường Bộ (Digha Nikaya), Trung Bộ (Majjhima Nikaya), Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikaya), Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikaya), và Tiểu Bộ (Khuddaka Nikaya).
Con người được coi như một tiểu thiên địa, một vũ trụ thu nhỏ. Vũ trụ bao la có vô số hệ mặt trời có sự sống giống như trái đất. Một hệ mặt trời mà có 1 hành tinh có sự sống có thể tạm gọi là Tam Giới.
Trong ABHIDHAMMA chương 10 có nói về Tam Giới và nó có 31 cõi được phân loại như sau: 11 cõi dục giới, 16 cõi sắc giới, 4 cõi vô sắc giới. Mỗi cõi có cấu tạo vật chất hoàn toàn khác nhau. Tiểu Thế Giới gồm 1.000 cái Tam Giới, Trung Thế Giới gồm 1.000 Tiểu Thế Giới, Đại Thế Giới gồm 1.000 Trung Thế Giới. Còn Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới là vô tận.
Tam giới phát triển qua 4 giai đoạn : Thành, Trụ, Hoại, Không. Một chu kỳ Thành, Trụ, Hoại, Không của Tam Giới gọi là Trụ Kiếp, 4 Trụ Kiếp được gọi là Đại Kiếp. Các dạng sống trên Tam Giới thường khởi đầu bằng sự Hóa Sanh khi hội đủ Duyên hay điều kiện. Sau đó mới có Thai Sanh, Noãn Sanh. Một năm thế gian tính tương đối là 365 ngày.
Dục giới gồm có 11 cõi : 4 cõi khổ và 7 cõi thiện dục giới như sau :
1. Ðịa Ngục (Niraya): Cõi này chỉ có mọi sự thống khổ chứ không có sự an vui, nơi mà các chúng sinh Tự Trừng Phạt do các Ác Nghiệp đã tạo. Cõi khổ có tuổi thọ không nhất định.
2. Ngạ Quỹ (Pettivisaya): Chúng không phải là ma quỹ vô hình, chúng có sắc thân nhưng mắt người không thể thấy được. Chúng không có cảnh giới riêng và luôn luôn bị đói khát. Chúng sống ở nhiều nơi khác nhau, nhà dân, rừng núi, hang động hay các chỗ nhớp nhúa. . . Cõi khổ có tuổi thọ không nhất định.
3. Súc Sanh (Tiricchānayoni): Các sinh vật đi ngang, bò đi, không đi thẳng như người, còn gọi là Bàng sanh, gần như là tất cả sinh vật bình thường trừ con người. Cõi khổ có tuổi thọ không nhất định.
4. A-Tu-La (Asurakāya): Asura nghĩa là những vị không có hoan lạc hay không chói sáng. Những chúng sanh này rất hung dữ, hay gây gổ. Loại A-Tu-La sanh ở đây không giống với loại A-Tu-La chư thiên chuyên gây chiến với chư thiên và sống ở cõi Tam Thập Tam Thiên. Cõi khổ có tuổi thọ không nhất định.
5. Cõi người (Manussa): những người có tâm cao thượng, do đó phải hiểu rằng được làm người là rất khó, tất cả mọi đứa trẻ bình thường được sinh ra đều là những thiên thần, chính cuộc sống và những người xung quanh biến chúng thành quái dị, con người là cái gì đó rất thiêng liêng và cao quý.
6. Tứ Thiên Vương (Cātummahārājika): đây là cõi thấp nhất trong các cõi chư thiên. Tuổi thọ 9.000.000 tuổi người. Dưới nó còn có các chư thần thấp hơn như sơn thần, thổ địa, thánh mẫu . . . (thường 1 ngày của họ bằng 1 tháng, 1 năm hoặc hơn tùy theo tầng cao hay thấp)
7. Tam Thập Tam Thiên (Tāvatimsa): Ðế Thích (Magha) cư ngụ ở đây. Sở dĩ gọi như vậy vì theo tích truyện có 33 vị dưới sự hướng dẩn của Ðế Thích đã làm những việc thiện và được tục sinh tại đây. Tuổi thọ 36.000.000 tuổi người.
8. Dạ Ma Thiên (Yāma): Yam nghĩa là tàn phá, diệt trừ. Nơi đây mọi đau khổ đều được trừ diệt. Tuổi thọ 144.000.000 tuổi người.
9. Ðâu Suất Ðà Thiên (Tusita): những vị sống sung sướng. Theo tục truyền, vị Bồ Tác tương lai (Di Lặc) đang sống tại đây và chờ cơ hội thuận tiện để tái sinh làm người và thành Phật. Tuổi thọ 576.000.000 tuổi người.
10. Hóa Lạc Thiên (Nimmānarati): những vị sống hoan lạc trong những lâu đài tự tạo ra. Tuổi thọ 2.304.000.000 tuổi người.
11. Tha Hóa Tự Tại Thiên (Paranimmitavasavatti): những vị đem dưới quyền của mình các vật do các vị khác đã hóa hiện. Tuổi thọ 9.216.000.000 tuổi người.
Sắc Giới gồm 16 cõi:
Cõi Sơ Thiền Sắc Giới có:
Phạm Chúng Thiên (Brahmapārisajjā): đây là cảnh giới thấp nhất. Những vị sanh ra ở đây là đồ chúng của Ðại Phạm Thiên (Mahābrahmā). Tuổi thọ 1/3 Trụ Kiếp.
Phạm Phụ Thiên (Brahmapurohitā): những vị sanh ra ở đây sẽ là phụ tá cho Ðại Phạm Thiên. Tuổi thọ 1/2 Trụ Kiếp.
Ðại Phạm Thiên (Mahābrahmā): các vị sanh ở đây có hình thái đẹp, hưởng nhiều hạnh phúc và sông lâu hơn các vị sinh trong 2 cảnh trời trên. Tuổi thọ 1 Trụ Kiếp.
Cõi Nhị Thiền Sắc Giới có :
Thiểu Quang Thiên (Parittābhā). Tuổi thọ 2 Đại Kiếp.
Vô Lượng Quang Thiên (Appamānābhā). Tuổi thọ 4 Đại Kiếp.
Quang Âm Thiên (Ābhassarā). Tuổi thọ 8 Đại Kiếp.
Cõi Tam Thiền Sắc Giới :
Thiểu Tịnh Thiên (Parittasubhā). Tuổi thọ 16 Đại Kiếp.
Vô Lượng Tịnh Thiên(Appamanāsubhā). Tuổi thọ 32 Đại Kiếp.
Biến Tịnh Thiên (Subhakinhā). Tuổi thọ 64 Đại Kiếp.
Cõi Tứ Thiền Sắc Giới có:
Quảng Quả Thiên (Vehapphalā). Tuổi thọ 500 đại kiếp.
Vô Tưởng Thiên (Asaññasattā). Tuổi thọ 500 đại kiếp.
Theo lời của Đức Phật Thích Ca thì có thể Thiền Tuệ đạt đến Diệt Thọ Tưởng Định, lúc đó sẽ là Vô Sinh – Vô Diệt, thoát khỏi sinh tử luân hồi.
Ngạ Quỷ là ai ? Nhà họ ở đâu ? Họ sống bằng cách nào ?
Trong cõi khổ thứ hai có tuổi thọ không nhất định của Dục giới có miêu tả về Ngạ Quỷ (Pali gọi là Pettivisaya). Chúng không phải là ma quỷ vô hình, chúng có sắc thân nhưng mắt người không thể thấy được. Chúng không có cảnh giới riêng và luôn luôn bị đói khát. Chúng sống ở nhiều nơi khác nhau, nhà dân, rừng núi, hang động hay các chỗ nhớp nhúa.
Từ Pettivisaya trong tiếng Pali được định nghĩa như sau:
Petā có nghĩa là cách ly sự an lạc, xuất nguồn từ câu: Sukhasamussayato Pākaṭṭho entīti.
Petti là Hội chúng của Ngạ quỷ xuất nguồn từ câu: Petānaṃ samūho.
Pettivisayo là chỗ ở, chỗ sanh của Ngạ quỷ xuất nguồn từ câu: Pettiyā visayo.
Ngạ quỷ cũng có nhiều loại, Ngạ quỷ nhỏ, Ngạ quỷ lớn, Ngạ quỷ biến hóa thành hình ảnh đẹp hoặc hình ành xấu. Về hình đẹp thì cho thấy dạng, nam, nữ, đạo sĩ, Sa di, Tỳ khưu. Còn xấu thì cho thấy là trâu, bò, voi, chó với hình dạng kinh khiếp như có đầu to, mắt lồi và có khi không hiện rõ...
