Kính mời các thầy giỏi chữ Nho thích luận Sấm và Khải Huyền!

Trao đổi kiến thức về sinh trắc, tướng pháp, chỉ tay, danh tính, chữ viết, tâm lý, điềm mộng
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục trao đổi kiến thức về sinh trắc như: tướng pháp, chỉ tay, danh tính, chữ viết, tâm lý ... dành cho thành viên chính thức. Các bài viết trao đổi cần có nội dung kiến thức hoặc cung cấp thông tin nghiệm lý. Muốn nhờ xem, luận giải về sinh trắc vui lòng đăng tại mục Xem sinh trắc.
Các bài viết và thành viên vi phạm sẽ bị xử lý.
Hình đại diện của thành viên
Ngư Hóa Long
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 944
Tham gia: 19:07, 01/06/09
Đến từ: Thái Bình Dương

Kính mời các thầy giỏi chữ Nho thích luận Sấm và Khải Huyền!

Gửi bài gửi bởi Ngư Hóa Long »

Thứ Tư, ngày 17/03/2010, 13:30
Hình ảnh
'Rùa thần' chỉ ăn chuối, không ăn thức ăn đã qua thờ cúng hoặc con người đã ăn qua.

Giải mã huyền bí của 'rùa thần'

(24h) - Sau khi hay tin ông Nguyễn Hữu Tùng bắt được “rùa thần” một số người có chuyên môn đã vào cuộc để giải mã những điều bí ẩn về chú rùa này.



● Mời độc giả Bấm Vào Đây để tìm hiểu câu chuyện xung quanh 'rùa thần'

Như PV đã đưa tin “rùa thần” kích thước khoảng 10 x 15 cm, nặng khoảng 0,5 kg, có hình thể, màu sắc khác thường và đặc biệt biệt nó chỉ ăn chuối và không ăn thức ăn đã qua thờ cúng hoặc con người đã ăn rồi.
Từ đó đến nay có rất nhiều lượt người kéo đến nhà ông Tùng để tận mắt chứng kiến “rùa thần”, quay phim, chụp ảnh và đồn thổi đi xa những chuyện lạ được chứng kiến.
Hình ảnh
Sau khi ông Tùng nhặt được "rùa thần" đã có hàng trăm người kéo đến xem và quay phim chụp ảnh làm kỷ niệm.
Cuộc “giải mã” các chi tiết được cho là chữ Hán trên mai rùa đặc biệt trở nên li kỳ.
Người đầu tiên tìm đến nhà ông Tùng là cụ Lê Khắc Tùng, cố đạo Quần thể di tích lịch sử Quốc gia Thành Sơn Phòng Hàm Nghi Đền Trầm Lâm (xã Phú Gia). Sau khi nghe tin đã xuống trực tiếp kiểm tra, thuê người chụp hình để làm tư liệu nghiên cứu, cụ Tùng kết luận: “Con rùa này khác hẳn so với hàng vạn con rùa khác. Hai chân trước và cổ dài hơn, không thu hình khi người đụng vào. Leo ngược thành rất giỏi. Các hoa vân xum quanh mai rùa khác thường, có những hình chữ Hán, chữ thánh phật. Trên mai là mặt phẳng yên ngựa không khum lưng. Màu hồng sắc mận quân tựa thể như được phủ mộ lớp đồng. Thái độ của nó như muốn nghe ngóng âm thanh của con người phát ra”.
Hình ảnh
Cụ Chư cho biết, trên mai rùa có 4 chữ theo ký tự đầu đến cuối đuôi là: Ứng-Mạc-Tắc-Hình. (chụp từ ảnh do cụ Tùng cung cấp)
Cụ Tùng chỉ giỏi chữ Nôm nên đã tìm đến cụ Trần Đình Chư – Trưởng ban Tế tự quần thể di tích lịch sử Quốc gia Thành Sơn Phòng Hàm Nghi, Đền Trầm Lâm - một người rất sành chữ Hán.
Trước sự chứng kiến của nhiều người ngay tại ngôi đền Trầm Lâm Hai cụ trải chiếu ra giữa nền say sưa nghiên cứu. Sau mấy chục phút tỷ mỉ nghiên cứu nhiều bức hình chụp lại, thậm chí dùng cả kính lúp trợ giúp cụ Chư khẳng định, trên mai rùa có 4 chữ theo thứ tự từ đầu đến đuôi rùa là: “Ứng – Mạc – Tắc - Hình”.
Cụ Chư giải thích: Ứng là ứng hiện, Mạc là chẳng, Tắc là làm, hình là hình. Cụ khẳng định chắc như đinh đóng cột: “Ai bảo tôi đọc sai mấy chữ đó trên mai rùa tôi chịu trách nhiệm”. Tuy nhiên, cụ cho biết: “Dịch nghĩa như thế nào của 4 chữ trên cho thông suốt thì cần phải có các chuyên gia, tôi chỉ biết đến như vậy”.
Cụ Lê Khắc Tùng cho biết thêm: "Sự việc này chúng tôi đã trình báo với Trung tâm văn hoá huyện và đang chuẩn bị làm hồ sơ để gửi Sở và Bộ VHTT&DL để tìm hiểu những nét văn hoá tâm linh ẩn chứa trong con rùa và đề nghị với nhà nước cùng với các cụ nghiên cứu về con rùa này".
(theo hn.24h.com.vn)
Đầu trang

Mẫu Đơn
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 261
Tham gia: 11:35, 24/12/09

TL: Kính mời các thầy giỏi chữ Nho thích luận Sấm và Khải Hu

Gửi bài gửi bởi Mẫu Đơn »

Rùa nào chả mê ăn chuối ạ, táo nó cũng ăn, nói chung hoa quả là rùa ăn hết. Không tin vào Thủ Lệ mà xem họ nuôi rùa bằng chuối.

Lại có cụ bảo giỏi chữ Nôm, không tinh chữ Hán.. ồ hay nhỉ!

Lần theo link thì ra bài này tương tự

http://hn.24h.com.vn/news/detail/46/263 ... hat-ba.24h" target="_blank

Cũng có con rùa vàng nhưng đã xác định "Con rùa trên chắc là ai đó vận chuyển bị sổng, do phản ứng với môi trường ở đây nên mai rùa có màu vàng, hoa văn có chỗ đậm nhạt chứ chẳng có gì khác biệt."

Ah, nhân vụ rùa, có cái này cũng hay lắm, mai rùa là chất sừng lại chia ô, mua rùa bé về, khắc hình lên mai, bôi mầu vào.. lớn lên nó thành hoa văn đẹp lắm.

