“Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)

Trao đổi kiến thức về tứ trụ (tử bình, bát tự)
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục trao đổi kiến thức về tứ trụ (bát tự, tử bình) dành cho thành viên chính thức. Các bài viết trao đổi cần có nội dung kiến thức hoặc cung cấp thông tin nghiệm lý. Muốn nhờ xem, luận giải lá số vui lòng đăng tại mục Xem tứ trụ.
Các bài viết và thành viên vi phạm sẽ bị xử lý.
VULONG
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1076
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: “Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Câu tô đỏ trong đoạn trích sau là sai :
"3 - Cách Lưỡng Vượng
Cách Lưỡng vượng là cách mà hai hành liền nhau có thế lực tương đương nhau, đều có từ 3 can chi trở lên, trong đó có một hành có ít nhất từ 20đv lớn hơn Tài tinh của hành này và 2 hành này không được lớn hơn nhau 5đv, cũng như không có can hay chi Quan Sát của hành này. Dụng thần thứ nhất của cách Lưỡng vượng thường là hành có điểm vượng cao nhất, trừ khi hành ngay bên trái của 2 hành này khuyết (tức không có hay chỉ có can tàng là tạp khí) thì dụng thần đầu tiên phải là hành thứ ba bên phải so với hành bị khuyết này. Khi xác định được dụng thần thứ nhất thì hỷ thần hay kỵ thần xác định hoàn toàn giống như cách Tòng theo.
(Tạm thời như vậy vì các ví dụ loại này tôi chưa gặp nhiều.)"

Xin sửa lại là :
"thì dụng thần đầu tiên phải là hành thứ hai bên phải so với hành bị khuyết này"

Thành thật xin lỗi mọi người.
Được cảm ơn bởi: songvuiskhoels
Đầu trang

VULONG
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1076
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: “Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Tôi đang có ý định kiểm tra xem có nên lấy 7 ví dụ trong phần "Binh Pháp Tử Bình về luận hành vận" làm 7 ví dụ đầu tiên trong cuốn sách này hay không thì mới phát hiện ra ví dụ số 2 và số 3 tôi chưa đăng mới lạ chứ ?
Vì vậy tôi xin đăng tiếp :

Ví dụ số 2 : Là ví dụ 50 trong cuốn Trích Thiên Tủy
(Ai muốn đọc cứ gõ lên Google chủ đề “VULONG1 - Trích Thiên Tủy” - đây là phần I, còn phần II, gõ lên Google chủ đề “VULONG1 - Trích Thiên Tủy - Phần II : Lục Thân Luận sẽ có ngay).

50 - Nhâm Thân - Bính Ngọ - ngày Canh Ngọ - Canh Thìn
Ðinh mùi/ mậu thân/ kỷ dậu/ canh tuất/ tân hợi/ nhâm tý
Trụ này bính hỏa sát tinh tuy vượng, nhâm thủy có căn gốc ở thân kim, nhật chủ được canh kim tương trợ, được chi thìn thổ tương sinh. Dụng nhâm thủy chế sát, thiên can đồng thuận; địa chi đồng thuận, nhất chế nhất hóa, thật là hữu tình. Vận kim thủy thật đẹp, quan lộ hiển hách, làm quan đến chức tổng đốc”.

Ta thấy Tứ Trụ này có một thông tin đẹp liên quan tới Nhâm trụ năm là Thực Thần và Bính trụ tháng là Sát qua câu Phú 19 - Thực thần chế Sát là anh hùng áp đảo vạn người, tức dễ được làm tướng soái trấn giữ một phương. Đúng như bài luận cho biết “quan lộ hiển hách, làm quan đến chức tổng đốc”.

(Nên nhớ rằng Thực chế Sát vừa phải thôi để nó giúp mình được thăng chức, tăng Quan còn nếu chế mạnh quá sẽ bị phản lại không những không được thăng chức khéo còn bị mất chức, vào tù...)

Ta thấy các vận mậu thân/ kỷ dậu/ canh tuất/ tân hợi” có các can là Kiêu ẤnTỷ Kiếp rõ ràng phải đẹp như bài luận trên thì chúng phải là các hỷ dụng thần nên Thân của Tứ Trụ này phải nhược. Thân nhược mà người bình (Từ Nhạc Ngô) lại luận “Dụng nhâm thủy chế sát” tức cho rằng Nhâm (Thực Thương)dụng thần, tức Thân phải vượng. Điều này trái ngược với “Binh Pháp Tử Bình” mà tôi đã luận ở trên.
Theo tôi Thân đã nhược mà vào vận Nhâm Týkỵ vận, vì Nhâm (Thực Thần)kỵ thần nhưng ở đây không phải chỉ là vận kỵ thần mà nó có thể thành vận hung thần (vận xấu nhất) đến mức nặng thì chết còn nhẹ thì mất chức vào tù. Bởi vì Nhâm (Thực Thần) đế vượng ở vận Tý chế Bính (Sát) chết hẳn (ở đây mất chức do bị sát phạt) nên không còn quyền bính nữa (nếu nhẹ, còn nặng thì chết hay vào tù).

