Hỏi về cách tính Đại hạn, tiểu hạn một lá số.

Xem, hỏi đáp, luận giải về tử vi
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục dành cho việc xem lá số tử vi. Các bài mang tính trao đổi học thuật xin vui lòng đăng trong mục Kiến thức tử vi.
Không được đính kèm lá số của trang web khác. Các bài không liên quan sẽ bị chuyển khỏi chuyên mục này.
Môc huynh
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 3086
Tham gia: 08:46, 11/11/12

TL: Hỏi về cách tính Đại hạn, tiểu hạn một lá số.

Gửi bài gửi bởi Môc huynh »

Tạm sơ vậy.( kết quả cuối cùng ở L.tuổi hạn 33 (cung Hợi) với tuổi đặc cách Tứ Mộ ấy thì Liêm>< Tham không mấy nguy hại)...
https://www.facebook.com/ha.bach.712
Sửa lần cuối bởi Môc huynh vào lúc 12:01, 26/10/19 với 1 lần sửa.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
truy mệnh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2354
Tham gia: 11:30, 28/08/12
Đến từ: đời cơ bản là buồn

TL: Hỏi về cách tính Đại hạn, tiểu hạn một lá số.

Gửi bài gửi bởi truy mệnh »

Môc huynh đã viết: 10:24, 26/10/19
truy mệnh đã viết: 22:53, 25/10/19
Môc huynh đã viết: 22:49, 25/10/19

Bạn muốn tính cái gì cho năm sau?, biển đông ư....
Hình ảnh

Anh có thể xem.giúp năm sau em có gặp khó khăn nhiều về công việc ko ạ. Nhờ anh xem dùm vài nét cơ bản của lá số này .
Mình thấy sao hàm của bạn cũng dữ, thuộc hàng cựu binh 5 sao, vậy mà bạn hỏi về năm sau là năm 2020, nhưng lại post lá số 2019 !? ( lá số năm nào xem năm đó, để khi cần thì mới phán chi tiết được)

* Nếu bạn có theo dõi thì thấy mình ít khi phán vào lá số chưa xác định(có đúng của chủ nhân hay không?), mình chỉ xin ngắn gọn, ngoại lệ với 5 sao (tạm xem như lá số đúng của bạn).

* Tổng quan T/hạn 2020 tại cung Tý = cung Quan Lộc với chính tinh = Cự Môn, vòng TS = Mộc Dục. Cách cục Cự + Nhật + Thiên Cơ, với thứ "vũ khí" của bạn như vậy là khá vững cho năm 2020(tốt hay xấu với thực tiễn ngoài đời là do bạn biết ứng dụng, những bả bối đó sao cho có hiệu quả nhất)

* Về Thiên định hay ta gọi Mệnh lý:
- Cự Môn ở Tý chỉ học lực rộng, tài cao cùng với đức độ. Đây là cách "Thạch Trung Ẩn Ngọc", Cự có Triệt án ngữ(cung Tý).
- Cự là Quyền tinh và Tài tinh, tất dễ thăng tiến, được tín nhiệm, có kiện tụng cũng thắng, mưu sự dễ thành....
Nói về sự xấu thì phải chú ý tới Bạch Hổ ngộ Khốc Hư(cung Ngọ vào năm 2020), nên lời ăn tiếng nói phải Thiên Cơ trí tuệ, để đề phòng cái miệng Cự ngẫu hứng....
Tạm sơ vậy.
Cảm ơn Mộc kaka . đệ cũng có thử học vài cách tính niên hạn. Thì thấy rơi vào cung thê. Hình kình kỵ tang. Lại đọc sách thấy kình dương cư ngọ mã đầu đới kiếm. Tượng con ngựa bị thanh kiếm kề cổ.... Lại thêm thiện hình hóa kỵ tang môn. Tưởng nam sau tèo rồi . hic... Đa ta mọc huynh. Lá này chính số 100% . ko lệch phút nào .
Được cảm ơn bởi: Môc huynh
Đầu trang

Môc huynh
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 3086
Tham gia: 08:46, 11/11/12

TL: Hỏi về cách tính Đại hạn, tiểu hạn một lá số.

Gửi bài gửi bởi Môc huynh »

Tạm sơ vậy.( kết quả cuối cùng ở L.tuổi hạn 33 (cung Hợi) với tuổi đặc cách Tứ Mộ ấy thì Liêm>< Tham không mấy nguy hại)...
https://www.facebook.com/ha.bach.712
Được cảm ơn bởi: truy mệnh
Đầu trang

Môc huynh
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 3086
Tham gia: 08:46, 11/11/12

TL: Hỏi về cách tính Đại hạn, tiểu hạn một lá số.

Gửi bài gửi bởi Môc huynh »

Môc huynh đã viết: 23:40, 25/10/19
lieutrai đã viết: 12:11, 25/10/19
Môc huynh đã viết: 11:28, 25/10/19 VIẾT TRẢ LỞI PHÂN ĐỊNH TRẮNG ĐEN RÕ RÀNG, THÌ THÊM LẮM KẺ THÙ GHÉT....
- Số Thiên định mình sinh ra để làm lợi cho thiên hạ nên mình chấp nhận.

* Bạn viết chêm ý vào từ việc sao chép sách, cũng không thành vấn đề, vì tổng thể bài lủng củng, tiền hậu bất nhất:
- Với câu viết: "Đấy là chưa thật hiểu phật vậy."
Kinh Phật đang ở thời MẠT PHÁP ai mà không thật hiểu phật ( Googole nhé)
Vì sao Mạt Pháp ? đó là từ cái gốc, Phật Tổ và các thầy tu nói chung sống được là nhờ ăn bám vào XH( trên sức lao động cực nhọc của người dân làm ra của cải vật chất) và vào thứ tiền đút lót trên dưới trong con nhà Phật (link) ngoài đời thì trốn tránh lao động, không làm ra của cải vật chất gì cho XH đáng kể, trốn tránh nghĩa vụ làm người, nghĩa vụ quân sự, rảnh hơi thì lượn lờ đi ăn xin(hành khất)..., việc cùng nhau ngày đêm lập mưu tính kế trong chùa, lúc này là phổ biến, từ việc cúng sao giải hạn, cho tới buôn thần bán thánh( điển hình nổi trội có Chùa Ba hay Bốn Vàng...)

* " được như đức quan thế âm bồ tát thì cũng là thành chính quả rồi. "
* Tấm lòng thành thật của một thế âm bồ tát ngày nay:

- Oải rồi Không phân tích nữa, hãy học từ một người bạn thực sự có học:
Bác Mộc hiểu lầm rồi, ý cháu muốn nói đến Đạo Phật, không bàn về Đạo Giáo. Phật tại tâm chứ đâu có trong chùa? Thời nào cũng thế thôi, đã thành giáo điều rồi, khó tránh khỏi những tệ nhũng của nhân sinh.

Thời Mạt Pháp cũng đâu có gì xấu? Có xấu thì cũng chỉ xấu như Thiên Địa Bĩ, hay Sơn Phong Cổ mà thôi. Nhưng những nơi tăm tối loạn lạc như thế, lại là nơi xuất hiền nhân, như hoa sen nở mình trong bùn lầy dơ dáy vậy. Vậy thì có gì phải chán ghét. Thiên hạ loạn, cứ để nó loạn, lòng ta định là được rồi (nói thế thôi chứ lòng cháu loạn lắm :)) :)) )

Còn về tử vi thì cháu chưa đạt đến trình độ master để phân tích về việc sửa đổi cải cách tử vi. Chỉ xin được nêu ra, nhắc lại một vài ý sau đây:

- Các lá số cháu có dịp được xem qua và chứng thực (lấy lá số trên tuvivietnam.com) thì đều rất ứng với con người. Các vận hạn đi cơ bản khớp, cháu chưa thấy sai lệch đến mức phải cải cách. Đương nhiên cháu không phủ nhận việc ngày giờ âm lịch đảo điên. Nhưng với kiến giải của cháu về tử vi và đạo học trước giờ, thì việc chấp mệ vào một thứ như giờ sinh là việc không nên.

- Trục tý ngọ mão dậu là trục của nguyên khí vận hành, trời đất giao hoan. Còn trục dần thân thì từ trước đến nay luôn để phân định ngày đêm. Vậy nên, người ta luyên công vào tý ngọ mão dậu. Thức giấc, đọc sách, viết lách vào giờ dần, xả hơi, nghỉ ngơi tại giờ thân...

- Về tứ hóa, trước giờ Việt Nam mình theo Nam phái, sau này có phi tinh du nhập vào nhưng cũng không chiếm được đa số như bên Đài Cảng vì tam hợp phái của Việt Nam gốc rễ rất sâu, tứ hóa chỉ như hoa trên gấm thôi. Chêm vào tý ty thì đẹp, đi sâu vào thì rối tinh rối mù. Nên trước giờ cháu vẫn rất sợ đi sâu vào tứ hóa, vì e rằng đi sâu vào thì lại lậm như mấy ông thầy bắc phái, luận hạn sai be bét :))

* Mình nhìn lại thấy bạn viết như mây trên Trời, mình thì cắm cúi như cấy cầy trong lá số, mắt thì không quên liếc sao trời...ấy vậy chúng ta cũng có nét chung đồng cảm, tuy còn ở hai góc độ.