Trong các loài Ngạ quỷ cũng có những loại phải chịu đói khát khổ sở, ăn những cặn bả được quăng bỏ ở những nơi dơ bẩn hay ăn đàm, mũ, nước miếng và phẩn ...
Rừng Vijjhātīavī là kinh thành của loài Ngạ quỷ, và Ngạ quỷ Mahiddhika là vị chúa tể cai trị tất cả các Ngạ quỷ khác.
Đây là 12 loại Ngạ quỷ được điển hình trong phẩm Lokapaññatti và Gacchatidīpanī:
1- Vantāsapetā hay Vantāsa: Ngạ quỷ ăn nước miếng, đàm, vật nôn mữa. Nguyên nghĩa Pali : Vantaṃ asati bhakkhatīti = Vantāso.
2- KuṇApāsapetā hay Kuṇapāsa: Ngạ quỷ ăn tử thi người hoặc thú. Nguyên nghĩa Pali: Kunapaṃ arati dakkhatīti = Kuṇapāso.
3- Gūthakhādakapetā hay Gūthakhādaka: Ngạ quỷ ăn phẩn. Nguyên nghĩa Pali: Gūthaṃ khādatīti = Gūthakhadako.
4- Aggijālamukhapetā hay Aggijālamukha: Ngạ quỷ thường có lửa trong miệng. Nguyên nghĩa Pali : Aggijālamukhatā etassāti = Aggījālamukho.
5- Sucimukhapetā hay Sūcimukha: Ngạ quỷ có miệng bằng lổ kim. Nguyên nghĩa Pali : Sūcipamānaṃ sukhaṃ etassāti = Sūcimukho.
6- Taṇhaṭṭikapetā hay Taṇhāhaṭṭita: Ngạ quỷ thường bị ái bức hại cho đói khát. Nguyên nghĩa Pali : Taṇhāya aṭṭhito pūḷitoti = Taṇhāhaṭṭito.
7- Sunijjhāmakapetā hay Sunijjhāmaka : Ngạ quỷ có thân đen như than. Nguyên nghĩa Pali: Suṭṭhu nissesena jhāno= Sunijjhāmo, Sunijjhāmo viyāti= Sunijjhāmako. Cây bị lửa đốt hết cành, lá, thân, chỉ còn lại gốc cây bị cháy gọi là Sunijjhāmaka.
8- Suttaṅgapetā hay Suttaṅga: Ngạ quỷ có móng tay nhỏ, móng chân dài và bén nhọn như dao. Nguyên nghĩa Pali : Sattasadisaṃ aṅgaṃ etassāti = Suttaṅgo.
9- Pabbataṅgapetā hay Pabbataṅgo: Ngạ quỷ có thân cao lớn bằng quả núi. Nguyên nghĩa Pali: Pabbatappamaṇo aṅgo etassāti = Pabbataṅgo.
10- Ajagaraṅgapetā hay Ajagaraṅga: Ngạ quỷ có thân giống như con trăn. Nguyên nghĩa Pali: Ajagarasadiso aṅgo etassāti = Ajararaṅgo.
11- Vemānikapetā hay Vemānika: Ngạ quỷ bị cảm thọ khổ lúc ban ngày, nhưng ban đêm được thọ hưởng lạc trong Thiên cung. Nguyên nghĩa Pali : Vimāne nibbattoti = Vemāniko.
12- Mahiddhikapetā hay Mahiddhika: Ngạ quỷ có Đại thần lực. Nguyên nghĩa Pali : Mahatiyā iddhiyā samannāgatoti = Mahiddhiko.
Petavatthu và Aṭṭhakathā, ṭīkā cũng có ghi bốn loại Ngạ quỷ thường được kể trong chủ đề của họ như là:
1- Parehidattaṃ upanissāya jīvatīti = paradattupajīviko. Vì sống phải dựa vào người khác nuôi, nên người ta đặt tên nó là Ngạ quỷ Paradattupajīvika.
2- Khudā ca pīpāsā ca = Khuppipāsā (Đói và khát). KhuppiPāsāhi pilito = KhuppiPāsiko(sự đói khát). Khuppipāsika là Ngạ quỷ đói và khát.
3- Nijjhāmena taṅhā etassāti = Nijjhāmataṇhiko. Vì có sự thèm ái dục hay sự đói khát thường xuyên và liên hệ từ lửa cháy trong miệng cho nên Ngạ quỷ này được gọi là Nijjhāmataṇhika.
4- Ngạ quỷ Kaḷakañcika này khỏi phải định nghĩa, vì là tên của Atula, như trong Pātheyyavagga aṭṭhakathā có ghi rằng: "Kālakañcikāti tesaṃ asurānaṃ nāmaṃ". Gọi là Kālakañcika này là tên của Atula thuộc loài Ngạ quỷ.
Vài loài Ngạ quỷ mà Bồ-tát không sanh vào là:
1- Ngạ quỷ KhuppiPāsika
2- Ngạ quỷ Nijjhāmataṇhika
3- Ngạ quỷ Kālakañcika
Ngoài các loại Ngạ quỷ đã kể trên, còn có nhiều loại khác, như Ngạ quỷ Suciloma là loại Ngạ quỷ có lông như kim, Ngạ quỷ Kharaloma là Ngạ quỷ có lông thô, Ngạ quỷ Ghanakha là Ngạ quỷ có móng tay và móng chân dài.
Theo Lakkhaṇasamyutta có 21 loại Ngạ quỷ được trình bày như sau:
1. Aṭṭhisaṅkhasikapetā: Ngạ quỷ có xương dính với nhau thành từng khúc, nhưng không có thịt.
2. Maṃsapesikapetā: Ngạ quỷ có thịt thành từng mãnh, nhưng không có xương.
3. Maṃsapiṇḍapetā: Ngạ quỷ có thịt thành từng cục, thành khối.
4. Nicchaviparisapetā: Ngạ quỉ không có da.
5. Asilomapetā: Ngạ quỷ có lông như gươm.
6. Sattilomapetā: Ngạ quỷ có lông như giáo.
7. Usulomapetā: Ngạ quỷ có lông như cây tên.
8. Sūcilomapetā: Ngạ quỷ có lông như kim.
9. Dutiyasūcilomapetā: Ngạ quỷ có lông như kim, loại thứ hai.
10. Kumbhaṇḍapetā: Ngạ quỷ có hòn dái rất to.
11. Gūthakūpanimuggapetā: Ngạ quỷ chìm ngập trong phẩn.
12. Gūthakhādakapetā: Ngạ quỷ ăn phẩn.
13. Nicchavitakipetā: Ngạ quỷ cái không có da.
14. Duggandhapetā: Ngạ quỷ có mùi hôi thối.
15. Ogilinīpetā: Ngạ quỷ có thân như cây đuốc, lửa.
16. Asisapetā: Ngạ quỷ không có đầu.
17. Bhikkhupetā: Ngạ quỷ có hình tướng giống Tỳ khưu.
18. Bhikkhunīpetā: Ngạ quỷ có hình tướng giống Tỳ khưu ni.
19. Sikkhāmānapetā: Ngạ quỷ có hình tướng giống học nữ.
20. Sāmaṇerapetā: Ngạ quỷ có hình tướng giống Sa di.
21. Sāmaṇerīpetā: Ngạ quỷ có hình tướng giống Sa di ni.
Nhận thấy sự khổ đau cùng tột của loài ngạ quỷ mang hình thù quái vị, bởi do nghiệp chướng, tham lam bòn sẻn đời trước mà chiêu cảm quả báo đời này. Ðức Phật với tâm từ bi vô tận đã thuyết ra nhiều pháp môn phương tiện để cứu độ. Một trong các pháp môn phương tiện để cứu độ loài ngạ quỷ đó là pháp chẩn tế cô hồn.
Trong pháp nghi này, Ðức Phật đã thuyết ra rất nhiều chơn ngôn thần chú, như Phổ triệu thỉnh chơn ngôn, Tịnh nghiệp chướng chơn ngôn, Phá địa ngục chơn ngôn, Khai yết hầu chơn ngôn, Biến thực chơn ngôn, Biến thủy chơn ngôn...để chỉ cho họ thấy được đâu là nẻo chánh đường tà, khiến họ dứt trừ được tâm tham lam bỏn sẻn, hồi tâm hướng thiện một lòng tu hành, được vĩnh viễn thoát hẳn các sự khổ não của cảnh giới ngạ quỷ.
