“Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)

Trao đổi kiến thức về tứ trụ (tử bình, bát tự)
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục trao đổi kiến thức về tứ trụ (bát tự, tử bình) dành cho thành viên chính thức. Các bài viết trao đổi cần có nội dung kiến thức hoặc cung cấp thông tin nghiệm lý. Muốn nhờ xem, luận giải lá số vui lòng đăng tại mục Xem tứ trụ.
Các bài viết và thành viên vi phạm sẽ bị xử lý.
VULONG
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1074
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: “Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Câu tô đỏ trong đoạn trích sau là sai :
"3 - Cách Lưỡng Vượng
Cách Lưỡng vượng là cách mà hai hành liền nhau có thế lực tương đương nhau, đều có từ 3 can chi trở lên, trong đó có một hành có ít nhất từ 20đv lớn hơn Tài tinh của hành này và 2 hành này không được lớn hơn nhau 5đv, cũng như không có can hay chi Quan Sát của hành này. Dụng thần thứ nhất của cách Lưỡng vượng thường là hành có điểm vượng cao nhất, trừ khi hành ngay bên trái của 2 hành này khuyết (tức không có hay chỉ có can tàng là tạp khí) thì dụng thần đầu tiên phải là hành thứ ba bên phải so với hành bị khuyết này. Khi xác định được dụng thần thứ nhất thì hỷ thần hay kỵ thần xác định hoàn toàn giống như cách Tòng theo.
(Tạm thời như vậy vì các ví dụ loại này tôi chưa gặp nhiều.)"

Xin sửa lại là :
"thì dụng thần đầu tiên phải là hành thứ hai bên phải so với hành bị khuyết này"

Thành thật xin lỗi mọi người.
Được cảm ơn bởi: songvuiskhoels
Đầu trang

VULONG
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1074
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: “Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Tôi đang có ý định kiểm tra xem có nên lấy 7 ví dụ trong phần "Binh Pháp Tử Bình về luận hành vận" làm 7 ví dụ đầu tiên trong cuốn sách này hay không thì mới phát hiện ra ví dụ số 2 và số 3 tôi chưa đăng mới lạ chứ ?
Vì vậy tôi xin đăng tiếp :

Ví dụ số 2 : Là ví dụ 50 trong cuốn Trích Thiên Tủy
(Ai muốn đọc cứ gõ lên Google chủ đề “VULONG1 - Trích Thiên Tủy” - đây là phần I, còn phần II, gõ lên Google chủ đề “VULONG1 - Trích Thiên Tủy - Phần II : Lục Thân Luận sẽ có ngay).

50 - Nhâm Thân - Bính Ngọ - ngày Canh Ngọ - Canh Thìn
Ðinh mùi/ mậu thân/ kỷ dậu/ canh tuất/ tân hợi/ nhâm tý
Trụ này bính hỏa sát tinh tuy vượng, nhâm thủy có căn gốc ở thân kim, nhật chủ được canh kim tương trợ, được chi thìn thổ tương sinh. Dụng nhâm thủy chế sát, thiên can đồng thuận; địa chi đồng thuận, nhất chế nhất hóa, thật là hữu tình. Vận kim thủy thật đẹp, quan lộ hiển hách, làm quan đến chức tổng đốc”.

Ta thấy Tứ Trụ này có một thông tin đẹp liên quan tới Nhâm trụ năm là Thực Thần và Bính trụ tháng là Sát qua câu Phú 19 - Thực thần chế Sát là anh hùng áp đảo vạn người, tức dễ được làm tướng soái trấn giữ một phương. Đúng như bài luận cho biết “quan lộ hiển hách, làm quan đến chức tổng đốc”.

(Nên nhớ rằng Thực chế Sát vừa phải thôi để nó giúp mình được thăng chức, tăng Quan còn nếu chế mạnh quá sẽ bị phản lại không những không được thăng chức khéo còn bị mất chức, vào tù...)