Để ta nói huynh Nhược Trần giỏi cả hán lẫn nôm, lại có thú chơi rùa lên bàn xem
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Ngư Hóa Long
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 944
Tham gia: 19:07, 01/06/09
Đến từ: Thái Bình Dương

TL: Kính mời các thầy giỏi chữ Nho thích luận Sấm và Khải Hu

Gửi bài gửi bởi Ngư Hóa Long »

Không biết "bôi mầu vào mai" con Thần Quy trên có hiện Lạc Thư ra không huynh Mẫu Đơn :-/

Cá Chép thì nghi nó là "Rùa Thần" đấy! :-$

:D
Đầu trang

Mẫu Đơn
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 261
Tham gia: 11:35, 24/12/09

TL: Kính mời các thầy giỏi chữ Nho thích luận Sấm và Khải Hu

Gửi bài gửi bởi Mẫu Đơn »

Mẫu Đơn cũng nghĩ nó là "rùa thần"

Kính!
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
apollo
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2014
Tham gia: 23:37, 01/01/09
Đến từ: Vô Cực
Liên hệ:

TL: Kính mời các thầy giỏi chữ Nho thích luận Sấm và Khải Hu

Gửi bài gửi bởi apollo »

Đề nghị bác Ngư Hoá Long nghiên cứu vụ mu rùa để sáng tạo ra một môn quy bốc mới cho Việt Nam
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Ngư Hóa Long
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 944
Tham gia: 19:07, 01/06/09
Đến từ: Thái Bình Dương

TL: Kính mời các thầy giỏi chữ Nho thích luận Sấm và Khải Hu

Gửi bài gửi bởi Ngư Hóa Long »

apollo đã viết:Đề nghị bác Ngư Hoá Long nghiên cứu vụ mu rùa để sáng tạo ra một môn quy bốc mới cho Việt Nam
Bói Dịch nguyên là phép xem bói bằng mai rùa (bói giáp cốt). Xưa kia, các thuật sĩ xem hoa văn trên mai rùa mà suy đoán thời tiết, các điều lành dữ... Về sau, phép bói cỏ thi được dùng thay thế hoặc bổ sung cho phép bói mai rùa.

Một nhà khảo cổ Trung Quốc cho biết tim thấy 1 con rùa làm bằng ngọc bích 4.500 tuổi và một vật hình thuôn bằng ngọc bích được phát hiện ở tỉnh An Huy, Trung Quốc, chính là dụng cụ bói toán cổ nhất được phát hiện từ trước tới nay.
Hình ảnh
Hình bát quái thường được người Trung Quốc sử dụng trong bói toán.
Hai vật thể làm bằng ngọc bích này được phát hiện trong một ngôi mộ cổ ở làng Lingjiatan, hạt Hanshan, tỉnh An Huy.

Gu Fang, chuyên gia ngọc bích thuộc Hiệp hội di sản văn hóa Trung Quốc, cho biết con rùa làm bằng ngọc bích bao gồm mai rùa và bụng rùa, trên đó có vài cái lỗ. Vật thể hình thuôn rộng 8,2 cm và dài 11 cm được tìm thấy nằm giữa bụng và mai rùa. Trên vật này cũng có một số đường kẻ đứt quãng.

"Chúng rõ ràng không phải vật dụng trong đời sống hằng ngày, cũng không phải đồ trang trí, mà đó là dụng cụ dùng trong hoạt động mê tín", Gu nói.

Những lỗ nằm giữa mai rùa và bụng cho thấy có gì đó được đút vào trong. Và có thể có những sợi dây xuyên qua các lỗ. "Nó gợi chúng ta nhớ đến hành động xúc xắc. Chỉ khi sợi dây được tháo ra thì tình trạng của vật bên trong con rùa mới được nhìn thấy", Gu nói.

Các nhà khảo cổ cho rằng con rùa bằng ngọc bích này là một dụng cụ cổ xưa dược dùng để dự đoán tương lai, được thực hiện trước những sự kiện quan trọng.

Vào triều đại nhà Thương, khoảng 1.000 năm sau thời điểm ra đời của ngôi mộ làng Lingjiatan, việc sử dụng rùa để bói toán là hoạt động phổ biến, nhằm dự đoán điềm lành, điềm xấu.

Các đường kể trên vật thể hình thuôn cũng thu hút sự chú ý của các nhà khảo cổ. Nhiều chuyên gia cho rằng mô hình này có thể là nguồn gốc của bát quái, biểu tượng vẫn được người Trung Quốc cổ sử dụng trong bói toán.

M.T. (Tân Hoa Xã)
:-O B-) :-S
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Ngư Hóa Long
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 944
Tham gia: 19:07, 01/06/09
Đến từ: Thái Bình Dương

TL: Kính mời các thầy giỏi chữ Nho thích luận Sấm và Khải Hu

Gửi bài gửi bởi Ngư Hóa Long »

BÓI GIÁP CỐT VÀ GIÁP CỐT VĂN



Trong hai chữ bốc phệ, bốc 卜 tức là phép bói rùa (bói giáp cốt) và phệ 筮 là phép bói bằng cỏ thi. Phép bói giáp cốt có từ đời Thương. Giáp 甲 ở đây là quy giáp 龜甲 (mai rùa: tortoise shell, tortoise carapace). Cốt ở đây là xương bả vai (scapula) cuả thú vật (bò hoặc nai). Theo Bản Thảo Cương Mục, mai rùa để bói là của loài thủy quy 水龜 (rùa nước), loài này rất giống một loài rùa có tên khoa học là reevesii. Nhưng các nhà khảo cổ khảo sát những mai rùa đào được ở An Dương lại cho rằng đó là loài địa quy 地龜 (rùa đất, land tortoise), tên khoa học là pseudocadia anyangensis nay đã tuyệt chủng.



Cách bói bằng mai rùa và xương thú được gọi là bốc卜. Chữ bốc gồm một nét dọc (tung) và một nét ngang (hoành) tượng trưng nét nứt trên mai rùa sau khi bị hơ nóng (Chích quy chi hình, quy triệu chi tung hoành dã 炙龜之形龜兆之縰橫也).[23] Nguyễn Hiến Lê hiểu quy giáp là yếm rùa chứ không phải mai rùa (có lẽ vì yếm rùa dễ nứt hơn?)[24] Lưu Ngọc Kiến 劉玉建 trong Trung Quốc Cổ Đại Quy Bốc Văn Hóa 中國古代龜卜文化 [25] đã trưng dẫn nhiều hình ảnh về những mảnh quy giáp bao gồm cả mai rùa (bối giáp 背甲) lẫn yếm rùa (phúc giáp 腹甲). Thực tế người ta còn đào được những mảnh giáp kiều 甲橋 (phần hông tiếp giáp bối giáp và phúc giáp) có khắc chữ.



Lionel Charles Hopkins[26] (1854-1952) cho rằng chữ bốc 卜 giống hình xương bả vai của loài thú. Còn chữ chiêm 占 (giải đoán) gồm chữ khẩu 口 (miệng) và bốc 卜 (bói), ngụ ý dùng lời nói để giải đoán từ những mảnh xương đó.[27] Léon Wieger giải thích chiêm là bói để hỏi những gì mà ta nghi hoặc (bốc dĩ vấn nghi dã 卜以問疑也). Theo từ điển Từ Hải, bốc là vết nứt ngang dọc trên mai rùa bị nung nóng. Cổ nhân muốn dự đoán công việc sẽ tốt xấu ra sao, đa số thường nung nóng mai rùa để tìm vết nứt mà đoán.



