UYÊN HẢI TỬ BÌNH TOÀN TẬP

Trao đổi kiến thức về tứ trụ (tử bình, bát tự)
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục trao đổi kiến thức về tứ trụ (bát tự, tử bình) dành cho thành viên chính thức. Các bài viết trao đổi cần có nội dung kiến thức hoặc cung cấp thông tin nghiệm lý. Muốn nhờ xem, luận giải lá số vui lòng đăng tại mục Xem tứ trụ.
Các bài viết và thành viên vi phạm sẽ bị xử lý.
Hùng804
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 342
Tham gia: 10:34, 25/06/16

TL: UYÊN HẢI TỬ BÌNH TOÀN TẬP

Gửi bài gửi bởi Hùng804 »

Quan vượng phạ quan kị hình xung,
Quan khinh kiến tài vi phúc lợi.

(Quan vượng sợ Quan, như 2 Quan gặp nhau, vận lại gặp tiếp, thấy xung là bất lợi. Quan nhẹ mà thấy Tài, lấy Tài là Lộc thì cát).
Niên thượng Thương quan tối khả hiềm,
Trọng phạ Thương quan bất khả xúc.

(Trụ năm có Thương quan chủ khắc tổ hoặc hại tổ nghiệp, thấy trùng ở trụ tháng và giờ, tai họa không tránh khỏi).
Thương quan dụng Tài nãi vi phúc,
Tài tuyệt Quan suy phúc diệc nhiên.

(Thương quan chủ là người thích khoe tài, Quan vượng nếu không có Tài, chủ là người vô phúc).
Tham hợp vong Quan vinh không đủ,
Tham hợp vong Sát là thân phúc.

(Quan là thiện nhân là quân tử, đã hợp thì không là đại dụng. Sát là kẻ hung ác, tiểu nhân, kị mà hợp, nhận kị là được chỗ dùng).
Ghi chú : Giáp lấy Tân là Quan, có Bính hợp. Lấy Canh là Sát, dụng Ất hợp.】
Đầu trang

Hùng804
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 342
Tham gia: 10:34, 25/06/16

TL: UYÊN HẢI TỬ BÌNH TOÀN TẬP

Gửi bài gửi bởi Hùng804 »

Kham ta thân nhược sợ Tài đa,
Cánh lịch Quan hương họa tương trục.

(Như Giáp Thân, Giáp Tuất, tứ trụ thấy Mậu Kỷ chính là Tài đa thân nhược, không đảm nhận được. Nếu vận tới đất Quan, hai Quan tranh nhau tất có họa).
Tài đa thân nhược Thực thần đến,
Thực thần hội Sát tất thành tai.

(Thực thần, là con do Ta sinh ra, là thần cướp khí).
Hội thiên hợp địa có hình khắc,
Cánh nghi đạt sĩ tường suy tài.
Đầu trang

Pyen
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 541
Tham gia: 15:53, 30/09/14

TL: UYÊN HẢI TỬ BÌNH TOÀN TẬP

Gửi bài gửi bởi Pyen »

Cháu chào chú, lâu rồi onl mới thấy chú. Cháu vẫn còn nhớ nick chú ở tubinhdieudung. Hihih, chú vẫn khỏe chứ ah? Xin lỗi vì đã xen vào giữa bài chú.
Đầu trang

Hùng804
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 342
Tham gia: 10:34, 25/06/16

TL: UYÊN HẢI TỬ BÌNH TOÀN TẬP

Gửi bài gửi bởi Hùng804 »

Chào bạn, nick quá nhiều tôi không nhớ được. Tôi cũng chúc bạn sức khỏe, cảm ơn bạn.
Đầu trang

Hùng804
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 342
Tham gia: 10:34, 25/06/16

TL: UYÊN HẢI TỬ BÌNH TOÀN TẬP

Gửi bài gửi bởi Hùng804 »

