xin các bác xem giúp cháu về dụng thần và hỷ thần!

Hỏi đáp, luận giải, trao đổi về tử bình (tứ trụ, bát tự)
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục dành cho việc xem lá số tứ trụ (tử bình, bát tự). Các bài mang tính trao đổi học thuật xin vui lòng đăng trong mục Kiến thức tứ trụ.
Các bài không liên quan sẽ bị chuyển khỏi chuyên mục này.
bigbear08
Mới gia nhập
Mới gia nhập
Bài viết: 21
Tham gia: 01:11, 10/08/17

TL: xin các bác xem giúp cháu về dụng thần và hỷ thần!

Gửi bài gửi bởi bigbear08 »

Như vậy kỵ thần trong ls mình là tỷ kiếp phải ko bạn? Còn hỷ thần mình là thực-thương! mấy đv kế tiếp Nhâm Dần, Tân sửu cũng là đv ko tốt! 😔
Đầu trang

VULONG
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1081
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: xin các bác xem giúp cháu về dụng thần và hỷ thần!

Gửi bài gửi bởi VULONG »

bigbear08 đã viết: 01:41, 10/08/17 cháu có nhờ vài ng trong group fb tứ trụ coi giúp, nhưng giờ cháu lại băn khoăn ko biết dụng thần của cháu là gì ạ, kim-thuy hay là Mộc-Hoả? dụng thần nào chính xác hơn?
Xin các bác xem giúp ạ! cháu chân thành cám ơn!

Hình ảnh
Nếu bigbear08 và các bạn giống như bigbear08 chưa biết gì về Tử Bình mà muốn tự mình biết được chính xác dụng thần của mình cũng như các vận của cuộc đời mình xấu tốt ra sao thì bigbear08 và các bạn hãy vào đọc chủ đề "Trở Thành Cao Thủ Tử Bình Về Luận Hành Vận Trong 3 Tháng ?" ở chủ đề "Bác Vulong mà không xác định được giờ sinh của Trịnh Xuân Thanh thì đúng là phét lác có hạng !" ngay tại mục này hay bên trang web "Kim Tử Bình" (Tử Bình Diệu Dụng).

Sau đây là lý thuyết tóm tắt để xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần :

1 – Sơ đồ Tứ Trụ được biểu diễn bởi hình chữ nhật - có 3 hình vuông liền nhau biểu diễn cho 4 trụ.
2 - Phương pháp này chỉ sử dụng tính khắc của Ngũ Hành bỏ qua tính chất Âm Dương.
3 – Các can hay chi bị khắc trực tiếp (cùng trụ) và khắc gần (ngay trụ bên cạnh) thì chúng không có khả năng sinh hay khắc các can chi khác.
4 – Can hay chi bị khắc trực tiếp (cùng trụ) giảm 1/2 điểm vượng của nó, bị khắc gần (trụ bên cạnh) giảm 1/3 đv của nó, bị khắc cách 1 ngôi giảm 1/5đv của nó, bị khắc cách 2 ngôi giảm 1/10đv của nó và bị khắc cách 3 ngôi giảm 1/20đv của nó.
5 – Can chi trong tổ hợp không khắc được các can chi khác ở ngoài tổ hợp và ngược lại trừ khi chúng cùng trụ hoặc phải ở trong 2 tổ hợp đồng trụ (tức tất cả can hay chi của 2 tổ hợp này đều từng cặp cùng trụ với nhau).
6 – Can hay chi ngoài tổ hợp bị can hay chi trong tổ hợp khắc cùng trụ vẫn có khả năng sinh hay khắc với các can chi khác như bình thường. Can hay chi trong tổ hợp bị can hay chi cùng trụ nhưng không ở trong hợp khắc vẫn khắc được các can chi khác trong cùng tổ hợp đó như bình thường.
7 – Khi vào vùng tâm nó bị giảm thêm 2/5đv của nó nếu nó ở vòng ngoài 1 (tức can năm, chi tháng và chi giờ) và giảm thêm 1/2đv của nó nếu nó ở vòng ngoài 2 (tức chi năm). Các can chi trong vùng tâm không bị giảm thêm (tức can tháng, can ngày, can giờ và chi ngày).
8 – Can và chi cùng trụ có thể sinh được cho nhau 1/2đv của nó nếu chi hay can chủ sinh có can hay chi bên cạnh nó mang hành sinh cho nó, và 1/3đv của nó khi can hay chi bên canh chủ sinh mang hành giống nó (khi 2 chi cùng trụ này không bị khắc trực tiếp hay bị khắc gần,….).
9 – 3 can hay 3 chi liền nhau trong Tứ Trụ tương sinh cho nhau mà không bị khắc trực tiếp, khắc gần hay bị hợp thì can chi chủ sinh ở giữa có thể sinh cho can chi mà nó sinh cho 1/6,5đv của nó, nhưng chỉ sinh được 1/12đv của nó khi can chi bên cạnh nó cùng hành với nó.
10 – Nhật can ở trạng thái Lâm Quan có thêm 4,05đv tại chi đó và 4,3đv tại chi nó ở trạng thái Đế vượng (trừ chi tháng). Điểm vượng Lâm quan và Đế vượng này chỉ bị giảm như bình thường nếu nó bị khắc trực tiếp (bởi can hay chi cùng trụ) hay bởi ít nhất từ 2 lực khắc khác khi nó cùng hành với chi mà nó đóng).