Để kiểm tra Thân vượng hay nhược ta "Dùng Toán Học để xác định Thân vượng hay nhược" của tôi xem sao ?
Sơ đồ Tứ Trụ này như sau :
Hình ảnh
Qua sơ đồ này ta thấy Thân (Kim) có 12,897đv nhỏ hơn Quan Sát (Hỏa) có 13,39đv nên Thân nhược điều này chứng tỏ luận theo “Binh Pháp Tử Bình về luận hành vận” là đúng.

Do vậy người bình đã bình sai lại còn không biết đến sự xấu, nguy hiểm vô cùng của vận Nhâm Tý lại còn cho rằng Nhâm là dụng thần mới Khủng chứ ? Là Một trong 2 cuốn sách hay nhất về Tử Bình hiện nay còn luận như vậy đấy?
Cách giải hạn này đơn giản mà hiệu quả nhất là trước khi đến vận Nhâm Tý hãy cáo lão hồi hương là tốt nhất.

Ví dụ số 3 : Là ví dụ 51 trong cuốn Trích Thiên Tủy
"51 - Nhâm Ngọ - Bính Ngọ - Canh Thân - Mậu Dần
Ðinh mùi/ mậu thân/ kỷ dậu/ canh tuất/ tân hợi/ nhâm tý/ Quý Sửu
Mệnh này với mệnh trên, đại đồng mà tiểu dị, nhật chủ tọa lộc thân kim, nhâm thủy cũng khẩn chế sát, cớ sao danh lợi đều không, mệnh này chung thân không phát được sao? Cái khác nhau là mệnh trên nhâm thủy tọa thân kim, thực thần vượng có thể chế sát, mệnh này nhâm thủy tọa ngọ tức lâm tuyệt địa, không có lực chế sát vậy; mệnh trên thiên can thấu canh có thể trợ nhật chủ lại có thể sinh nhâm thủy, mệnh này thiên can thấu mậu thổ khắc thủy, không thể sanh thực thần. Tả hữu không tình hiệp vậy".

Ta thấy Tứ Trụ này cũng có thông tin đẹp là Nhâm trụ năm là Thực Thần và Bính trụ tháng là Sát liên quan tới câu Phú “19 - Thực thần chế Sát là anh hùng áp đảo vạn người”. Nhưng bài luận cho biết : “cớ sao danh lợi đều không, mệnh này chung thân không phát được sao?”. Nghĩa của từ “chung thân” là phần giữa cuộc đời con người khoảng 30 đến 50 năm (tức từ khoảng 25 tuổi tới 55 tuổi) là xấu. Khoảng này tương đương với các vận Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tuất và Tân Hợi đều là các vận Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp. Vậy thì các vận này phải xấu tức chúng phải là các vận kỵ thần thì dĩ nhiên Tứ Trụ này phải có Thân vượng. Vào các vận xấu (kỵ thần) thì làm sao trở thành “Anh hùng áp đảo vạn người” được.

Để kiểm tra Thân vượng hay nhược ta "Dùng Toán Học để xác định Thân vượng hay nhược" của tôi xem sao ?
Sơ đồ Tứ Trụ này như sau :
Hình ảnh

Qua sơ đồ này ta thấy Thân (Kim) có 16đv lớn hơn quan Sát có 13đv trên 1đv nên có Thân vượng. Điều này đã chứng minh “Binh Pháp Tử Bình về luận hành vận” thêm một lần nữa là đúng.
Còn các vận sau là Nhâm Tý, Quý Sửu có can là Thực Thương đều là hỷ dụng thần nên chắc đẹp nhưng tác giả không cho biết đẹp tới mức nào?

Chỉ cần 2 ví dụ 50 và 51 này đủ để kiểm tra trình độ xác định Thân vượng hay nhược của bất kỳ cao thủ Tử Bình nào.
Đầu trang

VULONG
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1076
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: “Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Các câu tô đỏ trong đoạn trích sau là sai :

"II - Dụng thần của các mệnh cục đặc biệt

Nói chung cách xác định dụng thần của các mệnh cục đặc biệt này (thường được gọi là ngoại cách hay Tòng cách hoặc Tòng theo) hoàn toàn ngược với các cách thông thường. Trong các trường hợp của ngoại cách này, dụng thần của chúng là dựa theo thế vượng của các hành này, có nghĩa theo Tòng cách thì hành vượng nhất là dụng thần, còn hành sinh ra nó và hành xì hơi nó là hỷ thần, còn hành khắc nó và bị nó khắc là kỵ thần.
Nói một cách đơn giản, dễ hiểu là nếu không may phải sống trong môi trường xã hội toàn những người là kẻ thù của mình thì tốt nhất phải dựa vào họ (Tòng theo) để sống mới có thể yên ổn nếu không tính mạng khó mà bảo toàn.

