Tạp chí KHHB
Tạp chí KHHB
Chỗ này dùng để sưu tầm các bài viết trong tạp chí KHHB
Được cảm ơn bởi: tinhyeu_cuagio, Lolita, jone, lys, MLS-8714, caocoi
TL: Tạp chí KHHB
Chuyện Địa Lý: Giai thọai về ngôi mộ nhà họ “Ngô Đình” tại huyện Lệ Thủy, tình Quảng Bình
» Tác giả: Lộc An Nguyễn Thanh Nghị
» Dịch giả:
» Thể lọai: Huyền bí
» Số lần xem: 10896
1. Chuyện Địa Lý: Giai thọai về ngôi mộ nhà họ “Ngô Đình” tại huyện Lệ Thủy, tình Quảng Bình
Khỏang cuối thế kỷ 19 đời vua Tự Đức tại làng Đại Phong (tục danh Đợi), huyện Phong Lộc (sau đổi thành huyện Lệ Thủy), tỉnh Quảng Bình, có một nông dân đến ngụ cư trong làng,...vợ chết sớm, chỉ có một cậu con trai nhỏ độ 6 tuổi, hằng ngày làm mướn sinh sống. Ban hội tề ở đình làng này cắt cử ông đến phục dịch ở đình làng mỗi khi có hội họp hoặc tế lể.
Sau đó, trong một cơn bệnh nặng, ông qua đời, được ban hội tề làng cử 4 dân đinh đưa thi hài ống đến an táng lại “Bến Đẻ” một vùng rừng núi ngược dòng sông Kiến Giang cách làng Đại Phong độ 3 cây số ngàn.
Vì mới đến ngụ cư, không có địa vị trong làng, không thân thuộc, lại quá nghèo, nên công việc tổ chức mai táng cũng chỉ đơn sơ và vội vàng.
Ngôi mộ
Khi 4 dân đinh chèo thuyền đưa thi hài ông đến “Bến Đẻ” thì trời đã về chiều, mà nơi này có tiếng nhiều cọp, nên khi dân đinh đang khiêng thi hài ông từ bến đậu thuyền tiến vào núi, bỗng có nhiều tiếng cọp gầm gừ quanh vùng. Dân đinh sợ quá vội hạ xuống cùng nhau hối hả đào một huyệt cạnh đường mòn, nhưng đào chưa xong thì tiếng gầm thét của chúa sơn lâm càng rền vang đâu đó, 4 dân đinh khiếp đảm liền đặt thi hài ông xuống huyệt còn quá cạn rồi lấp đất qua loa, đọan vội vã cùng nhau co giò chạy về bến xuống thuyền chèo về nhà, định bụng sáng hôm sau sẽ trở lại sửa sang lại chu đáo hơn kẻo tội nghiệp người quá cố.
Qua hôm sau, số dân đinh này chèo thuyền trở lại, thì lạ thay, ngôi mộ chiều hôm trước mới lấp qua loa chưa thành nấm, nay đã hóa thành một gò đất tròn trịa do mối tạo lên lớn bằng một căn nhà. Các bậc lão thành trong làng và lân cận nghe tin, lũ lượt đến xem và đều cho là ngôi mộ thiên táng.
Nhưng rồi câu chuyện cũng theo thời gian đi và quên lãng, không ai lưu tâm bàn tán gì đến nữa. Mỗi lần ai đi ngang qua ngôi mộ này cũng không còn để ý đến một gò đất cây cỏ um tùm vì không người viếng thăm săn sóc từ năm này qua năm khác.
Cụ Ngô Đình Khả
Ông cụ qua đời, để lại cậu con trai côi cút mới lên 8, mặt mũi rất khôi ngô dĩnh ngộ, nên được vị cố đạo Thiên Chúa ở xứ đạo Mỹ Phước cạnh làng Đại Phong nhận đem về nuôi cho ăn học. Cậu bé đó là cụ Ngô Đình Khả sau này đó.
Sau này, cậu bé được cho ra Hanoi học, thi đậu tốt nghiệp trường thông ngôn Đông Pháp, được bổ làm thông phán tại tòa Thống sứ Bắc Kỳ tại Hanoi (trường này giống học viện hành chánh bây giờ).
Theo thông lệ xưa, hễ ai được nhà nước bảo hộ hay Nam triều bộ nhậm chức tước gì thì đều được nhà nước, thông tư về nguyên quán và ban hội tề làng phải tổ chức lên tỉnh rước sắc bằng về làng, nhằm làm tăng vinh dự cho người được bổ nhậm, thường gọi là “tư án quán”. Tại làng, người nào có phẩm hàm cao thì được làng cấp phần ruộng tốt giao cho thanh nhân canh tác.
Nhưng khi được nhà nước bảo hộ ở Ha nội tư án quán, tòa công sứ và dinh tuần vũ tỉnh Quảng Bình báo cho làng Đại Phong lên tỉnh rước sắc bằng cụ Khả, thì ban hội tề làng này từ khước viện lý do làng Đại Phong không có ai tên là Ngô Đình Khả cả, bởi vì nếu nhận có, tất cụ Ngô Đình Khả sẽ là vị tiên chỉ của làng này, trong khi làng này chỉ có những quan nhỏ cửu, bát phẩm mà thôi.
Do sự khước từ trên, cu Ngô Đình Khả giận làng Đại Phong, sau đó cụ kết hôn với một thiếu nữ trâm anh ở làng Phú Cam gần kinh đô Huế và nhận làm công dân của làng này.
Sau này cụ Ngô Đình Khả chuyển cái ngạch Nam triều rồi lần lượt thăng tiến trên đường họan lộ, đến triều vua Thành Thái ngài thăng chức Thượng thơ bộ Học, Hiệp ta Đại học sĩ.
Dân làng Đại Phong lúc bấy giờ hối tiếc việc không thừa tiếp một công dân anh tài vẻ vang cho làng xóm, nên đã cùng nhau vào Huế xin tạ lỗi và thỉnh cầu được tiếp nhận cụ về làng, được cụ chấp thuận. từ đó, cụ là công dân làng Đại Phong. Cụ đã góp công xây dựng ngôi đình làng Đợi to lớn và ngôi nhà thờ nguy nga hiện nay vẫn còn.
Gái và trai
Cụ Ngô Đình Khả sinh được 2 gái và 6 trai: hai gái là bà cụ Cả Lễ và bà cụ Ấm, 6 trai là cụ nguyên tổng đốc tỉnh Quảng Nam Ngô Đình Khôi, Đức tổng Giám mục Ngô đình Thục, nguyên tổng thống đệ nhứt VNCH Ngô Đình Diệm, nguyên cố vấn Ngô Đình Nhu, nguyên đại sứ VNCH tại Anh quốc Ngô Đình Luyện và nguyên cố vấn cao nguyên trung nguyên Trung phần Ngô Đình Cẩn.
Năm 1936, cụ bà Ngô Đình Khả cùng các con gồm các ông Ngô Đình Khôi, Đức cha Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn (vắng mặt ông Ngô Đình Luyện có lẽ du học ngọai quốc) về làng Đại Phong thăm làng. Trước khi về làng, cụ bà và các con đến Bến Đẻ viếng mộ cọ cố Tam Đại Tổ.
Chạm long mạch
Năm 1938, ông Paul Ngọc, một nhà kinh doanh khai khẩn đất hoang nguyên quán Đồng Hới được phép khai khẩn đồn điền Ba Canh (tả ngạn sông Kiến Giang song song với vùng núi Bến Đẻ, Bến Trấm), ông này vô tình cho đào một con mương dẫn nước vào đồn điền để canh tác đã chạm phải long mạch của ngôi mộ thiên táng của nhà họ Ngô Đình kể trên và tai nạn đã đưa đến nho nhà họ Ngô là:
- Thượng thơ bộ Lại của triều đình Huế Ngô Đình Diệm bị hòang đế Bảo Đại cất chức thượng thơ thu hồi tất cả phẩm trật và huy chương vì đã chống đối lệnh hòang đế.
- Tổng đốc Quảng Nam Ngô Đình Khôi phải bị rắc rối một thời gian vì đã chống đối gây sự bất hòa với viên phó tòan quyền Đông Pháp Nouailletas.
Năm 1944, ông Paul Ngọc được chuyên viên canh nông Nhật bổn yểm trợ khuếch trương đào các con kinh dẩn thủy trong đồn điền Ba Canh của ông, vô tình đã chạm vào long mạch của ngôi mộ kể trên, nên lại một lần nữa gây đại nạn cho nhà họ Ngô là:
- Ông Ngô Đình Khôi và con trai đầu lòng là Ngô Đình Huân bị chính quyền VM bắt và thủ tiêu sau cuộc cách mạng mùa thu 1945.
- Ông Ngô Đình Diệm cũng bị chính quyền VM bắt giam nhưng đã trốn thóat bôn đào ra ngọai quốc.
Hàn lại long mạch
Nhưng nhờ thời gian Đồng minh đánh Nhật và VN chống Pháp, mọi công tác tại đồn điền này đều phải đình chỉ, các kinh đào dẫn thủy nhờ thời gian qua đã lấp lại hết. Long mạch đã được hàn gắn lại nên vận số nhà họ Ngô lại phục hưng bột phát hơn trước:
- Tháng 7-1954, ông Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh rồi trở thành vị tổng thống sáng lập nền đệ nhất cộng hòa VN.
- Cùng lúc, bào đệ là ông Ngô Đình Nhu nắm giữ chức cố vấn nòng cốt của chế độ, ông Ngô Đình Luyện giữ chức đại sứ VNCH tại Anh Quốc, ông Ngô Đình Cẩn trở nên vị lãnh chúa của miền Trung. Còn Đức Cha Ngô Đình Thục lên chức Tổng Giám Mục và có thể sẽ là vị Hồng Y đầu tiên của Công Giáo tại VNCH.
Lại chạm Long Mạch
Nhưng vào khỏang năm 1960-1962, chế độ miền Bắc bắt đầu đặt nặng công cuộc yểm trợ tận lực cho Mặt trận Giải Phóng miền Nam được Trung Cộng viện trợ xây đắp xa lộ từ Bắc vào Đồng Hới qua Hậu Hùng, Mỹ Đức đến vùng đồn diền Ba Canh tiến sát vĩ tuyến 17 và vùng Ba Canh trở thành căn cứ sản xuất và bổ túc vủ khí để chuyển vào Nam. Họ đào những đường hầm sâu để đặt cơ xưởng dưới lòng đất hầu tránh oanh kích đã làm đứt hẳn long mạch của ngôi mộ thiên táng nhà họ Ngô tại Bến Đẻ. Sự kiện này đưa đến đại nạn cho tòan thể gia đình họ Ngô Đình vào mùa đông năm 1963 như chúng ta đã rõ.Âu cũng là do thiên định cho sự kết phát của ngôi mộ kể trên phải chịu trong giai đọan đại biến này thôi. Rồi nếu hồng phúc của nhà họ Ngô Đình trời còn dành cho phần trường cửu hơn, thì biết đâu sau này lại có những sự kiện đưa đến hàn gắn lại long mạch để lớp hậu duệ nhà họ Ngô Đình tái phục hưng vĩ đại hơn nữa.
Về phương diện phong thủy, phải chăng ngôi mộ kể trên đã chung tú bới non sông hùng vĩ của huyện Lệ Thủy từ phía Nam có 3 hòn núi An Mã dẫn về Bến Trấm, Bến Đẻ và phía Tây có núi Đầu Mâu chung khí về biển Hạc Hải ờ phía Đông Bắc trải long mạch dựa theo sông Kiến Giang ngược lên Tróc Vực quy tụ vào ngôi mộ này kết phát đến tột đỉnh, Đế, Bá, Công, Hầu chăng ?
Kẻ viết giai thọai này chỉ là kẻ hậu sinh, nhờ được sinh sống ở quê hương từ thuở thiếu thời, được các bậc tiền bối truyền thọai lại mà thôi. Nay xin viết lại để mong chư hải nội tiền bối nhất là liệt quý vị cao niên đồng hương hiện ờ Miền Nam phủ chính lại cho, hầu xây dựng đích thực một sử liệu không những chỉ ở lãnh vực địa lý mà cả cho danh nhân chí của Việt Nam nữa ./.
Tây Đô tháng 10-1973.
(Tạp chí Khoa Học Huyền Bí số 1B(75) ngày 20 tháng 1-1975)
» Tác giả: Lộc An Nguyễn Thanh Nghị
» Dịch giả:
» Thể lọai: Huyền bí
» Số lần xem: 10896
1. Chuyện Địa Lý: Giai thọai về ngôi mộ nhà họ “Ngô Đình” tại huyện Lệ Thủy, tình Quảng Bình
Khỏang cuối thế kỷ 19 đời vua Tự Đức tại làng Đại Phong (tục danh Đợi), huyện Phong Lộc (sau đổi thành huyện Lệ Thủy), tỉnh Quảng Bình, có một nông dân đến ngụ cư trong làng,...vợ chết sớm, chỉ có một cậu con trai nhỏ độ 6 tuổi, hằng ngày làm mướn sinh sống. Ban hội tề ở đình làng này cắt cử ông đến phục dịch ở đình làng mỗi khi có hội họp hoặc tế lể.
Sau đó, trong một cơn bệnh nặng, ông qua đời, được ban hội tề làng cử 4 dân đinh đưa thi hài ống đến an táng lại “Bến Đẻ” một vùng rừng núi ngược dòng sông Kiến Giang cách làng Đại Phong độ 3 cây số ngàn.
Vì mới đến ngụ cư, không có địa vị trong làng, không thân thuộc, lại quá nghèo, nên công việc tổ chức mai táng cũng chỉ đơn sơ và vội vàng.