* Về Tứ Hóa hay dịch thì cũng phải có điểm khởi đầu từ số và ngay trong lá số(mình chỉ bán vào lá số) cách học cách viết ra ý hiểu của mình cũng vậy chỉ tập trung truy xét vào lá số, thấy còn bất cập chỗ nào thì truy theo các thể loại sách vào ngay chỗ đó( nhờ vậy mà loại ngay ra sách không logic để đỡ mất công đọc), mấu chốt là để tìm ra sự logic, thay thế vào chỗ không logic...như vậy thì mới có được CÁI NỀN TẢNG cơ bản để dựa vào đó truy ra chân tướng mọi vấn đề chắc chắn, chẳng hạn như BỘ TỨ HÓA, với nam phái còn sai bét trong việc an hành của sao HÓA ngay trong lá số, như vậy thì luận cái gì từ TỨ HÓA cho ra môn ra khoai( với mình bất luận cái gì logic thì phải vẽ ra được hình ảnh thông thuận theo quy luật tự nhiên từ Vũ trụ, tới con người).

* Định hình lá số tử vi phải có tính logic khởi đầu từ hình ảnh ngẫu nhiên về các hành tinh trong hệ mặt trời đang chuyển động, bấm dừng ghi lại 01 hình ảnh, xác lập cho Ngũ Hành:
Hình ảnh

* Đối chiếu với sách và thực tại ngay trong lá số tử vi đang an phổ cập hiện hành trên các web với bộ Tứ Hóa:
Hình ảnh

* Đối chiếu sách với độ số...xác định thêm sự logic với quẻ dịch thiết lập trong lá số.
Hình ảnh

* Do vậy mình vẫn và đã ứng dụng TỨ HÓA vào thực tiễn, và đã có kết quả xác thực khi luận giải vận hạn, còn in dấu ấn trong những bài viết ở các trang đã qua:
Hình ảnh
Hình ảnh
Hình ảnh
Hình ảnh
Đầu trang

Môc huynh
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 3086
Tham gia: 08:46, 11/11/12

TL: Hỏi về cách tính Đại hạn, tiểu hạn một lá số.

Gửi bài gửi bởi Môc huynh »

SUY VÀ NGẪM, THÁI CỰC DƯƠNG TRONG LÁ SỐ VÌ SAO LẠI NẰM TẠI CUNG ÂM TỴ, KHÁC BIỆT VỚI QUAN NIỆM XƯA CŨ (T.CỰC DƯƠNG NGỌ - ÂM TÝ).

* Nếu chúng ta xem xét thật cẩn trọng chi tiết(dưới) chúng ta sẽ không còn quá câu nệ từ việc ứng dụng 8 quẻ đơn có hình BÁT QUÁI để xem tốt hay xấu trong mọi hình thức, như người xưa thường ứng dụng...chỉ là sự hão huyền.

Hình ảnh
Hình ảnh
Đầu trang

Môc huynh
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 3086
Tham gia: 08:46, 11/11/12

TL: Hỏi về cách tính Đại hạn, tiểu hạn một lá số.

Gửi bài gửi bởi Môc huynh »

Môc huynh đã viết: 16:02, 26/10/19 SUY VÀ NGẪM, THÁI CỰC DƯƠNG TRONG LÁ SỐ VÌ SAO LẠI NẰM TẠI CUNG ÂM TỴ, KHÁC BIỆT VỚI QUAN NIỆM XƯA CŨ (T.CỰC DƯƠNG NGỌ - ÂM TÝ).

* Nếu chúng ta xem xét thật cẩn trọng chi tiết(dưới) chúng ta sẽ không còn quá câu nệ từ việc ứng dụng 8 quẻ đơn có hình BÁT QUÁI để xem tốt hay xấu trong mọi hình thức, như người xưa thường ứng dụng...chỉ là sự hão huyền.

Hình ảnh
Hình ảnh
THỨ QUẺ NÀY...CÁC BẬC THẦY LÝ SỐ NGHĨ NTN? Ý GÌ ĐÂY?
Hình ảnh

MUỐN XEM VẬN HẠN HAY QUẺ DỊCH MỘT CÁCH CHẮC CHẮN(RÕ RÀNG), THÌ CHÚNG TA PHẢI TÌM RA MỐC ĐỊNH VỊ, NHƯ VIỆC XEM TIỂU HẠN VỚI MỐC LÀ SAO LƯU THÁI TUẾ CHUYỂN DỊCH THEO MỖI NĂM, VẬY QUẺ DỊCH?

* Cách thực tiễn của mình, sau khi xác định vị trí nơi ta đang sống là Việt Nam thuộc bán cầu Bắc của địa cầu - có đường Xích Đạo nằm phía dưới giải đất hình chữ S, thì vị trí của Mặt trời không thể chiếu rọi từ phía Bắc, như lá số phổ cập hiện hành với hai cung HỎA là cung Tỵ + Ngọ - nằm phía trên lá số(01 phi lý, không chấp nhận được).

* Chúng ta cùng xem qua 01 video Thiên Văn(theo link)
https://www.youtube.com/watch?v=9smPJ7d_A5c&t=1s
- Bấn dừng tại vị trí Mặt Trời chiếu vào cung có sao Thái Dương(trong chính lá số của bản thân các bạn), rồi vẽ ra được 01 lá số khung của mỗi bạn, để rồi so sánh với lá số Nhật Nguyệt Tinh Minh(với sao Thái Dương cự cung Tỵ là vị trí Thái cực Dương chuẩn của mọi lá số) và như vậy trên hình lá số của chính mình(dưới), khi vẽ từ không gian, đã có độ sai lệch Thái cực Dương là 02 cung( Từ cung Tỵ chuyển sang cung Mão)...
Hình ảnh

* Từ kết quả trên chúng ta kết hợp giữa vị trí của Mặt Trời (sao Thái Dương - định vị tĩnh tại 01 cung trong lá số của mỗi người khi lấy lá số) so với Hành tinh Mộc tinh (là sao Lưu Thái Tuế trong lá số) luôn dịch chuyển vị trí theo từng cung số với chiều thuận kim đồng hồ vào mỗi năm mới.

- Chúng ta sẽ có được kết quả tổng quát, như mẫu phản biện quả quyết của chính mình, với một ông thầy quẻ, tự khoe là thâm niên trên 45 năm...
Hình ảnh
Hình ảnh
Đầu trang

Môc huynh
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 3086
Tham gia: 08:46, 11/11/12

TL: Hỏi về cách tính Đại hạn, tiểu hạn một lá số.

Gửi bài gửi bởi Môc huynh »

CÂU TRẢ LỜI!

* Khi mình đưa ra... làm bài học, thì luôn có minh chứng cấm cãi....
Hình ảnh

https://www.facebook.com/ha.bach.712
Hình ảnh
Đầu trang

Môc huynh
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 3086
Tham gia: 08:46, 11/11/12

TL: Hỏi về cách tính Đại hạn, tiểu hạn một lá số.

Gửi bài gửi bởi Môc huynh »

lieutrai đã viết: 15:02, 24/10/19
Môc huynh đã viết: 14:51, 24/10/19
lieutrai đã viết: 13:10, 24/10/19 ý ý, nhanh nhẩu nên không đọc kỹ. Bác nói thái cực là mặt trời, con cho là chưa thật tường tận. Quả đúng là có thuyết cho rằng thái cực là mặt trời, người Việt cổ của mình chẳng thờ thần mặt trời đó sao? Nhưng đó chỉ là ý niệm sơ khai thôi, sau này hậu nhân lấy cái ý niệm đó mà suy diễn ra vạn sự trong vụ trụ. Như việc nhìn lên mặt trời thì khi nhìn xuống, mắt sẽ thấy một vòng tròn có tâm ở giữa, có thể là ý niệm về thái cực vậy, đơn sơ lắm, chưa thể đi đến mức huyền vi của Đạo học được.
Bạn giải thích rõ ràng đoạn viết của chính bạn:
"đơn sơ lắm, chưa thể đi đến mức huyền vi của Đạo học được."

TỬ VI ĐƯỢC HÌNH THÀNH TỪ QUY LUẬT CỦA TẠO HÓA VŨ TRỤ VÀ KHÔNG THEO BẤT CỨ ĐẠO HỌC NÀO VÀ NÓ ĐƯỢC MINH ĐỊNH RÕ RÀNG...

* TƯƠNG ỨNG VỚI THÁI CỰC TRÊN LÁ SỐ LÀ SAO THÁI DƯƠNG(MẶT TRỜI)
DO VẬY DÙNG TỪ HUYỀN VI VỚI TỬ VI CHỈ LÀ THỨ HÃO HUYỀN( MƠ HỒ).
Hình ảnh

TĂNG ĐẠO HAY ĐẠO HỌC MƠ HỒ THÌ ĐỀU BỊ LOẠI RA KHỎI GỐC RỄ TỬ VI.
Hình ảnh
Đồ hình hay quá, nhìn thế này thì hiểu ra luôn tại sao thái Âm thái Dương lại vận hành như vậy👍👍.
Còn về việc luận thái cực, chân như thành mặt trời thì cháu thấy không hợp lý thôi. Mặt trời chỉ là thái Dương, không phải là thái cực, có chăng là quang ảnh của thái cực. Mà nói về quang ảnh của thái cực, đâu chả có cớ gì phải là vầng thái Dương.
Việc tăng đạo bị xếp xó là hợp lý lắm😅😅. Đã thoát khỏi cái khám cung chật hẹp của tử vi rồi mà còn được nó coi trọng lên xếp đầu, thì tự người vô danh tăng kia phải xem lại mình rồi 😅😅.
Nhân tiện, theo cháu xét tăng trong tử vi thì phải xét đến thiên diêu, lộc tồn, ân quang, thiên quý, tài thọ... chứ xét thiên quan làm gì.

*Mình xin lỗi bỏ xót chưa trả lời : XÉT THIÊN QUAN LÀM GÌ?
bạn viết:
"xét tăng trong tử vi thì phải xét đến thiên diêu, lộc tồn, ân quang, thiên quý, tài thọ... chứ xét thiên quan làm gì."