1 - Cách Tòng theo
- Trong tứ trụ có 4 hay 5 can chi cùng hành, trong đó phải có ít nhất 3 chi, nếu chỉ có 2 chi thì chúng phải ở trạng thái Lâm quan hay Đế vượng tại Lệnh tháng, muốn Tòng theo hành này thì phải không có can chi Quan Sát và
lớn hơn Tài tinh từ 20đv trở lên.
- Trong tứ trụ có từ 6 can chi cùng hành trở lên, muốn Tòng theo hành này thì phải không có can chi Quan Sát và lớn hơn Tài tinh từ 20đv trở lên.
- Cách Tòng theo Tỷ Kiếp (hành của Nhật can) các sách cổ kim thường gọi là cách Độc vượng".

Xin sửa lại là :

"II - Dụng thần của các mệnh cục đặc biệt

Nói chung cách xác định dụng thần của các mệnh cục đặc biệt này (thường được gọi là ngoại cách hay Tòng cách hoặc Tòng theo) hoàn toàn ngược với các cách thông thường. Trong các trường hợp của ngoại cách này, dụng thần của chúng là dựa theo thế vượng của các hành này, có nghĩa theo Tòng cách thì hành vượng nhất là dụng thần, còn hành sinh ra nó và hành xì hơi nó là hỷ thần, còn hành khắc nó và bị nó khắc là kỵ thần.
Nói một cách đơn giản, dễ hiểu là nếu không may phải sống trong môi trường xã hội toàn những người là kẻ thù của mình thì tốt nhất phải dựa vào họ (Tòng theo) để sống mới có thể yên ổn nếu không tính mạng khó mà bảo toàn.

1 - Cách Tòng theo
- Trong tứ trụ có 4 hay 5 can chi cùng hành, trong đó phải có ít nhất 3 chi, nếu chỉ có 2 chi thì chúng phải ở trạng thái Lâm quan hay Đế vượng tại Lệnh tháng, muốn Tòng theo hành này thì phải không có can chi Quan Sát và
lớn hơn hỷ dụng 1 từ 20đv trở lên.
- Trong tứ trụ có từ 6 can chi cùng hành trở lên, muốn Tòng theo hành này thì phải không có can chi Quan Sát và lớn hơn hỷ dụng 1 từ 20đv trở lên.
- Cách Tòng theo Tỷ Kiếp (hành của Nhật can) các sách cổ kim thường gọi là cách Độc vượng".

Vì khi đó chưa phải là cách Tòng nên Thân vượng, Quan Sát không hiện mặc dù Thân lớn hơn Tài tinh 20đv nhưng không lớn hơn Thực Thương 20đv thì vẫn không thể Tòng (theo Tỷ Kiếp), vì khi đó Thực Thương vẫn là hỷ dụng thần.

Thành thật xin lỗi mọi người.

(Vì bây giờ tôi mới tổng hợp lại các quy tắc đã được tìm ra nên không thể tránh sai sót hoặc nhầm lẫn.)
Đầu trang

VULONG
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1076
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: “Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Ví dụ số 7 : Là ví dụ 104 trong cuốn Trích Thiên Tủy
104 - Kỷ Tị - Kỷ Tị - ngày Ất Dậu - Bính Tuất
Mậu thìn/ đinh mão/ bính dần/ ất sửu/ giáp tý/ quý hợi
Mệnh này địa chi toàn khắc tiết nhật chủ, thêm nữa thiên can thấu hỏa thổ, hoàn toàn không có thủy. Mộc suy cực giả, mà tựa như thổ. Sơ vận mậu thìn, đinh mão hoạnh phát, bính vận kinh doanh đại phát, thu lợi được vạn kim; dần vận khắc thê phá tài; ất sửu vận chi toàn kim cục, hỏa thổ đều bị tiết, gia nghiệp phá tán; vận giáp tý thủy vượng, nên mất lộc (chết) (không thấy luận giáp hợp kỷ!).
Trụ này địa chi hai tị, một tuất nên hỏa vượng. Trên can lại thấu 2 kỷ 1 bính, thổ trên can được chi hỏa sanh (thiên can dẫn xuất địa chi) nên cực vượng, tác dụng mạnh (tức tài cực vượng). Trong khi đó mộc cực suy, nên buộc phải tòng thổ thành cách tòng tài. Tòng tài thì gặp vận tài, hoặc thực thương (tức vận hỏa, thổ) là vận tốt. Còn gặp vận kiếp, ấn (tức thủy, mộc) thì tán gia bại sản.
Theo tôi đoạn tôi tô mầu nâu sẫm trên là phần luận của người dịch chứ không phải của Nhâm Thiết Tiều bình giảng?
Qua câu bình :
Sơ vận mậu thìn, đinh mão hoạnh phát, bính vận kinh doanh đại phát, thu lợi được vạn kim;”
Cho ta biết vận Mậu Thìn, Đinh Mão và Bính Dần phải là vận hỷ dụng thần vì can của chúng là Hỏa và Thổ. Do vậy tứ trụ này có thể thuộc cách Lưỡng Vượng vì hành Thổ và Hỏa đều có 3 can chi chứ không thể Tòng Thổ (Tài) vì có Ất trụ ngày được lệnh mang hành Quan Sát của Thổ (Tài) nên người dịch đã sai khi kết luận “phải tòng thổ thành cách tòng tài”.
Sau đây là sơ đồ của tứ trụ này :
Hình ảnh
Qua sơ đồ trên ta thấy trong tứ trụ có thông tin Bính trụ giờ là Thương quan và 2 Kỷ ở trụ năm và tháng là Tài nên có thể ứng với câu Phú “Thực Thương sinh Tài thì phú quý tự nhiên đến”. Hành Hỏa và Thổ đều có 3 can chi và trên 20đv nên có thể thành cách Lưỡng Vượng. Nhưng với 2 hành đều vượng này thì ở đây Tài tinh và Quan Sát là hành nào ? Cho nên định nghĩa (lý thuyết) về cách Lưỡng Vượng ở trên phát biểu là không chính xác mà phải sửa lại như sau :
“3 - Cách Lưỡng Vượng
Cách Lưỡng Vượng là cách mà hai hành liền nhau có thế lực tương đương nhau, đều có từ 3 can chi trở lên, trong đó có một hành có ít nhất từ 20đv, cũng là hành có điểm vượng cao nhất và 2 hành này không được lớn hơn nhau 5đv. Dụng thần thứ nhất thường là hành có điểm vượng cao nhất, trừ khi hành ngay bên trái của 2 hành này khuyết thì dụng thần đầu tiên phải là hành thứ hai bên phải so với hành bị khuyết này. Khi xác định được dụng thần thứ nhất thì hỷ thần hay kỵ thần xác định hoàn toàn giống như cách Tòng theo”.
Lý thuyết này đến đây vẫn chưa chắc đã hoàn chỉnh vì biết đâu lại gặp ví dụ nào đó vẫn có thể phải sửa lại tiếp ?