11 – Điểm vượng các trạng thái của Can hay Chi trong Tứ Trụ mà tôi xác định được, đã được trình bầy trong bảng “Sinh Vượng Tử Tuyệt“ như sau :
Hình ảnh

Sau đây là ứng dụng lý thuyết này cho ví dụ cụ thể của bigbear08.

Sơ đồ dùng Toán Học để xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần :
Hình ảnh
Qua sơ đồ trên ta thấy tam hợp Dần Ngọ Tuất hóa Hỏa thành công nên ta phải khoanh tròn 3 chi này rồi nối với nhau như mô tả trong sơ đồ. Bính trụ tháng bị khắc gần bởi Nhâm trụ năm, còn Quý trụ ngày bị khắc trực tiếp bởi Mùi cùng trụ nên ta phải khoanh tròn Bính và Quý để biết chúng không có khả năng sinh hay khắc các can chi khác.

Ta thấy :
1 – Nhâm có 4,1đv bị Mùi trụ ngày khắc cách 2 ngôi giảm 1/10đv và vào vùng tâm giảm thêm 2/5đv còn 4,1.9/10.3/5đv = 2,21đv.
2 – Bính ở trong vùng tâm có 6đv bị Tý khắc cách 2 ngôi giảm 1/10đv còn 5,4đv.
3 – Quý ở trong vùng tâm có 3,1đv bị Mùi khắc trực tiếp giảm 1/2đv còn 3.1/2đv = 1,55đv.
4 – Giáp có 3đv ở trong vùng tâm không bị can chi nào khắc nên vẫn là 3đv.
5 – Dần có 3đv (đã hóa Hỏa) được thêm 3.1/2đv của Giáp cùng trụ sinh cho (vì Giáp có Quý bên cạnh mang hành sinh cho nó), nhưng vào vùng tâm giảm 2/5đv nên còn (3 + 3.1/2).3/5đv = 2,7đv.
6 – Mùi ở trong vùng tâm có 9đv bị Giáp khắc cách 1 ngôi giảm 1/5đv còn 9.3/5đv = 7,2đv.
7 – Ngọ có 10đv không bị can chi nào khắc, vào vùng tâm giảm 2/5đv còn 10.3/5đv = 6đv.
8 – Tuất có 10đv (đã hóa Hỏa) bị Nhâm cùng trụ khắc trực tiếp giảm 1/2đv và vào vùng tâm giảm tiếp 1/2 sđv còn 10.1/2.1/2đv = 2,5đv.

Khi cộng tất cả các điểm trong vùng tâm của từng hành ta có kết quả trong sơ đồ trên. Ta thấy Thân (Thủy) có 3,76đv nhỏ hơn Tài (Hỏa) nên Tứ Trụ này có Thân là nhược (theo lý thuyết của tôi) nên dụng thần đầu tiên phải là Tỷ Kiếp là Nhâm ở trụ năm, Kim là hỷ thần còn Mộc, Hỏa và Thổ đều là kỵ thần.

Tứ Trụ này không thể Tòng Hỏa (Tài) được bởi vì Thân (Thủy) có 2 can chi mà Tài (Hỏa) chỉ có 4 can chi, hơn nữa điểm vượng trong vùng tâm của Hỏa nhỏ hơn 20đv.

Ta thấy trình Tứ Trụ ở trang web này đã xác định sai năm khởi đại vận, chính xác phải bắt đầu vào tháng 2/1990, lúc 8 tuổi chứ không phải lúc 7 tuổi.