Ngôi mộ
Khi 4 dân đinh chèo thuyền đưa thi hài ông đến “Bến Đẻ” thì trời đã về chiều, mà nơi này có tiếng nhiều cọp, nên khi dân đinh đang khiêng thi hài ông từ bến đậu thuyền tiến vào núi, bỗng có nhiều tiếng cọp gầm gừ quanh vùng. Dân đinh sợ quá vội hạ xuống cùng nhau hối hả đào một huyệt cạnh đường mòn, nhưng đào chưa xong thì tiếng gầm thét của chúa sơn lâm càng rền vang đâu đó, 4 dân đinh khiếp đảm liền đặt thi hài ông xuống huyệt còn quá cạn rồi lấp đất qua loa, đọan vội vã cùng nhau co giò chạy về bến xuống thuyền chèo về nhà, định bụng sáng hôm sau sẽ trở lại sửa sang lại chu đáo hơn kẻo tội nghiệp người quá cố.
Qua hôm sau, số dân đinh này chèo thuyền trở lại, thì lạ thay, ngôi mộ chiều hôm trước mới lấp qua loa chưa thành nấm, nay đã hóa thành một gò đất tròn trịa do mối tạo lên lớn bằng một căn nhà. Các bậc lão thành trong làng và lân cận nghe tin, lũ lượt đến xem và đều cho là ngôi mộ thiên táng.
Nhưng rồi câu chuyện cũng theo thời gian đi và quên lãng, không ai lưu tâm bàn tán gì đến nữa. Mỗi lần ai đi ngang qua ngôi mộ này cũng không còn để ý đến một gò đất cây cỏ um tùm vì không người viếng thăm săn sóc từ năm này qua năm khác.
Cụ Ngô Đình Khả
Ông cụ qua đời, để lại cậu con trai côi cút mới lên 8, mặt mũi rất khôi ngô dĩnh ngộ, nên được vị cố đạo Thiên Chúa ở xứ đạo Mỹ Phước cạnh làng Đại Phong nhận đem về nuôi cho ăn học. Cậu bé đó là cụ Ngô Đình Khả sau này đó.
Sau này, cậu bé được cho ra Hanoi học, thi đậu tốt nghiệp trường thông ngôn Đông Pháp, được bổ làm thông phán tại tòa Thống sứ Bắc Kỳ tại Hanoi (trường này giống học viện hành chánh bây giờ).
Theo thông lệ xưa, hễ ai được nhà nước bảo hộ hay Nam triều bộ nhậm chức tước gì thì đều được nhà nước, thông tư về nguyên quán và ban hội tề làng phải tổ chức lên tỉnh rước sắc bằng về làng, nhằm làm tăng vinh dự cho người được bổ nhậm, thường gọi là “tư án quán”. Tại làng, người nào có phẩm hàm cao thì được làng cấp phần ruộng tốt giao cho thanh nhân canh tác.
Nhưng khi được nhà nước bảo hộ ở Ha nội tư án quán, tòa công sứ và dinh tuần vũ tỉnh Quảng Bình báo cho làng Đại Phong lên tỉnh rước sắc bằng cụ Khả, thì ban hội tề làng này từ khước viện lý do làng Đại Phong không có ai tên là Ngô Đình Khả cả, bởi vì nếu nhận có, tất cụ Ngô Đình Khả sẽ là vị tiên chỉ của làng này, trong khi làng này chỉ có những quan nhỏ cửu, bát phẩm mà thôi.
Do sự khước từ trên, cu Ngô Đình Khả giận làng Đại Phong, sau đó cụ kết hôn với một thiếu nữ trâm anh ở làng Phú Cam gần kinh đô Huế và nhận làm công dân của làng này.
Sau này cụ Ngô Đình Khả chuyển cái ngạch Nam triều rồi lần lượt thăng tiến trên đường họan lộ, đến triều vua Thành Thái ngài thăng chức Thượng thơ bộ Học, Hiệp ta Đại học sĩ.
Dân làng Đại Phong lúc bấy giờ hối tiếc việc không thừa tiếp một công dân anh tài vẻ vang cho làng xóm, nên đã cùng nhau vào Huế xin tạ lỗi và thỉnh cầu được tiếp nhận cụ về làng, được cụ chấp thuận. từ đó, cụ là công dân làng Đại Phong. Cụ đã góp công xây dựng ngôi đình làng Đợi to lớn và ngôi nhà thờ nguy nga hiện nay vẫn còn.
Gái và trai
Cụ Ngô Đình Khả sinh được 2 gái và 6 trai: hai gái là bà cụ Cả Lễ và bà cụ Ấm, 6 trai là cụ nguyên tổng đốc tỉnh Quảng Nam Ngô Đình Khôi, Đức tổng Giám mục Ngô đình Thục, nguyên tổng thống đệ nhứt VNCH Ngô Đình Diệm, nguyên cố vấn Ngô Đình Nhu, nguyên đại sứ VNCH tại Anh quốc Ngô Đình Luyện và nguyên cố vấn cao nguyên trung nguyên Trung phần Ngô Đình Cẩn.
Năm 1936, cụ bà Ngô Đình Khả cùng các con gồm các ông Ngô Đình Khôi, Đức cha Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn (vắng mặt ông Ngô Đình Luyện có lẽ du học ngọai quốc) về làng Đại Phong thăm làng. Trước khi về làng, cụ bà và các con đến Bến Đẻ viếng mộ cọ cố Tam Đại Tổ.
Chạm long mạch
Năm 1938, ông Paul Ngọc, một nhà kinh doanh khai khẩn đất hoang nguyên quán Đồng Hới được phép khai khẩn đồn điền Ba Canh (tả ngạn sông Kiến Giang song song với vùng núi Bến Đẻ, Bến Trấm), ông này vô tình cho đào một con mương dẫn nước vào đồn điền để canh tác đã chạm phải long mạch của ngôi mộ thiên táng của nhà họ Ngô Đình kể trên và tai nạn đã đưa đến nho nhà họ Ngô là:
- Thượng thơ bộ Lại của triều đình Huế Ngô Đình Diệm bị hòang đế Bảo Đại cất chức thượng thơ thu hồi tất cả phẩm trật và huy chương vì đã chống đối lệnh hòang đế.
- Tổng đốc Quảng Nam Ngô Đình Khôi phải bị rắc rối một thời gian vì đã chống đối gây sự bất hòa với viên phó tòan quyền Đông Pháp Nouailletas.
Năm 1944, ông Paul Ngọc được chuyên viên canh nông Nhật bổn yểm trợ khuếch trương đào các con kinh dẩn thủy trong đồn điền Ba Canh của ông, vô tình đã chạm vào long mạch của ngôi mộ kể trên, nên lại một lần nữa gây đại nạn cho nhà họ Ngô là:
- Ông Ngô Đình Khôi và con trai đầu lòng là Ngô Đình Huân bị chính quyền VM bắt và thủ tiêu sau cuộc cách mạng mùa thu 1945.
- Ông Ngô Đình Diệm cũng bị chính quyền VM bắt giam nhưng đã trốn thóat bôn đào ra ngọai quốc.
Hàn lại long mạch
Nhưng nhờ thời gian Đồng minh đánh Nhật và VN chống Pháp, mọi công tác tại đồn điền này đều phải đình chỉ, các kinh đào dẫn thủy nhờ thời gian qua đã lấp lại hết. Long mạch đã được hàn gắn lại nên vận số nhà họ Ngô lại phục hưng bột phát hơn trước:
- Tháng 7-1954, ông Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh rồi trở thành vị tổng thống sáng lập nền đệ nhất cộng hòa VN.
- Cùng lúc, bào đệ là ông Ngô Đình Nhu nắm giữ chức cố vấn nòng cốt của chế độ, ông Ngô Đình Luyện giữ chức đại sứ VNCH tại Anh Quốc, ông Ngô Đình Cẩn trở nên vị lãnh chúa của miền Trung. Còn Đức Cha Ngô Đình Thục lên chức Tổng Giám Mục và có thể sẽ là vị Hồng Y đầu tiên của Công Giáo tại VNCH.
Lại chạm Long Mạch
Nhưng vào khỏang năm 1960-1962, chế độ miền Bắc bắt đầu đặt nặng công cuộc yểm trợ tận lực cho Mặt trận Giải Phóng miền Nam được Trung Cộng viện trợ xây đắp xa lộ từ Bắc vào Đồng Hới qua Hậu Hùng, Mỹ Đức đến vùng đồn diền Ba Canh tiến sát vĩ tuyến 17 và vùng Ba Canh trở thành căn cứ sản xuất và bổ túc vủ khí để chuyển vào Nam. Họ đào những đường hầm sâu để đặt cơ xưởng dưới lòng đất hầu tránh oanh kích đã làm đứt hẳn long mạch của ngôi mộ thiên táng nhà họ Ngô tại Bến Đẻ. Sự kiện này đưa đến đại nạn cho tòan thể gia đình họ Ngô Đình vào mùa đông năm 1963 như chúng ta đã rõ.Âu cũng là do thiên định cho sự kết phát của ngôi mộ kể trên phải chịu trong giai đọan đại biến này thôi. Rồi nếu hồng phúc của nhà họ Ngô Đình trời còn dành cho phần trường cửu hơn, thì biết đâu sau này lại có những sự kiện đưa đến hàn gắn lại long mạch để lớp hậu duệ nhà họ Ngô Đình tái phục hưng vĩ đại hơn nữa.
Về phương diện phong thủy, phải chăng ngôi mộ kể trên đã chung tú bới non sông hùng vĩ của huyện Lệ Thủy từ phía Nam có 3 hòn núi An Mã dẫn về Bến Trấm, Bến Đẻ và phía Tây có núi Đầu Mâu chung khí về biển Hạc Hải ờ phía Đông Bắc trải long mạch dựa theo sông Kiến Giang ngược lên Tróc Vực quy tụ vào ngôi mộ này kết phát đến tột đỉnh, Đế, Bá, Công, Hầu chăng ?
Kẻ viết giai thọai này chỉ là kẻ hậu sinh, nhờ được sinh sống ở quê hương từ thuở thiếu thời, được các bậc tiền bối truyền thọai lại mà thôi. Nay xin viết lại để mong chư hải nội tiền bối nhất là liệt quý vị cao niên đồng hương hiện ờ Miền Nam phủ chính lại cho, hầu xây dựng đích thực một sử liệu không những chỉ ở lãnh vực địa lý mà cả cho danh nhân chí của Việt Nam nữa ./.
Tây Đô tháng 10-1973.
(Tạp chí Khoa Học Huyền Bí số 1B(75) ngày 20 tháng 1-1975)
Được cảm ơn bởi: tinhyeu_cuagio, volam078, jone, caocoi
TL: Tạp chí KHHB
Chuyền huyền bí miền Bắc: THẦN GIỮ CỦA
» Tác giả: Trọng Mạc
» Dịch giả:
» Thể lọai: Huyền bí
» Số lần xem: 10157
1. Chuyền huyền bí miền Bắc: THẦN GIỮ CỦA
Ngoài Bắc có 2 chuyện thực kỳ lạ mà có lẽ đồng bào Trung Nam ít được thấy được nghe:
Thứ nhất: truyện lạ lùng trâu, bò, ngựa , dê, gà, vịt, ngan, ngỗng lại chỉ ban đêm mới đi kiếm ăn....
Thứ hai: truyện các tên bán “thôốc ê”
Hồi xưa nước Việt chúng ta bị quan Tàu sang vơ vét vàng bạc, nhưng lại không được phép mang về nước họ, cũng có lẽ vì đướng sá quá xa xôi nguy hiểm, nhiều cướp trộm dọc đường nên phải tìm cách chôn dấu ờ An Nam Quốc rồi phong thần giữ của đó cho con cháu chúng sẽ tìm lấy về sau.
Lợn ăn đêm
Tôi đã được nghe các bậc trưởng thượng trong tỉnh Hải Dương nói rằng: có người gặp một đàn lợn mấy chục con kéo nhau đi ăn đêm gần chùa Ông Đống phố Đông Thị, Hải Dương. Người này cố đuổi bắt cho được con lợn to đầu đàn mà không thèm bắt con lợn què đang lê lết đàng sau. Quá chùa một đọan, đàn lợn biến mất. Như vậy là gần chùa có hầm để của rồi.
Lại có người đã gặp ngựa ăn cỏ sau nhà thương Hải Dương hồi quá nủa đên. Lại gần toan bắt thì nó đá chết.
Cách đây hơn chục năm, một tờ báo ở Saigon có đăng một chuyện “vịt ăn đêm”. 2 vợ chồng nhà nông kia đi làm đồng thực sớm, gặp đàn vịt mấy chục ocn ăn ở ruộng gần đó bèn lùa cả về nhà. Sáng ngày ra thấy chuồng gà, tòan vịt bằng vàng, nhờ vậy mà trở nên giàu có.
Tiếng đồn ầm lên “được” của” nhưng rồi mấy năm sau thì bị hại vì “của “trời ơi” này; không phải đồng bào Việt ghen ăn mà chính do người Tàu, con cháu của quan lại Trung Quốc hồi xưa đã để của lại cho họ. Chúng có “gia phả” và “chìa khóa” để mở các cửa kho vàng đó. Nay biết là số vàng của họ bị mất đi một phần, nên họ tìm cách ám hại vợ chồng nộng dân kia để đọat lại. Rất tiếc tôi không còn nhớ chúng đã dùng thủ đọan gì để cướp lại số vàng đó.
Các bậc tôn trưởng kể rằng: “ Khi phong thần, người có của đã hẹn cho “thần giữ của” mộ thời hạn là bao nhiêu năm nhất định sẽ có người lấy vàng và sẽ trả tự do cho thần. Quá hạn đó, thần có tòan quyền chọn cho ai của đó thì cho”
Một nhà nông đi làm về khuya gặp một cô con gái thực đẹp bảo đem cho cô ta một dĩa bánh đúc mắm tôm và 21 ngưới đàn bà có chửa thì cô ta sẽ cho 1 con lợn bằng vàng. Người nhà nông nhanh trí nghĩ ngay ra đem đủ bánh đúc mắm tôm và 21 cái “dòng đònng” (cây lúa đang có bầu) thì cô gái nhận và mở cửa kho ra cho thấy cơ man nào là vàng đỏ ối nhưng chỉ cho một con lợn đúng như lời đã hứa. Cô gái kia chính là thần giữ cửa các kho đó, nhưng khi đã quá ngày hẹn, thần bị đói nên được tòan quyền xử dụng kho vàng, đổi lợn lấy thức ăn. Và các súc vật đi ăn đêm chính là những con vật bằng vàng torng hầm, lâu ngày đã thành thần vậy.