Ðấy chính là tác dụng và mục đích của pháp chẩn tế cô hồn, mà trong các chùa, sau khi kết thúc bất kỳ một pháp sự nào, đều có tổ chức nghi thức cúng cô hồn này.
Ngày đại lễ Vu Lan có phần cúng Mông Sơn Thí Thực, người hay đi chùa chỉ nghe nói cúng Mông Sơn, mà ít nghe nói cúng thí. Vậy Mông Sơn Thí Thực, bốn chữ này phải có ý nghĩa gì đặc biệt mà người ta phải dùng ?. Qua hai truyền thuyết ghi laị trong 2 bộ kinh khác nhau :
Kinh Vu Lan (phạn ngữ gọi là Ullambana có gốc từ động từ căn là ud-√lamb, có nghĩa treo ngược lên, và các dịch giả Trung Quốc dùng từ đảo huyền treo ngược lên cho từ Vu lan, chỉ sự khổ đau kinh khủng khi sa đọa địa ngục).
Lễ Vu Lan xuất phát từ truyền thuyết về Bồ tát Mục Kiền Liên đại hiếu, nghe theo lời dạy của Ðức Phật, đã lập trai đàn cầu nguyện vào ngày rằm tháng 7 để cứu mẹ của mình ra khỏi kiếp ngạ quỷ, và ngày này đã trở thành ngày lễ hằng năm để tỏ hiếu với cha mẹ, ông bà và cũng để giúp đỡ những linh hồn đói khát trong một số nước Á Đông.
Ở Nhật ngày lễ này được tổ chức vào ngày 7 tháng 7 để tỏ những ước nguyện của mình, người ta thường viết ước nguyện rồi treo vào cây trúc với mong ước điều ước đó sẽ trở thành hiện thực. Phương thức cúng dường để cầu siêu gọi là Vu Lan bồn pháp, lễ cúng mang tên là Vu Lan bồn hội, và bộ kinh là Vu Lan bồn. Kinh này do ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào thời Tây Tấn (265-316).
Lễ cúng cô hồn bắt nguồn từ kinh Phật Thuyết Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni Kinh, dựa theo câu chuyện giữa ông A Nan Ðà, thường gọi tắt là A Nan, với một con quỷ miệng lửa (diệm khẩu) cũng gọi là quỷ mặt cháy (diệm nhiên).
Cuốn Phật thuyết cứu diện nhiên ngạ quỷ đà la ni thần chú kinh do ngài Śikṣānanda, đời Đường, dịch vào năm 695-700, cùng với ba tác phẩm khác của Mật tông do ngài Bất Không Kim Cương dịch, đó là Phật thuyết cứu diệm khẩu đà la ni kinh. Du già tập yếu cứu a nan đà la ni diệm khẩu quỷ nghi kinh, và Du già tập diệm khẩu thí thực khởi giáo a nan đà duyên do.
Dựa vào những tác phẩm Mật tông này mà ngài Bất Không Kim Cương được xem là tổ thứ ba của Mật tông Trung Hoa và cũng là tác giả đã soạn ra nghi thức cho lễ Thí ngạ quỷ.
Người Phật tử Trung Hoa gọi lễ này là Phóng diệm khẩu, tức là cúng để bố thí và cầu nguyện cho loài quỷ đói miệng lửa, và nghi thức này dần dần trở thành thói quen trong các nước á Châu, với tên là lễ cúng cô hồn.
Vậy lễ Vu Lan có phải cũng là lễ cúng cô hồn hay không? Không!. Ðây là hai lễ cúng khác nhau nhưng được cử hành trong cùng một ngày.
Nghi thức cầu siêu cho cô hồn có thể phát xuất từ đời nhà Đường bên Trung Quốc do ngài Huyền Trang, lập đàn siêu độ cho tứ sanh đang luân hồi trong lục đạo. Đến đời Tống, đại sư Bất Không Kim Cương ở Mông Sơn, tỉnh Tứ Xuyên, quán biết các cô hồn đang vất vưởng, đòi hỏi những nhu cầu cần thiết, nên Ngài đã ghi ra nghi thức lễ để cung ứng và siêu độ cho họ và từ đó mới có nghi thức Mông Sơn Thí Thực.
Mông Sơn là một tỉnh tại phía tây miền trung Trung Quốc. Thủ phủ là Thành Đô. Vùng này nằm trong Lòng chảo Tứ Xuyên và có dãy núi Himalayas bao quanh về phía tây, về phía bắc có dãy núi Tần Lĩnh, về hướng nam có các vùng núi đồi của Vân Nam. Sông Dương Tử chảy qua lòng chảo và cũng là thượng nguồn đối với các vùng phía đông của Trung Hoa. Sông Mân Giang ở trung tâm Tứ Xuyên là một nhánh của thượng nguồn Sông Dương Tử mà nó nhập vào tại Nghi Tân. Du lịch có khu ngoạn cảnh Núi Nga Mi, Nhạc Sơn Đại Phật (tượng Phật to ở Nhạc Sơn)...
THÍ là việc làm đứng đầu lục độ vạn hạnh có 3 cách để làm : Tài thí cũng gọi là tư sanh thí, pháp thí và vô úy thí. THỰC : là Thức ăn trong tiếng Trung Hoa.
Thí thực là bố thí thức ăn và ý nghĩa ăn của Phật Giáo như sau:
1) Ðoạn thực: thức ăn cứng, có thể chia thành phần như cơm, cháo, rau, canh, thịt, cá v.v. & các thức vật có hương vị làm xúc cảm tâm thức.
2) Xúc thực: Ăn với thức quan hay biết mùi vị, tức là cách ăn của Quỷ, Thần thọ hưỡng hương vị mà thôi.
3) Tư thực: ăn với sự kiện thần giao tư tưởng, là phép ăn của bậc Thiên trên cỏi sắc giới, ăn với phương thức thuyền duyệt tức là không chủ về vật phẩm ăn mà chỉ thọ hưỡng hơi hương, luôn luôn xem việc ăn là đạo vị, thanh tịnh.
4) Thức thực: ăn qua sự giao cảm của thức thứ 8, phép ăn nầy bậc Thánh, Phàm có khác nhau, bậc Thánh hưỡng thụ một cách hồn nhiên không phân biệt, còn bậc phàm phân biệt là ngon, dở; do chỗ phân biệt mà có tham muốn rồi khởi lên tư tưởng tham ăn đến bị vào vòng sinh tử, luân hồi.
Nghi thức thí thực này thường được tổ chức vào mùa Vu Lan Báo Hiếu, vào dịp đại lễ khánh thành chùa hoặc 49 ngày cho người vừa qua đời hay ngày cúng cơm, để hồi hướng công đức siêu độ cho vong linh.
Trong truyền thống Phật Giáo Đại Thừa Việt Nam, việc cúng Cô hồn hay Đàn tràng Chẩn tế là một pháp thức để cầu siêu cho các vong linh của những người đã chết mà vì oan nghiệp chưa siêu thoát. Nghi thức này được gọi là Thập loại Chúng sinh, như Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh của Nguyễn Du hay Thập loại Cô hồn.
Thập loại cô hồn được phân loại như sau :
1. Thủ hộ quốc giới: Loại oan hồn vị quốc vong thân;
2. Phụ tài khiếm mạng: Loại oan hồn chết vì trái chủ oan gia, trụy thai, sẩy thai;
3. Khinh bạc Tam Bảo: Loại oan hồn vì tạo nghiệp bất hiếu, phụ nghịch, vô đạo;
4. Giang hà thủy nịch: Loại oan hồn chết sông, chết biển;
5. Biên địa tà kiến: Loại oan hồn ở nơi biên ải hẻo lánh xa xăm;
6. Ly hương khách địa: Loại oan hồn phiêu bạc tha hương, chết đường, chết bụi;
7. Phó hỏa đầu nhai: Loại oan hồn chết vì tự tử, trầm mình xuống sông, núi, chết đâm, chết chém;
8. Ngục tù trí mạng: Loại oan hồn chết vì bị tra tấn, khổ nhục trong lao tù;
9. Nô tì kết sử: Loại oan hồn chết vì bị nô lệ, hành hạ, đày đọa;
10. Manh mung ám á: Loại oan hồn lúc sống bị đui, què, câm, điếc, cô quả không ai chăm sóc.
Đàn tràng chẩn tế,Trai đàn hay làm chay và chạy kinh đàn, là một nơi tổ chức các nghi lễ của Mật Giáo, dùng sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho các loại cô hồn hay vong linh vì oan nghiệp chưa siêu thoát đang còn sống trong thế giới mong lung. Một trai đàn cúng thí thường kéo dài từ 3 tiếng đến 7 tiếng đồng hồ.