Ta dùng Binh Pháp Tử Bình để luận hành vận của ví dụ này xem sao ?

(Chú ý : Riêng với lực xung của Tứ hành xung thì xung một hay nhiều chi không bị giảm nhưng với lực khắc ngũ hành gây ra điểm hạn thì bị giảm tỉ lệ thuận theo khắc nhiều hay ít chi.)

Vận Mậu Thìn :
Vì Mậu là dụng thần còn vượng ở vận Thìn nên vận này có thể được gọi là vận dụng thần lên ngôi là vận huy hoàng nhất của cuộc đời, nhưng ở đây nó chỉ như một vận hỷ thần qua câu : Sơ vận mậu thìn, đinh mão hoạnh phát”.
Vậy thì tại sao vận này chỉ hoạch phát mà không đại phát? Bởi vì Mậu mặc dù vượng ở vận Thìn nhưng bị Ất trong tứ trụ được lệnh cũng vượng ở vận Thìn khắc phá, nhưng may là khắc trái dấu nên lực khắc giảm đi 50% thêm có Bính trụ giờ được lệnh còn vượng ở vận Thìn làm dụng thần Thông quan. Nếu khắc cùng dấu giảm 100% thì khó mà hoạch phát” như vậy được cho dù nếu có Bính trụ giờ làm dụng thần Thông quan.
Vận Đinh Mão :
Đinh là hỷ thần nhược ở vận Mão, may không bị khắc nên chỉ hoạch phát” là chính xác.
Vận Bính Dần :
Bính là hỷ thần vượng ở vận Dần không bị khắc mà trong tứ trụ có Bính trụ giờ là Thương quan xì hơi Ất trụ ngày sinh được cho Tuất cùng trụ là Tài tinh, thêm Bính đại vận cũng là Thương quan xì hơi Ất trụ ngày (Mộc) để sinh cho dụng thần Kỷ (là Tài ở trụ năm và tháng) nên đại phát Tài là chính xác đúng theo câu phú “Thực Thương sinh Tài thì phú quý tự nhiên đến”. Nhưng vào năm Giáp Thìn (36 tuổi) thuộc vận Dần này may Giáp nhược ở lưu niên Thìn, mặc dù lâm quan đế vượng ở vận Dần nhưng hợp và khắc trái dấu với 2 Kỷ nên lực khắc nhẹ đi nhiều không nguy hiểm tới tính mạng mà chỉ khắc thê phá tài” là chính xác (vì Tài là Thê - vợ và tiền bạc). Năm Ất Tị (37 tuổi) thuộc vận này, mặc dù Ất vượng ở lưu niên và lâm quan, đế vượng tại vận Dần nhưng mặc dù khắc 2 Kỷ là dụng thần nhưng may có Bính đại vận vượng ở tuế và vận làm dụng thần thông quan nên lực khắc giảm đi nhiều chỉ tới mức khắc thê phá tài” nhưng không bị đe dọa tới tính mạng là chính xác. Theo tôi chắc vận Dần này không có năm Giáp Tý (46 tuổi), vì nếu có năm này thì chắc đã phá sản hay mất mạng rồi ?
Vận Ất Sửu :
Ất là vận hung thần vì khắc dụng thần Kỷ nhưng may là Ất nhược ở vận Sửu nên gia nghiệp phá tán” vào các năm Dần Mão là chính xác thôi, nhưng chưa tới mức mất mạng, vì vẫn có Bính trụ giờ được lệnh làm dụng thần Thông quan.
Vận Giáp Tý :
Đây là vận Hung thần vì Giáp khắc dụng thần Kỷ. Do vậy vận này tính mạng khó bảo toàn vào các năm Tý hay Dần hoặc Mão đúng theo câu : vận giáp tý thủy vượng, nên mất lộc (chết)” .
Vậy thì tại sao ở vận này Bính không còn làm dụng thần Thông quan ?
Bởi vì Giáp hợp khắc 2 Kỷ nên Bính ở ngoài tổ hợp này thì thành vô dụng làm sao có thể xì hơi Giáp mà sinh cho 2 Kỷ được ?