* Trước hết mình trả lời bạn: Tăng đạo (là người đã đi tu) không còn là con người như chúng ta có đủ 12 cung số, để có tam hợp, chính chiếu, nhị hợp... nên xem xét là vô ích ( người nào xem lá số...chứng tỏ còn kém hiểu biết), Bản thân các thầy tu là con người không toàn vẹn, có Âm thì mất Dương (Ni sư) có Dương thì mất Âm (Thầy tu) đầu không tóc, thân thể, tâm trí theo Niết bàn( khói hương)...., lại đi cúng sao giải hạn ...chỉ đi dậy cho kẻ khờ khạo hơn thầy tu mà thôi.

* QUAN - PHÚC
Trích dẫn:
Phục Mệnh Tướng Quân đã viết: ↑18:07, 01/07/13
Trích dẫn bài viết của Bác VDTT
BÀN VỀ HAI SAO QUAN PHÚC
Loạt bài Tử Vi và thế cuộc xiển dương một quan điểm về Quan Phúc không mấy quen thuộc với độc giả. Quan điểm này đã được áp dụng trong các bài viết về cựu đệ nhất phu nhân kiêm đương kim thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Hillary Clinton, tiền tổng thống Iraq Saddam Hussein, công nương Diana, đương kim thống đốc California Arnold Schwarzenneger, và lần này với bà hoàng nội trợ Martha Stewart.
Thiết tưởng đã đến lúc cần giải thích thêm cho rõ. Quan Phúc là tên tắt của Thiên Quan và Thiên Phúc. Hai sao này được an theo thiên can như sau: Thiên Quan can Giáp ở cung Mùi, Ất cung Thìn, Bính cung Tỵ, Đinh cung Dần, Mậu cung Mão, Kỷ cung Dậu, Canh cung Hợi, Tân cung Dậu, Nhâm cung Tuất, Quý cung Ngọ. Thiên Quý thì Giáp ở cung Dậu, Ất cung Thân, Bính cung Tý, Đinh cung Hợi, Mậu cung Mão, Kỷ cung Dần, Canh cung Ngọ, Tân cung Tỵ, Nhâm cung Ngọ, Quý cung Tỵ.
Cách an Thiên Quan của khoa Tử Vi tự nó đã là một vấn đề vì khác với các khoa mệnh lý khác ở 4 can Mậu Kỷ Tân Nhâm; nhưng trong giới hạn của phần phụ lục này chỉ xin bàn về ý nghĩa. Theo cách xem Tử Vi truyền thống thì Quan Phúc là hai sao quý nhân, ở cung nào giáng phúc cho cung đó.
Một chi của Trung Châu phái ở Hồng Kông còn phân biệt rõ ràng là Thiên Quan là quý nhân tinh ứng với sự nghiệp, thượng cách là ở cùng cung với quan tinh Thái Dương; Thiên Phúc là quý nhân tinh ứng với phúc phận, thượng cách là ở cùng cung với phúc tinh Thiên Đồng.
Riêng với các bạn tò mò, cũng theo phái này thì Quan Phúc Tài Thọ họp thành bộ sao Tứ Quý. Thiên Tài thượng cách ở cùng cung với Thiên Cơ, Thiên Thọ thượng cách ở cùng cung với Thiên Lương.
Làng tử vi Việt Nam nói chung cũng xem Quan Phúc là tốt đẹp. Thí dụ, sách Tử Vi Thực Hành của soạn giả Dịch Lý Huyền Cơ viết Mệnh có Quan Phúc đóng là hạng người từ tâm. Mộ về tôn giáo, tín ngưỡng. Gia tăng tuổi thọ.
Hạn mà gặp được Quan, Phúc có thể cứu khổn, phò nguy, giải trừ được nhiều bệnh tật, tai họa. Nếu gặp nhiều cát tinh Quan, Phúc sẽ đem lại rực rỡ thêm công việc mà êm đẹp mọi đường. Sách Tử Vi Nghiệm Lý Toàn Thư (xuất bản 1985 ở nước ngoài) của Thiên Lương Tiên Sinh thì có bài. Những đấng đức hạnh cao dày không có gì ngăn cản nhiệm vụ so sánh Quan Phúc như những bậc chân tu vào nơi hung hiểm để đỡ đòn cho cung khỏi bị xấu.
Quan điểm này khác với truyền thống ở chỗ là nhìn nhận các cung có Quan Phúc đóng có ẩn tàng hung hiểm; nhưng vẫn giống truyền thống ở vai trò cứu khổn phò nguy tốt đẹp của Quan Phúc.
Người viết có quan điểm khác hẳn! Xin trình bày như sau:
Một số độc giả hẳn biết Quan Phúc không có mặt trong những sao nguyên thủy của khoa tử vi mà được thêm vào sau này. Nên không có gì đáng ngạc nhiên là ý nghĩa truyền thống của Quan Phúc được lấy thẳng từ các khoa mệnh lý dựa trên ngũ hành (gọi chung là các khoa ngũ tinh) đã sử dụng hai sao này trước Tử Vi. Nhưng nếu, trong khoa Tử Vi, Quan Phúc quả có vai trò cứu khổn phò nguy quan trọng nhý trong các khoa ngũ tinh thì tại sao người nghĩ ra Tử Vi lại bỏ sót chúng?
Dĩ nhiên ta có thể lập luận rằng nhân vô thập toàn nên chuyện thiếu sót đã xảy ra, nhưng lý luận này không ổn, vì Tử Vi là một cuộc cách mạng chống lại các khoa ngũ tinh. Muốn hoàn thành cuộc cách mạng này, người khởi xướng khoa Tử Vi chắc chắn phải là một bậc thầy của các khoa ngũ tinh. Cách giải thích hợp lý hõn là Quan Phúc đã bị liệt vào hàng ngũ vô số các thần sát khác mà người sáng lập khoa Tử Vi đã quyết định bỏ ra ngoài khoa học mới này.
Nhưng nếu vậy thì tại sao cách xem Quan Phúc có vẻ đúng (một thí dụ hiển nhiên là rất nhiều bậc chân tu có Phúc cư mệnh hoặc thân). Thắc mắc này theo đuổi người viết nhiều năm. May thay, trong thời gian ở Á châu người viết có cơ hội thấy nhiều lá số có thật của các phường bất lưõng du đãng.
Điểm lạ lùng là đa số (trên 50%) các lá số này có Phúc ở một trong ba cường cung Mệnh Phúc Thân; tức là khác đám đông một cách rõ ràng nhưng lại giống các bậc chân tu hoặc những người sống đời hy sinh vì nhân quần xã hội.
Các bậc chân tu và những phường bất lương du đãng giống nhau ở chỗ đời họ có những thử thách mà người thường ít gặp phải. Thử thách là những hoàn cảnh cực đoan, bắt buộc con người phải chọn một trong hai hoặc ba bốn con đường.
Theo ý nghĩa ma quân là bạn đạo của nhà Phật, thử thách là cơ hội cho người ta phát triển phật tính. Nhưng kẻ xung động, ích kỷ sẽ phản ứng lại thử thách bằng bản năng hoặc thú tính. Người viết giật mình mới hiểu ra rằng Quan Phúc không phải là hai sao cứu khổn phò nguy, mà là hai dấu hiệu, hai bảng cảnh cáo được thêm vào lá số cho người xem biết đâu là phương có nhiều khó khăn, thử thách.
Người đáp lại thử thách bằng cái nhân tu hành tất nhiên được hưởng quả phúc về sau. Kẻ đáp lại thử thách bằng cách gieo cái nhân ích kỷ tất nhiên sau này phải ãn quả đắng.
Tóm lại, phương nào có Quan Phúc, phương đó có khó khăn thử thách bắt người ta phải chọn lựa giữa thắng và thua. Người có lòng nhân từ sẽ chọn đường thua thiệt. Kẻ có tâm ích kỷ sẽ đòi thắng đời thắng người.
Họa và Phúc từ đó mà ra chứ chẳng phải vì hai ông thần Quan Phúc từ cao giáng xuống cuộc đời.
Góp ý của Dương Lương
Theo cách an của Thiên Quan và Thiên Phúc (theo hàng Can) thì hai sao này thường xuyên có sự liên hệ với Kình Đà (tam hợp, đồng cung hoặc xung chiếu Kình Đà) – ngoại trừ tuổi Mậu.
Như vậy theo bác VDTT, nhiều lá số có Quan Phúc lại thành phường bất lương du đãng hẳn có lý của nó. Nếu Quan Phúc nằm trong ba cường cung Mệnh Phúc Thân thì có đến 90% Mệnh cung lá số đó bị ảnh hưởng bởi Kình Đà. Nếu có thêm sát tinh hội họp hoặc Quan Phúc ko hội tụ đủ để cứu giải thì các lá số đó có nhiều khả năng biến thành du đãng khi Kình Đà tác hoại.
“Thiên Nguyệt Đức, Giải Thần tàng,

Cùng là Quan Phúc một làng trừ hung”

Quan Phúc ở đây có vai trò để cứu giải Kình Đà cũng như Thiên Nguyệt Đức ra sức lái đương số tránh khỏi Thiên Không. Có cứu được không cũng là tuỳ đương số và tuỳ cách cục kết hợp với các bộ sao khác.
Phú về Quan Phúc có một câu đáng lưu tâm:
“Sao Quan, Phúc cùng Khôi Tinh,

Lâm chung Thân Mệnh đề danh bảng rồng”

Tức là Quan Phúc đi với Khôi Việt dễ đỗ đạt cao, tiếng tăm.

Ở đây có lẽ Khôi Việt đã cải hoá bộ Kình Đà làm cho sức văn trong bộ này phát huy tác dụng đạt đến đỉnh cao. Như các lá số của tác giả kiếm hiệp Kim Dung và Nguyễn Du có thể hiện cách này.