Bọn “thôốc ê”
Bọn “thò lò mũi xanh” chúng tôi hồi xưa rất sợ bọn đi bán thuốc rong “thuôốc ê”. Người lớn dọa rằng “ ra đường chơi, bọn “thuôốc thuôốc ê” nó bắt bỏ vào bồ đem về Tầu là chết đó.
Tụi “thuôốc thuôốc ê” này đội nón tu-lờ, thứ nón rộng như cái mâm thau lớn, đan bằng cật tre, mặt trên quang dầu màu vàng sậm rất bóng, chính giữa nón lồi lên như cái sừng thật to, có quai móc vào càm. Họ mặc quần áo cộc màu xanh thẫm, áo cộc mở đằng trước như áo người Việt chúng ta, nhưng cúc thì tết bằng vải. Chân đi hài sảo bện bằng dây đay, dây gai, có quai buộc vào chân rất chắc. Chúng gánh 2 cái bồ, đi từng bọn, ít nhất là 2, nhiều nhất là 5,6 lang thang khắp đó đây, hang cùng ngỏ hẻm miền Bắc, miệng rao “thuôốc thuôốc ê”.
Người bào chúng là dần Tầu, kẻ khác bảo là dân Cao Ly. Có thực chúng sang đây để bán thuốc không ? Rất ít người mua thuốc của chúng mà sao chúng lại đông đến thế ? Nhan nhản khắp các làng, các chợ quê, không đâu là vắng bóng chúng. Người lớn còn bảo chúng đi rắc bùa mê. Chúng nó thờ Ma ở 1 cái bồ, chỉ có một cái là đựng thuốc thôi. Mà quả vậy, chỉ thấy họ mở có 1 cái bồ thôi, còn cái kia không ai thấy chúng mở lần nào cả. Đã có người bất thình lình chộp cái nắp bồ thứ 2 lật ra xem thì thấy có 1 bát hương và giấy vàng đầy cả bồ. Tên bán thuốc bị cú bất chợi đó tái mặt làu nhàu rồi đứng dậy tức khắc đi ngay không bán thuốc nữa.
Một chuyện lấy vàng
Và dười đây là những gì xảy ra với tụi “thuôốc thuôốc ê” này.
Một bạn chừng 5,6 tên lọai này lẩn quẩn bán thuốc và đi lại ở làng Mổ luôn luôn rồi làm thân được với dân trong vùng nhất là với các vị chức sắc xã đó. Rồi hắn làm quen mà mua chuộc được cả anh chàng Mõ nữa để được anh mở cửa đình cho vào ngủ trong đó. Dần dần chúng sống với dân Mỗ như người đồng chủng, không còn ai nghi ngờ gì chúng nữa. Thế rồi bỗng nhiên bọn chúng biến mất không tên nào lai vãng đến làng nữa. Lúc đó làng mới sinh nghi, đổ ra đình tìm tòi thì ai nấy giật mình lác mắt thấyy bức hòanh phi bằng gỗ treo trước bàn thờ Thành Hòang đã bị hạ xuống từ bao giờ mà lạ nhất là 4 đại tự sơn son thếp vàng “Phúc như Đông Hải” đã bị đục lấy đi mất. Xem xét kỹ ra mới biết đó là 4 chữ rời có móc, móc vào gỗ chứ không không phải là chữ đục chạm trên gỗ. Đàng sau bức hòanh còn sót lại mấy lá vàng thật . Lúc bấy giờ dân làng mới ngả ngửa người ra mà tiếc ngơ tiếc ngẩn. Bọn “thuôốc thuôốc ê” đã đến lấy vàng mà cha mẹ ông bà chúng để lại trên bức hòanh phi cung tiến cho đình làng từ mấy đời trước. 4 đại tự “Phúc như Đông hải” chính là 4 chữ đúc bằng vàng, mỗi chữ hàng trăm lạng vàng chứ ít đâu. Lại còn vàng lá chức trong bụng trước mắt dân làng từ mấy đời mà chẳng ai biết !
Chó đá
Ngòai Bắc có tục lệ tạc tương đó đá gìn giữ đình chùa miếu mạo, có khi đến 3,4 con như ở làng Hòang Mai gần Hanoi, có 4 con chó đá ngay ở cổng làng.
Bọn “thuôốc thuôốc ê” lan la đến vùng XX và thuê nhà tại chợ, gần đình. Một con chó đá thực to ngồi trên bệ nửa chìm nửa nổi ngay cạnh đình làng. Lưng chó có thấy khắc 4 chữ Hán thực rõ ràng: “Kim tại ngọc hành”, làm cho “bửu bối” của chó bị đập bể, nhưng chẳng thấy vàng đâu cả.
Thế rồi một thời gian sau, làng XX phải trố mắt mà nhìn cái “huyệt” ở sau đình trước mặt con chó đá ấy, lúc này đã thấy đầu cho thủng, có lổ hổng từ đầu xuống bụng. Về sau có người đóan ra: “Kim tại ngọc hành” nghĩa là đổ đầy nước vào bụng chó cho nước chảy qua ngọc hành, nước cảy hết, ngừng ở đâu thì đào ở đó lấy vàng lên.
Được nghe vậy thì xin thuật lại như vậy. nhưng theo ngu ý thì không lẽ bọn Tầu phù lại khờ khạo đến như thế sao ?
“Vạn vật vô thường” ! Để của trên bức hòanh phi.. Nếu bão tố làm đổ đình… dân làng di đình đi nơi khác..mối ăn gỗ làm rơi 4 chữ vàng … hay dân làng đem chó đá đi mé khác .. hoặc lâu ngày chó đã bị gãy nát.. thì sao ?
Phải chăng vì những lẽ này mà bọn cai trị Tàu hồi xưa mới nghĩ đến việc “phong thần giữ của”. Rồi việc quan Tàu cưới vơ An Nam về mà không động phòng hoa chúc, không cho họ nhà gái bén mảng đến nhà trai, đã làm dân An Nam nghi ngờ để rồi khám phá ra dã tâm của bọn tham quan ô lại Tàu phù ?
Cứu con khỏi chết
Một gia đình có con gái thự cđẹp vừa tuần cập kê được quan Tàu địa phương đến cầu hôn. Còn gì bằng nữa ! Một bước lên bà quan (mặc dầu là me tàu phù, me Mỹ, me Tây hay me Đại Hàn) nên gia đình cô gái nhận lời.
Những ngày đầu, gia đình nhà gái cũng được đến chơi vài ba lần. Rể cũng nhã nhặn đón tiếp. Một hôm cô gái rỉ tai mẹ đẻ: “Từ hôm về đây đến giờ, chồng con vẫn để con ngủ một mình thôi mẹ ạ !”
Bà mẹ cũng không vừa, chất vấn rể luôn thì được trả lời: “ Tục lệ Thiên triều khác với nước Đại Cồ Việt của cá nhà bà lố ! Còn phải trọn ngày thực tốt; rồi 2 vợ chồng mới tới nhà dành riêng cho việc động phòng”
Vốn đã được nghe ít nhiều về chuyện “phong thần”, bà mẹ cô gái bàn với gia đình tìm phương giải cứu con nếu vạn nhất con gái bà bị “phong thần” như đã có lời đồn đại. Bà mẹ ngầm dúi cho con gái một gói đựng hạt vừng (mè) thực mẩy, dặn rằng: “ Nếu có phải đi đâu ban đêm thì hết sức cẩn thận, rắc vừng xuống đất, theo dọc đường , và đến chổ nào xuống kiệu, còn bao nhiêu rắc vung vải ra chung quanh cho kỳ hết mà chớ có để lộ cho ai biết mảy may !”.
Thế rồi việc phải đến đã đến. Quá nửa đêm một hôm thực tối, không trăng sao, cô gái được đưa lên kiệu và rước đi. Theo đúng lời mẹ dặn, cô gái đã rắng vừng suốt dọc đường và đến chổ kiệu đỗ, còn bao nhiêu vung vãi ra hết.
Cô gái được đưa xuống hầm sâu rồi lên ngai vàng chân tay bị buộc chặt vào ngai. Miệng được ngậm 1 củ sâm, 2 hai môi bị gắn chặt lại với nhau bằng nhựa trám. Với củ sâm đó, cô gái sống được 100 ngày mới chết.
Sau khi hô thần và làm đủ phù phép, bọn Tàu phù ra khỏi hầm, xây kính miệng hầm lại, san bằng chổ đất, trồng lại cỏ như củ khiêng không một ai có thể ngờ việc gì được.
Khi bà mẹ cô gái đến thăm còn lần cuối thì được nhà trai cho biết là đôi tân hôn đã dời đến nhà dành riêng cho cuộc động phòng ờ mãi xa không thể đi được.
Chỉ cần nửa tháng sau, gia đình cô gái đã tìm ra dấu vết con mình nhờ cây vừng đã mọc đều. Cuối cùng đã cứu được cô gái. Kho vàng đỏ ối, họ đúc đủ thứ: voi, ngựa, trâu, bò, lợn, gà, ngỗng, ngan, vàng nén, vàng lá, chén, bát, đĩa, đĩa, cau, trầu đêu tòan vàng ròng.
Gia đình cô gái có đọai được kho vàng đó không ? Không thấy nói mà chỉ biết sau khi cứu thóat được con gái, gia đình đó đã phải trốn đi phương khác, e khi việc bị bại lộ thì hết đường sống với Tàu phù.
Nếu quá 100 ngày, cô gái chết rồi thành “thần giữ của” cái kho này, thì dù là bố hay mẹ cô ta có biết mà vào kho đo cũng sẽ bi thần chém chết luôn, trừ khi biết được câu thần chú “hô” để gọi mở cửa kho thì không kể. Nhưng bọn để của đâu có lộ thần chú ấy cho ai mà biết được.
Thời tiền chiến, nhà văn Thế Lữ đã dựa vào những truyện như trên của “cha ông nhà Việt” để lại mà viết ra tập “Vàng và máu” thực rùng rợn ly kỳ !
(Khoa học huyền bí số 1B-1975)
» Tác giả: Trọng Mạc
» Dịch giả:
» Thể lọai: Huyền bí
» Số lần xem: 10157
1. Chuyền huyền bí miền Bắc: THẦN GIỮ CỦA
Ngoài Bắc có 2 chuyện thực kỳ lạ mà có lẽ đồng bào Trung Nam ít được thấy được nghe:
Thứ nhất: truyện lạ lùng trâu, bò, ngựa , dê, gà, vịt, ngan, ngỗng lại chỉ ban đêm mới đi kiếm ăn....
Thứ hai: truyện các tên bán “thôốc ê”
Hồi xưa nước Việt chúng ta bị quan Tàu sang vơ vét vàng bạc, nhưng lại không được phép mang về nước họ, cũng có lẽ vì đướng sá quá xa xôi nguy hiểm, nhiều cướp trộm dọc đường nên phải tìm cách chôn dấu ờ An Nam Quốc rồi phong thần giữ của đó cho con cháu chúng sẽ tìm lấy về sau.
Lợn ăn đêm
Tôi đã được nghe các bậc trưởng thượng trong tỉnh Hải Dương nói rằng: có người gặp một đàn lợn mấy chục con kéo nhau đi ăn đêm gần chùa Ông Đống phố Đông Thị, Hải Dương. Người này cố đuổi bắt cho được con lợn to đầu đàn mà không thèm bắt con lợn què đang lê lết đàng sau. Quá chùa một đọan, đàn lợn biến mất. Như vậy là gần chùa có hầm để của rồi.
Lại có người đã gặp ngựa ăn cỏ sau nhà thương Hải Dương hồi quá nủa đên. Lại gần toan bắt thì nó đá chết.
Cách đây hơn chục năm, một tờ báo ở Saigon có đăng một chuyện “vịt ăn đêm”. 2 vợ chồng nhà nông kia đi làm đồng thực sớm, gặp đàn vịt mấy chục ocn ăn ở ruộng gần đó bèn lùa cả về nhà. Sáng ngày ra thấy chuồng gà, tòan vịt bằng vàng, nhờ vậy mà trở nên giàu có.
Tiếng đồn ầm lên “được” của” nhưng rồi mấy năm sau thì bị hại vì “của “trời ơi” này; không phải đồng bào Việt ghen ăn mà chính do người Tàu, con cháu của quan lại Trung Quốc hồi xưa đã để của lại cho họ. Chúng có “gia phả” và “chìa khóa” để mở các cửa kho vàng đó. Nay biết là số vàng của họ bị mất đi một phần, nên họ tìm cách ám hại vợ chồng nộng dân kia để đọat lại. Rất tiếc tôi không còn nhớ chúng đã dùng thủ đọan gì để cướp lại số vàng đó.
Các bậc tôn trưởng kể rằng: “ Khi phong thần, người có của đã hẹn cho “thần giữ của” mộ thời hạn là bao nhiêu năm nhất định sẽ có người lấy vàng và sẽ trả tự do cho thần. Quá hạn đó, thần có tòan quyền chọn cho ai của đó thì cho”
Một nhà nông đi làm về khuya gặp một cô con gái thực đẹp bảo đem cho cô ta một dĩa bánh đúc mắm tôm và 21 ngưới đàn bà có chửa thì cô ta sẽ cho 1 con lợn bằng vàng. Người nhà nông nhanh trí nghĩ ngay ra đem đủ bánh đúc mắm tôm và 21 cái “dòng đònng” (cây lúa đang có bầu) thì cô gái nhận và mở cửa kho ra cho thấy cơ man nào là vàng đỏ ối nhưng chỉ cho một con lợn đúng như lời đã hứa. Cô gái kia chính là thần giữ cửa các kho đó, nhưng khi đã quá ngày hẹn, thần bị đói nên được tòan quyền xử dụng kho vàng, đổi lợn lấy thức ăn. Và các súc vật đi ăn đêm chính là những con vật bằng vàng torng hầm, lâu ngày đã thành thần vậy.