Qua đây ta thấy các vận đều ứng hợp với thực tế đã diễn ra nên cách Lưỡng Vượng được đưa ra ở đây là đúng.
Đầu trang

VULONG
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1076
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: “Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Về Học Thuật thì thông tin quan trọng nhất là câu Phú “5 - Thương quan trùm Ấn quý hết chỗ nói, nổi danh trong học thuật (như đoạt giải Nobel, Fields,... Albert Eintein, Ngô Bảo Châu).

Do vậy ta cần tìm hiểu thêm về Thập thần Thương quan :
Thương quan như một đứa giang hồ có bản tính là Ngạo Khí.
- Khi Thương quan gặp Thất Sát thì Ngạo Khí hóa thành Hùng Khí. Thất Sát là thằng ăn cướp (hay Quan xấu), Thương quan là đứa giang hồ có bản lãnh, khi nó gặp Sát thì cái chất khinh bạc, ngạo nghễ và bản lãnh giang hồ của nó được sử dụng vào việc kiềm chế thằng ăn cướp. Thành cách Thương quan Chế Sát (như Thực thần chế Sát). Trường hợp này rất kỵ Tài tinh xuất hiện, vì chỉ cần Tài xuất hiện thì lập tức Thương Quan bị Tài mua chuộc làm tay chân cho Sát, hóa ra hung, thành xấu (vì Tài làm Dụng thần thông quan nên Thươngquan không còn chế được Sát).
- Khi Thương Quan gặp Tài Tinh thì Ngạo Khí hóa thành Phúc Khí. Tài Tinh là tiền bạc, tiền tài có khả năng sinh ra quyền bính (Quan, Sát - quan chức, chức vụ). Thương quan là đứa giang hồ lêu lổng tính tham nhưng có bản lĩnh, khi nó không gặp Tài tinh thì nó không có chí thú về sinh kế tiền đồ, nhưng nếu gặp Tài tinh thì Tài cải hóa nó khiến cho cái máu giang hồ bạt mạng của nó thay vì liều mạng đi đua xe, đánh lộn thì nay liều mạng kiếm tiền mưu lợi. Trường hợp này thành cách Thương Quan Sinh Tài (như Thực Thần sinh Tài).
- Khi Thương Quan gặp Ấn (Chính Ấn) thì Ngạo Khí hóa thành Tú Khí. Như một đứa lêu lổng nay siêng năng học hành, có chí hướng, biết khắc kỷ phục lễ. Cách này gọi là Thương Quan Đới Ấn, nhưng rất kỵ gặp Tài Tinh vì Tài sẽ phá Ấn.
- Khi Thương quan gặp Quan thì họa trăm đường ập tới (khi Quan tinh vượng không bị hợp, vì động vào Quan tinh vượng, chính trực... thì chỉ có vào tù).
- Khi Thương quan thương tận Quan tinh thì thành đại quí mệnh (khi Quan tinh nhược hay bị hợp, vì khi đó Quan tinh yếu hèn, bất tài còn tham nhũng...thì Hùng khí của Thương quan nổi lên lãnh đạo dân lật đổ chính quyền Quan lại hay Triều đình thối nát).

(Đoạn trên tôi tóm tắt bài viết của Mai Thon (mt), một cao thủ Tử Bình cách đây 10 năm, nay đã ở ẩn. Ai quan tâm thêm hãy gõ lên Google để đọc chủ đề :“Luận về Thương quan cách.)
Đầu trang

VULONG
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1076
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: “Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Ví dụ số 8 : Nhà Vật Lý lỗi lạc Albert Einstein sinh ngày 14/3/1879, 12.00' am (?). Tôi không sao tìm được giờ giao tiết của tháng 2/1879.
Kiểm tra tất cả các giờ của ngày Bính tôi chỉ thấy giờ Giáp Ngọ là có thể thành cách Lưỡng Vượng (Ngoại Cách) còn các giờ khác Thân đều vượng. Nếu Thân vượng thì Mộc và Hỏa là Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp của tứ trụ này đều là kỵ thần nên không ứng hợp với 3 vận đầu, nhất là vận Ất Sửu và Giáp Tý (là vận Kiêu Ấn) cực đẹp. Do vậy giờ sinh của tứ trụ này phải là Giáp Ngọ.
Sơ đồ tứ trụ với giờ Giáp Ngọ của ví dụ này như sau :
Hình ảnh
Nhìn vào sơ đồ trên ta thấy ngay có Kỷ trụ năm là Thương quan còn chi của nó Mão là Chính Ấn đúng theo câu phú “5 - Thương quan trùm Ấn quý hết chỗ nói, nổi danh trong học thuật (như đoạt giải Nobel, Fields,... Albert Eintein, Ngô Bảo Châu). Do vậy vào các vận hỷ dụng thần dễ thành công vang dội nhất, ở đây nó đóng tại trụ năm là đẹp nhất đối với câu Phú này.
Qua tiểu sử của Albert Einstein ta thấy sự nghiệp của ông chủ yếu phát về Học Thuật mà phát tới mức độ cao nhất, chứ không phát về Tài hay Quan. Không những ông đã đoạt được giải thưởng Nobel về Vật Lý (1922) mà mọi người còn tôn ông như một nhà Vật Lý nỗi lạc nhất mọi thời đại.