Ý NGHĨA “TU HÀNH” CỦA QUAN PHÚC
Cách xem Quan Phúc sau đây hoàn toàn do tôi nghĩ ra, không theo sách vở nào cả, nhưng đã có khá nhiều chứng nghiệm, hy vọng chính là ý nghĩa đã thất truyền của hai sao này.
1. Tiên quyết: Phúc là chính, Quan là phụ. Phương của Phúc là nơi có những biến cố khiến ta phải chọn lựa, và phương của Quan thường giúp ta thấy ý nghĩa của biến cố này rõ ràng hơn. (Nếu tin cách này đúng rồi thì cũng có thể dùng cái lý của nó để chọn giờ sinh cho lá số trong một số trường hợp).
2. Sự chọn lựa ở phương có Phúc thường khá rõ ràng: Chọn một đường ta lỗ, chọn đường khác ta lợi hơn, hoặc hòa. Khuynh hướng bình thường dĩ nhiên là nên chọn đường thứ hai, nhưng muốn sống đúng theo cái lý của Quan Phúc thì phải chọn đường thứ nhất. Chọn đường thứ nhất tức là đã thực hiện ý nghĩa chân thật của sự “tu hành” (chịu lỗ lã dùm cho đời), bởi vậy mới nói phương của Quan Phúc là phương của tu hành.
Theo tôi mọi sự đều có nhân quả, sự lựa chọn của ta trong việc ứng với phương của Quan Phúc là nhân, rồi một lúc sẽ biến thành quả. Hai người có lá số y hệt có thể lựa chọn khác nhau, đây là một lý do khiến ta không thể dùng lá số Tử Vi khẳng quyết đời sống của người ta phải thế này thế nọ, mà phải xem họ ứng xử như thế nào nữa.
Phải có thử thách mới có đòi hỏi tu hành, nên phương của Phúc là phương của thử thách. Nhìn một lá số, thấy Phúc ở đâu, xác quyết ngay phương thử thách (theo ý nghĩa “tu hành”) ở đó.
Ý nghĩa tu hành của Quan Phúc rất giản dị. Khi có sự chọn lựa cứ chọn đường lỗ cho mình lợi cho người hoặc cho cuộc đời.
Người Việt ta có câu “tu là cội PHÚC, tình là giây oan”, có lẽ cái lý bao hàm trong câu này là nguồn gốc của tên sao Thiên Phúc.
Phúc ở Tử tức phải “Tu hành” thế nào?
Tử tức tại sao là cung đào hoa thì tôi sẽ không giải thích, vì nó là kết quả của một cách xem hơi lạ, thường gọi là phép hoán cung; có thể nói đây là một bí quyết to của làng tử vi Đài Loan đấy, nhưng nó không phải là bi quyết riêng của họ, vì 25 năm trước tôi đã gặp một ông thầy mù người Việt Nam xem theo cách này.
Thế nào là thử thách “đào hoa” vì có Phúc ở Tử Tức? Thí dụ thực tế là một người đàn ông đã có vợ con nhưng rất hợp tính với ta, và ta thấy người ấy rất “đàn ông”, “khí phách”, “hấp dẫn” … Người ấy một ngày theo đuổi, rõ ràng muốn ngoại tình với ta. Ta biết người ấy không có ý muốn bỏ vợ lấy ta, ta cũng biết ngoại tình là sai, nhưng ta biết rằng nếu từ chối sự tiến tới của người ấy thì từ đó trở đi liên hệ hai bên sẽ sứt mẻ, và ta không bao giờ được có những giờ phút vui vẻ bên cạnh người ấy nữa. Ngược lại, nếu ta ngoại tình với người ấy thì (theo sự suy nghĩ của ta) ta có những phút giây hạnh phúc (dù ngắn ngủi) mà không hại ai, vì đằng nào thì người ấy cũng không bỏ vợ lấy ta. Vậy ta phải làm gì?
Đây chính là một thí dụ về một đòi hỏi chọn lựa có tính “đào hoa” ứng với Thiên Phúc ở tử tức.
Thông thường hơn, khi Quan Phúc không hỗ trợ nhau ở thế tam hợp thì tôi cho rằng Phúc chỉ có ý nghĩa “tu hành” ở cung nó đóng. Thiên Phúc ở tử tức có nghĩa con cái sẽ là thử thách lớn của đời ta. Theo nghĩa thông thường thì phải luận là cung tử tức không tốt, nhưng theo nghĩa nhà Phật thì tử tức là cơ hội tu hành của ta. Như vừa sinh ra con đã tàn tật, ta có thương nó như những đứa con khác không? Như con gái ta mười mấy tuổi bỏ nhà theo trai, ta sẽ ứng xử thế nào? Có mở rộng vòng tay nhận nó trở về không? Có thương yêu bảo bọc nó như cũ không …
Hỏi
Trong ví dụ trên về ngoại tình hay không ngoại tình của bác thì cách nào là cách tu? Theo Tđ thấy lựa cách nào cũng bị thua cả.
VDTT trả lời
Cách nào ít gây hại cho cuộc đời hơn hết. Trong trường hợp trên phải dứt mà đi.
Thường thường dùng các quy luật mà nhà Phật đã xử dụng thì ít khi sai.
Thí dụ 1: Chồng ta ngoại tình. Ta có nhiều đường để chọn, trong đó gồm có:
Tạt át xít cho chồng ta sống dở chết dở ở một đầu cực đoan và hoàn toàn tha thứ cho chồng ta ở một đầu cực đoan khác.
“Hơi hơi” tha thứ (tức là cũng mắng chửi lung tung rồi đuổi ra khỏi phòng mấy ngày hoặc mấy tháng) có lẽ là đáp án vừa tu hành vừa thực tế.
Thí dụ 2: Ta có cơ hội ngoại tình “Một lần rồi thôi”, hai bên sẽ chẳng bao giờ gặp lại nhau, kín miệng thì muôn đời chẳng ai biết, chồng ta dù ba đầu sáu tay cũng chẳng thể nào khám phá ra.
Giải pháp phù hợp: Đừng ngoại tình (vì có trời biết đất biết, vả lại “muốn người ta không biết thì mình đừng có làm”).