Tường giải định chân luận
Nói đến ngày sinh là chủ, lệnh vua hành quân, phép vận bốn mùa, âm dương tình cương nhu, nội ngoại đạo phủ thái ——
Lấy ngày là chủ, như lệnh cho người hành quân, tứ trụ tôn ngày làm chủ vậy. Phép vận tứ thời, là Xuân Hạ Thu Đông vậy. Ví như đầu xuân mộc vượng hỏa sinh, mộc có thể sinh hỏa vậy. Đầu hạ hỏa vượng thổ sinh, hỏa có thể sinh thổ vậy. Đầu thu kim vượng thủy sinh, kim có thể sinh thủy vậy. Đầu đông thủy vượng mộc sinh, thủy có thể sinh mộc vậy. Thổ vượng ở bốn mùa, là tháng Thìn Tuất Sửu Mùi vậy, cho nên là phép vận chuyển bốn mùa. Tình cương nhu, âm có cương nhu, dương có cương nhu. Nguyệt lệnh có khí viết là Cương, vô khí viết là Nhu. Nội ngoại đạo phủ thái, là năm tháng ngày giờ vậy, tam nguyên phối hợp với thiên can địa chi. Phàm thiên can địa chi thấu xuất ra ngoài ngày, ẩn tàng ở trong ngày. Phủ, là bế tắc vậy, Thái là hanh thông vậy. Xoay vòng trong một năm, 1 năm có 12 tháng, 1 ngày có 12 giờ, cho nên tích giờ thành năm, năm và ngày, chủ âm dương vậy. Tuế là triều vua, ngày theo triều vua, vua lệnh thần theo mệnh vậy. Thần bẩm mệnh cho vua, suy ra được ở thân vậy. Người xưa lệnh thần hành quân, thì có phân chia quý tiện cát hung. Cho nên có thể lừa dối Nhật mà không thể lừa dối Nguyệt vậy, Nhật có thể lừa Tuế, không thể lừa Nguyệt vậy, cho nên nói Nhật là chủ. Nhật chủ, phép vận chuyển bốn mùa, phép theo không đổi vậy. Bởi do khí trời đất có bốn mùa, thường dụng khí ngũ hành ở Xuân Hạ Thu Đông. Cho nên khí xuân ấm áp, mộc vượng 72 ngày; khí hạ viêm, hỏa vượng 72 ngày; khí Thu mát, kim vượng 72 ngày; khí Đông lạnh, thủy vượng 71 ngày; tháng tứ quý thổ mỗi cái vượng 18 ngày, cộng lại có 360 ngày để thành tuế công. Phú nói: Tuế công truyền bá, bốn mùa thành năm. Âm dương, Giáp Bính Mậu Canh Nhâm là dương can, Ất Đinh Kỷ Quý Tân là âm can. Phàm suy ngũ hành, âm dương không phối hợp, trên dưới không thiên lệch nhau là quý mệnh vậy. Nếu trong trụ có được thiên âm thiên dương, là cương nhu vậy. Như thấy mộc dụng kim là Quan, kỳ kim thu sinh hoặc mang thủy hỏa, thì là kim cương vậy. Nếu kim sinh mùa xuân hạ mang Bính Đinh, thì mộc cường mà kim nhu vậy. Phàm âm dương thiên khô, phối ngẫu không thành, dù có kim là Quan quỷ mộc, không thấy thê tài, trái lại là nhân nghĩa đều không có, cương nhu không tốt. 【Ghi chú : Lấy mộc là Nhân, lấy Kim là Nghĩa 】cho nên thiên âm thiên dương gọi là bệnh tật, chỗ này gọi là Hữu tình Vô tình vậy. Phàm tường thuật lại cần phải rõ tình cương nhu vậy. Phú nói: Càn Khôn biết đực cái, kim mộc định chỗ cương nhu vậy. Phàm xem mệnh chuyên lấy Thiên nguyên ở trên trụ ngày làm chủ, lý lẽ định kỳ họa phúc vinh khô. Thiên nguyên ở trên Chi viết là Ngoại, chỗ tàng ở trong Chi là Nội. Thiên can cùng chỗ địa chi ẩn tàng Nhân nguyên, hoặc là Quan, là phúc, là họa, phương có định lý cát hung. Còn như sinh ngày Giáp, Giáp Tý là Ấn thụ, Giáp Dần là kiến lộc, Giáp Thìn là Tài khố, Giáp Ngọ là thê tài, Giáp Thân là Quan quỷ, Giáp Tuất là Tài Quan, nếu sinh tháng 8 chính khí Quan, mệnh đại quý vậy. Giáp lấy Tân Dậu kim là Quan tinh, nếu có Đinh hỏa hại Quan Tân kim, trụ có gặp Quý thủy thì chế Đinh hỏa, cho nên Quý thủy chính là Ấn thụ của Giáp vậy. 【Ghi chú : Tháng 8 Quan tinh, rất sợ Mão Đinh】. Lại cần suy đoán trong ngoài của tứ trụ mà nói cát hung. Trước mắt nói gốc có Tài Quan, đến vận Tài Quan, đa số là mệnh vinh đạt vậy. Gốc không có Tài Quan, phục hành Tài Quan mà không phát vậy.

