Kiến thức tử vi hay
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục trao đổi kiến thức về tử vi dành cho thành viên chính thức. Các bài viết trao đổi cần có nội dung kiến thức hoặc cung cấp thông tin nghiệm lý. Muốn nhờ xem, luận giải lá số vui lòng đăng tại mục Xem tử vi.
Không được đính kèm lá số của trang web khác. Các bài viết và thành viên vi phạm sẽ bị xử lý.
Đây là chuyên mục trao đổi kiến thức về tử vi dành cho thành viên chính thức. Các bài viết trao đổi cần có nội dung kiến thức hoặc cung cấp thông tin nghiệm lý. Muốn nhờ xem, luận giải lá số vui lòng đăng tại mục Xem tử vi.
Không được đính kèm lá số của trang web khác. Các bài viết và thành viên vi phạm sẽ bị xử lý.
TL: Kiến thức tử vi hay
Xem xét một lá số Tử Vi không thể tùy tiện ngẫu hứng,lúc xem cung,khi xem sao,khi phán hồ đồ bằng lời phú cổ,mà nhất thiết phải định vị lá số theo phương vị cung Mệnh,tam hợp cung Mệnh,bậc hạng và nghề nghiệp (Bài 2)
1.ĐỊNH VỊ THEO PHƯƠNG VỊ
Mười Hai Chi,khởi từ cửa Khảm Thủy,nơi âm dương hoan phối tạo thành thai khí,với chi Tí thuộc dương,khởi thuận đến Sửu cho tới hết vòng (Tí,Sửu,Dần,Mão,Thìn,Tỵ,Ngọ, Mùi, Thân,Dậu,Tuất,Hợi),gồm 12 chi tạo nên vòng tuần hoàn dương âm mà lập nên lá số Tử Vi.Vòng tuần hoàn 12 cung ấy,phân tam cương thành ba phương vị Tam Tài là Thiên,Địa và Nhân.Các cung Tỵ,Ngọ,Mủi,Thân thuộc phương Thiên,các cung Hợi,Tí,Sự,Dần thuộc phương Địa và các cung Mão,Thìn,Dâu,Tuất thuộc phương Nhân.
Định vị theo phương vị là định vị cung Mệnh,cung Quan và cung Tài cư ỡ vị trí nào trên Thiên bàn Tử Vi.Nguyên lý là ba cung Mệnh Quan Tài được phân bố trên cả ba phương vị Tam tài.Ví dụ : Người có cung Mệnh an tại Tí là thuộc phương Địa,thì cung Quan an tại phương Địa và cung Tài an tại phương Thiên.
Cung an tại phương Thiên thì hung cát phụ thuộc vào yếu tố Trời (ngoại lực,vũ trụ ),cung an tại phương Địa thì hung cát phụ thuộc vào yếu tố Đất (môi trường, cộng đồng),cung an tại phương Nhân thì yếu tố hung cát phụ thuộc vào yếu tố Bản thân (tính tình tính cách,nội lực)
Ví dụ đã dẫn,Người nam,tuổi Giáp Thân,cung Mệnh an tại Tí (phương Địa),cung Quan an tại Thìn (phương Nhân) và cung Tài an tại Thân (phương Thiên),dự đoán : Cung Mệnh an tại phương Địa là người dễ dàng thích nghị tướng ứng và chinh phục được hoàn cảnh,môi trường mà vững vàng về sinh tồn,sinh lý.Cung Tài an tại phương Thiên,có năng lực và mát tay trong việc tạo ra phú quí,tiền bạc,mức sống trong xã hội trên trung bình.Cung Quan (nghề nghiệp) phải tranh đấu vất vả,cực nhọc và dù tranh đấu vất vả cực nhọc cũng khó có cơ may thành công.
Định vị phương vị cung là căn cứ dẫn đường dự báo tránh những sai lạc,lẫm lần ngay từ khi bắt đầu bấm số dự đoán.
2.ĐỊNH VỊ THEO TỨ,TAM HỢP CUNG
Thập Can,Thập Nhị Chi và Bát Quái phối hợp trên Thiên Bàn Tử Vi theo phương hướng và sơn trạch,như sau :
Nhân-Tí-Quí thuộc phương Bắc (0*),Bính-Ngọ-Định thuộc phương Nam (180*), Giáp-Mão-Ất thuộc phương Đông (90*) và Canh-Dậu-Tân thuộc phương Tây (270*).Gọi theo chi là Tí,Ngọ,Mão,Dậu là Tứ Tuyệt.