Thiên Phúc cư Nô ý nghĩa gì?
Thiên Phúc cư nô có nghĩa trong đời sẽ có tối thiểu một lần nào đó ta phải có một chọn lựa quan trọng ảnh hưởng đến một người quen biết của ta, người ấy có thể là tình nhân, có thể là bạn đồng sự, có thể là nhân viên, có thể là xếp của ta. Đây sẽ là lúc trời đất thử thách trình độ tu hành của ta ứng với Phúc ở nô. Nhắc lại, chịu lỗ lã mới là tu hành, không chịu lỗ lã (bất cứ vì lý do gì) đều là đi ngược lại đòi hỏi tu hành của Quan Phúc.
Nhưng Phúc ở nô không có nghĩa là không nên lập gia đình, có khi phải lập gia đình (với sư tử Hà Đông hoặc kẻ vũ phu) mới đúng là tu hành đấy chứ! Tóm lại phải tùy hoàn cảnh đặc thù mà luận xét
Quan Phúc ở cung Tật
Tật xung chiếu phụ mẫu nên đầu tiên phải tự xét xem liên hệ với phụ mẫu ra sao. Nếu không có vấn đề gì cả thì chú trọng vấn đề sức khỏe và tâm lý của bản thân mình.
Khi lớn tuổi coi chừng nhiều tật bệnh hơn người thường (hoặc phát triển tâm lý bất bình thường), nên đừng phí phạm sức khỏe khi còn trẻ.
Thiên Phúc cư Phúc cung, ý nghĩ tu hành ra sao ? – Trích dẫn Van Helsing
Cuộc đời sẽ bầy ra cho ta những “thử thách” khi thì lên voi, hưởng vinh hoa phú quý tiền tài, lúc thì xuống chó, bầm dập nát tan. “Tu hành” của Thiên Phúc nghĩa là sao ? Khi ta đang trên đỉnh cao của vinh hoa phú quý, ta có tham đắm nó không, có cho nó là thực tại muôn đời hay không, có cho nó là do tài năng của ta tạo nên hay không, ta có tiếp tục lao vào con đường mưu tìm lợi ích cho riêng bản thân, tiếp tục tích luỹ của cài tiền bạc để duy trì cái sự sung sướng đó cho bản thân và gia đình ta hay không. Hay khi đem của cải tiền bạc ra bố thí có thực sự là muốn chia sẻ, bố thí với những người khổ sở hơn ta hay không, có thực lòng hay không hay chỉ là tích luỹ cho cái danh tiếng của ta.
Và khi rơi xuống lưng chó ta có hằn học, oán thù cuộc đời là bạc bẽo với ta không, có tìm cách trả thù đời không. Và nếu có nhận ra tất cả chỉ là hư ảo, thì có thật sự “sống” với cái hiểu biết đó hay không, hay chỉ là nói “cuộc đời là hư ảo” ở chót lưỡi đầu môi.
Thiên Phúc cư Phúc cung ý nghĩ tu hành là cuộc đời sẽ bầy ra cho ta thật nhiều “thử thách” : Vinh hoa phú quý = trợ duyên ; bầm dập, tan nát = nghịch duyên. Nếu thực sự nhận ra dù trợ duyên hay nghịch duyên cũng đều là hư vọng thì sẽ hưởng được cái PHÚC của trời.
Phúc cư phúc thì phải giữ mồm giữ miệng, kẻo dễ bị vạ miệng
Có hậu quả gì nếu không chịu “tu”?
Theo tôi đặc điểm của Quan Phúc là kết quả hoặc hậu quả có tính “quả báo nhãn tiền” (xem thêm phần cuối). Nhưng hậu quả thế nào khó biết vì có thể hiện ra ở nơi khác. Chẳng hạn ngoại tình (không thỏa điều kiện “tu hành” của Quan Phúc) thì rất có thể chồng ta vẫn không bỏ ta, nhưng con cái không nghe lời ta nữa mặc dù chúng không hề biết mẹ chúng ngoại tình. Chẳng hạn, cũng là ta ngoại tình khi hoàn cảnh cho phép (không “tu” theo Quan Phúc), sau đó ta sạt nghiệp trong một hoàn cảnh khó giải thích.
Cần phân biệt Quan Phúc với tác dụng tổng quát hơn của việc tu hành. Người sống theo Quan Phúc không phải là tu hành toàn diện mà là hành xử đúng theo đòi hỏi “tu hành” trong những sự việc liên hệ đến Quan Phúc mà thôi.
Có thể nhìn Quan Phúc là đòi hỏi tu hành có tính “quả báo nhãn tiền”. Nếu không “tu” theo Quan Phúc hậu quả xảy ra ngay trong đời này không phải đợi đến kiếp sau.
Như ta có Phúc trong Phu thê. Ta có thể bất hiếu, ức hiếp anh chị em trong nhà mà không thấy hậu quả gì cả (trong kiếp này thôi, và giả sử lá số tốt), nhưng ta không nhường nhịn vợ hoặc chồng ta thì có hậu quả ngay trong đời này.
Trích dẫn bài viết của KK Minh Tâm
Quan Phúc ở các cung:
Mệnh: là người thích làm phúc, bố thí cúng dường, trọng nghĩa khinh tài. Dù gặp Sát Tinh cũng vẫn cứ tốt! Gặp Không Kiếp cũng không thể phá hại được. Người có căn tu trong nhiều đời kiếp, mọi việc xấu tốt sắp tới có giác quan thứ 6 linh cảm biết trước. Hoặc ở Mệnh, nếu đương số chí thành mở miệng kêu trời cứu thì sẽ có trời CHE, nếu kêu đất cứu thì sẽ có đất CHỠ, những người này cầu nguyện sẽ có thần linh đến chứng dám, cứu giúp. Nếu chí nguyện tu hành, thì sẽ có Long Thần Hộ Pháp đến che chỡ đỡ đần
Phụ Mẫu: nếu họ khá giả thì họ sẽ lo cho cha mẹ, nếu họ nghèo khổ thì được cha mẹ lo, và luôn được hưởng phúc lộc do cha mẹ để lại bằng Âm Đức hay Dương Đức.
Phúc: Có Duyên với Tổ Nghiệp, hoặc trong dòng họ đời trước có tu bồi nhân lành lớn, hoặc có người tu hành chuyển nghiệp cho dòng họ… Hoặc dù mồ mã hay trong dòng họ có gặp xấu cũng gặp chân sư cứu giúp giải trừ hay chuyển đối…
Điền: thì có người để gia tài lại cho giống như Quang Quý. Đồng thời có thể đứng ra thành lập những cơ quan từ thiện, tuỳ theo nhiều ít, tuy theo cùng điền tốt xấu. Của cải vật chất họ có thể cho người không luyến tiếc. Ai xin nếu họ có thể cho thì cho ngay, bất kể vật đó quý giá đến đâu. (Đây là loại người Thí Vô Uý. Tại sao lại gọi là thua lỗ?).
Quan: Nếu số tốt liên quan đến tu hành, hoặc có thể làm trong bang Hộ Trì Tam Bảo hoặc đi tu, hoặc làm việc trong các cơ quan từ thiện, nhân sinh…
Nô: có Duyên chơi được với bạn bè tốt hoặc các bạn đồng tu, hoặc các tiên nhân (không phải mấy ông tiên đánh cờ hay nhậu nhẹt đâu nhé), hoặc được cơ hội học hỏi các bậc chân tu đắc đạo…
Di: Ra đường gặp quý nhân giúp đỡ, dễ gặp cơ may đến những nơi an lành, thường gặp thuận lợi tốt đẹp… nói chung ra đường dễ gặp thiên thời địa lợi nhân hòa.
Tật: gặp nạn thường có quý nhân hay thần linh che chỡ. Dĩ nhiên, ở cung Tật thì không bằng cung Mệnh, vì lỡ Mệnh xấu hay Vận xấu có thể chết yểu như thường.
Tài: Có thể cho tiền của hoặc đôi khi ngay cả gia tài sự nghiệp để làm từ thiện. Những người dám bố thí những mãnh đất công viên, thư viện… phải có Quan Phúc trong Mệnh Thân và Tài Điền hoặc xung hoặc giáp hợp. Đây là loại người Thí Vô Uý. (Thiết tưởng người có tiền cho như vậy sao gọi là thua lỗ về tài được).
Tử Tức: Nếu cung Tử Tức xấu xa, có Quan Phúc thì nuôi con nuôi sẽ có con (đây gọi là làm phúc để được phúc), hoặc chẳng cần phải xin con nuôi, chỉ cần chí thành cầu đảo như ăn chay nằm đất hay tụng Kinh trì Chú… thì nhất định sẽ có con (vì người có Nhân Duyên từ những đời trước sẽ đầu thai đến làm con). Nếu cung Tử đẹp thì con là thần nhân giáng thế. Khác hơn Ân Quang Thiên Quý vì đối với Quang Quý nếu cung Tử xấu xa, thì cho dù là con nuôi hay con ruột vẫn trở thành phá gia chi tử như thường.
Phu Thê: Vợ chồng là người có lòng từ thiện, chí ít đó là người chồng hay vợ đã có Duyên Lành từ tiền kiếp. (Nếu Quang Quý ở cung Phu Thê là Duyên Nợ tiền kiếp, nếu gặp Sát Tinh thì đó là Nghiệp Quả phải trả, muốn bỏ cũng bỏ không được. Sống trong đau khổ). Nếu cung Phu Thê có Quan Phúc thủ, thì dù ở đó có Đào Hoa ngộ Không Kiếp, Hình vẫn thường an lành không đổ vỡ và không đau khổ (dù gặp khó khăn cũng có quý nhân giúp đỡ hay giải bày cho). Hoặc vận đến gặp cách đó cũng chẳng sợ. Thế mới biết uy lực cứu giải của Quan Phúc lớn mạnh đến mức nào.
Huynh Đệ: nếu họ khá hơn anh chị em thì họ sẽ lo cho Huynh Đệ, nếu họ nghèo khổ thì sẽ được anh chị em giúp đỡ. Và được giúp đỡ tận tình vô điều kiện.
Ý vô tận ngôn, mong quý vị tự nghiền ngẫm và triển khai, hiểu ý thì mong hãy quên lời, chớ nên chấp chặt vào Văn Tự, mặt chữ.
Bài viết hay. Cám ơn bạn đã sưu tầm :)

Phần mình tham gia là những gì từ thực tiễn với 02 lá số mình đã luận giải ở các trang viết đã qua.
BÀI VIẾT HAY, CHÚNG TA CÙNG NGHIỆM LÝ VỚI THỰC TIỄN TRÊN LÁ SỐ.
* * Nhân tiện : https://www.facebook.com/bctrochoicuacalon/
Trích: Người đăng: Lê Minh Lộc · 16 giờ ·
"Chào cả nhà em viết topic này để thảo luận sự khác biệt và các tính chất khác của các sao Thiên phúc, thiên quý, phúc đức, thiên quan.
Ngoài tính đạo đức và giải họa ban phúc ai biết thêm xin chỉ giáo để mọi người biết thêm 😊"

* Mình trả lời, có sự xác nhận của chủ nhân của lá số.
hoi-tu-vi/hoi-ve-cach-tinh-dai-han-tieu ... T8sr6fhZ2o
TỬ VI Trò Chơi Của Cá Lớn. THIÊN QUAN, THIÊN PHÚC (ĐỒNG CUNG) NGHIỆM LÝ THỰC TIỄN
Hình ảnh
Hình ảnh
* THÊM VIỆC THĂM KHÁM CHỮA BỆNH QUA LÁ SỐ( QUAN, PHÚC)
Hình ảnh
Đầu trang

Môc huynh
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 3086
Tham gia: 08:46, 11/11/12

TL: Hỏi về cách tính Đại hạn, tiểu hạn một lá số.

Gửi bài gửi bởi Môc huynh »

Môc huynh đã viết: 17:22, 27/10/19
lieutrai đã viết: 15:02, 24/10/19
Môc huynh đã viết: 14:51, 24/10/19

Bạn giải thích rõ ràng đoạn viết của chính bạn:
"đơn sơ lắm, chưa thể đi đến mức huyền vi của Đạo học được."

TỬ VI ĐƯỢC HÌNH THÀNH TỪ QUY LUẬT CỦA TẠO HÓA VŨ TRỤ VÀ KHÔNG THEO BẤT CỨ ĐẠO HỌC NÀO VÀ NÓ ĐƯỢC MINH ĐỊNH RÕ RÀNG...