Nhưng tại sao lại dùng mai rùa? Linh mục Larre trong bài thuyết trình tại Trung Tâm Văn Hóa Pháp (Saigon, 1965) về Đạo Xử Kỷ Tiếp Vật Trong Kinh Dịch (Le savoir vivre dans le Livre des Mutations) bảo cổ nhân dùng mai rùa vì rùa là một vũ trụ thu nhỏ. Mai rùa tượng trưng cho vòm trời, bốn chân tượng trưng cho đất. Còn cỏ thi (l’achillée millefeuille) là cỏ thiêng có thể cảm ứng được những biến dịch trong vũ trụ. Charles Poncé thì bảo rùa là vật mang sự minh triết (the carrier of wisdom), không những biết được những bí mật dưới đáy biển mà còn ôm ấp những bí mật ấy trong bụng. Rùa sống được dưới nước lẫn trên đất, nó dung hòa hai hành tương khắc trong ngũ hành 五行 là thủy 水 (nước) và thổ 土 (đất).[28]



Thật ra người Trung quốc cổ đại có nhiều phép bói tùy theo nhóm dân tộc. Hán tộc dùng cốt bốc骨卜 (bói xương), quy bốc龜卜 (bói rùa), thi phệ 蓍筮 (bói cỏ thi). Đó là ba phép bói chính thống được sử dụng trong ba vương triều : Hạ 夏, Thương 商, và Chu 周. Các dân thiểu số lại có các phép bói riêng như: tộc Khổ Thông 苦聰 bói bằng cỏ (thảo), trứng gà (kê đản); tộc Ngõa 佤 (nay chủ yếu phân bố ở tỉnh Vân Nam) bói bằng gan trâu, gan bò (ngưu can), xương gà (kê cốt); tộc Lê 黎 (nay ở Quảng Đông) bói bằng gà (kê), đá (thạch), nắm bùn (nê bao); tộc Cảnh Pha 景頗 (nay ở Vân Nam) bói bằng tre trúc (trúc); tộc Lật Túc 傈僳 (đọc là lisu, nay ở tỉnh Vân Nam) bói bằng dao (đao), vỏ sò vỏ ốc (bối xác); tộc Di 彝 (nay ở Vân Nam, Tứ Xuyên, Quý Châu) bói bằng xương bả vai của con dê (dương kiên giáp cốt 羊 肩 胛 骨); tộc Khương 羌 (nay ở Tứ Xuyên) bói bằng trứng gà (kê đản), lông dê (dương mao), v.v...[29] Điều này chính Tư Mã Thiên cũng xác nhận: «Tam vương bất đồng quy, tứ di các dị bốc.» 三王不同龜四夷各異卜 (Sử Ký, Quy sách liệt truyện 龜策列傳). Hán tộc sùng bái rùa vì rùa là một trong bốn linh vật như Lễ Ký đã xác định: «Hà vị chi tứ linh? Lân, phụng, quy, long vị chi tứ linh.» 何謂之四靈麟鳳龜龍謂之四靈 (Bốn linh vật là gì? Lân, phượng, rùa và rồng được gọi là tứ linh) (Lễ Ký 禮記, Lễ vận 禮運). Trong tứ linh chỉ có quy là có thật còn ba linh vật kia là huyền thoại, chỉ nghe nói, chưa ai thấy. Quy đứng đầu tứ linh. Theo Vương Hữu Tam 王友三 [30] sùng bái tứ linh, nhất là sùng bái rùa là một hình thức của tôn giáo nguyên thủy của Trung Quốc.



Lưu Ngọc Kiến [31] cho rằng sùng bái rùa còn liên quan đến sùng bái đồ đằng 圖騰 (thờ vật tổ, totemism, đồ đằng phiên âm chữ totem) và sùng bái sinh thực khí (cult of fertility). Lưu Ngọc Kiến chịu ảnh hưởng của Quách Mạt Nhược 郭沫若, trích dẫn tác phẩm Trung Quốc Cổ Đại Xã Hội Nghiên Cứu của họ Quách rằng: «Căn để của bát quái mà chúng ta có thể thấy rõ là dấu vết của sự sùng bái sinh thực khí. Nét vạch liền tức là nam căn, nét vạch đứt tức là nữ âm. Vì thế mà diễn ra thành quan niệm nam nữ, phụ mẫu, âm dương, cương nhu, và thiên địa.» Quả thực nền văn hoá phong nhiêu (hay phồn thực: fertility, fécondité, Fruchtbarkeit) là một hình thức phổ biến của tôn giáo nguyên thủy trên khắp thế giới. Người cổ đại thờ những linga (nam căn), yoni (nữ âm), thờ những nữ thần sinh sản và phồn thịnh (Fruchtbarkeitsgöttin). Thuyết của họ Quách có thể đúng. Trên cơ sở đó Lưu Ngọc Kiến liên tưởng đến đầu rùa (quy đầu) và những đào tổ 陶祖 hay thạch tổ 石祖 tức là những nam căn (sinh thực khí nam) bằng gốm hoặc bằng đá khai quật được ở Thiểm Tây, Cam Túc, Sơn Đông, Quảng Tây, Hồ Bắc, Hồ Nam, v.v. Chúng được giám định thuộc giai đoạn cuối của nền văn hóa Ngưỡng Thiều 仰韶文化 có 5000 năm tuổi. Như vậy sự sùng bái nam căn chứng tỏ vào thời kỳ này xã hội Trung Quốc cổ đại đã được chuyển từ chế độ mẫu hệ sang phụ hệ và sự sùng bái sinh thực khí nam đã ở giai đoạn đỉnh thịnh.



Sự sùng bái rùa có liên quan sự sùng bái sinh thực khí là một thuyết mới mẻ và táo bạo của họ Lưu. Nhưng bảo rằng sự sùng bái rùa có liên quan đến sùng bái đồ đằng 圖騰 thì chưa thuyết phục. Mặc dù Sơn Hải Kinh 山海經 tiết lộ rất nhiều về một số hình thức của tôn giáo nguyên thủy tại Trung Quốc như sùng bái linh vật, sùng bái đồ đằng (totem). Đặc điểm của đồ đằng là tính chất huyết duyên 血緣 hay thân duyên 親緣 của vật tổ. Vật tổ là bất kỳ một loại động vật, thực vật, hay vô sinh vật được một bộ tộc sùng bái như tổ tiên hay thân nhân. Đó là tính chất huyết duyên hay thân duyên. Người trong bộ tộc sùng bái đến mức sợ hãi vì chính vật tổ sẽ phù hộ cho cuộc sống của họ. Chính sùng bái đồ đằng (totemism) phát triển thành thờ cúng gia tiên (ancestor worship) về sau này.[32] Về nguyên tắc, sát thương hay ăn thịt vật tổ là một đại cấm kỵ. Nhưng trong thực tế người cổ đại vẫn giết rùa vì hai mục đích: lấy quy giáp làm vật bói và làm tiền tệ. Thời tiên Tần, mai rùa là một thứ tiền. Quẻ Tổn 損 của Kinh Dịch nói: «Thập bằng chi quy.» 十朋之龜 tức là số tiền gồm 20 xâu mai rùa (hai xâu là một bằng 兩串為一朋).[33] Vậy thì bảo rùa là một vật tổ của người Trung quốc cổ đại là không thông. Tôi cho rằng người ta sùng bái rùa vì ý nghĩa tượng trưng (symbolic meaning) của nó hơn là chính bản thân nó.