Sửu-Cấn-Dần thuộc phương Đông bắc (1-89*).Thìn-Tốn-Tỵ thuộc phương Đông Nam (91-179*).Mùi-Khôn-Thân phương Tây Nam (181-269*).Tuất-Càn-Hợi thuộc phương Tây Bắc (271-359).Bốn phương này gọi là Tứ Sinh.
Trong tứ sinh này,mỗi Sinh đều có một chi thổ là 4 chi thổ Thìn Tuất Sửu Mùi và hai Can Kỷ và Mậu ra vào được thiên bàn,tụ tại Trung Tâm,nên Trung Tâm (hay Trung Cung) thuộc thổ.Bốn chi Thìn,Tuất,Sửu ,Mùi còn gọi là tứ thổ.
Thập Nhị Chi trên thiên bàn Tử Vi,tạo thành 4 Tam hợp cung,mổi tam hợp có ba cung,một cung thuộc Tứ Tuyệt,một cung thuộc Tứ Mộ và một cung thuộc Tứ Sinh,chủ tam hợp là cung thuộc Tứ Tuyệt,chi tiết như sau :
Tam hợp Thân,Tí,Thìn : Cung Tí,phương chính Bắc,thuộc tứ Tuyệt,là chủ tam hợp,100% thủy.Cung Thân,phương Tây Nam, thuộc tứ sinh,là kim dới thủy.Cung Thìn,thuộc tứ thổ,là thổ đới thủy.Tam hợp Thân-Tí-Thìn,gọi là tam hợp thủy,chủ việc Giao Tiếp.
Tam hợp Dần,Ngọ,Tuất : Cung Ngọ,phương chính Nam,thuộc tứ tuyệt ,là chủ tam hợp,100% hỏa.Cung Dần,phương Đông bắc,thuộc tứ sinh,là mộc đới hỏa.Cung Tuất,thuộc tứ thổ,là thổ đới hỏa.Tam hợp Dần-Ngọ-Tuất là tam hợp hỏa,chủ việc Thành Tích (tiền và danh).
Tam hợp Tỵ,Dậu,Sửu : Cung Dậu,phương chính Tây,thuộc tứ tuyệt,là chủ tam hợp,100% kim.Cung Tỵ,phương Đông Nam,thuộc tứ sinh,là hỏa đới kim.Cung Sữu,thuộc tứ thổ,là thổ đới kim.Tam hợp Tỵ-Dậu-Sửu là tam hợp kim,chủ việc An Toàn (tiền và pháp luật).
Tam hợp Hợi,Mão,Mùi : Cung Mão,phương chính Đông,thuộc từ tuyệt,là chủ tam hợp,100% mộc.Cung Hợi,phương Tây Bắc,thuộc tứ sinh,là thủy đới mộc.Cung Mùi,thuộc tứ thổ,là thổ đới mộc.Tam hợp Hợi-Mão-Mùi là tam hợp mộc,chủ việc Sinh,Dưỡng,Tự trọng.
Từ vị trí của cung Mệnh trên thiên bàn Tử Vi thuộc Tứ,Tam hợp cung nào,căn cứ từ vi trí đó mà định vị là số theo hướng Tam tài (phúc,lộc,thọ),nghề nghiệp,tính tình tính cách,tư chất,nội lực,khả năng tương ứng thích nghi...và cũng từ đó mà luận hung,cát.
3.ỨNG DỤNG ĐỊNH VỊ MỘT SỐ BẬC,HẠNG LÁ SỐ
1/ CÁC LÁ SỐ KHUYNH HƯỚNG THỌ YỂU :
Cung Mệnh (hoặc cung Phúc) cư phương Thiên,hoặc phương Địa,trong tam hợp Thân Tí Thìn hoặc Dần Ngọ Tuất,cung Mệnh an tại Tí,Ngọ,Mão,Dậu,lại có các sao Tử,Phủ,Vũ,Phá,Liêm,Tham hoặc Đồng ,Lương sáng sủa tốt đẹp tọa thủ thì chắc chắn là được hưởng phúc và sống lâu.
Ba cung Mệnh,Thân hay Phúc cư phương Nhân đều xấu xa mờ ám,lại có Lục sát (Kình,Đà,Không,Kiếp,Hỏa,Linh) xâm hại tất có khuynh hướng đau ốm bệnh tật, họa hại và tuổi trời khó cao.