Theo đoạn trích Luận về Thương quan cáchở trên có viết “ - Khi Thương Quan gặp (trùm là đẹp nhất) Ấn (Chính Ấn) thì Ngạo Khí hóa thành Tú Khí. Như một đứa lêu lổng nay siêng năng học hành, có chí hướng, biết khắc kỷ, phục lễ. Cách này gọi là Thương Quan Đới Ấn, nhưng rất kỵ gặp Tài Tinh vì Tài sẽ phá Ấn”.

Có nghĩa là khi Thương quan gặp Chính Ấn thì bị Chính Ấn khắc chế nên bản chất như “một đứa lêu lổng nay siêng năng học hành” nếu chế vừa phải thì như vậy còn chế mạnh quá sẽ ngược lại (?). Điều này hoàn toàn giống như “Thực thần chế Sát” chế vừa phải thì nó biến thành quyền bính (thăng Quan, tiến chức) cho mình, còn chế mạnh quá thì mất Quan hay bị giáng chức.

Với sơ đồ trên ta thấy hành Mộc và Hỏa đều có 3 can chi và hành Hỏa lớn hơn 20đv, cũng như hai hành này không lớn hơn nhau 5đv, nên thành cách Lưỡng Vượng. Qua thực tế sự nghiệp khoa học của Albert Einstein ta thấy 5 vận đầu Bính, Ất, Giáp, Quý, Nhâm phải là hỷ dụng thần còn 3 vận sau Tân, Canh, Kỷ phải là kỵ thần đúng như ông đã phàn nàn về 3 vận cuối này “Toán Học không phát triển kịp với Vật Lý” và nhất là câu “Chúa đã rời xa tôi” (tức Chúa đã không còn giúp đỡ ông trong 3 vận sau). Điều này cho ta biết hành Mộc phải là Dụng thần, tại sao lại như vậy ?

Bởi vì bây giờ tôi suy luận lại thấy đây là cách Lưỡng Vượng nên phải đúng theo nghĩa điểm vượng của chúng càng gần bằng nhau càng đẹp mới đúng. Do vậy hành nào nhược hơn mới là hành cần được thêm (vì thiếu) mới đúng, trừ khi chúng không lớn hơn nhau 1đv (ví dụ số 7 trên). Ở đây hành Mộc có điểm vượng nhỏ hơn hành Hỏa trên 1đv là (21,61 – 19,9)đv = 1,71đv nên hành Mộc mới cần được thêm, nó mới chính là hành Dụng thần. Mộc là Dụng thần thì Giáp trụ giờ là Dụng thần chính, Thủy và Hỏa là hỷ thần, còn Kim và Thổ kỵ thần.

Do vậy cách Lưỡng Vượng cần phải sửa lại là :
3 - Cách Lưỡng Vượng
Cách Lưỡng Vượng là cách mà hai hành liền nhau có thế lực tương đương nhau, đều có từ 3 can chi trở lên, trong đó phải có một hành có ít nhất 20đv và 2 hành này không được lớn hơn nhau 5đv. Dụng thần thứ nhất là một trong 2 hành này có điểm vượng nhỏ hơn hành kia, trừ khi chúng nhỏ hơn nhau dưới 1đv. Khi xác định được dụng thần thứ nhất thì hỷ thần và kỵ thần xác định hoàn toàn giống như cách Tòng theo”.

Ta dùng Binh Pháp Tử Bình để luận hành vận theo lý thuyết mới này xem sao ?
Vận Bính Dần :
Ta thấy Bính đại vận là hỷ thần còn vượng ở vận Dần nên đây là vận hỷ thần, thêm bán hợp của Ngọ trụ giờ với Dần đại vận hóa Hỏa. Cho nên Hỏa khá vượng sẽ xì hơi Mộc Dụng thần là xấu nên vận này chỉ được coi là vận hỷ thần kém. Điều này ứng hợp với thực tế Albert Einstein chỉ học giỏi Toán và Vật Lý ở vận này nhưng không xuất sắc.