Bọn “thôốc ê”
Bọn “thò lò mũi xanh” chúng tôi hồi xưa rất sợ bọn đi bán thuốc rong “thuôốc ê”. Người lớn dọa rằng “ ra đường chơi, bọn “thuôốc thuôốc ê” nó bắt bỏ vào bồ đem về Tầu là chết đó.
Tụi “thuôốc thuôốc ê” này đội nón tu-lờ, thứ nón rộng như cái mâm thau lớn, đan bằng cật tre, mặt trên quang dầu màu vàng sậm rất bóng, chính giữa nón lồi lên như cái sừng thật to, có quai móc vào càm. Họ mặc quần áo cộc màu xanh thẫm, áo cộc mở đằng trước như áo người Việt chúng ta, nhưng cúc thì tết bằng vải. Chân đi hài sảo bện bằng dây đay, dây gai, có quai buộc vào chân rất chắc. Chúng gánh 2 cái bồ, đi từng bọn, ít nhất là 2, nhiều nhất là 5,6 lang thang khắp đó đây, hang cùng ngỏ hẻm miền Bắc, miệng rao “thuôốc thuôốc ê”.
Người bào chúng là dần Tầu, kẻ khác bảo là dân Cao Ly. Có thực chúng sang đây để bán thuốc không ? Rất ít người mua thuốc của chúng mà sao chúng lại đông đến thế ? Nhan nhản khắp các làng, các chợ quê, không đâu là vắng bóng chúng. Người lớn còn bảo chúng đi rắc bùa mê. Chúng nó thờ Ma ở 1 cái bồ, chỉ có một cái là đựng thuốc thôi. Mà quả vậy, chỉ thấy họ mở có 1 cái bồ thôi, còn cái kia không ai thấy chúng mở lần nào cả. Đã có người bất thình lình chộp cái nắp bồ thứ 2 lật ra xem thì thấy có 1 bát hương và giấy vàng đầy cả bồ. Tên bán thuốc bị cú bất chợi đó tái mặt làu nhàu rồi đứng dậy tức khắc đi ngay không bán thuốc nữa.
Một chuyện lấy vàng
Và dười đây là những gì xảy ra với tụi “thuôốc thuôốc ê” này.
Một bạn chừng 5,6 tên lọai này lẩn quẩn bán thuốc và đi lại ở làng Mổ luôn luôn rồi làm thân được với dân trong vùng nhất là với các vị chức sắc xã đó. Rồi hắn làm quen mà mua chuộc được cả anh chàng Mõ nữa để được anh mở cửa đình cho vào ngủ trong đó. Dần dần chúng sống với dân Mỗ như người đồng chủng, không còn ai nghi ngờ gì chúng nữa. Thế rồi bỗng nhiên bọn chúng biến mất không tên nào lai vãng đến làng nữa. Lúc đó làng mới sinh nghi, đổ ra đình tìm tòi thì ai nấy giật mình lác mắt thấyy bức hòanh phi bằng gỗ treo trước bàn thờ Thành Hòang đã bị hạ xuống từ bao giờ mà lạ nhất là 4 đại tự sơn son thếp vàng “Phúc như Đông Hải” đã bị đục lấy đi mất. Xem xét kỹ ra mới biết đó là 4 chữ rời có móc, móc vào gỗ chứ không không phải là chữ đục chạm trên gỗ. Đàng sau bức hòanh còn sót lại mấy lá vàng thật . Lúc bấy giờ dân làng mới ngả ngửa người ra mà tiếc ngơ tiếc ngẩn. Bọn “thuôốc thuôốc ê” đã đến lấy vàng mà cha mẹ ông bà chúng để lại trên bức hòanh phi cung tiến cho đình làng từ mấy đời trước. 4 đại tự “Phúc như Đông hải” chính là 4 chữ đúc bằng vàng, mỗi chữ hàng trăm lạng vàng chứ ít đâu. Lại còn vàng lá chức trong bụng trước mắt dân làng từ mấy đời mà chẳng ai biết !
Chó đá
Ngòai Bắc có tục lệ tạc tương đó đá gìn giữ đình chùa miếu mạo, có khi đến 3,4 con như ở làng Hòang Mai gần Hanoi, có 4 con chó đá ngay ở cổng làng.
Bọn “thuôốc thuôốc ê” lan la đến vùng XX và thuê nhà tại chợ, gần đình. Một con chó đá thực to ngồi trên bệ nửa chìm nửa nổi ngay cạnh đình làng. Lưng chó có thấy khắc 4 chữ Hán thực rõ ràng: “Kim tại ngọc hành”, làm cho “bửu bối” của chó bị đập bể, nhưng chẳng thấy vàng đâu cả.
Thế rồi một thời gian sau, làng XX phải trố mắt mà nhìn cái “huyệt” ở sau đình trước mặt con chó đá ấy, lúc này đã thấy đầu cho thủng, có lổ hổng từ đầu xuống bụng. Về sau có người đóan ra: “Kim tại ngọc hành” nghĩa là đổ đầy nước vào bụng chó cho nước chảy qua ngọc hành, nước cảy hết, ngừng ở đâu thì đào ở đó lấy vàng lên.
Được nghe vậy thì xin thuật lại như vậy. nhưng theo ngu ý thì không lẽ bọn Tầu phù lại khờ khạo đến như thế sao ?
“Vạn vật vô thường” ! Để của trên bức hòanh phi.. Nếu bão tố làm đổ đình… dân làng di đình đi nơi khác..mối ăn gỗ làm rơi 4 chữ vàng … hay dân làng đem chó đá đi mé khác .. hoặc lâu ngày chó đã bị gãy nát.. thì sao ?
Phải chăng vì những lẽ này mà bọn cai trị Tàu hồi xưa mới nghĩ đến việc “phong thần giữ của”. Rồi việc quan Tàu cưới vơ An Nam về mà không động phòng hoa chúc, không cho họ nhà gái bén mảng đến nhà trai, đã làm dân An Nam nghi ngờ để rồi khám phá ra dã tâm của bọn tham quan ô lại Tàu phù ?
Cứu con khỏi chết
Một gia đình có con gái thự cđẹp vừa tuần cập kê được quan Tàu địa phương đến cầu hôn. Còn gì bằng nữa ! Một bước lên bà quan (mặc dầu là me tàu phù, me Mỹ, me Tây hay me Đại Hàn) nên gia đình cô gái nhận lời.
Những ngày đầu, gia đình nhà gái cũng được đến chơi vài ba lần. Rể cũng nhã nhặn đón tiếp. Một hôm cô gái rỉ tai mẹ đẻ: “Từ hôm về đây đến giờ, chồng con vẫn để con ngủ một mình thôi mẹ ạ !”
Bà mẹ cũng không vừa, chất vấn rể luôn thì được trả lời: “ Tục lệ Thiên triều khác với nước Đại Cồ Việt của cá nhà bà lố ! Còn phải trọn ngày thực tốt; rồi 2 vợ chồng mới tới nhà dành riêng cho việc động phòng”
Vốn đã được nghe ít nhiều về chuyện “phong thần”, bà mẹ cô gái bàn với gia đình tìm phương giải cứu con nếu vạn nhất con gái bà bị “phong thần” như đã có lời đồn đại. Bà mẹ ngầm dúi cho con gái một gói đựng hạt vừng (mè) thực mẩy, dặn rằng: “ Nếu có phải đi đâu ban đêm thì hết sức cẩn thận, rắc vừng xuống đất, theo dọc đường , và đến chổ nào xuống kiệu, còn bao nhiêu rắc vung vải ra chung quanh cho kỳ hết mà chớ có để lộ cho ai biết mảy may !”.
Thế rồi việc phải đến đã đến. Quá nửa đêm một hôm thực tối, không trăng sao, cô gái được đưa lên kiệu và rước đi. Theo đúng lời mẹ dặn, cô gái đã rắng vừng suốt dọc đường và đến chổ kiệu đỗ, còn bao nhiêu vung vãi ra hết.
Cô gái được đưa xuống hầm sâu rồi lên ngai vàng chân tay bị buộc chặt vào ngai. Miệng được ngậm 1 củ sâm, 2 hai môi bị gắn chặt lại với nhau bằng nhựa trám. Với củ sâm đó, cô gái sống được 100 ngày mới chết.
Sau khi hô thần và làm đủ phù phép, bọn Tàu phù ra khỏi hầm, xây kính miệng hầm lại, san bằng chổ đất, trồng lại cỏ như củ khiêng không một ai có thể ngờ việc gì được.
Khi bà mẹ cô gái đến thăm còn lần cuối thì được nhà trai cho biết là đôi tân hôn đã dời đến nhà dành riêng cho cuộc động phòng ờ mãi xa không thể đi được.
Chỉ cần nửa tháng sau, gia đình cô gái đã tìm ra dấu vết con mình nhờ cây vừng đã mọc đều. Cuối cùng đã cứu được cô gái. Kho vàng đỏ ối, họ đúc đủ thứ: voi, ngựa, trâu, bò, lợn, gà, ngỗng, ngan, vàng nén, vàng lá, chén, bát, đĩa, đĩa, cau, trầu đêu tòan vàng ròng.
Gia đình cô gái có đọai được kho vàng đó không ? Không thấy nói mà chỉ biết sau khi cứu thóat được con gái, gia đình đó đã phải trốn đi phương khác, e khi việc bị bại lộ thì hết đường sống với Tàu phù.
Nếu quá 100 ngày, cô gái chết rồi thành “thần giữ của” cái kho này, thì dù là bố hay mẹ cô ta có biết mà vào kho đo cũng sẽ bi thần chém chết luôn, trừ khi biết được câu thần chú “hô” để gọi mở cửa kho thì không kể. Nhưng bọn để của đâu có lộ thần chú ấy cho ai mà biết được.
Thời tiền chiến, nhà văn Thế Lữ đã dựa vào những truyện như trên của “cha ông nhà Việt” để lại mà viết ra tập “Vàng và máu” thực rùng rợn ly kỳ !
(Khoa học huyền bí số 1B-1975)
Được cảm ơn bởi: tinhyeu_cuagio, volam078, jone, caocoi
TL: Tạp chí KHHB
ưới đây là một bài lược trích ''Tìm hiểu khoa Tử Vi ở Trung Hoa và Việt Nam '' của GS Trần Quang Đông đăng trong tạp chí KHHB xuất bản tại SG vào năm 1974.
''Khoa Tử Vi lưu truyền từ đời Tống (960) đến đời Thanh (1644). Trong khoảng gần 7 thế kỷ đó khoa Tử Vi chia ra làm 3 phái rõ rệt.
Vua Càn Long có tham vọng thống nhất lại cho đúng. Nhưng cho đến nay sách vở thất tán nên khoa này tại Trung Hoa không phổ biến và tinh vi như ở Việt Nam. Ba phái Tử vi đó là:
1 Phái Triệu Gia:
Hi Di tiên sinh truyền sách Tử Vi tinh nghĩa cho Tống Thái Tổ, Thái Tổ truyền lại cho các vương hầu trong Hoàng tộc. Khoa Tử Vi lưu truyền trong Hoàng tộc nhà Tống giử một sắc thái đặc biệt có thể tóm lược như sau:
- Chỉ truyền cho những người tôn thất họ Triệu.
- Những người có tư chất thông minh mới được truyền.
- Nghiên cứu đến chổ vi diệu, để dùng Tử vi trong việc dùng người, tùy theo vận hạn mà mưu đại sự.
Khoa TV lưu truyền trong tôn thất nhà Tống, đời đời ghi chú các kinh nghiệm. Sau khi nhà Tống mất con cháu vẫn giử được di thư. Người ta dùng chữ Triệu là họ của nhà Tống để gọi phái này: Triệu Thị Minh Thuyết Tử Vi Kinh.
2 Phái Hà Lạc:
Sau khi Hi Di tiên sinh qua đời, đệ tử của ông chia làm 2 phái. Phái đi về phương Nam chịu ảnh hưởng của khoa bói toán, nên đời sau gọi là phái Hà Lạc. Đa số những người trong phái này dùng khoa Tử Vi để làm kế sinh nhai, nên không bao giờ họ truyền cho nhau hết cái tinh vi. Bao giờ họ cũng giữ lại một số bí thuật, đôi khi họ còn truyền sai cho nhau nữa ...
Các thầy Tử Vi Tầu sang VN truyền dạy, họ vốn dĩ không học đúng với chính kinh, khi truyền lại họ còn dạy sai và dạy thiếu nữa thì hỏi sao khoa Tử Vi VN không có những chổ bế tắc khó giải thích.
Công trình của phái này còn chép trong bộ Tử vi Âm Dương chính nghĩa Nam tông.
3 Phái Âm Dương:
Học trò Hi Di tiên sinh đi về phương bắc bị ảnh hưởng của Âm Dương ngũ hành. Phái này có khuyết điểm là quá chú ý vào Âm Dương ngũ hành sinh khắc mà quên mất tinh yếu của khoa Tử Vi là Thiên văn. Đầu đời Minh một nhân vật quan trong của phái này làm quân sư cho Minh Thái Tổ đó là Lưu Bá Ôn, Trong đời Minh phái này được trọng dụng. Kinh nghiệm của phái này nhiều nhưng tiếc đã đi quá xa với chính tinh nên không thành đạt cho lắm. Công phu của phái này lưu truyền trong bộ Tử Vi Âm Dương chính nghĩa Bắc tông.