Bigbear08 đã cho biết "Trước 28 t rất thuận lợi", vì các năm đó là Giáp Thân (2004), Ất Dậu (2005), Bính Tuất (2006), Đinh Hợi (2007) và Mậu Tý (2009) có dụng thần Nhâm cường vượng.

Nói chung mệnh này không những Thân khá nhược mà còn gặp các vận dụng thần như :

- Quý Mão : Có Quý vượng chế ngự Bính là đẹp nhưng không những khắc trái dấu mà Bính còn vượng ở vận, thêm Mão Mùi hóa Mộc là kỵ thần thành công nên vận này chỉ được coi là vận trung bình.
- Nhâm Dần : Nhâm nhược ở vận khắc Bính cùng dấu nhưng vượng thêm Dần hợp với tam hợp Hỏa trong Tứ Trụ nên kỵ thần càng vượng tướng nên vận này cũng chỉ được coi là vận bình thường.

Nói chung mệnh này vào các năm dụng thần Nhâm vượng mới có thể khá được.
Đầu trang

bigbear08
Mới gia nhập
Mới gia nhập
Bài viết: 21
Tham gia: 01:11, 10/08/17

TL: xin các bác xem giúp cháu về dụng thần và hỷ thần!

Gửi bài gửi bởi bigbear08 »

VULONG đã viết: 23:27, 10/08/17
bigbear08 đã viết: 01:41, 10/08/17 cháu có nhờ vài ng trong group fb tứ trụ coi giúp, nhưng giờ cháu lại băn khoăn ko biết dụng thần của cháu là gì ạ, kim-thuy hay là Mộc-Hoả? dụng thần nào chính xác hơn?
Xin các bác xem giúp ạ! cháu chân thành cám ơn!

Hình ảnh
Nếu bigbear08 và các bạn giống như bigbear08 chưa biết gì về Tử Bình mà muốn tự mình biết được chính xác dụng thần của mình cũng như các vận của cuộc đời mình xấu tốt ra sao thì bigbear08 và các bạn hãy vào đọc chủ đề "Trở Thành Cao Thủ Tử Bình Về Luận Hành Vận Trong 3 Tháng ?" ở chủ đề "Bác Vulong mà không xác định được giờ sinh của Trịnh Xuân Thanh thì đúng là phét lác có hạng !" ngay tại mục này hay bên trang web "Kim Tử Bình" (Tử Bình Diệu Dụng).

Sau đây là lý thuyết tóm tắt để xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần :

1 – Sơ đồ Tứ Trụ được biểu diễn bởi hình chữ nhật - có 3 hình vuông liền nhau biểu diễn cho 4 trụ.
2 - Phương pháp này chỉ sử dụng tính khắc của Ngũ Hành bỏ qua tính chất Âm Dương.
3 – Các can hay chi bị khắc trực tiếp (cùng trụ) và khắc gần (ngay trụ bên cạnh) thì chúng không có khả năng sinh hay khắc các can chi khác.
4 – Can hay chi bị khắc trực tiếp (cùng trụ) giảm 1/2 điểm vượng của nó, bị khắc gần (trụ bên cạnh) giảm 1/3 đv của nó, bị khắc cách 1 ngôi giảm 1/5đv của nó, bị khắc cách 2 ngôi giảm 1/10đv của nó và bị khắc cách 3 ngôi giảm 1/20đv của nó.
5 – Can chi trong tổ hợp không khắc được các can chi khác ở ngoài tổ hợp và ngược lại trừ khi chúng cùng trụ hoặc phải ở trong 2 tổ hợp đồng trụ (tức tất cả can hay chi của 2 tổ hợp này đều từng cặp cùng trụ với nhau).
6 – Can hay chi ngoài tổ hợp bị can hay chi trong tổ hợp khắc cùng trụ vẫn có khả năng sinh hay khắc với các can chi khác như bình thường. Can hay chi trong tổ hợp bị can hay chi cùng trụ nhưng không ở trong hợp khắc vẫn khắc được các can chi khác trong cùng tổ hợp đó như bình thường.
7 – Khi vào vùng tâm nó bị giảm thêm 2/5đv của nó nếu nó ở vòng ngoài 1 (tức can năm, chi tháng và chi giờ) và giảm thêm 1/2đv của nó nếu nó ở vòng ngoài 2 (tức chi năm). Các can chi trong vùng tâm không bị giảm thêm (tức can tháng, can ngày, can giờ và chi ngày).
8 – Can và chi cùng trụ có thể sinh được cho nhau 1/2đv của nó nếu chi hay can chủ sinh có can hay chi bên cạnh nó mang hành sinh cho nó, và 1/3đv của nó khi can hay chi bên canh chủ sinh mang hành giống nó (khi 2 chi cùng trụ này không bị khắc trực tiếp hay bị khắc gần,….).
9 – 3 can hay 3 chi liền nhau trong Tứ Trụ tương sinh cho nhau mà không bị khắc trực tiếp, khắc gần hay bị hợp thì can chi chủ sinh ở giữa có thể sinh cho can chi mà nó sinh cho 1/6,5đv của nó, nhưng chỉ sinh được 1/12đv của nó khi can chi bên cạnh nó cùng hành với nó.
10 – Nhật can ở trạng thái Lâm Quan có thêm 4,05đv tại chi đó và 4,3đv tại chi nó ở trạng thái Đế vượng (trừ chi tháng). Điểm vượng Lâm quan và Đế vượng này chỉ bị giảm như bình thường nếu nó bị khắc trực tiếp (bởi can hay chi cùng trụ) hay bởi ít nhất từ 2 lực khắc khác khi nó cùng hành với chi mà nó đóng).