Đàn tràng phạn ngữ viết là मण्डल, đươc phiên âm Anh hóa là mandala có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn. Từ mandala là danh từ ghép từ 2 chữ " Manda, nghĩa là cốt lõi" và tiếp vĩ ngữ " la có nghĩa hàm chứa thêm vào đó". Nghĩa chung của Mandala là một "vật chứa sự cốt lõi".
Thuật ngữ này thường được dùng để chỉ các đồ hình có mang đặc tính tượng trưng thể hiện một dạng thức hình học của vũ trụ hay của tiểu bản thể con người. Khởi gốc, các đồ hình Mandala có thể đã phát nguồn từ đạo Bà la môn. Theo Nitin Kumar 2, thì Mandala có thể xuất hiện sớm nhất ở Ấn hay Ấn Âu và liên hệ đến học thuật Rig Veda.
Mandala là một chương, một tập hợp của các bài chú hay bài thánh kệ được tụng lên trong các buổi lễ Vệ đà, qua đó các âm thanh thiêng liêng được chuyển tải trong các dạng thức di truyền của các chúng sinh và sự vật.
Cúng thí thực cô hồn là một nghi thức cứu độ cho các oan hồn uổng tử, không nơi nương tựa đã có tự ngàn xưa. Phát xuất từ hồi Phật còn tại thế.
Một mâm lễ nhỏ, một nồi cháo trắng gọi là cúng cháo. Tại sao phải cúng cháo ?
Tại chùa, cúng thí thực hay cúng Mông sơn thí thực là một phần hành trì thiết yếu hằng ngày sau công phu chiều. Một mâm lễ nhỏ, một nồi cháo trắng gọi là cúng cháo. Tại sao phải cúng cháo ? Vì theo truyến thuyết các quỷ đói với thân hình xấu xí, cái bụng bằng cái trống nhưng cần cổ chỉ nhỏ bằng cây kim, không thể ăn uống gì được, chỉ húp được nước cháo mà thôi.
Nghi thức cúng cháo bắt đầu từ lúc Đức Phật còn tại thế, trong Kinh " Phật Thuyết Cứu Diện Nhiên Ngạ Quỷ Đà La Ni Kinh" có ghi rằng : Tôn giả A Nan, thị giả của Phật, đang thiền tọa trong đêm khuya vắng, khoảng canh ba chợt thấy một con quỷ đói với một thân xác tiều tụy khô gầy xấu xí, mặt cháy xám (diện nhiên), cần cổ nhỏ bằng kim, miệng phun ra lửa (diệm khẩu), bước vào cảnh báo rằng ba ngày sau ngài A Nan sẽ chết và sẽ đọa vào loài quỷ đói. Tôn giả A Nan nghe sợ quá, nên hỏi con quỷ làm cách nào để thoát khỏi khổ nạn.
Quỷ bảo rằng " Rạng sáng ngày mai, ông dùng các thức uống ăn đem bố thí cho loài quỷ đói và phát tâm cúng dường Tam Bảo hồi hướng công đức để giúp chúng tôi sớm thoát khổ địa ngục và ngạ quỷ, thì ông mới thêm tuổi thọ ".
Ngài A Nan quá kinh hãi nên bạch Phật cứu giúp. Phật dạy : " Ông chớ có quá lo sợ, ta nhớ lại trong quá khứ vô lượng kiếp, thuở đó ta làm người dòng Bà la môn, đối trước Bồ Tát Quán Thế Âm, ta thọ được pháp đà la ni (biến thực chân ngôn) của Phật vô lượng uy đức Tự Tại Quang Minh Như Lai : ta nay truyền dạy lại ngươi, nếu trì tụng thần chú đây, niệm được bảy biến có thể khiến cho một món ăn hoá ra làm vô lượng món ăn và trở thành mùi vị cam lộ ngon ngọt, khiến cho các loài được thọ hưởng no đủ ".
Tiếp đó Đức Thế Tôn đã dạy rõ phương pháp cứu độ ngạ quỹ qua bản Kinh " Phật Thuyết Cứu Diện Nhiên Ngạ Quỷ Đà La Ni ".
Nghi thức cúng cháo sau này đã được chư tổ đức Trung Hoa soạn thảo thành " Du Già Diệm Khẩu Thí Thực khoa nghi ".
Theo truyền thuyết tín ngưỡng cổ truyền Á châu, người ta tin rằng con người có hai phần: hồn và xác. Khi chết, hồn lìa khỏi xác, xác bị phân hủy còn hồn sẽ tiếp tục tồn tại. Hồn có thể lên thiên đàng hay đầu thai kiếp khác, hoặc bị giáng xuống địa ngục tùy theo những điều lành hay dữ mà người đó làm khi còn sống.
Vậy thì Hồn là gì ? Thiên đàng và Địa ngục ở đâu ? Trong bài mở đầu Thập giới cô hồn Quốc ngữ văn của Lê Thánh Tôn, có nói Hồn là phần tinh anh, cái phần thần thánh có ở bản thể con người và nó là thứ " khinh quang " nên " thăng thượng " lên cõi chiêu dương (sáng rực).
Phần tinh anh là phần thứ ba trong ba thể loại của hồn: Sinh hồn, giác hồn và linh hồn. Theo kinh Địa Tạng : " Từ khi chết, trong 7 tuần đầu, thần thức chưa có định sở đang còn vơ vẩn khắp nơi. Nếu tang gia vì người quá vãng chí thành cầu nguyện, Phật sẽ tiếp độ ". Đây là tín lý của nghi cúng thất 7 tuần đầu để cầu cho vong hồn hay thần thức còn gọi là Trung ấm hay Thức thân, được vãng sanh cõi Cực lạc Tịnh độ Niết bàn vô vi.
Trên mặt lý của truyền thuyết trong kho tàng văn hóa dân gian có nói : dưới âm phủ có mười vị vua cai quản mười cửa ngục, mỗi vị có nhiệm vụ và công việc khác nhau để xem xét người chết lúc còn sống trên thế gian đã phạm vào những tội lỗi gì mà có hình phạt tương ứng. Thời gian tạm giam ở đây không phải là sự giam cầm vĩnh viễn mà theo sự phán xét dài ngắn tùy trường hợp.
Địa ngục phạn ngữ gọi là Naraka नरक và Pāli là Niraya निरय. Theo nghĩa đen chữ địa ngục có nghĩa là ngục ở dưới đất. Vì chữ địa là đất và chữ ngục là giam giữ. Còn nghĩa bóng là ý muốn nói những người nào làm ác thì chịu quả báo. Có thể là ở trước mắt, chứ không nhất thiết là sau khi chết đi mới đọa vào địa ngục.
Tóm lại Địa ngục có nhiều truyền thuyết diễn nghĩa và cũng tùy theo những khái niệm riêng của mỗi tôn giáo. Trong lãnh vực Văn học dân gian, Địa ngục được xem như một địa danh siêu nhiên, nơi của các linh hồn đến sau khi chết.
Phần lớn các tôn giáo đều cho rằng địa ngục là nơi giam giữ, trừng phạt các linh hồn tội lỗi, và đây cũng là nơi để cho các linh hồn được ăn năn sám hối, trước khi đi đầu thai. Phản nghĩa của Địa ngục là Thiên đàng.
Có nhiều người không tin có địa ngục. Bởi vì họ cho rằng Thấy rồi họ mới tin. Nhưng dù có dùng lý luận khoa học hay phương tiện nào đó đễ chứng minh, thì rất khó để làm họ tin được.
Thí dụ trong đời sống hàng ngày chúng ta, ai ai cũng biết, vạn vật sống trên trái đất này đều phải nhờ không khí, nhưng không khí ở dạng vô hình làm sao thấy được, do đó chúng ta vẫn phải tin rằng nếu không có không khí thì chúng ta sẽ chết, đó là chuyện thực tế không ai chối cãi được.