2/CÁC LÁ SỐ CÓ KHUYNH HƯỚNG GIẦU SANG VÀ NGHÈO HÈN :
Cung Tài hoặc cung Quan cư phương Thiên hoặc Địa.Cung Mệnh,Quan,Tài cư tam hợp Dần Ngọ Tuất.Cung Mệnh và cung Thân phải tránh được Tuần,Triệt, tránh được Đại Tiều Hao và Lục Sát,thêm vào đó có Tài tinh (Vũ Khúc) và Tả Hữu tinh thủ chiếu,thì chắc chắn đó là lá số giầu sang.
Cung Mệnh hoặc Thân an tại Tứ Sinh (Dần,Thân,Tỵ,Hợi),không có những sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp,lại gặp nhiều sát tinh xâm phạm,kể như đó là những lá số đáng than thân trách phận vì nghèo hèn.
3/ CÁC LÁ SỐ CÓ KHUYNH HƯỚNG VĂN,VÕ CHỨC NGHIỆP
Cung Mệnh Thân,cư tam hợp Thân,Tí ,Thìn có khuynh hướng nghề nghiệp thuộc thủy giao tiếp,như : Tiếp thị,quảng cáo,truyền thông,dạy học,khách sạn nhà hàng, vận tải,du lịch,ngoại giao,tiếp khách.Cung Mệnh Thân,cư tam hợp Dần Ngọ Tuất,có khuynh hướng nghề nghiệp thuộc hỏa thành tích : Trẫm,Hậu,tài chính,tiền tệ,chứng khoán,chính khách,lãnh tụ,huân huy chương,chiến binh, ngựa,lửa.Cung Mệnh Thân cư tam hợp Tỵ,Dậu,Sửu,có khuynh hướng nghề nghiệp thuộc kim an toàn,như : ngân hàng,kiểm toán,chứng khoán,kiểm sát,thuế vụ,tòa án,lập pháp,hành .Cung Mệnh,Thân cư tam hợp Hợi,Mão,Mùi,có khuynh hướng nghề nghiệp thuộc mộc sinh,dưỡng,tự trọng như : thầy giáo,bác sĩ,luật sư,người cầm đầu hội đoàn,lãnh tụ,người làm vường,trồng cấy,người chăn nuôi,chế biến thực phẩm.
Ba cung Phúc Đức và Mệnh Thân có các chính tinh thuộc hệ thống hai chòm sao Thái Dương và Thái Âm tọa thủ hội với các trung tinh : Tả,Hữu,Xương,Khúc,Khôi, Việt và Khoa Quyền Lộc thì chắc chắn là lá số lập nghiệp văn cách.
Ba cung Phúc Đức và Mệnh Thân có cá chính tinh thuộc hệ thống hai chòm sao Tử Phủ hội với Sát tinh,hội với Khoa Quyền Lộc,Binh Hình,Tướng,Ấn thì chắc chắn là lá số lập nghiệp võ cách.
4.CÁC LÁ SỐ CÓ KHUYNH HƯỚNG VẾ TÍNH TÌNH TÍNH CÁCH
a/ KHUYNH HƯỚNG THÔNG MINH :
Cung Phúc Đức là căn cứ quan trọng nhất,cung Phúc Đức phải có văn tinh tọa thủ và phải sáng sủa rực rỡ.
Thượng cách thông minh hay thông minh tột bực thì cung Mệnh Thân phải có Phủ,Tướng,Xương,Khúc,Khôi,Việt,Tả Hữu,Long Phượng,Thai Tọa hội hợp.
Trung cách thông minh,nhanh nhẹn tháo vát,tài hoa,khéo tay : Xương Khúc,Khôi Việt,Tả Hữu,Long Phương,Thai Tọa,ít nhất phải có ba trong số các cặp sao này hội hợp tọa thủ cung Mệnh,Thân.
b/KHUYNH HƯỚNG UY DŨNG,GIANG HỒ :
Cung Mệnh,Thân có các chính tinh thuộc hệ thống hai chòm sao Tử Phủ tọa thủ sáng sủa tốt đẹp,hội với Tả Hữu,Quyền Ấn là những lá số uy dũng,có nội lực,ra ngoài được nhiều người kính trọng vị nể.