11 – Điểm vượng các trạng thái của Can hay Chi trong Tứ Trụ mà tôi xác định được, đã được trình bầy trong bảng “Sinh Vượng Tử Tuyệt“ như sau :
Hình ảnh

Sau đây là ứng dụng lý thuyết này cho ví dụ cụ thể của bigbear08.

Sơ đồ dùng Toán Học để xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần :
Hình ảnh
Qua sơ đồ trên ta thấy tam hợp Dần Ngọ Tuất hóa Hỏa thành công nên ta phải khoanh tròn 3 chi này rồi nối với nhau như mô tả trong sơ đồ. Bính trụ tháng bị khắc gần bởi Nhâm trụ năm, còn Quý trụ ngày bị khắc trực tiếp bởi Mùi cùng trụ nên ta phải khoanh tròn Bính và Quý để biết chúng không có khả năng sinh hay khắc các can chi khác.

Ta thấy :
1 – Nhâm có 4,1đv bị Mùi trụ ngày khắc cách 2 ngôi giảm 1/10đv và vào vùng tâm giảm thêm 2/5đv còn 4,1.9/10.3/5đv = 2,21đv.
2 – Bính ở trong vùng tâm có 6đv bị Tý khắc cách 2 ngôi giảm 1/10đv còn 5,4đv.
3 – Quý ở trong vùng tâm có 3,1đv bị Mùi khắc trực tiếp giảm 1/2đv còn 3.1/2đv = 1,55đv.
4 – Giáp có 3đv ở trong vùng tâm không bị can chi nào khắc nên vẫn là 3đv.
5 – Dần có 3đv (đã hóa Hỏa) được thêm 3.1/2đv của Giáp cùng trụ sinh cho (vì Giáp có Quý bên cạnh mang hành sinh cho nó), nhưng vào vùng tâm giảm 2/5đv nên còn (3 + 3.1/2).3/5đv = 2,7đv.
6 – Mùi ở trong vùng tâm có 9đv bị Giáp khắc cách 1 ngôi giảm 1/5đv còn 9.3/5đv = 7,2đv.
7 – Ngọ có 10đv không bị can chi nào khắc, vào vùng tâm giảm 2/5đv còn 10.3/5đv = 6đv.
8 – Tuất có 10đv (đã hóa Hỏa) bị Nhâm cùng trụ khắc trực tiếp giảm 1/2đv và vào vùng tâm giảm tiếp 1/2 sđv còn 10.1/2.1/2đv = 2,5đv.

Khi cộng tất cả các điểm trong vùng tâm của từng hành ta có kết quả trong sơ đồ trên. Ta thấy Thân (Thủy) có 3,76đv nhỏ hơn Tài (Hỏa) nên Tứ Trụ này có Thân là nhược (theo lý thuyết của tôi) nên dụng thần đầu tiên phải là Tỷ Kiếp là Nhâm ở trụ năm, Kim là hỷ thần còn Mộc, Hỏa và Thổ đều là kỵ thần.

Tứ Trụ này không thể Tòng Hỏa (Tài) được bởi vì Thân (Thủy) có 2 can chi mà Tài (Hỏa) chỉ có 4 can chi, hơn nữa điểm vượng trong vùng tâm của Hỏa nhỏ hơn 20đv.

Ta thấy trình Tứ Trụ ở trang web này đã xác định sai năm khởi đại vận, chính xác phải bắt đầu vào tháng 2/1990, lúc 8 tuổi chứ không phải lúc 7 tuổi.