Niên hiệu Sùng Trinh thứ 16 nhà Minh (1643), Lý Tự Thành đem quân đốt phá Bắc Kinh, thì bộ sách trên thất truyền - Sau Vĩnh Vương bị Ngô Tam Quế thắt cổ ở Vân Nam, y có lưu giữ một bộ. Ngô Tam Quế bị diệt, bộ này lọt vào tay các Văn thần nhà Thanh.
Riêng bộ Triệu Thị Minh Thuyết Tử Vi Kinh được Hoàng Bính cuối thời nhà Tống chạy sang Đại Việt truyền lại cho nhà Trần, được phát triễn và lưu truyền trong tôn thất nhà Trần gọi là bộ Đông A di sự.
Bộ Đông A di sự bị nhà Minh chở về Kim Lăng cùng một số sách vở sau khi diệt nhà Hồ. Một số con cháu nhà Trần mai danh ẩn tích còn lưu giữ được bộ sách này. Bộ sách này không chỉ chép về Tử Vi mà còn chép nhiều điều bí mật trong họ Trần nên không mấy người được đọc.
Mãi đến đời nhà Mạc. Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) lại tìm được sách của người Trung Hoa trong phái Hà lạc đem về nghiên cứu, khoa Tử Vi lại phổ biến từ đấy.
Đời Lê - Trịnh , ông Lê quí Đôn (1726- 1784) đậu Bảng nhãn năm 29 tuổi, năm 1760 ông được cử sang Trung Hoa, Ông giao du với các danh sĩ Trung Hoa và được phái Âm Dương cho bộ'' Tử Vi Âm Dương chính nghĩa Bắc tông''. Trở về ông nghiên cứu, truyền bá trong dân gian. Hiện còn lưu truyền.
Một số nhà nghiên cứu Tử vi hiện nay là nhờ sách của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Lê Quí Đôn để lại. Sự khác biệt giữa các sách rất nhiều. Nhưng xét kỹ bộ Đông A di sự vẫn có lý hơn.
''Khoa Tử Vi lưu truyền từ đời Tống (960) đến đời Thanh (1644). Trong khoảng gần 7 thế kỷ đó khoa Tử Vi chia ra làm 3 phái rõ rệt.
Vua Càn Long có tham vọng thống nhất lại cho đúng. Nhưng cho đến nay sách vở thất tán nên khoa này tại Trung Hoa không phổ biến và tinh vi như ở Việt Nam. Ba phái Tử vi đó là:
1 Phái Triệu Gia:
Hi Di tiên sinh truyền sách Tử Vi tinh nghĩa cho Tống Thái Tổ, Thái Tổ truyền lại cho các vương hầu trong Hoàng tộc. Khoa Tử Vi lưu truyền trong Hoàng tộc nhà Tống giử một sắc thái đặc biệt có thể tóm lược như sau:
- Chỉ truyền cho những người tôn thất họ Triệu.
- Những người có tư chất thông minh mới được truyền.
- Nghiên cứu đến chổ vi diệu, để dùng Tử vi trong việc dùng người, tùy theo vận hạn mà mưu đại sự.
Khoa TV lưu truyền trong tôn thất nhà Tống, đời đời ghi chú các kinh nghiệm. Sau khi nhà Tống mất con cháu vẫn giử được di thư. Người ta dùng chữ Triệu là họ của nhà Tống để gọi phái này: Triệu Thị Minh Thuyết Tử Vi Kinh.
2 Phái Hà Lạc:
Sau khi Hi Di tiên sinh qua đời, đệ tử của ông chia làm 2 phái. Phái đi về phương Nam chịu ảnh hưởng của khoa bói toán, nên đời sau gọi là phái Hà Lạc. Đa số những người trong phái này dùng khoa Tử Vi để làm kế sinh nhai, nên không bao giờ họ truyền cho nhau hết cái tinh vi. Bao giờ họ cũng giữ lại một số bí thuật, đôi khi họ còn truyền sai cho nhau nữa ...
Các thầy Tử Vi Tầu sang VN truyền dạy, họ vốn dĩ không học đúng với chính kinh, khi truyền lại họ còn dạy sai và dạy thiếu nữa thì hỏi sao khoa Tử Vi VN không có những chổ bế tắc khó giải thích.
Công trình của phái này còn chép trong bộ Tử vi Âm Dương chính nghĩa Nam tông.
3 Phái Âm Dương:
Học trò Hi Di tiên sinh đi về phương bắc bị ảnh hưởng của Âm Dương ngũ hành. Phái này có khuyết điểm là quá chú ý vào Âm Dương ngũ hành sinh khắc mà quên mất tinh yếu của khoa Tử Vi là Thiên văn. Đầu đời Minh một nhân vật quan trong của phái này làm quân sư cho Minh Thái Tổ đó là Lưu Bá Ôn, Trong đời Minh phái này được trọng dụng. Kinh nghiệm của phái này nhiều nhưng tiếc đã đi quá xa với chính tinh nên không thành đạt cho lắm. Công phu của phái này lưu truyền trong bộ Tử Vi Âm Dương chính nghĩa Bắc tông.
Niên hiệu Sùng Trinh thứ 16 nhà Minh (1643), Lý Tự Thành đem quân đốt phá Bắc Kinh, thì bộ sách trên thất truyền - Sau Vĩnh Vương bị Ngô Tam Quế thắt cổ ở Vân Nam, y có lưu giữ một bộ. Ngô Tam Quế bị diệt, bộ này lọt vào tay các Văn thần nhà Thanh.
Riêng bộ Triệu Thị Minh Thuyết Tử Vi Kinh được Hoàng Bính cuối thời nhà Tống chạy sang Đại Việt truyền lại cho nhà Trần, được phát triễn và lưu truyền trong tôn thất nhà Trần gọi là bộ Đông A di sự.
Bộ Đông A di sự bị nhà Minh chở về Kim Lăng cùng một số sách vở sau khi diệt nhà Hồ. Một số con cháu nhà Trần mai danh ẩn tích còn lưu giữ được bộ sách này. Bộ sách này không chỉ chép về Tử Vi mà còn chép nhiều điều bí mật trong họ Trần nên không mấy người được đọc.
Mãi đến đời nhà Mạc. Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) lại tìm được sách của người Trung Hoa trong phái Hà lạc đem về nghiên cứu, khoa Tử Vi lại phổ biến từ đấy.
Đời Lê - Trịnh , ông Lê quí Đôn (1726- 1784) đậu Bảng nhãn năm 29 tuổi, năm 1760 ông được cử sang Trung Hoa, Ông giao du với các danh sĩ Trung Hoa và được phái Âm Dương cho bộ'' Tử Vi Âm Dương chính nghĩa Bắc tông''. Trở về ông nghiên cứu, truyền bá trong dân gian. Hiện còn lưu truyền.
Một số nhà nghiên cứu Tử vi hiện nay là nhờ sách của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Lê Quí Đôn để lại. Sự khác biệt giữa các sách rất nhiều. Nhưng xét kỹ bộ Đông A di sự vẫn có lý hơn.
TL: Tạp chí KHHB
Tác giả Phong Nguyên (Trích từ Báo KHHB)
Nguồn nhantrachoc
Thường thường, khi đóan Tử-Vi của một người ít ai chú trọng nhiều đến cung Nô Bộc, mà chỉ mổ xẻ tỉ mỉ các cung Mệnh, Thân, Tài, Quan, Di, Phúc … thậm chí các sách vở Tử-Vi cũng chỉ bàn sơ lược về cung Nô Bộc, vì cung này không được coi là cường cung. Nhưng theo kinh nghiệm của một số người giỏi Tử-Vi mà tôi đã có dịp tham khảo ý kiến, thì khi luận đóan về công danh, sự nghiệp, uy quyền của một người rất cần chú trọng tới cung Nô, ngòai các cường cung thường lệ, mới tránh được những sai lầm nặng nề.
Ngòai ra, nhiều người lại cho rằng cung Nô Bộc bao gồm luôn cả bạn bè, nhưng theo thiển ý thì cung Thiên Di và cung Quan Lộc mới chỉ giới này, còn cung Nô chỉ liên quan đến người dưới quyền, đầy tớ, gia nhân, vợ nhỏ ….. mà thôi. Và nếu có khi xét cung Nô mà đóan đúng được một khía cạnh nào đó về bạn bè, thì chắc hẳn những người này trước kia cũng chỉ thuộc vào nhóm dưới quyền rồi về sau nhờ may mắn hay cố gắng trở thành ngang hàng với đương số. Sở dĩ tôi phải nêu ra điểm này là để tránh một vài ngộ nhận hiểu lầm về những điều mà tôi trình bày dưới đây về cung Nô Bộc.
Với ý niệm như trên, tôi xin thử đưa ra những tiêu chuẩn bổ túc để giải đóan cung Nô Bộc mà tôi hy vọng có thể giúp qúy bạn đóan được công danh, sự nghiệp được chính xác hơn. Và để cho đỡ khô khan và dễ hiểu, tôi xin nêu ra nhiều ví dụ tiêu biểu.
1- Trường hợp cung Nô tốt hơn cung Mệnh
Trước hết, tôi cần nói là để cho giản dị, tôi chỉ nêu ra chữ Mệnh chứ thực ra phải phốii hợp với các cung Tài, Quan, Di cũng như xem cung Nô phải phối hợp với các cung Huynh-Đệ, Tử-Tức và Phụ-Mẫu chiếu về. Ngòai ra, đã nói đến Mệnh thì “Thân” cũng phải chú trọng tới.
Một lần có một anh bạn thân, cũng biết sơ về Tử-Vi, đưa cho tôi coi giúp lá số của anh ta và phàn nàn rằng lá số của anh có lẽ trật. Vì cung Nô Bộc của anh rất tốt mà cho tới ngày nay gần 40 tuổi rồi vẫn chẳng được điều khiển một ai cả. Hiện tại anh đang làm nhân viên văn phòng cho một công ty nước ngòai. Trong phòng anh công tác, anh coi như là cấp thấp nhất, ngọai trừ mấy người tùy phái. Nhìn cung Nô Bộc của anh có Tử-Vi (cư cung Ngọ), tức là có cách Tử Phủ Vũ Tướng do các sao hợp chiếu tạo thành, lại hội nhiều trung tinh quyền qúy khác mà tôi xin miễn kể ra cho khỏi rườm ra, hèn chi anh chẳng cho là tốt, nếu chỉ xét tới sao trên.
Nhưng anh ấy không để ý đến Mệnh qúa kém, có Cự-Đồng hãm địa tại Sửu hội nhiều hung tinh (Kình, Đà, Không, Kiếp) cũng hãm địa, còn cung an Thân và Tài, Quan, Di cũng không có tốt gì, như vậy làm nhân viên văn phòng được là may rồi. Các nhà Tử-vi gọi trường hợp này là “hữu quân vô tướng” (có quân mà không có tướng), tức là cung Nô tốt hơn cung Mệnh. Cung Nô như vậy là phản cách, vô lý, cho nên chẳng dùng được vào khía cạnh nào. Phải chi Mệnh có cách gì hay hơn, cùng nữa là bằng (kể ra khó được như vậy vì Tử Phủ Vũ Tướng với Tử-Vi cư Ngọ là cách trội nhất rồi ) thì công danh tột đỉnh, mình vừa giỏi vừa có những người dưới quyền tài ba lỗi lạc, thật còn gì bằng. Nếu Mệnh kém một chút (huống chi lại kém hẳn như trường hợp anh bạn tôi) cũng đã bất hạnh rồi, vì mình chỉ là bù nhìn, kẻ dưới quyền đặt mình ở cương vị nào hay dẹp bỏ chức vụ của mình đi cũng chịu. Đó là chưa kể những tai họa đau đớn có thể xảy ra cho mình do người dưới quyền gây ra, nếu Mệnh của mình có những sao tác hại.
Do đó, trong mọi trường hợp, ta đừng bao giờ ham cung Nô qúa tốt nếu mình muốn làm lớn. Theo kinh nghiệm riêng của tôi, thì tối kị cung Nô có cách Tử Phủ Vũ Tướng (dù hãm địa), nhất là khi có thêm trung tinh quần tụ, vì ít khi Mệnh của mình có cách trội hơn.
2- Trường hợp cung Nô xấu, nhưng cung Mệnh tốt
Trong trường hợp này các nhà Tử-Vi thường gọi là “hữu tướng vô quân” (có tướng mà không quân) và cũng cho rằng như thế là công danh bất hiển, giống như cách “hữu quân vô tướng”. Nhưng tôi nghiệm thấy rằng trong trường hợp này không thể quyết đóan một cách máy móc như thế được. Tôi đã bị lầm lẫn khá nhiều lần khi luận đóan theo quy tắc đó, và xin nêu ra hai ví dụ để quý bạn hiểu rõ hơn.
– Có một Bà Dược Sĩ đến nhờ tôi coi Tử-Vi xem sự nghiệp ra sao. Tôi thấy Mệnh của bà rất tốt, nào có Khôi, Việt, Quan, Phúc, Long, Phượng, Riêu Y, Thái Tuế, Xương Khúc, Hóa Khoa, nào là Ngũ Hành tương sinh, nhưng cung Nô có Thiên Đồng hãm địa hội Không, Kiếp, Kị, Phục … (tôi không nêu tỉ mỉ các sao, vì mục đích của bài này là đưa ra tiêu chuẩn) cho nên tôi vội kết luận là bà ta cũng chẳng có sự nghiệp gì lớn. Nhưng trên thực tế bà ta rất giàu có, hai ba tiệm thuốc tây ở Sài Gòn và còn có ở một hai cái ở tỉnh nữa. Đó là bà ta khoe như vậy để gián tiếp cho là tôi đóan ẩu. Tuy nhiên bà ta cũng công nhận là những người bán hàng thuốc tây cho bà đều gian tham, trộm cắp hòai nên bà hay thay đổi người bán hàng, nay đổi người này, mai đổi người kia, nhưng sự nghiệp của bà cũng không vì thế mà suy kém.