* TƯƠNG ỨNG VỚI THÁI CỰC TRÊN LÁ SỐ LÀ SAO THÁI DƯƠNG(MẶT TRỜI)
DO VẬY DÙNG TỪ HUYỀN VI VỚI TỬ VI CHỈ LÀ THỨ HÃO HUYỀN( MƠ HỒ).
Hình ảnh

TĂNG ĐẠO HAY ĐẠO HỌC MƠ HỒ THÌ ĐỀU BỊ LOẠI RA KHỎI GỐC RỄ TỬ VI.
Hình ảnh
Đồ hình hay quá, nhìn thế này thì hiểu ra luôn tại sao thái Âm thái Dương lại vận hành như vậy👍👍.
Còn về việc luận thái cực, chân như thành mặt trời thì cháu thấy không hợp lý thôi. Mặt trời chỉ là thái Dương, không phải là thái cực, có chăng là quang ảnh của thái cực. Mà nói về quang ảnh của thái cực, đâu chả có cớ gì phải là vầng thái Dương.
Việc tăng đạo bị xếp xó là hợp lý lắm😅😅. Đã thoát khỏi cái khám cung chật hẹp của tử vi rồi mà còn được nó coi trọng lên xếp đầu, thì tự người vô danh tăng kia phải xem lại mình rồi 😅😅.
Nhân tiện, theo cháu xét tăng trong tử vi thì phải xét đến thiên diêu, lộc tồn, ân quang, thiên quý, tài thọ... chứ xét thiên quan làm gì.

*Mình xin lỗi bỏ xót chưa trả lời : XÉT THIÊN QUAN LÀM GÌ?
bạn viết:
"xét tăng trong tử vi thì phải xét đến thiên diêu, lộc tồn, ân quang, thiên quý, tài thọ... chứ xét thiên quan làm gì."

* Trước hết mình trả lời bạn: Tăng đạo (là người đã đi tu) không còn là con người như chúng ta có đủ 12 cung số, để có tam hợp, chính chiếu, nhị hợp... nên xem xét là vô ích ( người nào xem lá số...chứng tỏ còn kém hiểu biết), Bản thân các thầy tu là con người không toàn vẹn, có Âm thì mất Dương (Ni sư) có Dương thì mất Âm (Thầy tu) đầu không tóc, thân thể, tâm trí theo Niết bàn( khói hương)...., lại đi cúng sao giải hạn ...chỉ đi dậy cho kẻ khờ khạo hơn thầy tu mà thôi.

* QUAN - PHÚC
Trích dẫn:
Phục Mệnh Tướng Quân đã viết: ↑18:07, 01/07/13
Trích dẫn bài viết của Bác VDTT
BÀN VỀ HAI SAO QUAN PHÚC
Loạt bài Tử Vi và thế cuộc xiển dương một quan điểm về Quan Phúc không mấy quen thuộc với độc giả. Quan điểm này đã được áp dụng trong các bài viết về cựu đệ nhất phu nhân kiêm đương kim thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Hillary Clinton, tiền tổng thống Iraq Saddam Hussein, công nương Diana, đương kim thống đốc California Arnold Schwarzenneger, và lần này với bà hoàng nội trợ Martha Stewart.
Thiết tưởng đã đến lúc cần giải thích thêm cho rõ. Quan Phúc là tên tắt của Thiên Quan và Thiên Phúc. Hai sao này được an theo thiên can như sau: Thiên Quan can Giáp ở cung Mùi, Ất cung Thìn, Bính cung Tỵ, Đinh cung Dần, Mậu cung Mão, Kỷ cung Dậu, Canh cung Hợi, Tân cung Dậu, Nhâm cung Tuất, Quý cung Ngọ. Thiên Quý thì Giáp ở cung Dậu, Ất cung Thân, Bính cung Tý, Đinh cung Hợi, Mậu cung Mão, Kỷ cung Dần, Canh cung Ngọ, Tân cung Tỵ, Nhâm cung Ngọ, Quý cung Tỵ.
Cách an Thiên Quan của khoa Tử Vi tự nó đã là một vấn đề vì khác với các khoa mệnh lý khác ở 4 can Mậu Kỷ Tân Nhâm; nhưng trong giới hạn của phần phụ lục này chỉ xin bàn về ý nghĩa. Theo cách xem Tử Vi truyền thống thì Quan Phúc là hai sao quý nhân, ở cung nào giáng phúc cho cung đó.
Một chi của Trung Châu phái ở Hồng Kông còn phân biệt rõ ràng là Thiên Quan là quý nhân tinh ứng với sự nghiệp, thượng cách là ở cùng cung với quan tinh Thái Dương; Thiên Phúc là quý nhân tinh ứng với phúc phận, thượng cách là ở cùng cung với phúc tinh Thiên Đồng.
Riêng với các bạn tò mò, cũng theo phái này thì Quan Phúc Tài Thọ họp thành bộ sao Tứ Quý. Thiên Tài thượng cách ở cùng cung với Thiên Cơ, Thiên Thọ thượng cách ở cùng cung với Thiên Lương.
Làng tử vi Việt Nam nói chung cũng xem Quan Phúc là tốt đẹp. Thí dụ, sách Tử Vi Thực Hành của soạn giả Dịch Lý Huyền Cơ viết Mệnh có Quan Phúc đóng là hạng người từ tâm. Mộ về tôn giáo, tín ngưỡng. Gia tăng tuổi thọ.
Hạn mà gặp được Quan, Phúc có thể cứu khổn, phò nguy, giải trừ được nhiều bệnh tật, tai họa. Nếu gặp nhiều cát tinh Quan, Phúc sẽ đem lại rực rỡ thêm công việc mà êm đẹp mọi đường. Sách Tử Vi Nghiệm Lý Toàn Thư (xuất bản 1985 ở nước ngoài) của Thiên Lương Tiên Sinh thì có bài. Những đấng đức hạnh cao dày không có gì ngăn cản nhiệm vụ so sánh Quan Phúc như những bậc chân tu vào nơi hung hiểm để đỡ đòn cho cung khỏi bị xấu.
Quan điểm này khác với truyền thống ở chỗ là nhìn nhận các cung có Quan Phúc đóng có ẩn tàng hung hiểm; nhưng vẫn giống truyền thống ở vai trò cứu khổn phò nguy tốt đẹp của Quan Phúc.
Người viết có quan điểm khác hẳn! Xin trình bày như sau:
Một số độc giả hẳn biết Quan Phúc không có mặt trong những sao nguyên thủy của khoa tử vi mà được thêm vào sau này. Nên không có gì đáng ngạc nhiên là ý nghĩa truyền thống của Quan Phúc được lấy thẳng từ các khoa mệnh lý dựa trên ngũ hành (gọi chung là các khoa ngũ tinh) đã sử dụng hai sao này trước Tử Vi. Nhưng nếu, trong khoa Tử Vi, Quan Phúc quả có vai trò cứu khổn phò nguy quan trọng nhý trong các khoa ngũ tinh thì tại sao người nghĩ ra Tử Vi lại bỏ sót chúng?
Dĩ nhiên ta có thể lập luận rằng nhân vô thập toàn nên chuyện thiếu sót đã xảy ra, nhưng lý luận này không ổn, vì Tử Vi là một cuộc cách mạng chống lại các khoa ngũ tinh. Muốn hoàn thành cuộc cách mạng này, người khởi xướng khoa Tử Vi chắc chắn phải là một bậc thầy của các khoa ngũ tinh. Cách giải thích hợp lý hõn là Quan Phúc đã bị liệt vào hàng ngũ vô số các thần sát khác mà người sáng lập khoa Tử Vi đã quyết định bỏ ra ngoài khoa học mới này.
Nhưng nếu vậy thì tại sao cách xem Quan Phúc có vẻ đúng (một thí dụ hiển nhiên là rất nhiều bậc chân tu có Phúc cư mệnh hoặc thân). Thắc mắc này theo đuổi người viết nhiều năm. May thay, trong thời gian ở Á châu người viết có cơ hội thấy nhiều lá số có thật của các phường bất lưõng du đãng.
Điểm lạ lùng là đa số (trên 50%) các lá số này có Phúc ở một trong ba cường cung Mệnh Phúc Thân; tức là khác đám đông một cách rõ ràng nhưng lại giống các bậc chân tu hoặc những người sống đời hy sinh vì nhân quần xã hội.
Các bậc chân tu và những phường bất lương du đãng giống nhau ở chỗ đời họ có những thử thách mà người thường ít gặp phải. Thử thách là những hoàn cảnh cực đoan, bắt buộc con người phải chọn một trong hai hoặc ba bốn con đường.
Theo ý nghĩa ma quân là bạn đạo của nhà Phật, thử thách là cơ hội cho người ta phát triển phật tính. Nhưng kẻ xung động, ích kỷ sẽ phản ứng lại thử thách bằng bản năng hoặc thú tính. Người viết giật mình mới hiểu ra rằng Quan Phúc không phải là hai sao cứu khổn phò nguy, mà là hai dấu hiệu, hai bảng cảnh cáo được thêm vào lá số cho người xem biết đâu là phương có nhiều khó khăn, thử thách.
Người đáp lại thử thách bằng cái nhân tu hành tất nhiên được hưởng quả phúc về sau. Kẻ đáp lại thử thách bằng cách gieo cái nhân ích kỷ tất nhiên sau này phải ãn quả đắng.
Tóm lại, phương nào có Quan Phúc, phương đó có khó khăn thử thách bắt người ta phải chọn lựa giữa thắng và thua. Người có lòng nhân từ sẽ chọn đường thua thiệt. Kẻ có tâm ích kỷ sẽ đòi thắng đời thắng người.
Họa và Phúc từ đó mà ra chứ chẳng phải vì hai ông thần Quan Phúc từ cao giáng xuống cuộc đời.
Góp ý của Dương Lương
Theo cách an của Thiên Quan và Thiên Phúc (theo hàng Can) thì hai sao này thường xuyên có sự liên hệ với Kình Đà (tam hợp, đồng cung hoặc xung chiếu Kình Đà) – ngoại trừ tuổi Mậu.
Như vậy theo bác VDTT, nhiều lá số có Quan Phúc lại thành phường bất lương du đãng hẳn có lý của nó. Nếu Quan Phúc nằm trong ba cường cung Mệnh Phúc Thân thì có đến 90% Mệnh cung lá số đó bị ảnh hưởng bởi Kình Đà. Nếu có thêm sát tinh hội họp hoặc Quan Phúc ko hội tụ đủ để cứu giải thì các lá số đó có nhiều khả năng biến thành du đãng khi Kình Đà tác hoại.
“Thiên Nguyệt Đức, Giải Thần tàng,

Cùng là Quan Phúc một làng trừ hung”

Quan Phúc ở đây có vai trò để cứu giải Kình Đà cũng như Thiên Nguyệt Đức ra sức lái đương số tránh khỏi Thiên Không. Có cứu được không cũng là tuỳ đương số và tuỳ cách cục kết hợp với các bộ sao khác.
Phú về Quan Phúc có một câu đáng lưu tâm:
“Sao Quan, Phúc cùng Khôi Tinh,

Lâm chung Thân Mệnh đề danh bảng rồng”

Tức là Quan Phúc đi với Khôi Việt dễ đỗ đạt cao, tiếng tăm.