Bigbear08 đã cho biết "Trước 28 t rất thuận lợi", vì các năm đó là Giáp Thân (2004), Ất Dậu (2005), Bính Tuất (2006), Đinh Hợi (2007) và Mậu Tý (2009) có dụng thần Nhâm cường vượng.

Nói chung mệnh này không những Thân khá nhược mà còn gặp các vận dụng thần như :

- Quý Mão : Có Quý vượng chế ngự Bính là đẹp nhưng không những khắc trái dấu mà Bính còn vượng ở vận, thêm Mão Mùi hóa Mộc là kỵ thần thành công nên vận này chỉ được coi là vận trung bình.
- Nhâm Dần : Nhâm nhược ở vận khắc Bính cùng dấu nhưng vượng thêm Dần hợp với tam hợp Hỏa trong Tứ Trụ nên kỵ thần càng vượng tướng nên vận này cũng chỉ được coi là vận bình thường.

Nói chung mệnh này vào các năm dụng thần Nhâm vượng mới có thể khá được.
Cám ơn chú đã luận giúp cháu, xin cho cháu hỏi chut về hạn 2010-2011, cháu dời lên phía Bắc học Y, Bắc là thủy nhưng sao lại ko phát huy được tài năng?
2012 thì bị thi phi áp lực!

Dụng thần của cháu kim-thủy , kỵ mộc phải ko chú? Các bác bên group fb tứ trụ cũng đều đưa 2 đáp án nên làm cháu phân vân quá!
Đầu trang

VULONG
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1081
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: xin các bác xem giúp cháu về dụng thần và hỷ thần!

Gửi bài gửi bởi VULONG »

bigbear08 đã viết: 00:53, 11/08/17 Cám ơn chú đã luận giúp cháu, xin cho cháu hỏi chut về hạn 2010-2011, cháu dời lên phía Bắc học Y, Bắc là thủy nhưng sao lại ko phát huy được tài năng?

Dụng thần của cháu kim-thủy , kỵ mộc phải ko chú? Các bác bên group fb tứ trụ cũng đều đưa 2 đáp án nên làm cháu phân vân quá!
Mặc dù lên phía Bắc là phương có Thủy vượng nhưng nó có giúp được cho Thủy trong Tứ Trụ được nhiều hay ít thì phải xét ngũ hành năm Canh Dần (2010) và Tân Mão (2011) mới có thể biết được.

Năm Canh Dần (2010) mặc dù có Quý vượng ở lưu niên Dần là tốt nhưng khắc Bính lại trái dấu nên hiệu lực bị giảm đi 50% thêm Bính vượng ở lưu niên nên hiệu lực lại bị giảm đi thêm khoảng 10%. Nhưng cái quan trọng là có Mão đại vận hợp với Mùi trong Tứ Trụ hóa Mộc thành công nên Mộc cục này có tác dụng xì hơi Thân (mang hành Thủy) để sinh cho Tài tinh (mang hành Hỏa). Do vậy Thân đã khá nhược lại bị xì hơi bởi Mộc cục không những Thân càng nhược thêm mà Hỏa đã cường vượng lại càng cường vượng hơn nên Thân càng không thể thắng Tài mà phát Tài Quan được nên xấu là vậy.

Năm Tân Mão (2011) có Bính hợp Tân không hóa Thủy được, nên hỷ thần Tân vô dụng, còn Bính trong Tứ Trụ là kỵ thần bị hợp là tốt cho dù Quý không khắc được Bính (vì Bính ở trong hợp). Nhưng cái xấu ở đây là có thêm Mão lưu niên cùng Mão đại vận hợp Mùi trong Tứ Trụ hóa Mộc. Do vậy Mộc cục còn vượng hơn cả năm 2010 nên Thân càng bị xì hơi nhiều hơn thì dĩ nhiên càng nhược hơn còn Hỏa càng được sinh phù nhiều hơn càng vượng hơn. Chính vì vậy mà năm Tân Mão còn xấu hơn năm Canh Dần.

Do vậy lên phương Bắc có Thủy vượng nhưng bị Mộc cục trong Tứ Trụ hóa để sinh Hỏa thì hầu như không còn tác dụng nữa.

Đại khái luận Hành Vận và Vận Hạn là như vậy (nếu muốn chính xác hơn nữa phải xét đến cả tiểu vận).
Đầu trang

NeBoTat
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 450
Tham gia: 23:03, 01/07/15

TL: xin các bác xem giúp cháu về dụng thần và hỷ thần!