***********************
Đầu trang

Hùng804
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 342
Tham gia: 10:34, 25/06/16

TL: UYÊN HẢI TỬ BÌNH TOÀN TẬP

Gửi bài gửi bởi Hùng804 »

Quyển một (3)
Tiến thoái tương khuynh —— Giả như Tân kim lấy Bính hỏa là Quan tinh, sinh Cửu Hạ thì là hướng Quan, chủ Quan thăng tiến vậy 【Ghi chú : Cửu Hạ, là tháng 4,5,6 vậy, tổng cộng là 90 ngày, gọi là Cửu Hạ 】. Sinh tháng 8, là khí thoái, Quan không thăng tiến vậy. Trụ dụng thần vượng tướng, thì có khánh vinh, nếu tử tuyệt hưu tù, thì không có khánh vinh. Phú nói: Tương lai là tiến, công thành là thoái vậy.
Động tĩnh tương phạt —— Bởi vì can là trời, có động mà không có tĩnh. Lấy chi là đất, có tĩnh mà không có động. Giáp chính là lấy ở thiên can, Tý chính là lấy ở địa chi, cuối cùng là Hợi mà trở lại là Tý, xoay vòng không ngừng, thập nhị chi tuần hoàn. Một động một tĩnh, một âm một dương, đem thay thế mà dùng, cuối cùng là tới Quý Hợi vậy. Không gặp ngũ thần tương khắc, tam sinh định mệnh 【Ghi chú : Ngũ thần, là kim mộc thủy hỏa thổ vậy; Tam Sinh, là thiên nguyên, địa nguyên và nhân nguyên 】, phân thành 60 hoa Giáp Tý. Nói người đời sau học tập phải biết động và tĩnh, là có thể biết yếu quyết vậy.
Thủ cố hanh xuất nhập chi hoãn cấp —— Cố là kiên vậy; Hanh là thông vậy. Muốn biết quý tiện cát hung, trước tiên cần phải xem ngày sinh, gốc bản thân phải kiên cố. Lại xem tứ trụ Tài Quan có hay không có phá hại, tự nhiên hanh thông. Xuất Nhập, là hành vận xuất nhập vậy. Chỗ này tức là loại dương nam âm nữ thuận hành xuất ra khỏi Tuất mà nhập vào Hợi. Như nam mệnh sinh ngày Nhâm Quý, vận ở Tuất, là phương tụ ở đất hỏa thổ, là Tài Quan cát vận. Xuất ra khỏi Tuất nhập vào Hợi là đất Tài Quan tử tuyệt, dù có đến đất thân vượng, cuối cùng vẫn là hung vận. Ta khắc gọi là Thê tài, ở xứ sinh vượng thì nhiều phúc khánh. Đều là cùng lấy thể dụng âm dương ngũ hành, dụng khắc thân là đất Quan quỷ, nhật can khắc vận là đất tài tụ. Khởi vận đều là từ tháng sinh, nếu như tứ trụ sinh loại Tài Quan, không ở đất hưu bại, vận đến đất Tài Quan, phàm đều là quan tiến vinh đạt mà cấp tốc. Hoặc nếu sinh không có Tài Quan, nhật can vô khí, lại hành đến đất Tài vượng, phàm lấy chỗ là Tài, đều là thoái tán mà không thành. Vận cần đến cát khánh, trái lại vì lấy phúc mà thành họa, họa đến và cấp tốc, tuy phát vinh cũng chậm chạp. Phú nói: Chính là đến hành xuất nhập mà phạm phương hung.
Đầu trang