Cũng các lá số trên (mục 1) nếu hội với các sao Đào Hồng Hỉ,Mộc Dục Hoa Cái,Thai Thanh Long thì cũng rất uy dũng nhưng hàm nghĩa giang hồ,như tướng cướp,lãnh tụ tạo phản,cầm đầu băng đảng.
Cung Mệnh hoặc Thân có các chính tinh : Tham Lang,Phá Quân tọa thủ,dù miếu vượng hay bại,hãm,nếu hội hợp với Riêu Đào,Mộc cái,Thai Long,đều là những lá số chơi bời phóng đãng,rượu chè,trai gái,cờ bạc,nói chung là sa mê tửu sắc cờ bạc mà chuốc họa hại.
5/MỘT VÀI LÁ SỐ KHUYNH HƯỚNG DẠNG BIỆT
Các loại dạng biệt này chỉ xét trên cung và sao tọa tại cung đó và chủ yếu trên ba cung Mệnh,Thân và Quan.
Tử Phủ,Cự Nhật miếu vượng,an phận thủ thường,vui vẻ,thẳng thắn,nhưng kinh doanh tất thua lỗ.
Tử Phủ miếu vượng gặp Kinh đồng cung thương nhân cự phú.
Tham Đồng,Cơ Nguyệt sáng sủa tốt đẹp : tính toán giỏi,mát tay,buôn một bán mười,tiền nhiều như nước.
Sát Phá Liêm Tham sáng sủa tốt đẹp hội Tả Hữu : buôn bán xa nhà cự phú.
Không Kiếp cư tứ sinh buôn lậu thành thần,tiền nhiều bạc lắm nhưng không giữ được tiền của lâu bền.
Cung Thiên Di an tứ mộ có Vũ Khúc (tài tinh) tọa thủ buôn bán giỏi và ngày càng thịnh vượng.
Vũ Phá tọa thủ đồng cung tại Tỵ,Hợi : giỏi nghề thủ công,khéo tay.
Liêm Phá Mão Dậu : nghề thủ công khác thường,nghệ nhân.
Liêm Tham Tỵ Hợi : thợ rèn,đồ tể hoặc nghề nông nghiệp.
Tả Hữu Xương Khúc : Viết văn làm thơ.
Tả Hữu,Long Phương,Đào Hồng,Thai Tọa : Hội họa.
Long Phượng,Xương Khúc,Tấu Riêu,Đào Hồng : Ca múa nhạc.
Cự Môn Tí Ngọ hội Xương Khúc : Luật sư,thầy giáo,MC.
Cơ,Cự Mão Dậu hội Đại Tiều Hao : Phú thương.
Tử Tham Mão Dậu hoặc Vô chính diệu gặp nhiều sát tinh xâm phạm : Tu hành.
Sát Phá :Liêm Tham mờ ám xấu xa tọa thủ hội sát,bại tinh là hạng gian lận,trộm cướp,tà dâm.
1.ĐỊNH VỊ THEO PHƯƠNG VỊ
Mười Hai Chi,khởi từ cửa Khảm Thủy,nơi âm dương hoan phối tạo thành thai khí,với chi Tí thuộc dương,khởi thuận đến Sửu cho tới hết vòng (Tí,Sửu,Dần,Mão,Thìn,Tỵ,Ngọ, Mùi, Thân,Dậu,Tuất,Hợi),gồm 12 chi tạo nên vòng tuần hoàn dương âm mà lập nên lá số Tử Vi.Vòng tuần hoàn 12 cung ấy,phân tam cương thành ba phương vị Tam Tài là Thiên,Địa và Nhân.Các cung Tỵ,Ngọ,Mủi,Thân thuộc phương Thiên,các cung Hợi,Tí,Sự,Dần thuộc phương Địa và các cung Mão,Thìn,Dâu,Tuất thuộc phương Nhân.
Định vị theo phương vị là định vị cung Mệnh,cung Quan và cung Tài cư ỡ vị trí nào trên Thiên bàn Tử Vi.Nguyên lý là ba cung Mệnh Quan Tài được phân bố trên cả ba phương vị Tam tài.Ví dụ : Người có cung Mệnh an tại Tí là thuộc phương Địa,thì cung Quan an tại phương Địa và cung Tài an tại phương Thiên.