Gửi bài gửi bởi NeBoTat »

Bát tự tòng Tài hỏa. Kỵ tính với cha. Anh em, bạn bè đề huề, quan hệ tốt. Cha mẹ khá giả, có tiền của. Cha làm chủ gia đình, đường công danh của cha (làm công ăn lương) khó khăn, nhiều thị phi; tính cha cứng. Dòng họ nội khá giả, bên nội và cha có kỵ tính với nhau 1 chút.
Đầu trang

bigbear08
Mới gia nhập
Mới gia nhập
Bài viết: 21
Tham gia: 01:11, 10/08/17

TL: xin các bác xem giúp cháu về dụng thần và hỷ thần!

Gửi bài gửi bởi bigbear08 »

NeBoTat đã viết: 09:01, 11/08/17 Bát tự tòng Tài hỏa. Kỵ tính với cha. Anh em, bạn bè đề huề, quan hệ tốt. Cha mẹ khá giả, có tiền của. Cha làm chủ gia đình, đường công danh của cha (làm công ăn lương) khó khăn, nhiều thị phi; tính cha cứng. Dòng họ nội khá giả, bên nội và cha có kỵ tính với nhau 1 chút.

Xin phản hồi luận của Nebotat, bố mẹ hồi xưa có của tới lúc 8t, sau đó thì hết! Trong gia đình mẹ làm chủ. Từ đời ong nội bị đánh tư sản nên không còn của cải gì nữa. Kỵ tính với mẹ hơn là Bố!
Đầu trang

Hjmama
Chính thức
Chính thức
Bài viết: 61
Tham gia: 15:16, 31/07/10

TL: xin các bác xem giúp cháu về dụng thần và hỷ thần!

Gửi bài gửi bởi Hjmama »

Tứ trụ này vận vào mộc địa phương đông nếu gặp năm kim, thủy thì phản cục ko cát. Vận vào thủy địa phương bắc thì thân vượng đắc tài,làm ông chủ.
Đầu trang

bigbear08
Mới gia nhập
Mới gia nhập
Bài viết: 21
Tham gia: 01:11, 10/08/17

TL: xin các bác xem giúp cháu về dụng thần và hỷ thần!

Gửi bài gửi bởi bigbear08 »

Hjmama đã viết: 12:22, 11/08/17 Tứ trụ này vận vào mộc địa phương đông nếu gặp năm kim, thủy thì phản cục ko cát. Vận vào thủy địa phương bắc thì thân vượng đắc tài,làm ông chủ.


Cách luận của dt tòng tài, và kim thuỷ, sao mình đọc lại thấy cả 2 đều có lý, như vậy có cách nào để biết chính xác hơn ko?

Tòng Tài: Mộc- Hoả
Nhật chủ quý sinh tháng bính ngọ, địa chi toàn hỏa thổ thân nhược phải tòng tài, nên chí hướng của bạn hướng theo kinh doanh, tiếc rằng trụ năm có nhâm thủy, mà không lộ quan tinh để thành quý cách, địa chi thì mùi thổ tranh hợp với dần ngọ tuất, dẫn đến ý chí đôi khi không thuần chí, học rộng, nhiều ý tưởng mà không biết theo hướng nào. Từ năm 2010 sang vận Quý Mão, Quý thủy thì khắc tài, Mão Mùi bán hợp kềm hãm, từ 2010 đã phát sinh khó khăn, 2011 năm mão gặp vận mão phục ngâm địa chi. Năm nay có đinh để chế nhâm thì nhất định sẽ tìm được 1 hướng đi mới, tuy nhiên đại vận này chưa tốt nên có lẽ được 2 năm thuận lợi.




Kim-Thuỷ
Bác Vulong luận
Năm Canh Dần (2010) mặc dù có Quý vượng ở lưu niên Dần là tốt nhưng khắc Bính lại trái dấu nên hiệu lực bị giảm đi 50% thêm Bính vượng ở lưu niên nên hiệu lực lại bị giảm đi thêm khoảng 10%. Nhưng cái quan trọng là có Mão đại vận hợp với Mùi trong Tứ Trụ hóa Mộc thành công nên Mộc cục này có tác dụng xì hơi Thân (mang hành Thủy) để sinh cho Tài tinh (mang hành Hỏa). Do vậy Thân đã khá nhược lại bị xì hơi bởi Mộc cục không những Thân càng nhược thêm mà Hỏa đã cường vượng lại càng cường vượng hơn nên Thân càng không thể thắng Tài mà phát Tài Quan được nên xấu là vậy.