– Một lần khác, có người bạn làm chung sở, nhờ tôi coi giùm lá số của ông anh ruột hiện làm Bác Sĩ Quân Y. Vì là chỗ thân tình nên anh ta nói luôn ngay nghề nghiệp của người anh để đỡ mất công giải đóan của tôi, đồng thời cũng là để xác định ngay với tôi là lá số đúng giờ. Anh ta chỉ cần hỏi là sự nghiệp của người anh sẽ ra sao, có bền vững hay không, vì người này không có cao vọng. Nhìn cung Mệnh có Thiên Lương hội Quan Phúc, Riêu Y, Kình, Hỷ, Khoa Quyền Lộc … tôi cũng công nhận là đúng giờ sinh. Còn cung Nô thì tòan là sao xấu, nào là Hỏa Linh, Không Kiếp, Phục, Tử, Tuyệt, Kiếp Sát … tôi liền đóan là công danh bất hiển. Nhưng về sau mới biết là sai lầm qúa nhiều, vì làm Bác Sĩ đâu có cần nhiều người dưới giỏi. Cung Nô lúc đó ứng vào bệnh nhân. Thực tế, vị Bác Sĩ này tòan chữa cho thương bệnh binh, người què, người cụt, người bị cháy thịt, phỏng da, nhưng vị Bác Sĩ này rất mát tay ! (nhờ có Hỷ Thần tại Mệnh); ít khi không chữa nổi bệnh nhân.
Qua hai ví dụ nêu trên, ta thấy rằng đối với những người hành nghề chuyên môn thường thường không cần phải cung Nô tốt (lẽ dĩ nhiên tốt vẫn hơn những người dưới quyền đâu cần nhiều và đâu cần tài ba lỗi lạc, nếu họ có kém cỏi hay lưu manh chăng nữa thì mình cũng chỉ bực mình và phải thận trọng thôi, chứ sự nghiệp đâu có bị ảnh hưởng trực tiếp). Tuy nhiên những người hành nghề chuyên môn muốn có địa vị cao trong chính quyền, nếu có cung Nô xấu như trên thì chỉ nên đeo đuổi nghề của mình mới mong vững bền và giàu có. Và do đó trường hợp “hữu tướng vô quân” sẽ rất ứng nghiệm đối với những người đeo đuổi chức phận cao trong chính quyền, nhất là về phương diện quân sự và chính trị. Tôi đã từng được coi nhiều là số của một số sĩ quan “ngồi chơi xơi nước” chỉ có hai ba người lính dưới quyền và chẳng có ai nể vì, lại hay lên lon cũng chỉ vì bị cách “hữu tướng vô quân”.
3- Tương quan giữa các sao của Cung Nô và các sao Cung Mệnh
Trong hai phần (1) và (2) nêu trên đây, tôi chỉ nêu ra vấn đề xấu tốt của cung Nô và cung Mệnh, còn trong phần này tôi xin bàn đến sự “ăn khớp” giữa các sao của cung Nô và các sao của cung Mệnh, một điểm không kém phần quan trọng.
Thí dụ : Một người Mệnh có Khôi Việt, Xương Khúc, Quan Phúc, Hóa Khoa, Tấu Thư chẳng hạn, tức là có năng khiếu về văn chương, có tâm hồn thi sĩ … nếu cung Nô có : Không Kiếp, Hỏa Linh, Kình Đà, Sát Phá Tham thì làm sao mà thầy trò có thể hòa hợp, ăn ý với nhau, vì lọai người dưới quyền này chỉ thích đâm chém, du đãng, trộm cắp … Ngược lại cũng vậy, một người Mệnh có các sao này chỉ thích buôn lậu lớn (thí dụ như Nhật-Nguyệt hãm địa hội Không Kiếp, Tả Hữu chẳng hạn) mà cung Nô có tòan sao hiền lành như Quan Phúc, Thai Tọa, Bộ Tứ Đức, Hóa Khoa … thì làm sao có thể thực hiện được khuynh hướng của mình, và nếu xoay sang chiều hướng khác thì nhất định là kém, thất bại dễ dàng. Do đó nếu có sự “tréo cẳng ngỗng” giữa Nô & Mệnh như vậy thì đương nhiên công danh, sự nghiệp (lương thiện cũng như bất hợp pháp) khó đạt được. Còn về trường hợp có sự kết hợp mật thiết giữa Nô & Mệnh tôi thấy khỏi cần nêu ra thí dụ, vì qúy bạn thừa sức suy luận, trường hợp đó đương nhiên là thuận lợi cho sự nghiệp.
Tuy nhiên, những trường hợp “ngược” như trên không có nhiều. Theo kinh nghiệm, tôi thấy các cung trong một lá số thường có một cách bố cục rất ăn khớp với nhau, vì nếu các sao không có môi trường để họat động theo cương vị của mình thì làm sao mà đóan được đường hướng, sự nghiệp của một đời người.
4- Tương quan giữa Ngũ hành của các sao thuộc Cung Nô và của Cung Nô với Ngũ Hành của bản Mệnh
Nói chung, khi xét đến cung Nô, nếu chỉ lưu tâm đến những sao tốt, sao xấu thì vẫn chưa được chính xác, vì cũng một sao nếu sinh được bản Mệnh của mình thì khác hẳn với trường hợp khắc bản Mệnh mình hay được bản Mệnh mình sinh. Có một lần tình cờ tôi được hai lá số khác nhau về năm, tháng, ngày, giờ nhưng các cung lại có các sao được bố cục gần như giống nhau. Đây tôi chỉ nói về cung Nô. Tôi hãy còn nhớ một người Mạng Hỏa và một người mạng Mộc. Hai người khả năng gần như ngang nhau, nhưng người mạng Mộc chức vụ cao hơn nhiều và có uy quyền. Thật tôi không ngờ chỉ vì một yếu tố Ngũ Hành mà công danh chênh lệch như thế. Cung Nô của hai người cùng có Thiên Đồng & Thái Âm (thuộc Thủy), do đó chỉ có người mạng Mộc được hưởng hai sao đó. Ngòai ra thường thường Thái-Âm hay Thái-Dương chiếu Nô thì người dưới không trung thành, đói thì tìm đến, no thì bỏ đi . Sách có nói là cách “ cơ lai bão khứ” và:
Con em xa khứ xa hòan
Bởi vì Nhật Nguyệt đóng miền Nô cung
Nhưng đối với người mạng Hỏa thì đúng, còn đối với người mạng Mộc thì người đó cho tôi biết là đàn em của ông ta chỉ thay đổi nhiều vì bị thuyên chuyển, chứ không hề vì chán ghét đàn anh và bất cứ người nào tới cũng đều phục vụ ông ta hết mình.
Còn vấn đề mạng mình khắc hay sinh hay hòa với các sao của cung Nô thì ra sao?
A- Bản Mạng khắc sao (chỉ nên nói chính tinh) cung Nô
Nhiều vị giỏi Tử-Vi thường nói với tôi rằng đa số những người coi Tử-Vi đều ngại mạng khắc sao, nhưng thực ra riêng đối với trường hợp cung Nô thì như thế lại cũng hay, vì mình dễ sai khiến được người dưới quyền, dễ làm chủ tình hình, ít khi bị làm bù nhìn, nhất là khi mạng mình lại tốt hơn. Tôi còn nghiệm thấy ngay cả trường hợp mạng ngang với Nô mà vẫn còn uy quyền thực sự đối với người dưới quyền, khi mạng mình khắc các sao cung Nô.
Tuy nhiên, nếu được các sao cung Nô sinh mạng mình vẫn tốt hơn nhiều, vì bao giờ người dưới quyền tự ý phục vụ mình cũng hay hơn là sợ hãi mình mà thi hành chỉ thị của mình.
B- Bản Mạng sinh sao cung Nô (sinh xuất)
Gặp trường hợp này gần như chắc chắn là bất lợi cho mình, trừ phi mạng mình có các sao trội hơn nhiều, vì không còn gì nhu nhược cho bằng người trên cứ phải làm theo ý muốn của người dưới quyền, phải chìu lụy họ. Tệ bại nhất là nếu cung Nô có thêm Hóa Quyền chẳng hạn thì thực mình chỉ là tôi tớ cho người dưới quyền, nếu có Song Lộc tức là mình bợ đỡ họ chỉ vì tiền. Còn gặp trường hợp mạng mình trội hơn nhiều và có thêm các sao cứng rắn, uy quyền (như Tử Phủ Vũ Tướng, Sát Phá Tham Vũ hội Khoa Quyền Lộc … ) thì hết bất lợi, vì như thế tức là mình giúp đỡ được cho đàn em hữu hiệu khiến cho họ trở lên người khá giả thêm tài năng (nhất là trong trường hợp cung Nô có các sao như Long Phượng, Quang Qúy, Xương Khúc, Thanh Long ….) nhưng dù sao mình cũng phải mất mát về tiền bạc, thời giờ, tinh thần khá nhiều .
C- Bản Mạng hòa với các sao cung Nô
Trường hợp này hòan tòan bị chi phối bởi các sao cung Nô và các sao cung Mệnh. Nếu Nô tốt hơn mình khó chỉ huy và Nếu Mệnh tốt hơn là mình có quyền uy. Còn hai cung tương đương thì hai bên đều làm việc theo bổn phận và trách nhiệm.
Riêng về Ngũ hành của cung Nô đối với bản Mệnh, tôi chỉ xin nêu ra một điều khác biệt là cung Nô chỉ chung tất cả những người dưới quyền, còn các sao tiêu biểu cho từng nhóm, từng người (Thí dụ như Đồng Âm là một nhóm, Long Phượng Hổ Cái là một nhóm, Cơ Lương là một nhóm … ) Như vậy là trong trường hợp cung Nô khắc Mạng mình thì xấu hơn là các chính tinh Nô khắc Mạng mình, vì tất cả tập thể người dưới quyền không ưa mình (nhất là thêm Hóa Kỵ, Nhật Nguyệt, Không-Kiếp) thì làm sao mình làm việc nổi, còn như chính tinh khắc thì mình vẫn có thể gặp được nhóm người khác đắc lực, trung thành hơn. Còn các trường hợp (Mạng sinh cung Nô, khắc cung Nô, được cung Nô sinh …. ) Các bạn cứ việc suy theo các điểm sinh khắc theo sao kể trên là hiểu ngay.
5- Các chính tinh tại cung Nô nên đắc địa hay hãm địa ?
Cụ Song An Đỗ Văn Lưu, tác giả cuốn Tử-Vi Chỉ Nam, khi còn sinh tiền có cho biết rằng các chính tinh (không cần xét tới trung hay bàng tinh cho bớt phức tạp) tại cung Nô cần hãm địa hơn là đắc địa, vì người dưới giỏi hơn cấp trên không hay. Chính trong cuốn Tử-Vi của Cụ cũng có nêu ra như vậy. Nhưng theo kinh nghiệm của một số nhà Tử-Vi thì không hẳn phải như vậy mới hay, vì không bao giờ chỉ xét riêng cung Nô mà không so sánh với cung Mệnh. Thực thế, tôi nghiệm thấy rằng khi Mệnh có thượng cách (thí dụ như Tử Phủ Vũ Tướng đắc địa hội các trung tinh Long Phượng, Quang Qúy, Khôi Việt, Thai Tọa, Tả Hữu ….) thì rất cần có cung Nô hội các sao đắc địa, ngòai các yếu tố khác. Có được như vậy thì người dưới quyền mới nhiều khả năng, đắc lực, phục vụ hữu hiệu cho cung Mệnh, nếu không thượng cách của cung Mệnh sẽ không có môi trường họat động. Hơn nữa, nếu được các chính tinh cung Nô sinh bản Mệnh thì cần đắc địa, để cho các tài năng của người dưới hòan tòan được sử dụng cho cấp trên.
Như vậy không có nghĩa là phủ nhận hòan tòan ý kiến của Cụ Song An Đỗ Văn Lưu. Lẽ dĩ nhiên khi Mệnh không được trội mấy thì cung Nô cần có các chinh tinh hãm địa hay bị Tuần Triệt án ngữ để bớt sự lấn áp cấp trên.
Thí dụ Mệnh có Cơ Nguyệt Đồng Lương đắc địa mà cung Nô có cách Sát Phá Tham Vũ thì rất cần các sao này hãm địa để có sự tương xứng (vì cách Sát Phá Tham Vũ coi như mạnh hơn cách Cơ Nguyệt Đồng Lương ). Nhưng theo kinh nghiệm riêng, tôi thấy có điều bất lợi là người dưới quyền thường thiếu khả năng hay làm hỏng việc, nhất là trong trường hợp liên quan đến kỹ thuật, chuyên môn. Tôi có một người bạn làm quản lý cho một công ty cũng có trường hợp này, nên tối ngày anh ta than là mệt, vì người dưới không làm tròn bổn phận và ít khi anh tuyển dụng được nhân viên đúng với công việc đòi hỏi. Anh ta có nói là : Thà anh phải chiều lụy người dưới để cho công việc được điều hòa, còn hơn họ kém cấp trên qúa nhiều. Ý anh muốn nói về phương diện Tử-vi là : “ Thà các sao ở cung Nô đắc địa và trội hơn Mệnh của anh còn hơn” .
6- Vị trí cung Nô
Tôi cố ý đặt mục này ở phần chót vì trường hợp này rất hiếm có và rất tốt. Thật vậy, tôi mới chỉ gặp rất ít Lá số có trường hợp này. Đó là cung Nô nằm đúng vào cung tuổi của mình. Ví dụ như tuổi Dậu mà có cung Nô ở cung Dậu. Có thể nói là bất cứ ai có cung Nô ở vị trí như vậy đều có công danh và có nhiều người dưới quyền đắc lực, vẫn biết còn tùy theo nhiều yếu tố khác nữa kèm theo. Nhưng tôi quan niệm rằng khi đã có cung Nô nằm đúng ngay cung tuổi của mình thì gần như chắc chắn các yếu tố khác được bố cục thuận lợi cho mình, ít nhất là về phương diện công danh, uy quyền. Ngòai ra, riêng về tuổi Dậu này, cung Nô lại chiếu về (Nhị-Hợp) cung Mệnh (ở Thìn) cho nên còn làm tăng thêm sự phục vụ đắc lực, và còn có tình thương mến, kính trọng cấp trên.