Lưu Ngọc Kiến giải thích nguyên do sự sùng bái rùa còn ở mấy điểm mà tôi tóm tắt như sau:



(1) Quy được xem là vật trân bảo, tầm cỡ quốc bảo. Kinh Thư (Hạ Thư-Vũ Cống) có câu : «Cửu Giang nạp tích đại quy.» 九江納錫大龜 (Dân Cửu Giang phải cống nạp rùa lớn). Khổng An Quốc nói: «Xích nhị thốn viết đại quy, xuất ư Cửu Giang thủy trung, quy bất thường dụng, tích mệnh nhi nạp chi.» 尺二寸曰大龜出於九江水中龜不常用錫命而納之 (Rùa một thước hai tấc gọi là đại quy, phát xuất từ Cửu Giang,[34] rùa này người ta không thường dùng, mà theo lệnh phải cống nạp). Kinh Thư (Chu Thư-Đại Cáo) có câu: «Ninh Vương di ngã đại bảo quy, thiệu thiên minh tức mệnh.» 寧王遺我大寶龜紹天明即命 (Vua Ninh Vương [tức là Vũ Vương] di tặng cho ta con rùa lớn rất quý báu dùng để xem mệnh Trời). Lễ Ký(chương Lễ Khí) chép: «Chư hầu dĩ quy vi bảo.» 諸侯以龜為寶 (Chư hầu xem rùa là vật báu). Khổng Dĩnh Đạt chú sớ: «Chư hầu dĩ quy vi bảo giả, chư hầu hữu bảo thổ chi trọng nghi tu chiêm tường cát hung, cố đắc dĩ quy vi bảo dã.» 諸侯以龜為寶者諸侯有保土之重宜須占詳吉凶故得以龜為寶也 (Chư hầu xem rùa là vật báu vì việc quan trọng là bảo vệ lãnh thổ, nên cần xem bói để rõ việc tốt xấu. Vì thế khi được rùa, xem đó là vật báu).



(2) Quy là biểu tượng của sự tài phú. Hán Thư (chương Thực Hóa Chí 食貨誌) nói: «Thực vị nông thực gia cốc khả thực chi vật. Hóa vị bố bạch khả ý, cập kim đao quy bối, sở dĩ phân tài bố lợi thông hữu vô dã. Nhị giả sinh dân chi bản, hưng tự Thần Nông chi thế... Thực túc hóa thông, nhiên hậu quốc thực dân phú, nhi giáo hóa thành.» 食謂農殖嘉谷可食之物貨謂布帛可衣及金刀龜貝所以分財布利通有無也而者生民之本興自神農之世… 食足貨通然後國實民富而教化成 (Thực phẩm là những thứ nhà nông trồng trọt cày cấy và ăn được. Hóa là những thứ vải bố vải lụa có thể mặc cho đến vàng, dao, rùa, vỏ sò nhằm phân bố tài lợi và lưu thông vật chất giữa chỗ có và chỗ không. Cả hai thứ ấy là điều cơ bản của đời sống dân chúng. Chúng hưng thịnh từ đời Thần Nông về sau... Lương thực đầy đủ, hàng hóa lưu thông thì nước mạnh dân giàu, và rồi việc giáo hóa dân chúng mới thành tựu). Như vậy quy giáp ngoài việc dùng để bói còn là một hàng hóa giá trị, thậm chí được sử dụng là một thứ tiền (hóa tệ 貨幣). Dân đời Thương đã qua giai đoạn sơ khai của nền kinh tế hàng đổi hàng (barter). Họ đã biết dùng tiền, tức là những vỏ sò vỏ ốc (bối xác) và mai rùa (quy giáp). Kinh Dịch, hào lục ngũ của quẻ Tổn và hào lục nhị của quẻ Ích đều nói: «Thập bằng chi quy.» 十朋之龜 (Số tiền gồm có 10 bằng) [hai bối 貝 là một bằng 朋, có người bảo 10 bối là một bằng]. Thuyết Văn Giải Tự 說文解字 của Hứa Thận 許慎 nói: «Cổ giả hóa bối nhi bảo quy, Chu nhi hữu bạch, chí Tần phế bối hành tiền.» 古者貨貝而寶龜周而有帛至秦廢行錢 (Người xưa dùng vỏ sò và mai rùa làm hóa tệ, đời Chu dùng lụa làm hóa tệ, đến đời Tần vỏ sò bị bỏ đi và lưu hành tiền tệ).