Năm Tân Mão (2011) có Bính hợp Tân không hóa Thủy được, nên hỷ thần Tân vô dụng, còn Bính trong Tứ Trụ là kỵ thần bị hợp là tốt cho dù Quý không khắc được Bính (vì Bính ở trong hợp). Nhưng cái xấu ở đây là có thêm Mão lưu niên cùng Mão đại vận hợp Mùi trong Tứ Trụ hóa Mộc. Do vậy Mộc cục còn vượng hơn cả năm 2010 nên Thân càng bị xì hơi nhiều hơn thì dĩ nhiên càng nhược hơn còn Hỏa càng được sinh phù nhiều hơn càng vượng hơn. Chính vì vậy mà năm Tân Mão còn xấu hơn năm Canh Dần.
Đầu trang

VULONG
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1081
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: xin các bác xem giúp cháu về dụng thần và hỷ thần!

Gửi bài gửi bởi VULONG »

bigbear08 đã viết: 05:20, 12/08/17
Hjmama đã viết: 12:22, 11/08/17 Tứ trụ này vận vào mộc địa phương đông nếu gặp năm kim, thủy thì phản cục ko cát. Vận vào thủy địa phương bắc thì thân vượng đắc tài,làm ông chủ.
Cách luận của dt tòng tài, và kim thuỷ, sao mình đọc lại thấy cả 2 đều có lý, như vậy có cách nào để biết chính xác hơn ko?
Tòng Tài: Mộc- Hoả
Nhật chủ quý sinh tháng bính ngọ, địa chi toàn hỏa thổ thân nhược phải tòng tài, nên chí hướng của bạn hướng theo kinh doanh, tiếc rằng trụ năm có nhâm thủy, mà không lộ quan tinh để thành quý cách, địa chi thì mùi thổ tranh hợp với dần ngọ tuất, dẫn đến ý chí đôi khi không thuần chí, học rộng, nhiều ý tưởng mà không biết theo hướng nào. Từ năm 2010 sang vận Quý Mão, Quý thủy thì khắc tài, Mão Mùi bán hợp kềm hãm, từ 2010 đã phát sinh khó khăn, 2011 năm mão gặp vận mão phục ngâm địa chi. Năm nay có đinh để chế nhâm thì nhất định sẽ tìm được 1 hướng đi mới, tuy nhiên đại vận này chưa tốt nên có lẽ được 2 năm thuận lợi.

Kim-Thuỷ
Bác Vulong luận
Năm Canh Dần (2010) mặc dù có Quý vượng ở lưu niên Dần là tốt nhưng khắc Bính lại trái dấu nên hiệu lực bị giảm đi 50% thêm Bính vượng ở lưu niên nên hiệu lực lại bị giảm đi thêm khoảng 10%. Nhưng cái quan trọng là có Mão đại vận hợp với Mùi trong Tứ Trụ hóa Mộc thành công nên Mộc cục này có tác dụng xì hơi Thân (mang hành Thủy) để sinh cho Tài tinh (mang hành Hỏa). Do vậy Thân đã khá nhược lại bị xì hơi bởi Mộc cục không những Thân càng nhược thêm mà Hỏa đã cường vượng lại càng cường vượng hơn nên Thân càng không thể thắng Tài mà phát Tài Quan được nên xấu là vậy.

Năm Tân Mão (2011) có Bính hợp Tân không hóa Thủy được, nên hỷ thần Tân vô dụng, còn Bính trong Tứ Trụ là kỵ thần bị hợp là tốt cho dù Quý không khắc được Bính (vì Bính ở trong hợp). Nhưng cái xấu ở đây là có thêm Mão lưu niên cùng Mão đại vận hợp Mùi trong Tứ Trụ hóa Mộc. Do vậy Mộc cục còn vượng hơn cả năm 2010 nên Thân càng bị xì hơi nhiều hơn thì dĩ nhiên càng nhược hơn còn Hỏa càng được sinh phù nhiều hơn càng vượng hơn. Chính vì vậy mà năm Tân Mão còn xấu hơn năm Canh Dần.
Đến đại cao thủ Tử Bình như Nhâm Thiết Tiều là người bình cuốn "Trích Thiên Tủy" mà luận ví dụ số 1 của vua Can Long còn sai bét nhè, vậy mà cho đến nay có ai phát hiện ra đâu ngoài tôi thì bạn không hiểu nổi những bài luận ở đây là chuyện bình thường.