Quý bạn cũng cần lưu ý một điểm là không phải cứ cung Nô ở ngay cung tuổi mình là đều chiếu mệnh nhị hợp (phải như trường hợp ví dụ trên mới ứng hợp)
Để các bạn tiện tìm hiểu thêm về trường hợp hiếm có này tôi xin nêu ra năm, tháng, ngày giờ của lá số trên: đương số sinh ngày 7 tháng 5, năm Ất Dậu, giờ Dần, Âm Nam, Mệnh Thủy, Kim Tứ Cục.
ngày 16 tháng 6 năm 1945 lúc 5:00
Và để chứng tỏ có sự bổ túc cho điểm tốt này , tôi xin nói thêm rằng mặc dù cung Nô của đương số có Không Kiếp hãm địa hội Tuế, Phục, Kỵ, Hỏa Tinh thế mà vẫn hay đáo để, bởi vì Không Kiếp, Thái Tuế, Hỏa Tinh đều thuộc Hỏa bị mạng Thủy khắc chế nên người dưới quyền dù là thành phần lưu manh, côn đồ, nhưng vẫn phải chịu ép dưới quyền, còn sao Hóa Kị thuộc Thủy thì tương sinh với Mạng nên cũng chẳng làm gì cho cấp trên khổ tâm. Ngòai ra, cung Dậu thuộc Kim lại sinh bản Mệnh Thủy và chính tinh tại cung Nô là Thiên Đồng là Thủy cũng hợp với bản Mệnh, lại còn các trung tinh hội chiếu (Quang Quý, Long Phượng, Thanh Long …) như vậy cung Nô qúa tốt rồi, huống chi Mệnh Thân lại rất đắc cách, nhất là được Thất Sát cư Quan mà Thân đóng ở đó hội Thai Tọa, Quan Phúc, Khôi Việt lại trội hơn cung Nô nhiều, có quyền sinh sát trong tay, và cũng vì có Quan Phúc làm giảm bớt cách “dư” đi nên đương số không đi về võ nghiệp mà lại chuyển sang ngành “Thẩm Phán” ; đương số làm dự thẩm. Thật đúng là có quyền sinh sát gián tiếp. Tôi cần nói thêm là các hung tinh nêu trên còn ứng vào các bị can, bị cáo là những thành phần bất hảo cho nên cung Nô càng không có gọi là xấu, vì các sao liên hệ đã có môi trường họat động. Hơn nữa dù cho thành phần trực tiếp dưới quyền có là hạng “dao búa” đi nữa, họ cũng chỉ lưu manh với các người khác nhưng đối với đương số lại rất đắc lực.
Để chấm dứt bài này, tôi chỉ còn biết nhắc nhở qúy bạn là bao giờ cũng phải so sánh kỹ lưỡng cung Mệnh và cung Nô cùng vấn đề Ngũ Hành giữa cung Nô và bản Mệnh trước khi xét đến ý nghĩa các cách và các sao, có như thế mới khỏi bị sai lạc nhiều về công danh sự nghiệp của một người coi số .
Nguồn nhantrachoc
Thường thường, khi đóan Tử-Vi của một người ít ai chú trọng nhiều đến cung Nô Bộc, mà chỉ mổ xẻ tỉ mỉ các cung Mệnh, Thân, Tài, Quan, Di, Phúc … thậm chí các sách vở Tử-Vi cũng chỉ bàn sơ lược về cung Nô Bộc, vì cung này không được coi là cường cung. Nhưng theo kinh nghiệm của một số người giỏi Tử-Vi mà tôi đã có dịp tham khảo ý kiến, thì khi luận đóan về công danh, sự nghiệp, uy quyền của một người rất cần chú trọng tới cung Nô, ngòai các cường cung thường lệ, mới tránh được những sai lầm nặng nề.
Ngòai ra, nhiều người lại cho rằng cung Nô Bộc bao gồm luôn cả bạn bè, nhưng theo thiển ý thì cung Thiên Di và cung Quan Lộc mới chỉ giới này, còn cung Nô chỉ liên quan đến người dưới quyền, đầy tớ, gia nhân, vợ nhỏ ….. mà thôi. Và nếu có khi xét cung Nô mà đóan đúng được một khía cạnh nào đó về bạn bè, thì chắc hẳn những người này trước kia cũng chỉ thuộc vào nhóm dưới quyền rồi về sau nhờ may mắn hay cố gắng trở thành ngang hàng với đương số. Sở dĩ tôi phải nêu ra điểm này là để tránh một vài ngộ nhận hiểu lầm về những điều mà tôi trình bày dưới đây về cung Nô Bộc.
Với ý niệm như trên, tôi xin thử đưa ra những tiêu chuẩn bổ túc để giải đóan cung Nô Bộc mà tôi hy vọng có thể giúp qúy bạn đóan được công danh, sự nghiệp được chính xác hơn. Và để cho đỡ khô khan và dễ hiểu, tôi xin nêu ra nhiều ví dụ tiêu biểu.
1- Trường hợp cung Nô tốt hơn cung Mệnh
Trước hết, tôi cần nói là để cho giản dị, tôi chỉ nêu ra chữ Mệnh chứ thực ra phải phốii hợp với các cung Tài, Quan, Di cũng như xem cung Nô phải phối hợp với các cung Huynh-Đệ, Tử-Tức và Phụ-Mẫu chiếu về. Ngòai ra, đã nói đến Mệnh thì “Thân” cũng phải chú trọng tới.
Một lần có một anh bạn thân, cũng biết sơ về Tử-Vi, đưa cho tôi coi giúp lá số của anh ta và phàn nàn rằng lá số của anh có lẽ trật. Vì cung Nô Bộc của anh rất tốt mà cho tới ngày nay gần 40 tuổi rồi vẫn chẳng được điều khiển một ai cả. Hiện tại anh đang làm nhân viên văn phòng cho một công ty nước ngòai. Trong phòng anh công tác, anh coi như là cấp thấp nhất, ngọai trừ mấy người tùy phái. Nhìn cung Nô Bộc của anh có Tử-Vi (cư cung Ngọ), tức là có cách Tử Phủ Vũ Tướng do các sao hợp chiếu tạo thành, lại hội nhiều trung tinh quyền qúy khác mà tôi xin miễn kể ra cho khỏi rườm ra, hèn chi anh chẳng cho là tốt, nếu chỉ xét tới sao trên.
Nhưng anh ấy không để ý đến Mệnh qúa kém, có Cự-Đồng hãm địa tại Sửu hội nhiều hung tinh (Kình, Đà, Không, Kiếp) cũng hãm địa, còn cung an Thân và Tài, Quan, Di cũng không có tốt gì, như vậy làm nhân viên văn phòng được là may rồi. Các nhà Tử-vi gọi trường hợp này là “hữu quân vô tướng” (có quân mà không có tướng), tức là cung Nô tốt hơn cung Mệnh. Cung Nô như vậy là phản cách, vô lý, cho nên chẳng dùng được vào khía cạnh nào. Phải chi Mệnh có cách gì hay hơn, cùng nữa là bằng (kể ra khó được như vậy vì Tử Phủ Vũ Tướng với Tử-Vi cư Ngọ là cách trội nhất rồi ) thì công danh tột đỉnh, mình vừa giỏi vừa có những người dưới quyền tài ba lỗi lạc, thật còn gì bằng. Nếu Mệnh kém một chút (huống chi lại kém hẳn như trường hợp anh bạn tôi) cũng đã bất hạnh rồi, vì mình chỉ là bù nhìn, kẻ dưới quyền đặt mình ở cương vị nào hay dẹp bỏ chức vụ của mình đi cũng chịu. Đó là chưa kể những tai họa đau đớn có thể xảy ra cho mình do người dưới quyền gây ra, nếu Mệnh của mình có những sao tác hại.
Do đó, trong mọi trường hợp, ta đừng bao giờ ham cung Nô qúa tốt nếu mình muốn làm lớn. Theo kinh nghiệm riêng của tôi, thì tối kị cung Nô có cách Tử Phủ Vũ Tướng (dù hãm địa), nhất là khi có thêm trung tinh quần tụ, vì ít khi Mệnh của mình có cách trội hơn.
2- Trường hợp cung Nô xấu, nhưng cung Mệnh tốt
Trong trường hợp này các nhà Tử-Vi thường gọi là “hữu tướng vô quân” (có tướng mà không quân) và cũng cho rằng như thế là công danh bất hiển, giống như cách “hữu quân vô tướng”. Nhưng tôi nghiệm thấy rằng trong trường hợp này không thể quyết đóan một cách máy móc như thế được. Tôi đã bị lầm lẫn khá nhiều lần khi luận đóan theo quy tắc đó, và xin nêu ra hai ví dụ để quý bạn hiểu rõ hơn.
– Có một Bà Dược Sĩ đến nhờ tôi coi Tử-Vi xem sự nghiệp ra sao. Tôi thấy Mệnh của bà rất tốt, nào có Khôi, Việt, Quan, Phúc, Long, Phượng, Riêu Y, Thái Tuế, Xương Khúc, Hóa Khoa, nào là Ngũ Hành tương sinh, nhưng cung Nô có Thiên Đồng hãm địa hội Không, Kiếp, Kị, Phục … (tôi không nêu tỉ mỉ các sao, vì mục đích của bài này là đưa ra tiêu chuẩn) cho nên tôi vội kết luận là bà ta cũng chẳng có sự nghiệp gì lớn. Nhưng trên thực tế bà ta rất giàu có, hai ba tiệm thuốc tây ở Sài Gòn và còn có ở một hai cái ở tỉnh nữa. Đó là bà ta khoe như vậy để gián tiếp cho là tôi đóan ẩu. Tuy nhiên bà ta cũng công nhận là những người bán hàng thuốc tây cho bà đều gian tham, trộm cắp hòai nên bà hay thay đổi người bán hàng, nay đổi người này, mai đổi người kia, nhưng sự nghiệp của bà cũng không vì thế mà suy kém.
– Một lần khác, có người bạn làm chung sở, nhờ tôi coi giùm lá số của ông anh ruột hiện làm Bác Sĩ Quân Y. Vì là chỗ thân tình nên anh ta nói luôn ngay nghề nghiệp của người anh để đỡ mất công giải đóan của tôi, đồng thời cũng là để xác định ngay với tôi là lá số đúng giờ. Anh ta chỉ cần hỏi là sự nghiệp của người anh sẽ ra sao, có bền vững hay không, vì người này không có cao vọng. Nhìn cung Mệnh có Thiên Lương hội Quan Phúc, Riêu Y, Kình, Hỷ, Khoa Quyền Lộc … tôi cũng công nhận là đúng giờ sinh. Còn cung Nô thì tòan là sao xấu, nào là Hỏa Linh, Không Kiếp, Phục, Tử, Tuyệt, Kiếp Sát … tôi liền đóan là công danh bất hiển. Nhưng về sau mới biết là sai lầm qúa nhiều, vì làm Bác Sĩ đâu có cần nhiều người dưới giỏi. Cung Nô lúc đó ứng vào bệnh nhân. Thực tế, vị Bác Sĩ này tòan chữa cho thương bệnh binh, người què, người cụt, người bị cháy thịt, phỏng da, nhưng vị Bác Sĩ này rất mát tay ! (nhờ có Hỷ Thần tại Mệnh); ít khi không chữa nổi bệnh nhân.
Qua hai ví dụ nêu trên, ta thấy rằng đối với những người hành nghề chuyên môn thường thường không cần phải cung Nô tốt (lẽ dĩ nhiên tốt vẫn hơn những người dưới quyền đâu cần nhiều và đâu cần tài ba lỗi lạc, nếu họ có kém cỏi hay lưu manh chăng nữa thì mình cũng chỉ bực mình và phải thận trọng thôi, chứ sự nghiệp đâu có bị ảnh hưởng trực tiếp). Tuy nhiên những người hành nghề chuyên môn muốn có địa vị cao trong chính quyền, nếu có cung Nô xấu như trên thì chỉ nên đeo đuổi nghề của mình mới mong vững bền và giàu có. Và do đó trường hợp “hữu tướng vô quân” sẽ rất ứng nghiệm đối với những người đeo đuổi chức phận cao trong chính quyền, nhất là về phương diện quân sự và chính trị. Tôi đã từng được coi nhiều là số của một số sĩ quan “ngồi chơi xơi nước” chỉ có hai ba người lính dưới quyền và chẳng có ai nể vì, lại hay lên lon cũng chỉ vì bị cách “hữu tướng vô quân”.
3- Tương quan giữa các sao của Cung Nô và các sao Cung Mệnh
Trong hai phần (1) và (2) nêu trên đây, tôi chỉ nêu ra vấn đề xấu tốt của cung Nô và cung Mệnh, còn trong phần này tôi xin bàn đến sự “ăn khớp” giữa các sao của cung Nô và các sao của cung Mệnh, một điểm không kém phần quan trọng.
Thí dụ : Một người Mệnh có Khôi Việt, Xương Khúc, Quan Phúc, Hóa Khoa, Tấu Thư chẳng hạn, tức là có năng khiếu về văn chương, có tâm hồn thi sĩ … nếu cung Nô có : Không Kiếp, Hỏa Linh, Kình Đà, Sát Phá Tham thì làm sao mà thầy trò có thể hòa hợp, ăn ý với nhau, vì lọai người dưới quyền này chỉ thích đâm chém, du đãng, trộm cắp … Ngược lại cũng vậy, một người Mệnh có các sao này chỉ thích buôn lậu lớn (thí dụ như Nhật-Nguyệt hãm địa hội Không Kiếp, Tả Hữu chẳng hạn) mà cung Nô có tòan sao hiền lành như Quan Phúc, Thai Tọa, Bộ Tứ Đức, Hóa Khoa … thì làm sao có thể thực hiện được khuynh hướng của mình, và nếu xoay sang chiều hướng khác thì nhất định là kém, thất bại dễ dàng. Do đó nếu có sự “tréo cẳng ngỗng” giữa Nô & Mệnh như vậy thì đương nhiên công danh, sự nghiệp (lương thiện cũng như bất hợp pháp) khó đạt được. Còn về trường hợp có sự kết hợp mật thiết giữa Nô & Mệnh tôi thấy khỏi cần nêu ra thí dụ, vì qúy bạn thừa sức suy luận, trường hợp đó đương nhiên là thuận lợi cho sự nghiệp.