Cung an tại phương Thiên thì hung cát phụ thuộc vào yếu tố Trời (ngoại lực,vũ trụ ),cung an tại phương Địa thì hung cát phụ thuộc vào yếu tố Đất (môi trường, cộng đồng),cung an tại phương Nhân thì yếu tố hung cát phụ thuộc vào yếu tố Bản thân (tính tình tính cách,nội lực)
Ví dụ đã dẫn,Người nam,tuổi Giáp Thân,cung Mệnh an tại Tí (phương Địa),cung Quan an tại Thìn (phương Nhân) và cung Tài an tại Thân (phương Thiên),dự đoán : Cung Mệnh an tại phương Địa là người dễ dàng thích nghị tướng ứng và chinh phục được hoàn cảnh,môi trường mà vững vàng về sinh tồn,sinh lý.Cung Tài an tại phương Thiên,có năng lực và mát tay trong việc tạo ra phú quí,tiền bạc,mức sống trong xã hội trên trung bình.Cung Quan (nghề nghiệp) phải tranh đấu vất vả,cực nhọc và dù tranh đấu vất vả cực nhọc cũng khó có cơ may thành công.
Định vị phương vị cung là căn cứ dẫn đường dự báo tránh những sai lạc,lẫm lần ngay từ khi bắt đầu bấm số dự đoán.
2.ĐỊNH VỊ THEO TỨ,TAM HỢP CUNG
Thập Can,Thập Nhị Chi và Bát Quái phối hợp trên Thiên Bàn Tử Vi theo phương hướng và sơn trạch,như sau :
Nhân-Tí-Quí thuộc phương Bắc (0*),Bính-Ngọ-Định thuộc phương Nam (180*), Giáp-Mão-Ất thuộc phương Đông (90*) và Canh-Dậu-Tân thuộc phương Tây (270*).Gọi theo chi là Tí,Ngọ,Mão,Dậu là Tứ Tuyệt.
Sửu-Cấn-Dần thuộc phương Đông bắc (1-89*).Thìn-Tốn-Tỵ thuộc phương Đông Nam (91-179*).Mùi-Khôn-Thân phương Tây Nam (181-269*).Tuất-Càn-Hợi thuộc phương Tây Bắc (271-359).Bốn phương này gọi là Tứ Sinh.
Trong tứ sinh này,mỗi Sinh đều có một chi thổ là 4 chi thổ Thìn Tuất Sửu Mùi và hai Can Kỷ và Mậu ra vào được thiên bàn,tụ tại Trung Tâm,nên Trung Tâm (hay Trung Cung) thuộc thổ.Bốn chi Thìn,Tuất,Sửu ,Mùi còn gọi là tứ thổ.
Thập Nhị Chi trên thiên bàn Tử Vi,tạo thành 4 Tam hợp cung,mổi tam hợp có ba cung,một cung thuộc Tứ Tuyệt,một cung thuộc Tứ Mộ và một cung thuộc Tứ Sinh,chủ tam hợp là cung thuộc Tứ Tuyệt,chi tiết như sau :
Tam hợp Thân,Tí,Thìn : Cung Tí,phương chính Bắc,thuộc tứ Tuyệt,là chủ tam hợp,100% thủy.Cung Thân,phương Tây Nam, thuộc tứ sinh,là kim dới thủy.Cung Thìn,thuộc tứ thổ,là thổ đới thủy.Tam hợp Thân-Tí-Thìn,gọi là tam hợp thủy,chủ việc Giao Tiếp.
Tam hợp Dần,Ngọ,Tuất : Cung Ngọ,phương chính Nam,thuộc tứ tuyệt ,là chủ tam hợp,100% hỏa.Cung Dần,phương Đông bắc,thuộc tứ sinh,là mộc đới hỏa.Cung Tuất,thuộc tứ thổ,là thổ đới hỏa.Tam hợp Dần-Ngọ-Tuất là tam hợp hỏa,chủ việc Thành Tích (tiền và danh).
Tam hợp Tỵ,Dậu,Sửu : Cung Dậu,phương chính Tây,thuộc tứ tuyệt,là chủ tam hợp,100% kim.Cung Tỵ,phương Đông Nam,thuộc tứ sinh,là hỏa đới kim.Cung Sữu,thuộc tứ thổ,là thổ đới kim.Tam hợp Tỵ-Dậu-Sửu là tam hợp kim,chủ việc An Toàn (tiền và pháp luật).
Tam hợp Hợi,Mão,Mùi : Cung Mão,phương chính Đông,thuộc từ tuyệt,là chủ tam hợp,100% mộc.Cung Hợi,phương Tây Bắc,thuộc tứ sinh,là thủy đới mộc.Cung Mùi,thuộc tứ thổ,là thổ đới mộc.Tam hợp Hợi-Mão-Mùi là tam hợp mộc,chủ việc Sinh,Dưỡng,Tự trọng.