Ở đây có lẽ Khôi Việt đã cải hoá bộ Kình Đà làm cho sức văn trong bộ này phát huy tác dụng đạt đến đỉnh cao. Như các lá số của tác giả kiếm hiệp Kim Dung và Nguyễn Du có thể hiện cách này.

Ý NGHĨA “TU HÀNH” CỦA QUAN PHÚC
Cách xem Quan Phúc sau đây hoàn toàn do tôi nghĩ ra, không theo sách vở nào cả, nhưng đã có khá nhiều chứng nghiệm, hy vọng chính là ý nghĩa đã thất truyền của hai sao này.
1. Tiên quyết: Phúc là chính, Quan là phụ. Phương của Phúc là nơi có những biến cố khiến ta phải chọn lựa, và phương của Quan thường giúp ta thấy ý nghĩa của biến cố này rõ ràng hơn. (Nếu tin cách này đúng rồi thì cũng có thể dùng cái lý của nó để chọn giờ sinh cho lá số trong một số trường hợp).
2. Sự chọn lựa ở phương có Phúc thường khá rõ ràng: Chọn một đường ta lỗ, chọn đường khác ta lợi hơn, hoặc hòa. Khuynh hướng bình thường dĩ nhiên là nên chọn đường thứ hai, nhưng muốn sống đúng theo cái lý của Quan Phúc thì phải chọn đường thứ nhất. Chọn đường thứ nhất tức là đã thực hiện ý nghĩa chân thật của sự “tu hành” (chịu lỗ lã dùm cho đời), bởi vậy mới nói phương của Quan Phúc là phương của tu hành.
Theo tôi mọi sự đều có nhân quả, sự lựa chọn của ta trong việc ứng với phương của Quan Phúc là nhân, rồi một lúc sẽ biến thành quả. Hai người có lá số y hệt có thể lựa chọn khác nhau, đây là một lý do khiến ta không thể dùng lá số Tử Vi khẳng quyết đời sống của người ta phải thế này thế nọ, mà phải xem họ ứng xử như thế nào nữa.
Phải có thử thách mới có đòi hỏi tu hành, nên phương của Phúc là phương của thử thách. Nhìn một lá số, thấy Phúc ở đâu, xác quyết ngay phương thử thách (theo ý nghĩa “tu hành”) ở đó.
Ý nghĩa tu hành của Quan Phúc rất giản dị. Khi có sự chọn lựa cứ chọn đường lỗ cho mình lợi cho người hoặc cho cuộc đời.
Người Việt ta có câu “tu là cội PHÚC, tình là giây oan”, có lẽ cái lý bao hàm trong câu này là nguồn gốc của tên sao Thiên Phúc.
Phúc ở Tử tức phải “Tu hành” thế nào?
Tử tức tại sao là cung đào hoa thì tôi sẽ không giải thích, vì nó là kết quả của một cách xem hơi lạ, thường gọi là phép hoán cung; có thể nói đây là một bí quyết to của làng tử vi Đài Loan đấy, nhưng nó không phải là bi quyết riêng của họ, vì 25 năm trước tôi đã gặp một ông thầy mù người Việt Nam xem theo cách này.
Thế nào là thử thách “đào hoa” vì có Phúc ở Tử Tức? Thí dụ thực tế là một người đàn ông đã có vợ con nhưng rất hợp tính với ta, và ta thấy người ấy rất “đàn ông”, “khí phách”, “hấp dẫn” … Người ấy một ngày theo đuổi, rõ ràng muốn ngoại tình với ta. Ta biết người ấy không có ý muốn bỏ vợ lấy ta, ta cũng biết ngoại tình là sai, nhưng ta biết rằng nếu từ chối sự tiến tới của người ấy thì từ đó trở đi liên hệ hai bên sẽ sứt mẻ, và ta không bao giờ được có những giờ phút vui vẻ bên cạnh người ấy nữa. Ngược lại, nếu ta ngoại tình với người ấy thì (theo sự suy nghĩ của ta) ta có những phút giây hạnh phúc (dù ngắn ngủi) mà không hại ai, vì đằng nào thì người ấy cũng không bỏ vợ lấy ta. Vậy ta phải làm gì?
Đây chính là một thí dụ về một đòi hỏi chọn lựa có tính “đào hoa” ứng với Thiên Phúc ở tử tức.
Thông thường hơn, khi Quan Phúc không hỗ trợ nhau ở thế tam hợp thì tôi cho rằng Phúc chỉ có ý nghĩa “tu hành” ở cung nó đóng. Thiên Phúc ở tử tức có nghĩa con cái sẽ là thử thách lớn của đời ta. Theo nghĩa thông thường thì phải luận là cung tử tức không tốt, nhưng theo nghĩa nhà Phật thì tử tức là cơ hội tu hành của ta. Như vừa sinh ra con đã tàn tật, ta có thương nó như những đứa con khác không? Như con gái ta mười mấy tuổi bỏ nhà theo trai, ta sẽ ứng xử thế nào? Có mở rộng vòng tay nhận nó trở về không? Có thương yêu bảo bọc nó như cũ không …
Hỏi
Trong ví dụ trên về ngoại tình hay không ngoại tình của bác thì cách nào là cách tu? Theo Tđ thấy lựa cách nào cũng bị thua cả.
VDTT trả lời
Cách nào ít gây hại cho cuộc đời hơn hết. Trong trường hợp trên phải dứt mà đi.
Thường thường dùng các quy luật mà nhà Phật đã xử dụng thì ít khi sai.
Thí dụ 1: Chồng ta ngoại tình. Ta có nhiều đường để chọn, trong đó gồm có:
Tạt át xít cho chồng ta sống dở chết dở ở một đầu cực đoan và hoàn toàn tha thứ cho chồng ta ở một đầu cực đoan khác.
“Hơi hơi” tha thứ (tức là cũng mắng chửi lung tung rồi đuổi ra khỏi phòng mấy ngày hoặc mấy tháng) có lẽ là đáp án vừa tu hành vừa thực tế.
Thí dụ 2: Ta có cơ hội ngoại tình “Một lần rồi thôi”, hai bên sẽ chẳng bao giờ gặp lại nhau, kín miệng thì muôn đời chẳng ai biết, chồng ta dù ba đầu sáu tay cũng chẳng thể nào khám phá ra.
Giải pháp phù hợp: Đừng ngoại tình (vì có trời biết đất biết, vả lại “muốn người ta không biết thì mình đừng có làm”).