Thêm một thí dụ thực tế khác nữa : Trong đời chúng ta thường nghe nói về nguồn gốc tổ tiên của chúng ta, mặc dù không thấy mặt được họ, nhưng chúng ta vẫn phải tin rằng, bằng một lý lẽ đơn giản: Nếu không có ông bà tổ tiên, thì làm sao ngày nay chúng ta được sống hiện diện tại đây.
Những chuyện đơn giản trước mắt có thể hiểu và tìm hiểu được bằng thực chất so sánh mà còn nghi ngờ thì những việc khác không dùng mắt để thấy được thì làm sao mà có thể tin. Cũng như : người ta không thấy được ánh sáng là tại vì người ta mù, chứ không phải người mù mà không biết ánh sáng.
Người con Phật tin Phật là qua trí tuệ chứng đắc của Ngài, bởi vì Ngài đã thấy rõ mọi sự việc trên thế gian và đã kể lại cho những đồ đệ của Ngài nghe những việc như thế để viết thành kinh để răn dạy người đời. Còn tin hay không, là chuyện cá nhân của mỗi người. Đạo Phật hay Đức Phật không kêu gọi và cũng chẳng bắt ai phải tin theo.
Giáo lý của Đức Phật như ngọn đèn soi sáng trong cuộc sống thực tế, vậy thì thực tế trong cuộc sống là gì? Tất cả mọi sinh hoạt thực tế trong cuộc sống đều phải bị chi phối bởi nghiệp lực, vô thường, khổ, không, và vô ngã.
Có một điều chắc chắn : không có hôm qua thì không có hôm nay và ngày mai sẽ không có. Nhân và quả tạo thành cái giải luân hồi vô tận và chúng ta nên nghĩ rằng : Nhân tốt sẽ không bao giờ sanh trái đắng.
Đức Phật có nói : Chúng sanh bị đọa vào địa ngục vì đã tạo nhiều nghiệp ác, tà kiến. Chúng ta nhờ tạo dựng nghiệp nhân làm người, sống giữa cõi người, còn những chúng sanh nào tạo nghiệp nhân địa ngục thì sống trong địa ngục v.v... Đây là một sự thật của nhân quả, nghiệp báo, vì thế địa ngục là một cảnh giới, một cõi sống cụ thể, không phải là ẩn dụ hay biểu tượng.
Ngày nay, địa ngục không phải chỉ xuất hiện ở một thế giới xa lạ và bí mật nào, như chúng ta đã tham khảo sơ qua trong những đoạn kinh ở trên hay trong kho tàng văn học dân gian, mà địa ngục hiện hữu luôn nằm ngay trong cuộc đời hiện hữu của chúng ta.
Bởi vì ở đâu có đau khổ, có máu và nước mắt là ở đấy có địa ngục. Thế giới hiện đang chiêu cảm nhiều thiên tai chết chốc, giết chốc tàn khốc bởi chiến tranh đang diển ra khắp nơi. Mỗi ngày hàng vạn con vật bị lên lò sát sanh, hàng ngàn người bị tra tấn trong mọi lao tù. Đây mới chính là hình ảnh thực tế của một địa ngục hiện hữu trần gian một cách trọn vẹn.
Căn bản ngục, Cận biên ngục, Cô độc ngục, mỗi ngày không còn dựng lên một nơi mà đã tràn lan khắp nơi trong cuộc sống, không do sự xúi giục của Ngạ Quỷ, đầu trâu mặt ngựa, mà do tự bàn tay tàn bạo của chính con người tự tạo ra, để rồi con người phải tự chính mình tự chôn vào đó, cũng chỉ vì Nhân loại tranh chấp nhau vì những lợi quyền kinh tế, chánh trị và tranh chấp nhau vì tư tưởng.
Những tâm niệm xấu xa, ích kỷ, kiêu mạn, tham lam và tàn bạo, là một địa ngục sâu thẳm trong mỗi tâm hồn nhân loại và cũng là nguồn gốc tạo ra các loại địa ngục khác trên thế gian.
Khi ngọn lửa tâm tưởng xấu xa, ích kỷ, kiêu mạn, tham lam và tàn bạo còn bừng cháy trong mỗi cá nhân, thì ngọn lửa khổ đau của toàn thể nhân loại không thể nào dập tắt được nữa. Thế giới ngoại cảnh biến hiện tùy thuộc vào tâm thức của mỗi người. Khi đôi mắt đã nhuộm màu đỏ của sự tàn ác, thì cảnh vật bên ngoài làm gì không ngập đầy máu đau thương !.
Muốn cứu độ nhân loại đang thoi thóp trong đau khổ và hận thù trong các địa ngục, thì mỗi cá nhân phải tự cứu mình trước đã. Đây chính là cuộc cách mạng vĩ đại nhất rất khó làm.
Tất cả địa ngục không còn giá trị, khi trong lòng mỗi người không còn những ngọn lửa tâm tưởng xấu xa, ích kỷ, kiêu mạn, tham lam và tàn bạo.
Thường các kinh nguyên thủy (thời kỳ đầu) thì nói có sáu đạo, nhưng các kinh đại thừa thì thêm một đạo nữa là cõi tiên. Như vậy, chúng ta có bảy cõi là cõi trời, tiên, a-tu-la, người, địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.
Phần trước đã nói về địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh, chương này sẽ nói đến ba cõi là cõi tiên, cõi trời và a-tu-la.
Tiên là những chúng sinh trên loài người, nhưng không nương theo giới định tuệ, không biết tam-ma-đề, lại riêng tu theo vọng niệm, để tâm củng cố hình hài, vào trong rừng núi, những chỗ người ta không đến được, thành mười thứ tiên. Mười thứ tiên như sau:
“A Nan, các chúng sinh kia, kiên cố dùng đồ bổ mà không dừng nghỉ, khi đạo ăn được thành tựu, thì gọi là Địa hành tiên.
Kiên cố dùng cỏ cây mà không dừng nghỉ, khi đạo thuốc được thành tựu, thì gọi là Phi hành tiên.
Kiên cố dùng kim thạch mà không dừng nghỉ, khi đạo hóa chất được thành tựu, thì gọi là Du hành tiên.
Kiên cố làm những động tác mà không dừng nghỉ, khi khí tinh được thành tựu, thì gọi là Không hành tiên.
Kiên cố luyện nước bọt mà không dừng nghỉ, khi nhuận đức được thành tựu, thì gọi là Thiên hành tiên.
Kiên cố hấp thụ tinh hoa mà không dừng nghỉ, khi hấp thụ được thành tựu, thì gọi là Thông hành tiên.
Kiên cố làm thuật phù chú mà không dừng nghỉ, khi thuật pháp được thành tựu, thì gọi là Đạo hành tiên.
Kiên cố chuyên chú tâm niệm mà không dừng nghỉ, khi chuyên niệm được thành tựu, thì gọi là Chiếu hành tiên.
Kiên cố về thủy hỏa giao cấu mà không dừng nghỉ, khi cảm ứng được thành tựu, thì gọi là Tinh hành tiên.
Kiên cố tập luyện biến hóa mà không dừng nghỉ, khi giác ngộ được thành tựu, thì gọi là Tuyệt hành tiên”.
“A Nan, các vị ấy đều ở trong loài người mà luyện tâm, tuy không tu chính giác, nhưng riêng được lẽ sống, thọ ngàn vạn tuổi, nghỉ ở trong núi sâu hoặc trên đảo giữa bể cả, cách tuyệt chỗ người ở; đó cũng là vọng tưởng luân hồi lưu chuyển. Nếu không tu phép Tam muội, thì khi quả báo hết rồi, trở lại tản vào trong lục đạo”[1].
Tiên là những người bỏ chốn thế gian ồn náo, vinh hoa phú quý, danh lợi thị phi, ẩn mình trong hang, trong núi, hải đảo, nơi mà loài người không đến được để tu theo những pháp củng cố hình hài, trường thọ sống lâu, chớ không tu tập theo giới định tuệ.
Do tu nhân riêng biệt thành quả hư vọng, do tu luyện pháp trường sanh nên tiên cũng có thần thông, khinh an, sống thọ, nhưng dù có thọ đến đâu thì tiên vẫn còn bị chi phối bởi luật sanh tử và cũng có ngày thân này phải tan mà đọa lạc.
1. Địa hành tiên: đồ bổ của những người tu tiên, chỉ có họ mới biết với nhau, mình mà dùng nhiều đồ bổ thì nó thành độc, phải có những món thuốc đặc biệt. Một số vị kiên cố dùng đồ bổ, chuyên dùng những loại chất bổ không dừng nghỉ. Khi chất bổ này thành tựu thì vị tiên đó đi trên mặt đất rất nhẹ nhàng vậy.