(3) Quy có tuổi thọ cao, biến hóa khôn lường nên linh vật này được dùng để bói. Luận Hành của Vương Sung, chương Bốc Phệ, có ghi chép cuộc đối thoại giữa Khổng Tử và cao đệ là Tử Lộ: «Tử Lộ vấn Khổng Tử viết: Trư kiên dương bác khả dĩ đắc triệu, hoan vĩ cao mao khả dĩ đắc số, hà tất dĩ thi quy? Khổng Tử viết: Bất nhiên. Cái thủ kỳ danh dã. Phù thi chi vi ngôn kỳ dã, quy chi vi ngôn cựu dã. Minh hồ nghi chi sự, đương vấn kỳ cựu dã.» 子路問孔子曰豬肩羊膊可以得兆雚葦藳芼可以得數何必以蓍龜孔子曰不然蓋取其名也夫蓍之為言耆也龜之為言舊也明狐疑之事當問耆舊也 (Tử Lộ hỏi Khổng Tử rằng: Thưa Thầy, xương vai heo, xương bả vai dê đều có thể [hơ nóng để tìm vết nứt mà] bói; cỏ hoan, cỏ vĩ, cỏ cao và cỏ mao cũng có thế bói xem số mệnh, việc gì mà phải dùng cỏ thi và mai rùa? Khổng Tử đáp: Không phải như vậy. Ấy bởi vì cái tên của chúng.Nói chung, thi [cỏ thi] là gọi từ kỳ [bậc kỳ lão sống lâu],còn quy là gọi từ cựu [cố cựu, lâu đời]. Muốn hiểu rõ việc mình đang hồ nghi thì phải hỏi han người kỳ cựu vậy). Thuyết Văn Giải Tự bảo: «Quy, cựu dã.» 龜舊也 (quy là xưa cũ). Đoàn Ngọc Tài chú: «Tức cửu tự dã. Lưu Hướng viết: Thi chi ngôn kỳ, quy chi ngôn cửu, quy thiên tuế nhi linh, thi bách kinh nhi thần, dĩ kỳ trường cửu, cố năng biện cát hung.» 即久字也劉向曰蓍之言耆龜之言久龜千歲而靈蓍百莖而神以其長久故能辨吉凶 (Đó là chữ cửu [lâu dài] vậy. Lưu Hướng nói: Thi là ý nói chữ kỳ, quy là ý nói chữ cửu; quy sống lâu ngàn năm nên linh thiêng, cỏ thi có trăm cọng lá nên có thần, cho nên lấy cái sự trường cửu của thi quy mà đoán việc cát hung). Bão Phác Tử nói: «Thiên tuế linh quy, ngũ sắc cụ yên, như ngọc như thạch, biến hóa mạc trắc, hoặc đại hoặc tiểu, hoặc du ư liên diệp chi thượng, hoặc phục ư kỳ tùng chi hạ.» 千歲靈龜五色具焉如玉如石變化莫測或大或小或游於蓮葉之上或伏於芪叢之下 (Rùa linh sống ngàn năm, có đủ ngũ sắc như ngọc như đá, biến hóa khôn lường, khi thì hóa to khi thì biến nhỏ, lúc thì bơi trên lá sen lúc lại nằm phục dưới đám cỏ kỳ). Bản Thảo Cương Mục 本草綱目 của Lý Thời Trân 李時珍 nói: «Quy niên chí bách thiên, tắc cụ ngũ sắc, nhi hoặc đại hoặc tiểu, biến hoá vô thường.» 龜年至百千則具五色而或大或小變化無常 (Tuổi của rùa có thể đến trăm ngàn năm, lúc ấy rùa có đủ năm sắc màu, khi hoá to lúc thu nhỏ, biến hóa không chừng).



(4) Quy là biểu tượng tam tài: thiên địa nhân. Lưng rùa (quy bối) cong tròn lên, tượng trưng cho vòm trời; yếm rùa (phúc giáp) phẳng và có góc cạnh, tượng trưng cho đất, ứng với thuyết thiên viên địa phương (trời tròn đất vuông). Sách Chu Bễ Toán Kinh 周髀算經 nói: «Phương thuộc địa, viên thuộc thiên, thiên viên địa phương.» 方屬地圓屬天天圓地方 (Vuông là thuộc tính của đất, tròn là thuộc tính của trời, nên trời tròn và đất vuông). Dịch Truyện (thuyết quái) nói: «Càn vi thiên, vi viên.» 乾為天為圓 (Càn là trời, thì tròn). Lã Thị Xuân Thu 呂氏春秋 (thiên Viên Đạo 圓道) viết: «Thiên viên nhi địa phương, thánh vương pháp chi, sở dĩ lập thượng hạ.» 天圓而地方聖王法之所以立上下 (Trời tròn mà đất vuông, bậc thánh vương noi theo đó mà ấn định phép tắc có trật tự trên dưới). Rùa theo truyền thuyết bị bà Nữ Oa 女媧 chặt chân làm cột chống trời, Hoài Nam Tử 淮南子 (thiên Lãm Minh Huấn 覽冥訓) chép: «Vãng cổ chi thời, tứ cực phế, Cửu Châu liệt, vô bất kiêm phúc, địa bất chu tái, hỏa lam viêm nhi bất diệt, thủy hạo dương nhi bất tức, mãnh thú thực chuyên dân, chí điểu quắc lão nhược. Ư thị, Nữ Oa luyện ngũ sắc thạch dĩ bổ thương thiên, đoạn ngao túc dĩ lập tứ cực, sát hắc long dĩ tế Ký châu, tích lư khôi dĩ chỉ dâm thủy. Thương thiên bổ, tứ cực chính, dâm thủy hạc, Ký Châu bình, giảo trùng tử, chuyên dân sinh, bối phương châu, bão viên thiên.» 往古之時四極廢九州裂無不兼覆地不周載火爁炎而不滅水浩洋而不息猛獸食顓民鷙鳥攫老弱於是女媧鍊五色石以補蒼天斷鼇足以立四極殺黑龍以濟冀州積蘆灰以止淫水蒼天補四極正淫水涸冀州平狡蟲死顓民生背方州抱圓天 (Ngày xa xưa, bốn trụ chống trời bị hư hoại, Cửu Châu [tức là Trung Quốc] bị đổ lở, không đâu mà không bị lật úp, đất không được che kín, lửa cháy hừng hực liên miên không tắt, nước ngập lụt mênh mông không ngưng, thú dữ ăn thịt dân lành, chim ưng hung ác quắp lấy người già cả ốm yếu. Cho nên bà Nữ Oa mới luyện đá năm màu để vá trời xanh, chặt chân rùa lớn làm bốn cột chống đỡ bầu trời, giết rồng đen cứu Ký Châu, chèn tro cỏ lư để ngăn nước lụt. Bầu trời xanh được vá lại, bốn trụ chống đỡ ngay ngắn, nước lụt rút khô đi, Ký Châu yên bình, thuồng luồng chết, dân lành sống, dựa lưng vào đất vuông ôm lấy bầu trời tròn). [Ngao là đại quy: rùa lớn]. Vậy rùa mang hình tượng trời và đất, chân rùa là cột chống đỡ bầu trời. Còn yếu tố thứ ba: nhân? Đó là thuyết sinh thực sùng bái liên hệ với đầu rùa (quy đầu 龜頭). Tóm lại rùa hết sức trân quý, hết sức linh thiêng không những vì sống lâu biết việc quá khứ vị lai mà còn vì bao gồm tam tài: Thiên-Địa-Nhân.[35]



Việc bói giáp cốt tưởng chừng đơn giản, thực tế thì không. Nó giúp ta hiểu được phần nào về nguồn gốc văn tự Trung Quốc. Mục đích bói thì không có gì để bàn. Nhưng cách bói thì thế nào? Các lời giải thích của từ điển và của các học giả không hoàn toàn giống nhau. Kể từ đời Thương đến nay (nghĩa là trên 3000 năm rồi), nó đã thất truyền. Những mảnh giáp cốt (oracle bones) đào được tại An Dương 安陽 ở thôn Tiểu Đồn 小屯 (cách huyện An Dương tỉnh Hà Nam 河南 5 dặm về phía Tây Bắc) kể từ năm 1899 tức năm Quang Tự 光緒 thứ 25 [36] khiến cho các nhà khảo cổ Trung Quốc lẫn Tây phương giám định là có từ đời Thương bởi lẽ An Dương là kinh đô cuối cùng của nhà Thương. Nhưng những chữ khắc trên giáp cốt (gọi là giáp cốt văn 甲骨文, trinh bốc văn tự 貞卜文, quy giáp văn 龜甲文) khó giúp ta hình dung trình tự phép bói.