Từ vị trí của cung Mệnh trên thiên bàn Tử Vi thuộc Tứ,Tam hợp cung nào,căn cứ từ vi trí đó mà định vị là số theo hướng Tam tài (phúc,lộc,thọ),nghề nghiệp,tính tình tính cách,tư chất,nội lực,khả năng tương ứng thích nghi...và cũng từ đó mà luận hung,cát.
3.ỨNG DỤNG ĐỊNH VỊ MỘT SỐ BẬC,HẠNG LÁ SỐ
1/ CÁC LÁ SỐ KHUYNH HƯỚNG THỌ YỂU :
Cung Mệnh (hoặc cung Phúc) cư phương Thiên,hoặc phương Địa,trong tam hợp Thân Tí Thìn hoặc Dần Ngọ Tuất,cung Mệnh an tại Tí,Ngọ,Mão,Dậu,lại có các sao Tử,Phủ,Vũ,Phá,Liêm,Tham hoặc Đồng ,Lương sáng sủa tốt đẹp tọa thủ thì chắc chắn là được hưởng phúc và sống lâu.
Ba cung Mệnh,Thân hay Phúc cư phương Nhân đều xấu xa mờ ám,lại có Lục sát (Kình,Đà,Không,Kiếp,Hỏa,Linh) xâm hại tất có khuynh hướng đau ốm bệnh tật, họa hại và tuổi trời khó cao.
2/CÁC LÁ SỐ CÓ KHUYNH HƯỚNG GIẦU SANG VÀ NGHÈO HÈN :
Cung Tài hoặc cung Quan cư phương Thiên hoặc Địa.Cung Mệnh,Quan,Tài cư tam hợp Dần Ngọ Tuất.Cung Mệnh và cung Thân phải tránh được Tuần,Triệt, tránh được Đại Tiều Hao và Lục Sát,thêm vào đó có Tài tinh (Vũ Khúc) và Tả Hữu tinh thủ chiếu,thì chắc chắn đó là lá số giầu sang.
Cung Mệnh hoặc Thân an tại Tứ Sinh (Dần,Thân,Tỵ,Hợi),không có những sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp,lại gặp nhiều sát tinh xâm phạm,kể như đó là những lá số đáng than thân trách phận vì nghèo hèn.
3/ CÁC LÁ SỐ CÓ KHUYNH HƯỚNG VĂN,VÕ CHỨC NGHIỆP
Cung Mệnh Thân,cư tam hợp Thân,Tí ,Thìn có khuynh hướng nghề nghiệp thuộc thủy giao tiếp,như : Tiếp thị,quảng cáo,truyền thông,dạy học,khách sạn nhà hàng, vận tải,du lịch,ngoại giao,tiếp khách.Cung Mệnh Thân,cư tam hợp Dần Ngọ Tuất,có khuynh hướng nghề nghiệp thuộc hỏa thành tích : Trẫm,Hậu,tài chính,tiền tệ,chứng khoán,chính khách,lãnh tụ,huân huy chương,chiến binh, ngựa,lửa.Cung Mệnh Thân cư tam hợp Tỵ,Dậu,Sửu,có khuynh hướng nghề nghiệp thuộc kim an toàn,như : ngân hàng,kiểm toán,chứng khoán,kiểm sát,thuế vụ,tòa án,lập pháp,hành .Cung Mệnh,Thân cư tam hợp Hợi,Mão,Mùi,có khuynh hướng nghề nghiệp thuộc mộc sinh,dưỡng,tự trọng như : thầy giáo,bác sĩ,luật sư,người cầm đầu hội đoàn,lãnh tụ,người làm vường,trồng cấy,người chăn nuôi,chế biến thực phẩm.
Ba cung Phúc Đức và Mệnh Thân có các chính tinh thuộc hệ thống hai chòm sao Thái Dương và Thái Âm tọa thủ hội với các trung tinh : Tả,Hữu,Xương,Khúc,Khôi, Việt và Khoa Quyền Lộc thì chắc chắn là lá số lập nghiệp văn cách.
Ba cung Phúc Đức và Mệnh Thân có cá chính tinh thuộc hệ thống hai chòm sao Tử Phủ hội với Sát tinh,hội với Khoa Quyền Lộc,Binh Hình,Tướng,Ấn thì chắc chắn là lá số lập nghiệp võ cách.