2. Phi hành tiên: vị này nếm theo vị của từng loại cỏ cây, biết loại nào trị bịnh nào, loại dược thảo nào dùng vào khiến cơ thể khoẻ mạnh, khoan khoái, bình an. Như các ông lang thầy thuốc, cắt, phơi khô hay sao cây cỏ lên, rồi nghiền nát thành bột, bào chế dùng để trị bịnh. Cũng thế do chuyên dùng cỏ cây, các loại thuốc dược thảo nên cơ thể các vị tiên rất khoan khoái an ổn. Và tiên luyện như vậy liên tục, không dừng nghỉ. Khi thuốc này thành tựu thì tiên phi hành như bay, đi như bay.
3. Du hành tiên: trong đá có nhiều loại ngọc, vàng, kim khí, đá ngọc rồi tiên mài, nấu, ngâm, bào chế các chất này thế nào đó để họ dùng được. Kiên cố bền tâm lâu dài dùng các loài bào chế này không dừng nghỉ. Khi công phu thành tựu thì vị này sẽ đi nhanh như chạy, để thấy cái khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, cứng cáp của cơ thể.
Ở đỉnh núi Thị vải, Bà-rịa, Vũng Tàu, có một người sống ở đấy. Chỗ ở của ông chỉ là một cái lều, nằm ngủ ở trên một cái chõng và trồng mấy cây bắp rau để ăn. Ông làm nghề đi gánh thuê buôn bán dưới chân núi. Thế cho nên buổi sáng ông phải từ đỉnh núi đi xuống chợ gánh thuê để lấy tiền sinh sống. Đến chiều xong việc rồi lại lên núi tiếp.
Từ chân núi đến đỉnh núi là chúng ta phải trèo hì hục mất cả ngày, nhưng chân ông bước nhanh như chạy thoăn thoắt như thỏ mà không bám vào đâu cả, thoáng một cái ông đã đến đỉnh núi rồi. Chắc là kiếp trước ông có tu tiên, được quả du hành tiên này nên kiếp này thật lạ lùng là lên đỉnh núi mà ở một mình yên tĩnh và đi nhanh như chạy.
4. Không hành tiên: kiên cố bền chí hoạt động, tập thể dục có phương pháp, những động tác có bài bản. Tập như thế không ngừng, như đây đã nói hai chữ kiên cố, thì mới hy vọng thành công, chứ không phải là dễ được. Khi phương pháp tập khiến cho cơ thể nhẹ mạnh này được thành tựu, vị tiên này đi được ở trong hư không, đi như thoảng qua gió mà mình không hay.
5.Thiên hành tiên: kiên cố luyện nước bọt không dừng nghỉ. Nước bọt rất bổ và chuyên dùng luyện. Khi nhuận đức này thành tựu thì vị này gọi là Thiên hành tiên.
6. Thông hành tiên: kiên cố hấp thụ tinh hoa không dừng nghỉ. Buổi sáng, trưa, chiều, tiên hướng về mặt trời nhìn đăm đăm vào mặt trời để thâu cái tinh khí của mặt trời. Khi luyện thành tựu thì vị này gọi là Thông hành tiên.
7. Đạo hành tiên: kiên cố luyện những loại phép thuật phù chú bay loạn không dừng nghỉ. Khi thuật pháp được thành tựu thì gọi là Đạo hành tiên.
8. Chiếu hành tiên: kiên cố chuyên chú tâm niệm không dừng nghỉ. Các vị này cũng có phép thuật của họ, chuyên một câu nào đó khi thành tựu thì thành Chiếu hành tiên có ánh sáng chiếu quanh tiên.
9.Tinh hành tiên: thủy hỏa giao cấu giao nhau không dừng nghỉ. Khi cảm ứng được thành tựu thì gọi là Tinh hành tiên.
10. Tuyệt hành tiên: kiên cố tập luyện biến hoá không dừng nghỉ. Khi thành công mà đây tiên gọi là giác ngộ thì thành Tuyệt hành tiên.
Như vậy, tiên cũng có từng danh hiệu riêng nhau. Tu tiên nhưng mỗi người tu mỗi cách, ở đây Phật nói cho chúng ta biết là có mười loại tiên.
Mỗi vị tiên, Đức Phật đều nhắc lại hai chữ kiên cố tức phải có công phu tinh tấn không dừng nghỉ. Những việc tu luyện này phải bền tâm lâu dài và mắc công, chứ không qua loa cho xong mà được đâu. Kiên cố và có tâm luyện tập, tiên phải hơn mình vì có tinh thần, sức khoẻ và sống thọ, nhưng cũng không phải là tiên không chết. Hết phước, hết thọ rồi thì tiên cũng đọa, nên Đức Phật cũng khuyên chúng ta không nên nguyện tu theo những hạnh này, vì còn lẩn quẩn trong tam giới.
CÕI TRỜI DỤC GIỚI (còn dục)
A Nan, các người thế gian, không cầu đạo thường trụ, chưa có thể rời bỏ được sự ân ái với vợ mình, nhưng tâm không buông lung trong việc tà dâm, do tâm đứng lặng sinh ra sáng suốt, sau khi mệnh chung ở gần với mặt trời, mặt trăng; một loài như thế, gọi là Tứ Thiên Vương Thiên.
Đối với vợ mình, dâm ái ít ỏi, trong lúc tịnh cư, không được toàn vị, thì sau khi mệnh chung, vượt ánh sáng mặt trời, mặt trăng, ở trên chóp nhân gian; một loài như thế, gọi là Đao Lợi Thiên.
Gặp cảnh dục tạm theo, bỏ đi không nhớ nghĩ, ở trong nhân gian, động ít, tĩnh nhiểu, thì sau khi mệnh chung, sáng rỡ ở yên trong cõi hư không, ánh sáng mặt trời, mặt trăng không soi đến được; và những người ấy tự mình có ánh sáng; một loài như thế, gọi là Tu Diệm Ma Thiên.
Lúc nào cũng tĩnh, nhưng khi có cảm xúc đến bên mình, chưa chống đối được, thì sau khi mệnh chung, lên trên chỗ tinh vi, không tiếp với những cảnh nhân thiên cõi dưới, cho đến gặp hoại kiếp, tam tai cũng không đến nơi; một loài như thế, gọi là Đâu Suất Đà Thiên.
Chính mình không có tâm dâm dục, chỉ đáp ứng với người khác mà làm, trong lúc phô bày, vô vị như ăn sáp, thì sau khi mệnh chung, vượt lên sinh vào cảnh biến hóa; một loài như thế, gọi là Lạc Biến Hóa Thiên.
Không có tâm thế gian, chỉ đồng với thế gian mà làm việc ngũ dục; trong lúc làm việc ấy, rõ ràng là siêu thoát, thì sau khi mệnh chung, vượt trên tất cả những cảnh biến hóa và không biến hóa; một loài như thế, gọi là Tha Hóa Tự Tại Thiên.
A Nan, sáu cõi trời như thế, hình thức tuy khỏi động, nhưng tâm tính còn dính dấp; từ các cõi ấy trở xuống, gọi là Dục Giới[2].
Dục giới là những vị này chưa rời bỏ được ân ái, dục nhiễm. Họ tu thập thiện, thiền định, bố thí nhưng vẫn còn dục nhiễm. Tùy theo lòng dục giảm nhẹ đến đâu thì ở trên cõi trời cao đến nấy. Các vị trời dục giới thân hình tuy không động nhưng tâm còn dấu vết.
Từ cõi trời dục giới thứ sáu trở xuống là từ cõi Tha hoá tự tại thiên trở xuống vẫn còn bị tam tai tức cõi dục giới còn tam tai. Tam tai: có lửa (vì có dục nên còn lửa), gió (thổi tan xác đi), bão lụt (nước nhận chìm).
Cõi dục giới thứ sáu là cõi trời Tha hoá tự tại thiên: chỉ đồng thế gian mà làm việc ngũ dục. Như chúng ta không thiết ăn nhưng đến bữa cơm vẫn vào ngồi ăn mà không có cảm giác gì. Tuy là đáp ứng vợ chồng nhưng dục cảm vô vị tức tâm vị trời này không thiết tha nữa, nên siêu thoát.
Từ trạng thái chán dục này mới bước lên cõi trời sắc giới là không còn dục nữa.