Hùng804
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 342
Tham gia: 10:34, 25/06/16

TL: UYÊN HẢI TỬ BÌNH TOÀN TẬP

Gửi bài gửi bởi Hùng804 »

Cầu tể phục tán, liễm chi cự vi —— Tể là tiến vậy; Phục là thoái vậy; là công danh tiến thoái. Tán là phân tán vậy, Liễm là tụ vậy, là tài bạch tụ tán. Cự là nhiều vậy, Vi là ít vậy, là ngũ hành đang sinh, mệnh vận vâng lệnh, là dấu hiệu quý tiện họa phúc, phát hiện nhiều hay ít vậy. Luận tài bạch tụ tán, nếu tứ trụ tài bạch có khí, nhật can lại vượng, lại có Bại tài, Dương Nhận, vận đến đất tài, thì ở trong cục, Tài nhiều mà đại phát vậy. Nếu gốc có Tài bạch, lại bị cướp đoạt, nhật chủ lại suy, vận đến đất Tài vượng cũng không phát phúc, định là tổn tài thương thê. Cho nên căn nguyên là bạc nhược, chỗ phúc là ít vậy. Phú nói: Phúc tinh đến mà họa phát, dấu hiệu là hung nhân vậy.
Phương pháp lựa chọn có Tam yếu: Lấy can là trời, lấy chi là đất, trong chi chỗ ẩn tàng là nhân nguyên, mới phân ra tứ trụ 【Ghi chú : Tam yếu, là tam nguyên vậy; Tứ trụ, là năm tháng ngày giờ vậy 】. Lấy năm làm căn gốc, tháng là mầm mống, ngày là hoa, giờ là quả. Lại chọn trong tứ trụ, lấy năm là Tổ thượng, thì biết thế lẽ đại tông phái thịnh suy. Tháng là phụ mẫu, thì biết thân ấm có hay không có loại danh lợi. Lấy ngày làm bản thân, lấy can mà suy, suy xét tìm tòi mà sử dụng bát tự, gốc là trong ngoài sinh khắc mà lấy hay bỏ.
Can nhược thì dựa vào mưu cầu khí vượngGhi chú : Tạ là dựa vào vậy 】, có Dư (Thừa) thì muốn mưu cầu Bất cập (không đủ) —— Lấy ngày làm chủ, trong năm tháng xem có Quan hay không có Quan, có Tài hay không có Tài, có Ấn hay không có Ấn, thì quý tiện có thể biết. Cho nên trụ năm là gốc rễ, trước tiên xem trong năm tháng có Tài Quan Ấn thụ, trước tiên là gốc rễ phải có khí vậy, thì sau đó trong ngày giờ mới tượng khai hoa kết quả vậy. Kinh viết: Gốc ở trước mầm, quả ở sau hoa. Ngày là bản thân, sưu tầm sử dụng bát tự, có được loại cách cục cát thần, hung thần. Hỷ là lấy, Kị là bỏ.
Đầu trang

Hùng804
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 342
Tham gia: 10:34, 25/06/16

TL: UYÊN HẢI TỬ BÌNH TOÀN TẬP

Gửi bài gửi bởi Hùng804 »

Phú nói: Hỷ thì tích lũy, Kị thì vứt đi. Can ngày nếu dựa vào mưu cầu khí vượng, can ngày vượng lại sợ khí vượng, sợ thái quá trái lại là mệnh bất túc (không đủ), do chỗ này là tổn tài thương thê. Gốc là thiên nguyên địa chi, cho nên xem thuyết gốc mầm hoa quả, phải nghiên cứu kĩ càng cẩn thận. Tứ trụ năm tháng ngày giờ, quý tiện, cao thấy, thì có loại gốc mầm hoa quả. Như sinh mệnh vốn có Tài Quan, vận đến Tài Quan thì thành phúc. Nếu sinh ra không có Tài Quan, vận đến Tài Quan thì cũng không thành phúc. Là sinh gốc trước mà mầm có sau, hoa nở mà sau đó mới có quả. Nhìn ở điềm báo trước, để tra nguồn gốc, gốc ở trước mầm, quả ở sau hoa. Lại chọn lựa ở trong tứ trụ, lấy năm là tổ thượng là căn cơ điền trạch, cung vị các thế hệ cha ông, nếu cùng với năm tháng ngày hợp là phú quý, lại tháng và giờ sinh không đến hình hại năm sinh, thì căn cơ tổ tông vinh quang mà không suy yếu vậy. Lại được danh dự tổ thượng, có đầy đủ phúc ấm điền trạch tổ tiên để lại, là vinh hoa mà vĩnh viễn không suy vậy. Nếu trái lại chỗ này thì không phải vậy. 【Ghi chú: Ngũ hành phải hung thời mới có thể luận tổ tông, tháng mùa giờ cũng như vậy 】.
Đầu trang