Thiên Phúc cư Nô ý nghĩa gì?
Thiên Phúc cư nô có nghĩa trong đời sẽ có tối thiểu một lần nào đó ta phải có một chọn lựa quan trọng ảnh hưởng đến một người quen biết của ta, người ấy có thể là tình nhân, có thể là bạn đồng sự, có thể là nhân viên, có thể là xếp của ta. Đây sẽ là lúc trời đất thử thách trình độ tu hành của ta ứng với Phúc ở nô. Nhắc lại, chịu lỗ lã mới là tu hành, không chịu lỗ lã (bất cứ vì lý do gì) đều là đi ngược lại đòi hỏi tu hành của Quan Phúc.
Nhưng Phúc ở nô không có nghĩa là không nên lập gia đình, có khi phải lập gia đình (với sư tử Hà Đông hoặc kẻ vũ phu) mới đúng là tu hành đấy chứ! Tóm lại phải tùy hoàn cảnh đặc thù mà luận xét
Quan Phúc ở cung Tật
Tật xung chiếu phụ mẫu nên đầu tiên phải tự xét xem liên hệ với phụ mẫu ra sao. Nếu không có vấn đề gì cả thì chú trọng vấn đề sức khỏe và tâm lý của bản thân mình.
Khi lớn tuổi coi chừng nhiều tật bệnh hơn người thường (hoặc phát triển tâm lý bất bình thường), nên đừng phí phạm sức khỏe khi còn trẻ.
Thiên Phúc cư Phúc cung, ý nghĩ tu hành ra sao ? – Trích dẫn Van Helsing
Cuộc đời sẽ bầy ra cho ta những “thử thách” khi thì lên voi, hưởng vinh hoa phú quý tiền tài, lúc thì xuống chó, bầm dập nát tan. “Tu hành” của Thiên Phúc nghĩa là sao ? Khi ta đang trên đỉnh cao của vinh hoa phú quý, ta có tham đắm nó không, có cho nó là thực tại muôn đời hay không, có cho nó là do tài năng của ta tạo nên hay không, ta có tiếp tục lao vào con đường mưu tìm lợi ích cho riêng bản thân, tiếp tục tích luỹ của cài tiền bạc để duy trì cái sự sung sướng đó cho bản thân và gia đình ta hay không. Hay khi đem của cải tiền bạc ra bố thí có thực sự là muốn chia sẻ, bố thí với những người khổ sở hơn ta hay không, có thực lòng hay không hay chỉ là tích luỹ cho cái danh tiếng của ta.
Và khi rơi xuống lưng chó ta có hằn học, oán thù cuộc đời là bạc bẽo với ta không, có tìm cách trả thù đời không. Và nếu có nhận ra tất cả chỉ là hư ảo, thì có thật sự “sống” với cái hiểu biết đó hay không, hay chỉ là nói “cuộc đời là hư ảo” ở chót lưỡi đầu môi.
Thiên Phúc cư Phúc cung ý nghĩ tu hành là cuộc đời sẽ bầy ra cho ta thật nhiều “thử thách” : Vinh hoa phú quý = trợ duyên ; bầm dập, tan nát = nghịch duyên. Nếu thực sự nhận ra dù trợ duyên hay nghịch duyên cũng đều là hư vọng thì sẽ hưởng được cái PHÚC của trời.
Phúc cư phúc thì phải giữ mồm giữ miệng, kẻo dễ bị vạ miệng
Có hậu quả gì nếu không chịu “tu”?
Theo tôi đặc điểm của Quan Phúc là kết quả hoặc hậu quả có tính “quả báo nhãn tiền” (xem thêm phần cuối). Nhưng hậu quả thế nào khó biết vì có thể hiện ra ở nơi khác. Chẳng hạn ngoại tình (không thỏa điều kiện “tu hành” của Quan Phúc) thì rất có thể chồng ta vẫn không bỏ ta, nhưng con cái không nghe lời ta nữa mặc dù chúng không hề biết mẹ chúng ngoại tình. Chẳng hạn, cũng là ta ngoại tình khi hoàn cảnh cho phép (không “tu” theo Quan Phúc), sau đó ta sạt nghiệp trong một hoàn cảnh khó giải thích.
Cần phân biệt Quan Phúc với tác dụng tổng quát hơn của việc tu hành. Người sống theo Quan Phúc không phải là tu hành toàn diện mà là hành xử đúng theo đòi hỏi “tu hành” trong những sự việc liên hệ đến Quan Phúc mà thôi.
Có thể nhìn Quan Phúc là đòi hỏi tu hành có tính “quả báo nhãn tiền”. Nếu không “tu” theo Quan Phúc hậu quả xảy ra ngay trong đời này không phải đợi đến kiếp sau.
Như ta có Phúc trong Phu thê. Ta có thể bất hiếu, ức hiếp anh chị em trong nhà mà không thấy hậu quả gì cả (trong kiếp này thôi, và giả sử lá số tốt), nhưng ta không nhường nhịn vợ hoặc chồng ta thì có hậu quả ngay trong đời này.
Trích dẫn bài viết của KK Minh Tâm
Quan Phúc ở các cung:
Mệnh: là người thích làm phúc, bố thí cúng dường, trọng nghĩa khinh tài. Dù gặp Sát Tinh cũng vẫn cứ tốt! Gặp Không Kiếp cũng không thể phá hại được. Người có căn tu trong nhiều đời kiếp, mọi việc xấu tốt sắp tới có giác quan thứ 6 linh cảm biết trước. Hoặc ở Mệnh, nếu đương số chí thành mở miệng kêu trời cứu thì sẽ có trời CHE, nếu kêu đất cứu thì sẽ có đất CHỠ, những người này cầu nguyện sẽ có thần linh đến chứng dám, cứu giúp. Nếu chí nguyện tu hành, thì sẽ có Long Thần Hộ Pháp đến che chỡ đỡ đần
Phụ Mẫu: nếu họ khá giả thì họ sẽ lo cho cha mẹ, nếu họ nghèo khổ thì được cha mẹ lo, và luôn được hưởng phúc lộc do cha mẹ để lại bằng Âm Đức hay Dương Đức.
Phúc: Có Duyên với Tổ Nghiệp, hoặc trong dòng họ đời trước có tu bồi nhân lành lớn, hoặc có người tu hành chuyển nghiệp cho dòng họ… Hoặc dù mồ mã hay trong dòng họ có gặp xấu cũng gặp chân sư cứu giúp giải trừ hay chuyển đối…
Điền: thì có người để gia tài lại cho giống như Quang Quý. Đồng thời có thể đứng ra thành lập những cơ quan từ thiện, tuỳ theo nhiều ít, tuy theo cùng điền tốt xấu. Của cải vật chất họ có thể cho người không luyến tiếc. Ai xin nếu họ có thể cho thì cho ngay, bất kể vật đó quý giá đến đâu. (Đây là loại người Thí Vô Uý. Tại sao lại gọi là thua lỗ?).
Quan: Nếu số tốt liên quan đến tu hành, hoặc có thể làm trong bang Hộ Trì Tam Bảo hoặc đi tu, hoặc làm việc trong các cơ quan từ thiện, nhân sinh…
Nô: có Duyên chơi được với bạn bè tốt hoặc các bạn đồng tu, hoặc các tiên nhân (không phải mấy ông tiên đánh cờ hay nhậu nhẹt đâu nhé), hoặc được cơ hội học hỏi các bậc chân tu đắc đạo…
Di: Ra đường gặp quý nhân giúp đỡ, dễ gặp cơ may đến những nơi an lành, thường gặp thuận lợi tốt đẹp… nói chung ra đường dễ gặp thiên thời địa lợi nhân hòa.
Tật: gặp nạn thường có quý nhân hay thần linh che chỡ. Dĩ nhiên, ở cung Tật thì không bằng cung Mệnh, vì lỡ Mệnh xấu hay Vận xấu có thể chết yểu như thường.
Tài: Có thể cho tiền của hoặc đôi khi ngay cả gia tài sự nghiệp để làm từ thiện. Những người dám bố thí những mãnh đất công viên, thư viện… phải có Quan Phúc trong Mệnh Thân và Tài Điền hoặc xung hoặc giáp hợp. Đây là loại người Thí Vô Uý. (Thiết tưởng người có tiền cho như vậy sao gọi là thua lỗ về tài được).
Tử Tức: Nếu cung Tử Tức xấu xa, có Quan Phúc thì nuôi con nuôi sẽ có con (đây gọi là làm phúc để được phúc), hoặc chẳng cần phải xin con nuôi, chỉ cần chí thành cầu đảo như ăn chay nằm đất hay tụng Kinh trì Chú… thì nhất định sẽ có con (vì người có Nhân Duyên từ những đời trước sẽ đầu thai đến làm con). Nếu cung Tử đẹp thì con là thần nhân giáng thế. Khác hơn Ân Quang Thiên Quý vì đối với Quang Quý nếu cung Tử xấu xa, thì cho dù là con nuôi hay con ruột vẫn trở thành phá gia chi tử như thường.
Phu Thê: Vợ chồng là người có lòng từ thiện, chí ít đó là người chồng hay vợ đã có Duyên Lành từ tiền kiếp. (Nếu Quang Quý ở cung Phu Thê là Duyên Nợ tiền kiếp, nếu gặp Sát Tinh thì đó là Nghiệp Quả phải trả, muốn bỏ cũng bỏ không được. Sống trong đau khổ). Nếu cung Phu Thê có Quan Phúc thủ, thì dù ở đó có Đào Hoa ngộ Không Kiếp, Hình vẫn thường an lành không đổ vỡ và không đau khổ (dù gặp khó khăn cũng có quý nhân giúp đỡ hay giải bày cho). Hoặc vận đến gặp cách đó cũng chẳng sợ. Thế mới biết uy lực cứu giải của Quan Phúc lớn mạnh đến mức nào.
Huynh Đệ: nếu họ khá hơn anh chị em thì họ sẽ lo cho Huynh Đệ, nếu họ nghèo khổ thì sẽ được anh chị em giúp đỡ. Và được giúp đỡ tận tình vô điều kiện.
Ý vô tận ngôn, mong quý vị tự nghiền ngẫm và triển khai, hiểu ý thì mong hãy quên lời, chớ nên chấp chặt vào Văn Tự, mặt chữ.
Bài viết hay. Cám ơn bạn đã sưu tầm :)

Phần mình tham gia là những gì từ thực tiễn với 02 lá số mình đã luận giải ở các trang viết đã qua.
BÀI VIẾT HAY, CHÚNG TA CÙNG NGHIỆM LÝ VỚI THỰC TIỄN TRÊN LÁ SỐ.
* * Nhân tiện : https://www.facebook.com/bctrochoicuacalon/
Trích: Người đăng: Lê Minh Lộc · 16 giờ ·
"Chào cả nhà em viết topic này để thảo luận sự khác biệt và các tính chất khác của các sao Thiên phúc, thiên quý, phúc đức, thiên quan.
Ngoài tính đạo đức và giải họa ban phúc ai biết thêm xin chỉ giáo để mọi người biết thêm 😊"

* Mình trả lời, có sự xác nhận của chủ nhân của lá số.
hoi-tu-vi/hoi-ve-cach-tinh-dai-han-tieu ... T8sr6fhZ2o
TỬ VI Trò Chơi Của Cá Lớn. THIÊN QUAN, THIÊN PHÚC (ĐỒNG CUNG) NGHIỆM LÝ THỰC TIỄN
Hình ảnh
Hình ảnh
* THÊM VIỆC THĂM KHÁM CHỮA BỆNH QUA LÁ SỐ( QUAN, PHÚC)
Hình ảnh
https://www.youtube.com/watch?v=sq_yH66pmnM&t=118s
Đầu trang

Môc huynh
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 3086
Tham gia: 08:46, 11/11/12

TL: Hỏi về cách tính Đại hạn, tiểu hạn một lá số.

Gửi bài gửi bởi Môc huynh »

Đầu trang

Trả lời bài viết