Vậy có hai trường hợp cần khảo xét: (1) cổ nhân hơ nóng mai rùa hay xương thú rồi tìm vết nứt để chiêm đoán; hay là (2) cổ nhân khắc chữ trên mai rùa, sau đó hơ nó trên lửa nóng để tìm vết nứt mà chiêm đoán?



Lời giải thích của từ điển Từ Hải là căn cứ vào Thuyết Văn Giải Tự (của Hứa Thận, thế kỷ I cn), nguyên văn: Cổ nhân dục dự tri hậu sự chi cát hung, đa chước quy dĩ thủ triệu, cố vị kỳ sự viết bốc 古人欲預知後事之吉凶多灼龜以取兆故謂其事曰卜. Hai chữ thủ triệu 取兆 này quan trọng. Triệu 兆 (omen) là quy triệu, tức là vết nứt hiện ra sau khi mai rùa bị nung nóng. Thủ triệu là thu lấy các vết nứt ấy để suy đoán.



Nguyễn Hiến Lê bảo: «Họ (dân đời Thương) dùng yếm rùa, xương vai, xương chậu của bò, ngựa, dùi những lỗ dễ nứt, rồi hơ lửa, xương nứt ra, tùy theo vạch nứt mà đoán. Bói cách đó thì chỉ biết được có hay không, xấu hay tốt thôi.» [37] Richard Wilhelm nói: «Sau khi đánh bóng mai rùa, người ta khắc vạch vào mặt trong của mai rùa, rồi dùng que lửa nóng bỏng hơ chỗ khắc vạch ấy. Mặt trên của mai rùa hiện ra vết nứt, số vết nứt và hình dạng của chúng cho ra lời giải đoán.» [38] Février viết rằng: «Trong việc bói rùa người ta viết câu hỏi lên một mảnh xương, thường là xương bả vai (omoplate) hoặc xương chân thú, hoặc trên mai rùa. Thầy bói hơ mặt kia trên lửa, vết nứt hiện ra cho biết lời đáp, và chỉ có bọn thầy bói mới hiểu những chữ này thôi.» [39] Dường như Wilhelm có lý hơn. Ông dùng chữ khắc vạch (inciser) còn Février dùng chữ viết (écrire). Đời Thương thuộc giai đoạn khế thư (khắc chữ : carved writing), là giai đoạn tiếp theo của giai đoạn kết thằng 結繩 (thắt nút dây). Sau giai đoạn khế thư mới xuất hiện bút viết tức là tiền thân của cây bút lông (mao bút) ngày nay.[40]




Giáp cốt văn--Chữ hiện nay-


Quan sát thử một quẻ bói sau,[41] những chữ giáp cốt được chuyển thành chữ hiện đại 辛卯貞今日辛亦雨不雨﹐ phiên âm: Tân mão trinh. Kim nhật Tân, diệc vũ. Bất vũ (Ngày Tân mão hỏi quỷ thần: Hôm nay ngày Tân, cũng mưa chứ? [Quỷ thần trả lời] Không mưa). Trên miếng mai rùa có hai cặp chữ giống nhau: 2 chữ tân 辛và 2 chữ vũ 雨. Khó có vết nứt ngẫu nhiên nào trùng nhau như vậy. Cụm chữ bên trên là câu hỏi. Hai chữ bất vũ 不雨 ở dưới là trả lời.



Quỷ thần trả lời thì cần gì phải lập lại câu hỏi. Vậy câu hỏi này phải được người xem bói khắc vào (gọi là bốc từ 卜辭), nghĩa là đã có sẵn một hệ văn tự biệt lập với việc bói. Bởi vì vết nứt là việc ngẫu nhiên, văn tự là định sẵn, làm sao có sự trùng hợp được. Ta cần chú ý thêm các chữ trên được bố trí khác với thứ tự hiện nay.



Ta có thể nghĩ rằng trước tiên người ta đã quy ước một số ký hiệu ngôn ngữ rồi. Lúc bói người ta khắc câu hỏi bằng những ký hiệu ấy vào mai rùa hoặc xương thú, rồi dùi vài lỗ cho dễ nứt, sau đó đem hơ lửa. Câu trả lời nằm ở những vết nứt do những lỗ đã dùi. Nếu vậy, ta định được lai lịch của hệ văn tự khắc vạch ấy (mà ngày nay ta gọi là giáp cốt văn). Lối chữ ấy không phải do phép bói giáp cốt mà ra. Và hai trường hợp mà ta nêu ra ở trang trước chỉ có trường hợp thứ hai là đúng: cổ nhân khắc chữ trên mai rùa, sau đó hơ nó trên lửa nóng để tìm vết nứt ở mặt bên kia mà chiêm đoán.




Mặt dùi lỗ Mặt hiện vết nứt


Thực vậy, Lưu Ngọc Kiến 劉玉建 [42] đã chứng minh rằng người Trung Quốc cổ đại đã khắc chữ trên yếm rùa (phúc giáp 腹甲) thường xuyên hơn là mu rùa (bối giáp 背甲), sau đó dùi lỗ có hình dáng như và , sau đó đem hơ lửa. Vết nứt từ những lỗ dùi này sẽ hiện ra ở mặt bên kia của yếm rùa và có hình vết nứt tương ứng là ⊢ và ⊣ xem hình vẽ bên cạnh). Đó chính là những nét nứt ngang dọc mà từ điển Từ Hải đã giải thích. Do cấu trúc của lỗ dùi, vết nứt chỉ có hình dáng như vậy (hình dáng của chữ bốc 卜), chứ không thể nào sản sinh ra một hệ văn tự gọi là giáp cốt văn mà các chuyên gia giáp cốt học nhìn nhận rằng nó gần như hàm chứa đủ lục thư 六書.



