Ốc Tiêu đã viết: 07:47, 21/11/17
Khó hiểu thật kim tù bị thổ vùi như vậy mà vẫn dụng được?
Dụng thần còn phải xem có hoàn bị hay không hoàn bị. Có thương tổn như bị hình xung khắc hại phá thì không hoàn bị, nếu không có thương tổn thì là hoàn bị. Dụng thần hoàn bị thì đại cát, dụng thần không hoàn bị thì thứ cát. Lúc dụng thần không hoàn bị thì chọn hỷ thần hoá giải nguyên nhân làm cho dụng thần không hoàn bị.
Đương số sinh tháng Thìn, bát tự thấu Mậu, 3 Thìn tự hình thì hình thổ vượng, nhưng:
(1) tháng Thìn thì Dậu kim tiến khí; mà vẫn còn mùa xuân nên thổ khó lòng mà đạt đủ mức vượng cần thiết để chôn kim (bằng chứng: 3 Ất có Quý sinh chế thổ)
(2) đồng thời nhật chi Thìn - Dậu hợp, cộng với Kỷ thổ thấu thời trụ là thổ
có ý sinh kim, lục hợp giải bớt tự hình
(3) giờ Dậu tức kim nắm thời lệnh
(4) Thìn thổ là thấp thổ
Nói chung Dậu kim là dụng thần hoàn bị trong trường hợp này. Chính vì thổ không chôn nổi kim nên các vận hoả thổ, và thuần thổ đương số vẫn chưa bị hạn nặng.
Giả sử ở đây luận thổ chôn kim đi, thì kim là dụng thần không hoàn bị, vẫn dụng kim như bình thường, nhưng rõ ràng nếu dụng thần không hoàn bị thì tính là cách cục thấp, tức là tầng thứ của người này trong xã hội không cao. Bát tự này nếu dụng mộc khai thông thổ thì phải đề phòng những trường hợp sau đây: (a) bị Bính hoả hoá, (b) Dậu bị xung tổn, (c) mộc - thổ tương chiến thuỷ tao ương (hiếm xảy ra hơn đối với bát tự này). Mộc là dụng thần không hoàn bị.
Thường muốn xem "nghịch sinh thành khắc", ví dụ trong trường hợp này là thổ khắc kim, thì thổ phải đắc thế rất lớn mới có thể dùng biến lý ngũ hành. Thông thường thì phải nắm lệnh; tức phải đắc trường sinh,
lộc, đế. Sau đó là phải tạo thành thế, và thế này phải mạnh, ví dụ như thế lục hợp, tam hợp hoá thành công hoặc tự hình vượng.
Tất cả các biến lý ngũ hành đều yêu cầu phải đắc lệnh, đồng thời phải tạo thành thế rất lớn thì mới ứng dụng được. Thổ muốn vùi kim thì lấy thổ ở đâu? Ở Tỵ, Ngọ, Mùi. Đồng thời thổ khó chôn kim (hơn biến lý các hành khác), vì thổ có tính "hậu đức tại vật".