Đức Phật khi sắp thành Phật rồi mà ngài ở cõi trời Dục giới là một cõi rất thấp trong các cõi trời. Voi trắng sáu ngà từ cung trời Đâu Suất thiên (cõi thứ tư của dục giới) giáng trần. Thật ra đây là Đức Phật hiện thân ở cõi trời Đâu Suất chứ không phải bị nghiệp lực và đọa ở cảnh ấy. Vì nguyện lực, bồ tát mới hiện thân ở cõi ấy. Tương lai Đức Phật Di Lặc cũng từ Đâu Suất xuống ta bà.
Các đức Phật vì nguyện lực giáng sanh xuống trần, khi tái sanh đều giáng sanh vào dòng thắng lưu có phước đức tức là dòng thù thắng, tức là cõi trời hoặc ngài sanh vào dòng quý phái Thích Ca vua chúa sát-đế-lợi là giới quan quyền thượng lưu trong xã hội, còn nghèo hèn tầm thường gọi là hạ lưu.
Tu nhân gì để về cõi Đâu suất? Phải có thiền định, phải có thập thiện, tâm dục nhẹ.
Đâu Suất nội viện khác với Đâu suất là thế nào?
Đối với những tầng trời sắc và vô sắc, những cõi trên, thì Đâu Suất hãy còn nặng nghiệp lắm.
Nội viện Đâu suất là những vị có duyên với Đức Phật Di Lặc. Viện là chỗ an trú viện của Đức Phật Di Lặc. Người nào có duyên, có nguyện chịu sự giáo hoá của Đức Phật Di Lặc thì chọn cõi Đâu suất nguyện về vì có Đức Phật Di Lặc giảng pháp. Đức Phật Thích Ca cũng ở đấy để giảng pháp. Giảng Thắng Pháp tập yếu luận cho mẫu hậu Ma-ya trong bảy ngày.
CÕI TRỜI SẮC GIỚI (ly dục)
A Nan, tất cả những người tu tâm trong thế gian, không nhờ Thiền na, thì không có trí tuệ.
Người nào giữ được cái thân không làm việc dâm dục, trong lúc đi, lúc ngồi, đều không nghĩ nhớ, lòng ái nhiễm không sinh, không còn ở trong Dục Giới, thì bản thân liền được làm phạm lữ; một loài như thế, gọi là Phạm Chúng Thiên.
Tập quán ngũ dục đã trừ rồi, tâm ly dục hiện ra, vui vẻ thuận theo các luật nghi, thì người đó liền có thể thực hành những phạm đức; một loài như thế gọi là Phạm Phụ Thiên.
Thân tâm hoàn toàn thanh tịnh, uy nghi không thiếu, cấm giới trong sạch, lại có thêm trí sáng, thì người đó liền được thống lĩnh phạm chúng, làm Đại Phạm Vương; một loài như thế gọi là Đại Phạm Vương.
A Nan, ba loài tốt đó, tất cả khổ não không bức bách được; tuy không phải chân chính tu phép Tam ma đề của đạo Phật, nhưng trong tâm thanh tịnh, những lầm lạc của Dục Giới không lay động được, nên gọi là Sơ Thiền.
A Nan, thứ nữa, các hàng Phạm Thiên khi thống lĩnh phạm chúng, lại tu tập phạm hạnh được viên mãn, làm cho tâm đứng lặng không lay động, và do sự đứng lặng ấy, sinh ra sáng suốt; một loài như thế gọi là Thiểu Quang Thiên.
Hào quang sáng suốt thêm nhiều, chói sáng không cùng, ánh vào thập phương thế giới đều thành trong sáng như ngọc lưu ly; một loài như thế, gọi là Vô Lượng Quang Thiên.
Nắm giữ hào quang viên mãn, tạo thành giáo thể, phát ra sự giáo hóa thanh tịnh, ứng dụng không cùng; một loài như thế, gọi là Quang Âm Thiên.
A Nan, ba loài tốt ấy, tất cả lo buồn không bức bách được; tuy không phải chân chính tu hành phép Tam ma đề của đạo Phật, nhưng trong tâm thanh tịnh, những lầm lạc thô động đã dẹp xuống, nên gọi là Nhị thiền.
A Nan, những loài trời như thế, khi dùng hào quang viên mãn làm việc giáo hóa, do sự giáo hóa càng rõ lẽ nhiệm mầu, phát ra hạnh tinh tiến, thông với cái vui yên lặng; một loài như thế gọi là Thiểu Tịnh Thiên.
Cảnh thanh tịnh hiện tiền, dẫn phát không có bờ bến, thân tâm được khinh an, thành cái vui yên lặng; một loài như thế gọi là Vô Lượng Tịnh Thiên.
Thế giới và thân tâm, tất cả hoàn toàn thanh tịnh, đức thanh tịnh được thành tựu, cảnh giới thù thắng hiện tiền, dồn về vui yên lặng; một loài như thế gọi là Biến Tịnh Thiên.
A Nan, ba loài tốt đó, đầy đủ công hạnh đại tùy thuận, thân tâm yên lặng, được cái vui vô lượng; tuy không phải chân chính được phép Tam ma đề của đạo Phật, nhưng trong tâm yên ổn, hoan hỷ được đầy đủ, nên gọi là Tam Thiền.
A Nan, lại nữa, những loài trời đó, thân tâm không bị bức bách, nguyên nhân của khổ đã hết, lại xét cái vui không phải thường trụ, lâu rồi cũng phải tiêu tan, nên cả hai tâm khổ và vui, đồng thời đều phóng xả; những tướng thô nặng đã diệt, thì phúc thanh tịnh sinh ra; một loài như thế, gọi là Phúc Sinh Thiên.
Tâm phóng xả được viên mãn, sự nhận hiểu cao xa càng thanh tịnh; trong cái phúc không gì trở ngại đó, được sự tùy thuận nhiệm mầu cùng tột vị lai; một loài như vậy, gọi là Phúc Ái Thiên.
A Nan, từ cõi trời đó, có hai đường trẽ : Nếu dùng cái tâm sáng suốt thanh tịnh vô lượng trước kia, mà tu chứng an trụ nơi phúc đức viên mãn sáng suốt, thì một loài như thế, gọi là Quảng Quả Thiên.
Nếu nơi cái tâm trước kia nhàm chán cả cái khổ và cái vui, lại nghiền ngẫm cái tâm phóng xả, tiếp tục không ngừng, đi đến cùng tột sự phóng xả, thân tâm đều diệt hết, ý nghĩ bặt mất, trải qua năm trăm kiếp, người ấy đã lấy cái sinh diệt làm nhân, thì không thế phát minh tính không sinh diệt, nên nửa kiếp đầu thì diệt, nửa kiếp sau lại sinh; một loài như thế gọi là Vô Tưởng Thiên.
A Nan, bốn loài tướng tốt ấy, tất cả những cảnh khổ, vui trong thế gian không lay động được; tuy không phải là chỗ bất động chân thật của đạo vô vi; song, nơi cái tâm hữu sở đắc, công dụng đã thuần thục, nên gọi là Tứ Thiền.
A Nan, trong đó, lại có năm bậc Bất Hoàn Thiên, các vị này đã diệt hết tập khí chín phẩm tư hoặc trong cõi dưới rồi, khổ, vui không còn, bên dưới không có chỗ ở, nên an lập chỗ ở nơi chúng đồng phận của tâm phóng xả.
A Nan, khổ, vui cả hai đều diệt, không còn tâm niệm ưa ghét; một loài như thế, gọi là Vô Phiền Thiên.
Tự tại phóng xả, không còn năng xả, sở xả; một loài như thế, gọi là Vô Nhiệt Thiên.
Khéo thấy thế giới mười phương thảy đều đứng lặng, không còn tất cả những cấu nhiễm trầm trọng của trần cảnh; một loài như thế, gọi là Thiện Kiến Thiên.
Tri kiến thanh tịnh hiện tiền, sử dụng được không ngăn ngại; một loài như thế, gọi là Thiện Hiện Thiên.
Quán sát rốt ráo các cực vi, cùng tột tính của sắc pháp, vào tính không bờ bến; một loài như thế, gọi là Sắc Cứu Kính Thiên.
A Nan, những bậc Bất Hoàn Thiên đó, chỉ riêng bốn vị Thiên Vương Tứ Thiền được có kính nghe, nhưng không thể thấy biết; cũng như hiện nay, có các thánh đạo trường nơi rừng sâu đồng rộng thế gian, đều là những nơi trụ trì của các vị A La Hán, nhưng những người thô thiển thế gian không thể thấy được.