Tốt nhất muốn hiểu mọi người luận ở đây là đúng hay sai thì bạn hãy vào đọc chủ đề "Trở thành Cao Thủ Tử Bình về luận Hành Vận trong 3 tháng ?" , sau 3 tháng tự học thì may ra bạn mới có thể hiểu được.
Đầu trang

bigbear08
Mới gia nhập
Mới gia nhập
Bài viết: 21
Tham gia: 01:11, 10/08/17

TL: xin các bác xem giúp cháu về dụng thần và hỷ thần!

Gửi bài gửi bởi bigbear08 »

VULONG đã viết: 06:36, 12/08/17
bigbear08 đã viết: 05:20, 12/08/17
Hjmama đã viết: 12:22, 11/08/17 Tứ trụ này vận vào mộc địa phương đông nếu gặp năm kim, thủy thì phản cục ko cát. Vận vào thủy địa phương bắc thì thân vượng đắc tài,làm ông chủ.
Cách luận của dt tòng tài, và kim thuỷ, sao mình đọc lại thấy cả 2 đều có lý, như vậy có cách nào để biết chính xác hơn ko?
Tòng Tài: Mộc- Hoả
Nhật chủ quý sinh tháng bính ngọ, địa chi toàn hỏa thổ thân nhược phải tòng tài, nên chí hướng của bạn hướng theo kinh doanh, tiếc rằng trụ năm có nhâm thủy, mà không lộ quan tinh để thành quý cách, địa chi thì mùi thổ tranh hợp với dần ngọ tuất, dẫn đến ý chí đôi khi không thuần chí, học rộng, nhiều ý tưởng mà không biết theo hướng nào. Từ năm 2010 sang vận Quý Mão, Quý thủy thì khắc tài, Mão Mùi bán hợp kềm hãm, từ 2010 đã phát sinh khó khăn, 2011 năm mão gặp vận mão phục ngâm địa chi. Năm nay có đinh để chế nhâm thì nhất định sẽ tìm được 1 hướng đi mới, tuy nhiên đại vận này chưa tốt nên có lẽ được 2 năm thuận lợi.

Kim-Thuỷ
Bác Vulong luận
Năm Canh Dần (2010) mặc dù có Quý vượng ở lưu niên Dần là tốt nhưng khắc Bính lại trái dấu nên hiệu lực bị giảm đi 50% thêm Bính vượng ở lưu niên nên hiệu lực lại bị giảm đi thêm khoảng 10%. Nhưng cái quan trọng là có Mão đại vận hợp với Mùi trong Tứ Trụ hóa Mộc thành công nên Mộc cục này có tác dụng xì hơi Thân (mang hành Thủy) để sinh cho Tài tinh (mang hành Hỏa). Do vậy Thân đã khá nhược lại bị xì hơi bởi Mộc cục không những Thân càng nhược thêm mà Hỏa đã cường vượng lại càng cường vượng hơn nên Thân càng không thể thắng Tài mà phát Tài Quan được nên xấu là vậy.

Năm Tân Mão (2011) có Bính hợp Tân không hóa Thủy được, nên hỷ thần Tân vô dụng, còn Bính trong Tứ Trụ là kỵ thần bị hợp là tốt cho dù Quý không khắc được Bính (vì Bính ở trong hợp). Nhưng cái xấu ở đây là có thêm Mão lưu niên cùng Mão đại vận hợp Mùi trong Tứ Trụ hóa Mộc. Do vậy Mộc cục còn vượng hơn cả năm 2010 nên Thân càng bị xì hơi nhiều hơn thì dĩ nhiên càng nhược hơn còn Hỏa càng được sinh phù nhiều hơn càng vượng hơn. Chính vì vậy mà năm Tân Mão còn xấu hơn năm Canh Dần.
Đến đại cao thủ Tử Bình như Nhâm Thiết Tiều là người bình cuốn "Trích Thiên Tủy" mà luận ví dụ số 1 của vua Can Long còn sai bét nhè, vậy mà cho đến nay có ai phát hiện ra đâu ngoài tôi thì bạn không hiểu nổi những bài luận ở đây là chuyện bình thường.

Tốt nhất muốn hiểu mọi người luận ở đây là đúng hay sai thì bạn hãy vào đọc chủ đề "Trở thành Cao Thủ Tử Bình về luận Hành Vận trong 3 tháng ?" , sau 3 tháng tự học thì may ra bạn mới có thể hiểu được.
Dạ cháu cảm ơn bác, để cháu đi tìm và đọc thêm!
Đầu trang

Trả lời bài viết