Ta thấy các vận mậu thân/ kỷ dậu/ canh tuất/ tân hợi” có các can là Kiêu ẤnTỷ Kiếp rõ ràng phải đẹp như bài luận trên thì chúng phải là các hỷ dụng thần nên Thân của Tứ Trụ này phải nhược. Thân nhược mà người bình (Từ Nhạc Ngô) lại luận “Dụng nhâm thủy chế sát” tức cho rằng Nhâm (Thực Thương)dụng thần, tức Thân phải vượng. Điều này trái ngược với “Binh Pháp Tử Bình” mà tôi đã luận ở trên.
Theo tôi Thân đã nhược mà vào vận Nhâm Týkỵ vận, vì Nhâm (Thực Thần)kỵ thần nhưng ở đây không phải chỉ là vận kỵ thần mà nó có thể thành vận hung thần (vận xấu nhất) đến mức nặng thì chết còn nhẹ thì mất chức vào tù. Bởi vì Nhâm (Thực Thần) đế vượng ở vận Tý chế Bính (Sát) chết hẳn (ở đây mất chức do bị sát phạt) nên không còn quyền bính nữa (nếu nhẹ, còn nặng thì chết hay vào tù).

Để kiểm tra Thân vượng hay nhược ta "Dùng Toán Học để xác định Thân vượng hay nhược" của tôi xem sao ?
Sơ đồ Tứ Trụ này như sau :
Hình ảnh
Qua sơ đồ này ta thấy Thân (Kim) có 12,897đv nhỏ hơn Quan Sát (Hỏa) có 13,39đv nên Thân nhược điều này chứng tỏ luận theo “Binh Pháp Tử Bình về luận hành vận” là đúng.

Do vậy người bình đã bình sai lại còn không biết đến sự xấu, nguy hiểm vô cùng của vận Nhâm Tý lại còn cho rằng Nhâm là dụng thần mới Khủng chứ ? Là Một trong 2 cuốn sách hay nhất về Tử Bình hiện nay còn luận như vậy đấy?
Cách giải hạn này đơn giản mà hiệu quả nhất là trước khi đến vận Nhâm Tý hãy cáo lão hồi hương là tốt nhất.

Ví dụ số 3 : Là ví dụ 51 trong cuốn Trích Thiên Tủy
"51 - Nhâm Ngọ - Bính Ngọ - Canh Thân - Mậu Dần
Ðinh mùi/ mậu thân/ kỷ dậu/ canh tuất/ tân hợi/ nhâm tý/ Quý Sửu
Mệnh này với mệnh trên, đại đồng mà tiểu dị, nhật chủ tọa lộc thân kim, nhâm thủy cũng khẩn chế sát, cớ sao danh lợi đều không, mệnh này chung thân không phát được sao? Cái khác nhau là mệnh trên nhâm thủy tọa thân kim, thực thần vượng có thể chế sát, mệnh này nhâm thủy tọa ngọ tức lâm tuyệt địa, không có lực chế sát vậy; mệnh trên thiên can thấu canh có thể trợ nhật chủ lại có thể sinh nhâm thủy, mệnh này thiên can thấu mậu thổ khắc thủy, không thể sanh thực thần. Tả hữu không tình hiệp vậy".

Ta thấy Tứ Trụ này cũng có thông tin đẹp là Nhâm trụ năm là Thực Thần và Bính trụ tháng là Sát liên quan tới câu Phú “19 - Thực thần chế Sát là anh hùng áp đảo vạn người”. Nhưng bài luận cho biết : “cớ sao danh lợi đều không, mệnh này chung thân không phát được sao?”. Nghĩa của từ “chung thân” là phần giữa cuộc đời con người khoảng 30 đến 50 năm (tức từ khoảng 25 tuổi tới 55 tuổi) là xấu. Khoảng này tương đương với các vận Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tuất và Tân Hợi đều là các vận Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp. Vậy thì các vận này phải xấu tức chúng phải là các vận kỵ thần thì dĩ nhiên Tứ Trụ này phải có Thân vượng. Vào các vận xấu (kỵ thần) thì làm sao trở thành “Anh hùng áp đảo vạn người” được.

Để kiểm tra Thân vượng hay nhược ta "Dùng Toán Học để xác định Thân vượng hay nhược" của tôi xem sao ?
Sơ đồ Tứ Trụ này như sau :
Hình ảnh

Qua sơ đồ này ta thấy Thân (Kim) có 16đv lớn hơn quan Sát có 13đv trên 1đv nên có Thân vượng. Điều này đã chứng minh “Binh Pháp Tử Bình về luận hành vận” thêm một lần nữa là đúng.
Còn các vận sau là Nhâm Tý, Quý Sửu có can là Thực Thương đều là hỷ dụng thần nên chắc đẹp nhưng tác giả không cho biết đẹp tới mức nào?