Hùng804
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 342
Tham gia: 10:34, 25/06/16

TL: UYÊN HẢI TỬ BÌNH TOÀN TẬP

Gửi bài gửi bởi Hùng804 »

Lấy tháng sinh là cung phụ mẫu, nếu trong tháng có sao Tài Quan, vượng thịnh không bị xung phá, lại có Thiên nguyên ngày sinh ở đất sinh dưỡng, thì người nhận phúc của cha mẹ để lại. Can ngày ở đất suy tử, là người dù có phúc của cha mẹ, cuối cùng thân được che chỡ cũng không có lâu dài vậy. Lấy ngày là bản thân, thiên nguyên ngày sinh chính là bản thân vậy. Cung vị của bản thân, tất phải nắm rõ. Xem Thiên nguyên ngày sinh đến phân chia ở cung nào, lại xem trong năm tháng và giờ có cách cục nào. Nếu có loại Quý nhân Lộc Mã, cũng không có phá hại, chính là mệnh tốt. Gặp chỗ này sinh vượng không có hình hại, thì hỷ mà lấy thành phúc. Nếu như thần đang sinh, mà gặp tử tuyệt hưu bại, lại gặp hình xung phá hại, thì là kị là họa nên vứt đi. Can ngày suy mà dựa vào mưu cầu khí vượng. Ví như loại Nhâm Quý Tị Ngọ, đều là do Thiên nguyên ngày sinh lâm đất tử tuyệt là thân nhược vậy. Nhâm Quý lấy Bính Đinh là Tài tinh, lấy Mậu Kỷ là Quan tinh, Tị Ngọ hỏa đến sinh đất Quan sinh vượng, lại thêm sinh vào mùa Cửu Hạ ( tháng 4,5,6), thì có sao Quan tinh cùng Lộc Mã, là có khí khánh phúc, nên có việc quá vui vậy. Nếu người sinh Nhâm Quý sinh ở tháng mùa Đông, dù nhật can nắm vượng khí, cuối cùng không lấy được phú vậy. Nếu khí Tài Quan đều là vượng thủy, thì hỏa tử thổ tù vậy, nếu người gặp chỗ này, cả đời bôn ba gian truân trì trệ, người khó mà hưởng phúc vậy. Tuy vượng cũng có nhiều thành bại, thì cầm quan không thành, cầm tài không vững vậy. Ví như ngày Canh Dần, chính là khí thiên can suy nhược vậy.
Đầu trang

Hùng804
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 342
Tham gia: 10:34, 25/06/16

TL: UYÊN HẢI TỬ BÌNH TOÀN TẬP

Gửi bài gửi bởi Hùng804 »

Tam Mệnh 》nói: Là mệnh nhiều tước đoạt, phương gặp quỷ nhận Quan vượng, nên có địa vị Tài Quan vậy. Như Canh kim lấy Ất mộc là Tài, Đinh hỏa là Quan. Dần, Giáp mộc lâm quan, Bính hỏa trường sinh, là đất Quan vượng, nên là người lấy kim phân ra xem, Xuân Hạ thì phúc vậy. Người sinh Thu Đông phải gặp vượng, khí Tài Quan thoái tán, gặp đất tử tuyệt hưu tù, không có đầy đủ nên là người bình thường, gia đạo tịch mịch khó cai trị vậy, định là khắc thê hại tử vậy. Nhật can suy thì dựa vào mưu cầu khí vượng, dư thừa thì muốn mưu cầu bất túc vậy.
Đầu trang

Trả lời bài viết