Giáp cốt văn được khảo cứu sôi nổi kể từ cuộc khai quật tại An Dương 安陽 năm 1899. Người dân địa phương trước năm 1898 đã đào được một ít xương mà họ gọi là long cốt 龍骨 (xương rồng: os de dragon; Drachenknochen). Đó là một thứ linh dược nghe nói trị được bá bệnh (le remède efficace contre les douleurs). Khi bán cho các tiệm thuốc Bắc, những chữ khắc trên xương bị cạo đi. Năm 1898, giới buôn đồ cổ mua những mảnh giáp cốt có khắc chữ khai quật ở thôn Tiểu Đồn 小屯 và đem bán ở Thiên Tân. Thoạt đầu Mạnh Định Sinh 孟定生 nhận định đó là những di vật cổ đại và đặt tên là cổ giản 古簡. Năm 1899, một lái buôn đồ cổ là Phạm Duy Khanh 范維卿 đem những mảnh giáp cốt thu mua ở Tiểu Đồn đi bán tại Bắc Kinh. Chính Vương Ý Vinh 王懿榮 (1845-1919) và bạn của ông là Lưu Ngạc 劉鶚 [43] (1857-1909) nhận định đó là nhưng tư liệu về nhà Thương.[44] Triều đình nhà Thanh (Quang Tự 光緒) hay tin, sai quan đi thu mua. Cứ mỗi chữ trên miếng xương trị giá 2 lạng rưỡi bạc (khoảng 92 gam).[45] Vì đếm chữ tính tiền nên năm 1900 những ngụy khắc 偽 刻 [46] xuất hiện. Năm này, Vương Ý Vinh mất, con trai là Vương Hàn Phủ 王翰甫 tiếp tục công việc thu mua giáp cốt và cổ vật. Năm 1901, Lưu Ngạc (tự là Thiết Vân 鐵雲) mới bắt đầu thu mua giáp cốt. Năm 1902, họ đã thu mua được trên một ngàn mảnh. Lưu Ngạc còn sai con trai thứ ba là Lưu Đại Thân 劉大紳 đi khắp nơi thu mua. Cuối năm ấy họ có được 5000 mảnh giáp cốt và Lưu Ngạc mới bắt đầu tạo những thác bản 拓本 (thoa mực đen lên giáp cốt rồi lấy giấy trắng đặt lên mà dập để lấy chữ). La Chấn Ngọc 羅振玉 đến nhà Lưu Ngạc nhìn thấy những thác bản, giật mình tán thán. Năm 1903, sau khi tạo thác bản từ 1058 mảnh giáp cốt, Lưu Ngạc cho xuất bản thành bộ Thiết Vân Tàng Quy 鐵雲藏龜 (6 quyển), khẵng định đó là văn tự do dân đời Ân-Thương khắc nên. Giáo sĩ người Mỹ Frank Herring Chalfant (1862-1914) trú tại Sơn Đông và Giáo sĩ người Anh Samuel Couling (1859-1922) trú tại Thanh Châu bắt đầu mua giáp cốt. Thượng Hải Hoàng Gia Á Châu Văn Hội Bác Vật Viện mua 400 mảnh. Đó là lần đầu người Tây phương mua giáp cốt.



Vùng An Dương nằm giữa hai con sông Kỳ 淇 và sông Hoàn 洹, nguyên là kinh đô cuối cùng của nhà Thương. Hàng trăm ngàn mảnh giáp cốt được khai quật. Mảnh mai rùa dài nhất là 0.3 mét, ngắn nhất là 0.025 mét. Mảnh dài nhất có cả trăm chữ khắc, mảnh ngắn nhất có một hai chữ.[47]



Giới học giả Anh Mỹ cùng thương buôn đổ xô đến mua về các bảo tàng của họ tại Anh và Mỹ. Năm 1914, một người Canada mua hàng ngàn mảnh giáp cốt, có người nhân dịp này phất lên rất nhanh. Năm 1927, chính quyền cấm dân khai quật miền đồi An Dương. Từ 1927 đến 1936, viện Academica Sinica tiến hành những đợt khai quật.[48] Sau đó là Viện Sử và Ngữ Văn cũng bắt tay khai quật tổng cộng 17 cuộc (từ năm 1928), tập trung ở thôn Tiểu Đồn. Năm 1937, công cuộc khai quật bị chựng lại vì chiến tranh Trung Nhật bùng nổ ở Bắc Trung Quốc. Theo tường trình của Viện Sử và Ngữ Văn, 150 ngàn ngày công được bỏ ra để khai quật vô số cổ vật gồm đỉnh đồng, vạc đồng, ngọc khảm, đồ gốm, vật sơn mài, vật dụng bằng đá và bằng xương thú, vật trang sức bằng vỏ sò, khoáng vật, xương thú, mai rùa, và xương người. Tổng số những mảnh giáp cốt đào được tại An Dưong là 109.617 mảnh.[49]



Giới khảo cổ ở đây có Vương Ý Vinh, Lưu Ngạc, La Chấn Ngọc, Vương Quốc Duy, Cơ Phật Đà, Đổng Tác Tân, Hồ Hậu Tuyên, Thương Thừa Tộ, Đường Lan, Tôn Hải Ba, Mã Vi Khuynh, Lý Hiếu Định, Chu Phương Bổ, Trần Mộng Gia,... Các giáo sĩ phương Tây có Frank Herring Chalfrant (Mỹ), Samuel Couling (Anh), H. Mušller (Đức), James Mellon Menzies (Canada),... và một số học giả Nhật Bản như Lâm Thái Phủ, Đảo Bang Nam,... Nổi bật nhóm là La Chấn Ngọc. Giáo sĩ James Mellon Menzie nổi tiếng về tài giảo nghiệm xương và giáp cốt văn. Đổng Tác Tân đích thân điều khiển việc khai quật ở Tiểu Đồn, là người có công nghiên cứu thâm hậu và uy quyền nhất. Học trò Đổng Tác Tân là Hồ Hậu Tuyên, Nghiêm Nhất Bình, Kim Tường Hằng nắm giữ địa vị quan trọng trong ngành giáp cốt học. Lý Hiếu Định tổng hợp các lời giải thích về giáp cốt văn trong quyển sách hết sức giá trị là Giáp Cốt Văn Tự Tạp Thích 甲骨文字雜釋. Đảo Bang Nam (Nhật) có công phân loại để đối chiếu với nguyên văn. Phần lớn giáp cốt được tàng trữ tại Quốc Lập Cố Cung Bác Vật Viện Đài Bắc 臺北國立故宮博物院.[50] Năm 1935, tại Luân Đôn một cuộc triển lãm về cổ ngoạn Trung Quốc được tổ chức, gây chấn động Tây phương. Trong các cổ vật trưng bày, các mảnh giáp cốt và các chung đỉnh bằng đồng đời Thương được khách tham quan chú ý nhiều nhất. Người Anh gọi năm ấy là «năm Trung Quốc» (the China Year). Một cuộc triển lãm tương tự được Chính quyền Trung Quốc tổ chức tại Washington D.C. năm 1961.[51]



Trương Kỳ Quân trích lời giáo sư Thạch Chương Như 石璋如 nhận xét về cuộc khai quật ở An Dương: «Cuộc khai quật tại An Dương là sự kiện trọng đại nhất trong lịch sử của ngành khảo cổ Trung Quốc. Nó chủ yếu đã được người Trung Quốc tiến hành bằng phương pháp khoa học hiện đại. Xét theo nghĩa rộng, nó cũng là sự kiện quan trọng trong lịch sử khảo cổ Đông Á, thậm chí là của thế giới. Bởi vì, với tư cách của Trung Quốc là một trong những nước có nền văn minh lâu đời nhất, những cổ vật phát hiện ở An Dương chắc chắn cung cấp những tư liệu mới không những cho ngành nghiên cứu về văn hóa Trung Quốc cổ đại mà còn cho ngành nghiên cứu về văn minh thế giới cổ đại nữa.» [52]