Chỉ cần 2 ví dụ 50 và 51 này đủ để kiểm tra trình độ xác định Thân vượng hay nhược của bất kỳ cao thủ Tử Bình nào.
Đầu trang

VULONG
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1074
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: “Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Các câu tô đỏ trong đoạn trích sau là sai :

"II - Dụng thần của các mệnh cục đặc biệt

Nói chung cách xác định dụng thần của các mệnh cục đặc biệt này (thường được gọi là ngoại cách hay Tòng cách hoặc Tòng theo) hoàn toàn ngược với các cách thông thường. Trong các trường hợp của ngoại cách này, dụng thần của chúng là dựa theo thế vượng của các hành này, có nghĩa theo Tòng cách thì hành vượng nhất là dụng thần, còn hành sinh ra nó và hành xì hơi nó là hỷ thần, còn hành khắc nó và bị nó khắc là kỵ thần.
Nói một cách đơn giản, dễ hiểu là nếu không may phải sống trong môi trường xã hội toàn những người là kẻ thù của mình thì tốt nhất phải dựa vào họ (Tòng theo) để sống mới có thể yên ổn nếu không tính mạng khó mà bảo toàn.

1 - Cách Tòng theo
- Trong tứ trụ có 4 hay 5 can chi cùng hành, trong đó phải có ít nhất 3 chi, nếu chỉ có 2 chi thì chúng phải ở trạng thái Lâm quan hay Đế vượng tại Lệnh tháng, muốn Tòng theo hành này thì phải không có can chi Quan Sát và
lớn hơn Tài tinh từ 20đv trở lên.
- Trong tứ trụ có từ 6 can chi cùng hành trở lên, muốn Tòng theo hành này thì phải không có can chi Quan Sát và lớn hơn Tài tinh từ 20đv trở lên.
- Cách Tòng theo Tỷ Kiếp (hành của Nhật can) các sách cổ kim thường gọi là cách Độc vượng".

Xin sửa lại là :

"II - Dụng thần của các mệnh cục đặc biệt

Nói chung cách xác định dụng thần của các mệnh cục đặc biệt này (thường được gọi là ngoại cách hay Tòng cách hoặc Tòng theo) hoàn toàn ngược với các cách thông thường. Trong các trường hợp của ngoại cách này, dụng thần của chúng là dựa theo thế vượng của các hành này, có nghĩa theo Tòng cách thì hành vượng nhất là dụng thần, còn hành sinh ra nó và hành xì hơi nó là hỷ thần, còn hành khắc nó và bị nó khắc là kỵ thần.
Nói một cách đơn giản, dễ hiểu là nếu không may phải sống trong môi trường xã hội toàn những người là kẻ thù của mình thì tốt nhất phải dựa vào họ (Tòng theo) để sống mới có thể yên ổn nếu không tính mạng khó mà bảo toàn.

1 - Cách Tòng theo
- Trong tứ trụ có 4 hay 5 can chi cùng hành, trong đó phải có ít nhất 3 chi, nếu chỉ có 2 chi thì chúng phải ở trạng thái Lâm quan hay Đế vượng tại Lệnh tháng, muốn Tòng theo hành này thì phải không có can chi Quan Sát và
lớn hơn hỷ dụng 1 từ 20đv trở lên.
- Trong tứ trụ có từ 6 can chi cùng hành trở lên, muốn Tòng theo hành này thì phải không có can chi Quan Sát và lớn hơn hỷ dụng 1 từ 20đv trở lên.
- Cách Tòng theo Tỷ Kiếp (hành của Nhật can) các sách cổ kim thường gọi là cách Độc vượng".

Vì khi đó chưa phải là cách Tòng nên Thân vượng, Quan Sát không hiện mặc dù Thân lớn hơn Tài tinh 20đv nhưng không lớn hơn Thực Thương 20đv thì vẫn không thể Tòng (theo Tỷ Kiếp), vì khi đó Thực Thương vẫn là hỷ dụng thần.

Thành thật xin lỗi mọi người.