Tuy nhiên, những trường hợp “ngược” như trên không có nhiều. Theo kinh nghiệm, tôi thấy các cung trong một lá số thường có một cách bố cục rất ăn khớp với nhau, vì nếu các sao không có môi trường để họat động theo cương vị của mình thì làm sao mà đóan được đường hướng, sự nghiệp của một đời người.
4- Tương quan giữa Ngũ hành của các sao thuộc Cung Nô và của Cung Nô với Ngũ Hành của bản Mệnh
Nói chung, khi xét đến cung Nô, nếu chỉ lưu tâm đến những sao tốt, sao xấu thì vẫn chưa được chính xác, vì cũng một sao nếu sinh được bản Mệnh của mình thì khác hẳn với trường hợp khắc bản Mệnh mình hay được bản Mệnh mình sinh. Có một lần tình cờ tôi được hai lá số khác nhau về năm, tháng, ngày, giờ nhưng các cung lại có các sao được bố cục gần như giống nhau. Đây tôi chỉ nói về cung Nô. Tôi hãy còn nhớ một người Mạng Hỏa và một người mạng Mộc. Hai người khả năng gần như ngang nhau, nhưng người mạng Mộc chức vụ cao hơn nhiều và có uy quyền. Thật tôi không ngờ chỉ vì một yếu tố Ngũ Hành mà công danh chênh lệch như thế. Cung Nô của hai người cùng có Thiên Đồng & Thái Âm (thuộc Thủy), do đó chỉ có người mạng Mộc được hưởng hai sao đó. Ngòai ra thường thường Thái-Âm hay Thái-Dương chiếu Nô thì người dưới không trung thành, đói thì tìm đến, no thì bỏ đi . Sách có nói là cách “ cơ lai bão khứ” và:
Con em xa khứ xa hòan
Bởi vì Nhật Nguyệt đóng miền Nô cung
Nhưng đối với người mạng Hỏa thì đúng, còn đối với người mạng Mộc thì người đó cho tôi biết là đàn em của ông ta chỉ thay đổi nhiều vì bị thuyên chuyển, chứ không hề vì chán ghét đàn anh và bất cứ người nào tới cũng đều phục vụ ông ta hết mình.
Còn vấn đề mạng mình khắc hay sinh hay hòa với các sao của cung Nô thì ra sao?
A- Bản Mạng khắc sao (chỉ nên nói chính tinh) cung Nô
Nhiều vị giỏi Tử-Vi thường nói với tôi rằng đa số những người coi Tử-Vi đều ngại mạng khắc sao, nhưng thực ra riêng đối với trường hợp cung Nô thì như thế lại cũng hay, vì mình dễ sai khiến được người dưới quyền, dễ làm chủ tình hình, ít khi bị làm bù nhìn, nhất là khi mạng mình lại tốt hơn. Tôi còn nghiệm thấy ngay cả trường hợp mạng ngang với Nô mà vẫn còn uy quyền thực sự đối với người dưới quyền, khi mạng mình khắc các sao cung Nô.
Tuy nhiên, nếu được các sao cung Nô sinh mạng mình vẫn tốt hơn nhiều, vì bao giờ người dưới quyền tự ý phục vụ mình cũng hay hơn là sợ hãi mình mà thi hành chỉ thị của mình.
B- Bản Mạng sinh sao cung Nô (sinh xuất)
Gặp trường hợp này gần như chắc chắn là bất lợi cho mình, trừ phi mạng mình có các sao trội hơn nhiều, vì không còn gì nhu nhược cho bằng người trên cứ phải làm theo ý muốn của người dưới quyền, phải chìu lụy họ. Tệ bại nhất là nếu cung Nô có thêm Hóa Quyền chẳng hạn thì thực mình chỉ là tôi tớ cho người dưới quyền, nếu có Song Lộc tức là mình bợ đỡ họ chỉ vì tiền. Còn gặp trường hợp mạng mình trội hơn nhiều và có thêm các sao cứng rắn, uy quyền (như Tử Phủ Vũ Tướng, Sát Phá Tham Vũ hội Khoa Quyền Lộc … ) thì hết bất lợi, vì như thế tức là mình giúp đỡ được cho đàn em hữu hiệu khiến cho họ trở lên người khá giả thêm tài năng (nhất là trong trường hợp cung Nô có các sao như Long Phượng, Quang Qúy, Xương Khúc, Thanh Long ….) nhưng dù sao mình cũng phải mất mát về tiền bạc, thời giờ, tinh thần khá nhiều .
C- Bản Mạng hòa với các sao cung Nô
Trường hợp này hòan tòan bị chi phối bởi các sao cung Nô và các sao cung Mệnh. Nếu Nô tốt hơn mình khó chỉ huy và Nếu Mệnh tốt hơn là mình có quyền uy. Còn hai cung tương đương thì hai bên đều làm việc theo bổn phận và trách nhiệm.
Riêng về Ngũ hành của cung Nô đối với bản Mệnh, tôi chỉ xin nêu ra một điều khác biệt là cung Nô chỉ chung tất cả những người dưới quyền, còn các sao tiêu biểu cho từng nhóm, từng người (Thí dụ như Đồng Âm là một nhóm, Long Phượng Hổ Cái là một nhóm, Cơ Lương là một nhóm … ) Như vậy là trong trường hợp cung Nô khắc Mạng mình thì xấu hơn là các chính tinh Nô khắc Mạng mình, vì tất cả tập thể người dưới quyền không ưa mình (nhất là thêm Hóa Kỵ, Nhật Nguyệt, Không-Kiếp) thì làm sao mình làm việc nổi, còn như chính tinh khắc thì mình vẫn có thể gặp được nhóm người khác đắc lực, trung thành hơn. Còn các trường hợp (Mạng sinh cung Nô, khắc cung Nô, được cung Nô sinh …. ) Các bạn cứ việc suy theo các điểm sinh khắc theo sao kể trên là hiểu ngay.
5- Các chính tinh tại cung Nô nên đắc địa hay hãm địa ?
Cụ Song An Đỗ Văn Lưu, tác giả cuốn Tử-Vi Chỉ Nam, khi còn sinh tiền có cho biết rằng các chính tinh (không cần xét tới trung hay bàng tinh cho bớt phức tạp) tại cung Nô cần hãm địa hơn là đắc địa, vì người dưới giỏi hơn cấp trên không hay. Chính trong cuốn Tử-Vi của Cụ cũng có nêu ra như vậy. Nhưng theo kinh nghiệm của một số nhà Tử-Vi thì không hẳn phải như vậy mới hay, vì không bao giờ chỉ xét riêng cung Nô mà không so sánh với cung Mệnh. Thực thế, tôi nghiệm thấy rằng khi Mệnh có thượng cách (thí dụ như Tử Phủ Vũ Tướng đắc địa hội các trung tinh Long Phượng, Quang Qúy, Khôi Việt, Thai Tọa, Tả Hữu ….) thì rất cần có cung Nô hội các sao đắc địa, ngòai các yếu tố khác. Có được như vậy thì người dưới quyền mới nhiều khả năng, đắc lực, phục vụ hữu hiệu cho cung Mệnh, nếu không thượng cách của cung Mệnh sẽ không có môi trường họat động. Hơn nữa, nếu được các chính tinh cung Nô sinh bản Mệnh thì cần đắc địa, để cho các tài năng của người dưới hòan tòan được sử dụng cho cấp trên.
Như vậy không có nghĩa là phủ nhận hòan tòan ý kiến của Cụ Song An Đỗ Văn Lưu. Lẽ dĩ nhiên khi Mệnh không được trội mấy thì cung Nô cần có các chinh tinh hãm địa hay bị Tuần Triệt án ngữ để bớt sự lấn áp cấp trên.
Thí dụ Mệnh có Cơ Nguyệt Đồng Lương đắc địa mà cung Nô có cách Sát Phá Tham Vũ thì rất cần các sao này hãm địa để có sự tương xứng (vì cách Sát Phá Tham Vũ coi như mạnh hơn cách Cơ Nguyệt Đồng Lương ). Nhưng theo kinh nghiệm riêng, tôi thấy có điều bất lợi là người dưới quyền thường thiếu khả năng hay làm hỏng việc, nhất là trong trường hợp liên quan đến kỹ thuật, chuyên môn. Tôi có một người bạn làm quản lý cho một công ty cũng có trường hợp này, nên tối ngày anh ta than là mệt, vì người dưới không làm tròn bổn phận và ít khi anh tuyển dụng được nhân viên đúng với công việc đòi hỏi. Anh ta có nói là : Thà anh phải chiều lụy người dưới để cho công việc được điều hòa, còn hơn họ kém cấp trên qúa nhiều. Ý anh muốn nói về phương diện Tử-vi là : “ Thà các sao ở cung Nô đắc địa và trội hơn Mệnh của anh còn hơn” .
6- Vị trí cung Nô
Tôi cố ý đặt mục này ở phần chót vì trường hợp này rất hiếm có và rất tốt. Thật vậy, tôi mới chỉ gặp rất ít Lá số có trường hợp này. Đó là cung Nô nằm đúng vào cung tuổi của mình. Ví dụ như tuổi Dậu mà có cung Nô ở cung Dậu. Có thể nói là bất cứ ai có cung Nô ở vị trí như vậy đều có công danh và có nhiều người dưới quyền đắc lực, vẫn biết còn tùy theo nhiều yếu tố khác nữa kèm theo. Nhưng tôi quan niệm rằng khi đã có cung Nô nằm đúng ngay cung tuổi của mình thì gần như chắc chắn các yếu tố khác được bố cục thuận lợi cho mình, ít nhất là về phương diện công danh, uy quyền. Ngòai ra, riêng về tuổi Dậu này, cung Nô lại chiếu về (Nhị-Hợp) cung Mệnh (ở Thìn) cho nên còn làm tăng thêm sự phục vụ đắc lực, và còn có tình thương mến, kính trọng cấp trên.
Quý bạn cũng cần lưu ý một điểm là không phải cứ cung Nô ở ngay cung tuổi mình là đều chiếu mệnh nhị hợp (phải như trường hợp ví dụ trên mới ứng hợp)
Để các bạn tiện tìm hiểu thêm về trường hợp hiếm có này tôi xin nêu ra năm, tháng, ngày giờ của lá số trên: đương số sinh ngày 7 tháng 5, năm Ất Dậu, giờ Dần, Âm Nam, Mệnh Thủy, Kim Tứ Cục.
ngày 16 tháng 6 năm 1945 lúc 5:00
Và để chứng tỏ có sự bổ túc cho điểm tốt này , tôi xin nói thêm rằng mặc dù cung Nô của đương số có Không Kiếp hãm địa hội Tuế, Phục, Kỵ, Hỏa Tinh thế mà vẫn hay đáo để, bởi vì Không Kiếp, Thái Tuế, Hỏa Tinh đều thuộc Hỏa bị mạng Thủy khắc chế nên người dưới quyền dù là thành phần lưu manh, côn đồ, nhưng vẫn phải chịu ép dưới quyền, còn sao Hóa Kị thuộc Thủy thì tương sinh với Mạng nên cũng chẳng làm gì cho cấp trên khổ tâm. Ngòai ra, cung Dậu thuộc Kim lại sinh bản Mệnh Thủy và chính tinh tại cung Nô là Thiên Đồng là Thủy cũng hợp với bản Mệnh, lại còn các trung tinh hội chiếu (Quang Quý, Long Phượng, Thanh Long …) như vậy cung Nô qúa tốt rồi, huống chi Mệnh Thân lại rất đắc cách, nhất là được Thất Sát cư Quan mà Thân đóng ở đó hội Thai Tọa, Quan Phúc, Khôi Việt lại trội hơn cung Nô nhiều, có quyền sinh sát trong tay, và cũng vì có Quan Phúc làm giảm bớt cách “dư” đi nên đương số không đi về võ nghiệp mà lại chuyển sang ngành “Thẩm Phán” ; đương số làm dự thẩm. Thật đúng là có quyền sinh sát gián tiếp. Tôi cần nói thêm là các hung tinh nêu trên còn ứng vào các bị can, bị cáo là những thành phần bất hảo cho nên cung Nô càng không có gọi là xấu, vì các sao liên hệ đã có môi trường họat động. Hơn nữa dù cho thành phần trực tiếp dưới quyền có là hạng “dao búa” đi nữa, họ cũng chỉ lưu manh với các người khác nhưng đối với đương số lại rất đắc lực.
Để chấm dứt bài này, tôi chỉ còn biết nhắc nhở qúy bạn là bao giờ cũng phải so sánh kỹ lưỡng cung Mệnh và cung Nô cùng vấn đề Ngũ Hành giữa cung Nô và bản Mệnh trước khi xét đến ý nghĩa các cách và các sao, có như thế mới khỏi bị sai lạc nhiều về công danh sự nghiệp của một người coi số .
Được cảm ơn bởi: Thiên Phủ, tinhyeu_cuagio, jone
TL: Tạp chí KHHB
Cám ơn anh Apollo nhiều về bài cung Nô. Bấy lâu nay em cứ buồn về cung Nô của mình quá kém nhưng đọc bài này lại thấy nó vào cách cung Nô ở cung tuổi... Em sẽ thử chiêm nghiệm cuộc đời xem thế nào 