Đời nhà Thương dài 630 năm, là một thời kỳ có nhiều tiến bộ đáng kể trong nhiều lĩnh vực văn hóa. Những văn vật xuất thổ quý nhất chính là những mảnh giáp cốt đào được tại An Dương, xưa kia là kinh đô cuối cùng của nhà Ân / Thương (gọi là Ân khư 殷墟). Những mảnh được giám định là xưa nhất thì được tạo ra vào đời vua Vũ Đinh 武丁 (1339-1281 tcn), nghĩa là cách nay trên 3300 năm. Theo bài báo của Đổng Tác Tân 董作賓 Giáp Cốt Học Ngũ Thập Niên 甲骨學五十年 (Fifty Years of Oracle Bone Literature Studies),[53] những mảnh giáp cốt xuất thổ tại An Dương gồm 109.617 mảnh và trong đó có 31.139 mảnh được chú giải và phân loại. Năm 1960, có 24.918 mảnh được trân tàng tại Academia Sinica ở Nam Cảng 南港, Đài Loan. Một số lượng tương tự được trân tàng Bảo Tàng Viện của huyện Khai Phong, tỉnh Hà Nam. 3656 mảnh khác được trân tàng tại Bảo Tàng Viện Lịch Sử của Đài Bắc.



Phương pháp khảo cứu của Đổng Tác Tân là kết hợp những khắc từ ngay trên mảnh giáp cốt đối chiếu với thư tịch cổ và sử liệu thành văn để đưa ra những kết luận thích đáng. Tuy vậy tinh thần đa văn khuyết nghi vẫn được tôn trọng. Kể từ tác phẩm Thiết Vân Tàng Quy (1903) của Lưu Ngạc cho đến năm 1980 đã có trên 90 tác phẩm biên khảo cho ngành giáp cốt học non trẻ của Trung Quốc.[54]



Nhận chân lai lịch của giáp cốt văn, ta có thể hình dung vị trí của giáp cốt văn trong quá trình diễn biến của hệ thống văn tự Trung Quốc như sau: Thoạt đầu là giai đoạn thắt nút dây (kết thằng 結繩) vì chưa có chữ viết. Kể từ đời Thương (1766-112) có giáp cốt văn 甲骨文 (cũng gọi trinh bốc văn 貞卜文, quy giáp văn 龜甲文) và chung đỉnh văn 鐘鼎文 (cũng gọi làkim văn 金文, vì chữ được khắc trên đồ vật bằng đồng). Đồng thời cũng có khoa đẩu văn 科斗文 (chữ nòng nọc, gọi như vậy vì chữ được viết bằng những que chấm sơn trên thẻ tre (trúc giản 竹簡) hay thẻ gỗ (mộc giản 木簡), nét sơn không đều, giống hình con nòng nọc). Ba lối chữ giáp cốt, chung đỉnh và khoa đẩu được gọi chung thành nhóm cổ văn 古文. Thời Chiến Quốc có chữ đại triện 大篆. Khi Tần Thủy Hoàng 秦始皇 thống nhất Trung Quốc, thừa tướng Lý Tư 李斯 thống nhất văn tự, cải lương những lối chữ dị biệt đương thời thành tiểu triện 小篆 . Chữ triện và cổ văn phối hợp nhau thành chữ lệ 隸.Đời Tần, chữ lệ (gọi là Tần lệ) chưa được phổ dụng bằng chữ triện. Đến đời Hán, chữ lệ (gọi là Hán lệ) mới được chính thức dùng trong công văn giấy tờ. Chữ thảo đã có từ đời Hán, có thuyết cho rằng do Sử Du 史游 sáng chế. Đời Đông Hán đã có Trương Chi 張芝 viết chữ thảo. Chữ thảo gồm hai loại kim thảo 今草 (chương thảo 章草) và cuồng thảo 狂草. Chữ hành 行 do Lưu Đức Thăng 劉德昇 thời hậu Hán sáng chế. Chữ khảI 楷 (chữ chân 真) thịnh đạt nhất đời Đường, nó phối hợp chữ lệ với chữ Ngụy bi 魏碑 (chữ khắc trên bia mộ đời Ngụy Tấn và Nam Bắc Triều). Tô Đông Pha 蘇東坡 đời Tống bảo: «Chân như lập, hành như hành, thảo như tẩu.» 真如立行如行草如走 (Chữ khải như [người] đứng, chữ hành như đi, chữ thảo như chạy). Nhưng nói như vậy không có nghĩa là chữ hành và chữ thảo bắt nguồn từ chữ khải. Nhiều người đã ngộ nhận như thế. Kể từ 1949 chữ khải (gọi là phồn thể tự 繁體字) được giản hóa thành giản thể tự 簡體字.



Tóm tắt phần trên đây: (1) Phép bói giáp cốt là một sinh hoạt hết sức phổ biến trong đời Ân-Thương, chi phối mọi phương diện của triều đình cho đến thứ dân. (2) Mục đích bói không có gì phải luận bàn: ngày xưa, mỗi khi có gì nghi hoặc thì người ta xem bói, trông cậy vào sự bảo ban chỉ đạo của thần minh. (3) Phương pháp bói giáp cốt là người ta khắc chữ (những câu hỏi cầu xin thần minh giải đáp) vào mai rùa (bối giáp), yếm rùa (phúc giáp), giáp kiều, xương thú. Rồi dùi nhiều lỗ trên đó, sau đó đem hơ lửa, vết nứt hiện ra ở mặt bên kia. Căn cứ vào vết nứt mà người ta đưa lời giải đoán (bốc từ), lời giải này sau đó cũng được khắc lên mảnh giáp cốt ấy để ghi nhớ. (4) Giáp cốt văn không phải là sản phẩm do việc bói giáp cốt. Đời nhà Thương đã có một hệ văn tự thuộc giai đoạn thư khế (khắc vạch) trong tiến trình của văn tự Trung Quốc, và cấu trúc của nó không dính líu đến việc xem bói. Bởi vì thứ văn tự này chủ yếu là khắc trên quy giáp thú cốt nên người ta mới đặt tên là giáp cốt văn. (5) Ngoài ra chúng ta cũng biết thêm vài chi tiết của những cuộc khai quật tại An Dương và giai đoạn ban đầu của ngành giáp cốt học Trung Quốc. (6) Sau đó ta biết được vị trí của giáp cốt văn trong quá trình diễn biến của văn tự Trung Quốc.


(theo http://www.thienlybuutoa.org" target="_blank)
Đầu trang

socquay
Mới gia nhập
Mới gia nhập
Bài viết: 5
Tham gia: 10:35, 29/03/10

TL: Kính mời các thầy giỏi chữ Nho thích luận Sấm và Khải Hu

Gửi bài gửi bởi socquay »

cho đến nay mình vẫn không hiểu 4 chữ trên mu rùa nói gì cả
Đầu trang

Trả lời bài viết