(Vì bây giờ tôi mới tổng hợp lại các quy tắc đã được tìm ra nên không thể tránh sai sót hoặc nhầm lẫn.)
Đầu trang

VULONG
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1074
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: “Thuyết Vũ Trụ Cổ Xưa" (bản hoàn chỉnh)

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Ví dụ số 7 : Là ví dụ 104 trong cuốn Trích Thiên Tủy
104 - Kỷ Tị - Kỷ Tị - ngày Ất Dậu - Bính Tuất
Mậu thìn/ đinh mão/ bính dần/ ất sửu/ giáp tý/ quý hợi
Mệnh này địa chi toàn khắc tiết nhật chủ, thêm nữa thiên can thấu hỏa thổ, hoàn toàn không có thủy. Mộc suy cực giả, mà tựa như thổ. Sơ vận mậu thìn, đinh mão hoạnh phát, bính vận kinh doanh đại phát, thu lợi được vạn kim; dần vận khắc thê phá tài; ất sửu vận chi toàn kim cục, hỏa thổ đều bị tiết, gia nghiệp phá tán; vận giáp tý thủy vượng, nên mất lộc (chết) (không thấy luận giáp hợp kỷ!).
Trụ này địa chi hai tị, một tuất nên hỏa vượng. Trên can lại thấu 2 kỷ 1 bính, thổ trên can được chi hỏa sanh (thiên can dẫn xuất địa chi) nên cực vượng, tác dụng mạnh (tức tài cực vượng). Trong khi đó mộc cực suy, nên buộc phải tòng thổ thành cách tòng tài. Tòng tài thì gặp vận tài, hoặc thực thương (tức vận hỏa, thổ) là vận tốt. Còn gặp vận kiếp, ấn (tức thủy, mộc) thì tán gia bại sản.
Theo tôi đoạn tôi tô mầu nâu sẫm trên là phần luận của người dịch chứ không phải của Nhâm Thiết Tiều bình giảng?
Qua câu bình :
Sơ vận mậu thìn, đinh mão hoạnh phát, bính vận kinh doanh đại phát, thu lợi được vạn kim;”
Cho ta biết vận Mậu Thìn, Đinh Mão và Bính Dần phải là vận hỷ dụng thần vì can của chúng là Hỏa và Thổ. Do vậy tứ trụ này có thể thuộc cách Lưỡng Vượng vì hành Thổ và Hỏa đều có 3 can chi chứ không thể Tòng Thổ (Tài) vì có Ất trụ ngày được lệnh mang hành Quan Sát của Thổ (Tài) nên người dịch đã sai khi kết luận “phải tòng thổ thành cách tòng tài”.
Sau đây là sơ đồ của tứ trụ này :
Hình ảnh
Qua sơ đồ trên ta thấy trong tứ trụ có thông tin Bính trụ giờ là Thương quan và 2 Kỷ ở trụ năm và tháng là Tài nên có thể ứng với câu Phú “Thực Thương sinh Tài thì phú quý tự nhiên đến”. Hành Hỏa và Thổ đều có 3 can chi và trên 20đv nên có thể thành cách Lưỡng Vượng. Nhưng với 2 hành đều vượng này thì ở đây Tài tinh và Quan Sát là hành nào ? Cho nên định nghĩa (lý thuyết) về cách Lưỡng Vượng ở trên phát biểu là không chính xác mà phải sửa lại như sau :
“3 - Cách Lưỡng Vượng
Cách Lưỡng Vượng là cách mà hai hành liền nhau có thế lực tương đương nhau, đều có từ 3 can chi trở lên, trong đó có một hành có ít nhất từ 20đv, cũng là hành có điểm vượng cao nhất và 2 hành này không được lớn hơn nhau 5đv. Dụng thần thứ nhất thường là hành có điểm vượng cao nhất, trừ khi hành ngay bên trái của 2 hành này khuyết thì dụng thần đầu tiên phải là hành thứ hai bên phải so với hành bị khuyết này. Khi xác định được dụng thần thứ nhất thì hỷ thần hay kỵ thần xác định hoàn toàn giống như cách Tòng theo”.
Lý thuyết này đến đây vẫn chưa chắc đã hoàn chỉnh vì biết đâu lại gặp ví dụ nào đó vẫn có thể phải sửa lại tiếp ?