A Nan, mười tám loài trời đó, tâm thường ở trong định, không dính dáng với trần cảnh, song chưa hết cái lụy của hình hài; từ đó trở về, gọi là Sắc Giới[3].
Chúng ta có thể hiểu các cõi trời sắc giới như sau:
Sơ thiền: Phạm chúng thiên, Phạm Phụ Thiên. Đại Phạm Thiên.
Nhị thiền: Thiểu Quang Thiên, Vô Lượng Quang thiên, Quang Âm Thiên.
Tam thiền: Thiểu Tịnh thiên, Vô Lượng Tịnh thiên, Biến Tịnh thiên.
Tứ thiền: Phước Sanh Thiên, Phước Ái thiên, Quảng Quả thiên và Vô Tưởng thiên.
Ngũ Tịnh Cư Thiên: Vô Phiền Thiên, Vô Nhiệt thiên, Thiện Kiến thiên, Thiện Hiện thiên, Sắc Cứu Cánh thiên.
Cõi sơ thiền tuy không phải chánh định, nhưng không có nhiễm, không có những lỗi lầm như của dục giới nên thoát được các khổ não. Các vị này đã thoát những dục tâm, ngũ dục (sắc thanh hương vị xúc) tuy nhiên họ vẫn còn cái lụy hình hài, nên gọi cõi sắc.
Như vậy, vừa lên đến sơ thiền là bắt đầu hết lòng dục.
Lên nhị thiền thì thoát ly được các ưu thụ, trong tâm thanh tịnh. Tất cả tuy không tu chánh định nhưng đã uốn dẹp được các thô lậu tức lầm lạc thô thiển.
Rồi lên đến cõi tam thiền thì rời bỏ được cái hỷ thọ ở nhị thiền, được cái vui khinh an vô lượng, nên thân tâm cho đến cảnh giới thảy đều thanh tịnh. Trong Phật giáo hay ví vui như vui ở cõi tam thiền.
Cõi tứ thiền đã thoát ly được các cảnh khổ, vui thế gian, nên tuy không phải là chánh định, nhưng trong tâm đã có chỗ sở đắc, công phu cũng đã bắt đầu thuần thục và phước báo cũng cao.
Các vị này tham, sân, si không hiện lên được, nếu loại bỏ được thì chứng A-la-hán, có định lực hàng phục được, nhưng còn ở trong đường luân hồi vì vẫn còn trụ pháp, trụ sắc thân.
CÕI TRỜI VÔ SẮC GIỚI (ly sắc thân)
Lại nữa, A Nan, từ chỗ cao nhất của Sắc giới, lại có hai đường trẽ. Nếu nơi tâm phóng xả, phát minh được trí tuệ, trí tuệ sáng suốt viên thông, thì ra khỏi cõi trần, thành vị A La Hán, vào Bồ Tát thừa; một loài như thế, gọi là Hồi Tâm Đại A La Hán.
Nếu nơi tâm phóng xả, khi thành tựu được sự phóng xả rồi, lại cảm thấy cái thân làm ngăn ngại và tiêu cái ngăn ngại ấy vào hư không, thì một loài như thế gọi là Không xứ.
Các chất ngại đã tiêu trừ rồi, nhưng không diệt được cái vô ngại, trong đó chỉ còn thức A lại da và còn nguyên vẹn phần nửa vi tế của thức Mạt na; một loài như thế, gọi là Thức xứ.
Sắc và không đã hiết, cái tâm biết là hết ấy cũng diệt trừ, mười phương vẳng lặng, không còn gì nữa; một loài như thế, gọi là Vô sở hữu xứ.
Thức tính vốn không lay động, lại dùng cái diệt mà diệt đến cùng; trong chỗ không thể hết, phát minh nhận cho là hết, nên hình như còn, mà không phải còn, hình như hết, mà không phải hết; một loài như thế, gọi là Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Bọn này xét cùng cái không, nhưng không tột lý không; nếu từ thánh đạo cõi trời Bất Hoàn mà xét cùng, thì một loài như thế, gọi là Bất Hồi Tâm Độn A La Hán. Nếu từ cõi trời Vô Tưởng và ngoại đạo mà xét cùng cái không, không biết trở về, mê lầm không nghe chính pháp, thì sẽ vào trong luân hồi.
A Nan, trên các cõi trời đó, mỗi mỗi đều là những phàm phu hưởng sự báo đáp của nghiệp quả và khi sự báo đáp ấy hết rồi, thì trở vào trong luân hồi. Thiên vương các cõi kia, thường là Bồ Tát, dùng Tam ma đề mà lần lượt tiến lên, hồi hướng về đường tu hành đạo Phật.
A Nan, những cõi trời Tứ Không đó, thân tâm diệt hết, định tính hiện tiền, không có sắc pháp của nghiệp quả; từ đó đến cuối cùng, gọi là Vô Sắc Giới.
Bọn đó, đều do không rõ Diệu giác minh tâm, chứa nhóm cái vọng, mà giả dối phát sinh ra ba cõi, giả dối theo bảy loài trong đó, mà chìm đắm và cá thể thụ sinh cũng theo từng loài[4].
Các vị này chẳng những thọ mà đến tưởng cũng không, nhưng còn ở trong hành ấm. Coi như lạc ở Vô sắc rồi thì không còn trần tướng, hôn trầm, ngũ trược, căn cảnh đối nhau.
Dục giới: còn dục và còn sắc,
Sắc giới: hết dục nhưng còn sắc,
Vô sắc giới: không dục và không sắc và những cõi này xa xôi lắm, không biết gì. Ở trong định lực thấy không, thấy huyễn, nhưng không nắm được lý không để nhận được tánh chân không, thành ra trụ vào cái không không đó, khi hết định lực thì đọa xuống nên vẫn còn luân hồi.
Các vị này vẫn còn thức mạt na vi tế và chưa biết rõ đường đi tam-ma-đề. Các ngài ở cõi vô sắc giới xả được phần thô mà chưa xả được phần vi tế vì không biết làm sao mà xả. Còn thân là còn chướng ngại, các ngài không còn thân nữa nhưng còn vô ngại, còn trụ định là ta. Bởi vì thức a-lại-da tuy nó vô ngại nhưng nó vẫn còn chấp trì. Nên các vị này vẫn còn thức thực và tư thực trong bốn thực (như đã nói ở phần tam tiệm thứ), vẫn còn thức chấp duy trì mạng vị.
CÕI A-TU-LA
Lại nữa, A Nan, trong ba cõi trời ấy, còn có bốn giống A tu la.
Nếu từ loài quỷ, do sức bảo hộ chính pháp, được thần thông vào hư không, thì giống A tu la này, từ trứng sinh ra, thuộc về loài quỷ.
Nếu từ cõi trời, đức kém phải sa đọa, chỗ ở gần với mặt trời, mặt trăng, thì giống A tu la đó, từ thai sinh ra, thuộc về loài người.
Có chúa A tu la, nắm giữ thế giới, sức mạnh đến chỗ không phải sợ ai, có thể tranh quyền với Phạm Vương, Đế Thích và Tứ Thiên Vương; giống A tu la này, nhân biến hóa mà có, thuộc về loài trời.
A Nan, riêng có một số A tu la thấp kém, sinh ra trong lòng biển lớn, lặn trong thủy huyệt, ban ngày đi chơi trên hư không, tối về ngủ dưới nước; giống A tu la này, nhân thấp khí sinh ra, thuộc về loài súc sinh.
A-tu-la là loài quỷ thần hay còn gọi là phi thiên (không phải các vị trời như vừa nêu trên). Tuy a-tu-la có thần thông biến hoá, nhưng còn nhiều lòng sân hận, tranh đấu hơn thua sát phạt nên không được lên cõi trời.
Có bốn loại a-tu-la:
1. A-tu-la trời (do hoá sanh),
2. A-tu-la người (do thai sanh),
3. A-tu-la quỷ (do noãn sanh),
4. A-tu-la bàng sanh (do thấp sanh).
Trong vòng luân hồi, Đức Phật minh họa hình ảnh a-tu-la là tay cầm cung tên, đao gươm và đánh chém tranh hơn tranh thua sát phạt với nhau.[5]
Đây là những cõi tu nhân riêng biệt mà gặt quả hư vọng nên còn luân hồ