(Ở đây lực hợp của Ngọ trụ giờ với Dần đại vận là (7 + 6).1/2đv = 6,5đv còn lực xung của Thân trụ ngày với Dần đại vận là (4,2 + 3,15).1/2đv = 3,68đv (xung ở đây là Tứ hành xung nên lực xung hay lực hợp đều tính theo điểm vượng). Do vậy lực hợp lớn hơn lực xung nên bán hợp này không bị phá.)

Vận Ất Sửu :
Ất là dụng thần nên vận này là vận Dụng thần nhưng nhược ở vận Sửu nên vận này chắc chắn là đẹp và sẽ học giỏi hơn vận Bính Dần là cái chắc. Do Ất nhược ở vận Sửu khắc chế Kỷ là Thương quan bị Bính và Đinh là Hỏa trong tứ trụ xì hơi nên lực khắc chế này quá yếu nên mặc dù học giỏi hơn vận Bính Dần nhưng cũng không thể xuất sắc được.

Vận Giáp Tý :
Vận Giáp là vận Dụng thần vượng ở vận Tý có thể coi là vận Dụng thần lên ngôi là vận huy hoàng nhất của cuộc đời do có các thông tin đẹp sau :
- Thông tin đẹp trong tứ trụ Kỷ trụ năm (Thương quan) trùm Mão (Ấn) cùng trụ là cực đẹp.
- Kỷ là kỵ thần trong tứ trụ bị Giáp tuế vận hợp khắc là rất đẹp.
- Giáp là Kiêu Ấn vượng ở vận Tý hợp và khắc chế Kỷ là Thương quan nên lực khắc chế này bị giảm 50% (do khắc trái dấu) nhưng không bị xì hơi bởi Bính Đinh (vì ngoài tổ hợp), do vậy lực khắc chế này vừa đủ là cực đẹp.
- Tý đại vận khắc Ngọ trụ giờ nên Tý sinh cho Mộc là Dụng thần (vì Mộc là dụng thần thông quan) nên rất đẹp.
Điều này ứng hợp với thực tế là nhiều phát minh lỗi lạc của Albert Einstein đã xuất hiện ở vận này như Hiệu ứng quang điện, Chuyển động Brown, Thuyết tương đối hẹp, sự tương đương khối lượng và năng lượng E = mc2... khiến ông được chú ý tới trong giới hàn lâm trên toàn thế giới. Năm 1908, giới khoa học coi ông là nhà khoa học hàng đầu, và Đại học Bern mời ông về làm giảng viên của trường...

Tại sao các phát minh lỗi lạc của Albert Einstein lại chỉ bắt đầu xuất hiện ở vận này ?

Các vận đầu là Bính Dần và Ất Sửu là vận hỷ dụng thần, mặc dù trong Tứ Trụ có thông tinThương quan trùm Ấn là quý hết chỗ nói, nổi danh trong Học Thuật nhưng Albert Einstein chỉ học giỏi nhưng không phải là xuất sắc. Bằng chứng để chứng minh là năm 1990 Albert Einstein đã tốt nghiệp đại học nhưng không có trường đại học, viện nghiên cứu hay nơi nào nhận cả. Phải đợi đến gần 2 năm sau mới có người quen xin cho ông một công việc tại Cục liên bang về sở hữu trí tuệ, cục bằng sáng chế, với vị trí là người kiểm tra các bằng sáng chế của công ty kiểm duyệt các bằng phát minh, sáng chế.
Chính xác thì đây chỉ là một công việc bình thường vào thời đó nhưng nó lại quá giá trị đối với Albert Einstein. Bởi vì theo tôi suy luận thì nó giống như tôi, nếu trong cuốn Dự Đoán Theo Tứ Trụcủa ông Thiệu Vĩ Hoa không có phần“Toán Học Hóa xác định Thân vượng hay nhược theo 360 độ” thì tôi sao có thể “Chôm” được ý tưởng “Toán Học Hóa” này để tìm ra “Phương pháp dùng Toán Học để xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần”? Sau đó là phương pháp dùng “Toán Học để xác định tai họa nặng hay nhẹ...”. Rồi bây giờ tôi đang tiếp tục dùng“Toán Học để dự đoán khả năng Phát Tài và Phát Quan”... Cho nên trong môi trường được “Kiểm duyệt các bằng phát minh, sáng chế” mà hầu như tất cả các ý tưởng phát minh hay sáng chế lúc đó Albert Einstein đều biết, cho dù chúng chưa hoàn thiện, chưa rõ ràng... nhưng đó chính là những mầm mống cho các phát minh lỗi lạc của ông ra đời.

Vận Quý Hợi :
Quý là hỷ thần nên đây là vận hỷ thần nhưng hầu như các phát minh lỗi lạc còn lại của Albert Einstein đã xuất hiện hết ở vận này. Điều này chứng tỏ vận này cũng phải được coi như là vận Dụng thần lên ngôi mới đúng, tại sao lại như vậy?
Bởi vì Quý là hỷ thần Đế Vượng tại vận Hợi khắc chế Bính Đinh để sinh cho Giáp (Mộc)dụng thần chính thêm Hợi đại vận hợp với 2 Mão trong tứ trụ hóa Mộc là cục dụng thần nhưng điểm vượng trong vùng tâm của ngũ hành không phải tính lại (vì không có đủ 2 chi trong tứ trụ hợp với tuế vận hóa cục khác hành – sẽ nói sau).
Chính Mộc cục này đã bù vào một phần nhỏ của Mộc trong tứ trụ, thêm do có Quý đế vượng ở vận Hợi đã khắc chế Bính Đinh nên Bính và Đinh không còn khả năng xì hơi Mộc. Do vậy vận này mặc dù không phải vận dụng thần nhưng Mộc lại được thêm vào phần còn thiếu chính xác tới mức như vận Dụng thần lên ngôi nên đã thành vận Dụng thần huy hoàng nhất của cuộc đời.