Ta dùng Binh Pháp Tử Bình để luận hành vận của ví dụ này xem sao ?

(Chú ý : Riêng với lực xung của Tứ hành xung thì xung một hay nhiều chi không bị giảm nhưng với lực khắc ngũ hành gây ra điểm hạn thì bị giảm tỉ lệ thuận theo khắc nhiều hay ít chi.)

Vận Mậu Thìn :
Vì Mậu là dụng thần còn vượng ở vận Thìn nên vận này có thể được gọi là vận dụng thần lên ngôi là vận huy hoàng nhất của cuộc đời, nhưng ở đây nó chỉ như một vận hỷ thần qua câu : Sơ vận mậu thìn, đinh mão hoạnh phát”.
Vậy thì tại sao vận này chỉ hoạch phát mà không đại phát? Bởi vì Mậu mặc dù vượng ở vận Thìn nhưng bị Ất trong tứ trụ được lệnh cũng vượng ở vận Thìn khắc phá, nhưng may là khắc trái dấu nên lực khắc giảm đi 50% thêm có Bính trụ giờ được lệnh còn vượng ở vận Thìn làm dụng thần Thông quan. Nếu khắc cùng dấu giảm 100% thì khó mà hoạch phát” như vậy được cho dù nếu có Bính trụ giờ làm dụng thần Thông quan.
Vận Đinh Mão :
Đinh là hỷ thần nhược ở vận Mão, may không bị khắc nên chỉ hoạch phát” là chính xác.
Vận Bính Dần :
Bính là hỷ thần vượng ở vận Dần không bị khắc mà trong tứ trụ có Bính trụ giờ là Thương quan xì hơi Ất trụ ngày sinh được cho Tuất cùng trụ là Tài tinh, thêm Bính đại vận cũng là Thương quan xì hơi Ất trụ ngày (Mộc) để sinh cho dụng thần Kỷ (là Tài ở trụ năm và tháng) nên đại phát Tài là chính xác đúng theo câu phú “Thực Thương sinh Tài thì phú quý tự nhiên đến”. Nhưng vào năm Giáp Thìn (36 tuổi) thuộc vận Dần này may Giáp nhược ở lưu niên Thìn, mặc dù lâm quan đế vượng ở vận Dần nhưng hợp và khắc trái dấu với 2 Kỷ nên lực khắc nhẹ đi nhiều không nguy hiểm tới tính mạng mà chỉ khắc thê phá tài” là chính xác (vì Tài là Thê - vợ và tiền bạc). Năm Ất Tị (37 tuổi) thuộc vận này, mặc dù Ất vượng ở lưu niên và lâm quan, đế vượng tại vận Dần nhưng mặc dù khắc 2 Kỷ là dụng thần nhưng may có Bính đại vận vượng ở tuế và vận làm dụng thần thông quan nên lực khắc giảm đi nhiều chỉ tới mức khắc thê phá tài” nhưng không bị đe dọa tới tính mạng là chính xác. Theo tôi chắc vận Dần này không có năm Giáp Tý (46 tuổi), vì nếu có năm này thì chắc đã phá sản hay mất mạng rồi ?
Vận Ất Sửu :
Ất là vận hung thần vì khắc dụng thần Kỷ nhưng may là Ất nhược ở vận Sửu nên gia nghiệp phá tán” vào các năm Dần Mão là chính xác thôi, nhưng chưa tới mức mất mạng, vì vẫn có Bính trụ giờ được lệnh làm dụng thần Thông quan.
Vận Giáp Tý :
Đây là vận Hung thần vì Giáp khắc dụng thần Kỷ. Do vậy vận này tính mạng khó bảo toàn vào các năm Tý hay Dần hoặc Mão đúng theo câu : vận giáp tý thủy vượng, nên mất lộc (chết)” .
Vậy thì tại sao ở vận này Bính không còn làm dụng thần Thông quan ?
Bởi vì Giáp hợp khắc 2 Kỷ nên Bính ở ngoài tổ hợp này thì thành vô dụng làm sao có thể xì hơi Giáp mà sinh cho 2 Kỷ được ?

Qua đây ta thấy các vận đều ứng hợp với thực tế đã diễn ra nên cách Lưỡng Vượng được đưa ra ở đây là đúng.
Đầu trang

Trả lời bài viết