Vận Nhâm Tuất :
Sơ đồ tính lại điểm vượng ngũ hành trong vùng tâm của vận Nhâm Tuất :

Hình ảnh
Qua sơ đồ trên ta thấy Nhâm đại vận hợp với Đinh trong tứ trụ hóa Mộc thành công, riêng thông tin này đủ để điểm vượng trong vùng tâm của ngũ hành phải được tính lại. Ngoài ra ta thấy 2 Mão trong tứ trụ hợp với Tuất đại vận hóa Hỏa thành công. Vì trong tứ trụ có 2 chi hợp với tuế vận hóa cục khác hành nên riêng thông tin này điểm vượng trong vùng tâm cũng phải được tính lại.
Ta thấy Mộc có 19,9đv được thêm 7,83đv của Đinh trụ tháng hóa Mộc và 7,75đv của Nhâm đại vận hóa Mộc nhưng mất 5,4đv của Mão trụ tháng hóa Hỏa và 4,5đv của Mão trụ năm hóa Hỏa còn 25,58đv. Hỏa có 21,61đv được thêm 5,4đv của Mộc trụ tháng hóa Hỏa và 4,5đv của Mão trụ năm hóa Hỏa nhưng mất 7,83đv của Đinh trụ tháng hóa Mộc còn 23,68đv nhưng được thêm 1đv do trong tứ trụ có 4 can chi Hỏa (vì trong tứ trụ một hành có từ 4 can chi trở nên thì mỗi can chi được thêm 0,25đv, ở đây là can Bính trụ ngày, chi Ngọ trụ giờ và 2 Mão của trụ tháng và trụ năm, sẽ nói sau) thành 24,68đv. Ta thấy sau khi tính lại Mộc và Hỏa không lớn hơn nhau 1đv (25,58 – 24,68)đv = 0,9đv) nên hành Mộc có điểm vượng lớn hơn nên vẫn là hành Dụng thần.
Ở vận này có thêm thông tin đẹp nữa là Đinh trụ tháng hợp với Nhâm đại vận hóa Mộc thành công đúng theo câu Phú : “7 - Đinh Nhâm hóa mộc ở giờ Dần thì văn chương cái thế.

Chả nhẽ có câu Phú này nên ông mới nhận được giải Nobel về Vật Lý năm 1922 (thay cho năm 1921, do thuyết tương đối hẹp vẫn còn đang tranh cãi, nên hội đồng giải Nobel đã trao giải cho ông vì những giải thích về hiện tượng điện quang và các đóng góp cho vật lý) chăng ?
Đến năm 1925 ông nhận huy chương Copley từ Hội Hoàng gia (Anh).

Nhưng tại sao sau khi nhận được 2 giải về Học Thuật này cho đến hết đời (1925 - 1955) ông không còn phát minh ra được một cái gì mới mẻ mà có giá trị nữa ? Bởi vì trong thời gian này ông chỉ tập trung phát triển Thuyết trường thống nhất là một lý thuyết vật lý nhằm thống nhất các lực cơ bản của tự nhiên (hấp dẫn, điện từ, hạt nhân mạnh và yếu) thành một trường duy nhất, nhưng ông đã thất bại. Einstein luôn luôn giữ vững quan điểm của mình khi cho rằng lý thuyết cơ học lượng tử là không đầy đủ và không chứa yếu tố bất định, "Chúa không chơi xúc xắc"... Trong khi ông luôn luôn cho rằng Tốc độ ánh sáng là tốc độ cao nhất của Vũ Trụ (là hằng số) và Khối lượng và Năng lượng của Vật Chất đã uốn cong Không - Thời gian xung quanh chúng chứ không phải theo Định luật Vạn vật hấp dẫn của Newton...

Tôi suy nghĩ nếu Albert Einstein vẫn còn làm việc tạiCục liên bang về sở hữu trí tuệ,... là người kiểm tra các bằng phát minh, sáng chế thì biết đâu các ý tưởng phát minh, sáng chế mới... có thể lại giúp ông thành công trong việc phát triển Thuyết trường thống nhất cũng nên ?

Các vận sau Tân Dậu/ Canh Thân/ Kỷ Mùi can chi đều là kỵ thần (Kim và Thổ), cả 3 vận này đều là vận kỵ thần, nên đã ứng hợp với thực tế Albert Einstein luôn luôn thất bại, không làm được điều gì có giá trị trong 3 vận này.
Đầu trang

Trả lời bài viết