4.CÁC LÁ SỐ CÓ KHUYNH HƯỚNG VẾ TÍNH TÌNH TÍNH CÁCH
a/ KHUYNH HƯỚNG THÔNG MINH :
Cung Phúc Đức là căn cứ quan trọng nhất,cung Phúc Đức phải có văn tinh tọa thủ và phải sáng sủa rực rỡ.
Thượng cách thông minh hay thông minh tột bực thì cung Mệnh Thân phải có Phủ,Tướng,Xương,Khúc,Khôi,Việt,Tả Hữu,Long Phượng,Thai Tọa hội hợp.
Trung cách thông minh,nhanh nhẹn tháo vát,tài hoa,khéo tay : Xương Khúc,Khôi Việt,Tả Hữu,Long Phương,Thai Tọa,ít nhất phải có ba trong số các cặp sao này hội hợp tọa thủ cung Mệnh,Thân.
b/KHUYNH HƯỚNG UY DŨNG,GIANG HỒ :
Cung Mệnh,Thân có các chính tinh thuộc hệ thống hai chòm sao Tử Phủ tọa thủ sáng sủa tốt đẹp,hội với Tả Hữu,Quyền Ấn là những lá số uy dũng,có nội lực,ra ngoài được nhiều người kính trọng vị nể.
Cũng các lá số trên (mục 1) nếu hội với các sao Đào Hồng Hỉ,Mộc Dục Hoa Cái,Thai Thanh Long thì cũng rất uy dũng nhưng hàm nghĩa giang hồ,như tướng cướp,lãnh tụ tạo phản,cầm đầu băng đảng.
Cung Mệnh hoặc Thân có các chính tinh : Tham Lang,Phá Quân tọa thủ,dù miếu vượng hay bại,hãm,nếu hội hợp với Riêu Đào,Mộc cái,Thai Long,đều là những lá số chơi bời phóng đãng,rượu chè,trai gái,cờ bạc,nói chung là sa mê tửu sắc cờ bạc mà chuốc họa hại.
5/MỘT VÀI LÁ SỐ KHUYNH HƯỚNG DẠNG BIỆT
Các loại dạng biệt này chỉ xét trên cung và sao tọa tại cung đó và chủ yếu trên ba cung Mệnh,Thân và Quan.
Tử Phủ,Cự Nhật miếu vượng,an phận thủ thường,vui vẻ,thẳng thắn,nhưng kinh doanh tất thua lỗ.
Tử Phủ miếu vượng gặp Kinh đồng cung thương nhân cự phú.
Tham Đồng,Cơ Nguyệt sáng sủa tốt đẹp : tính toán giỏi,mát tay,buôn một bán mười,tiền nhiều như nước.
Sát Phá Liêm Tham sáng sủa tốt đẹp hội Tả Hữu : buôn bán xa nhà cự phú.
Không Kiếp cư tứ sinh buôn lậu thành thần,tiền nhiều bạc lắm nhưng không giữ được tiền của lâu bền.
Cung Thiên Di an tứ mộ có Vũ Khúc (tài tinh) tọa thủ buôn bán giỏi và ngày càng thịnh vượng.
Vũ Phá tọa thủ đồng cung tại Tỵ,Hợi : giỏi nghề thủ công,khéo tay.
Liêm Phá Mão Dậu : nghề thủ công khác thường,nghệ nhân.
Liêm Tham Tỵ Hợi : thợ rèn,đồ tể hoặc nghề nông nghiệp.
Tả Hữu Xương Khúc : Viết văn làm thơ.
Tả Hữu,Long Phương,Đào Hồng,Thai Tọa : Hội họa.
Long Phượng,Xương Khúc,Tấu Riêu,Đào Hồng : Ca múa nhạc.
Cự Môn Tí Ngọ hội Xương Khúc : Luật sư,thầy giáo,MC.
Cơ,Cự Mão Dậu hội Đại Tiều Hao : Phú thương.
Tử Tham Mão Dậu hoặc Vô chính diệu gặp nhiều sát tinh xâm phạm : Tu hành.
Sát Phá :Liêm Tham mờ ám xấu xa tọa thủ hội sát,bại tinh là hạng gian lận,trộm cướp,tà dâm.
Được cảm ơn bởi: duyquang_2511, donaldnguyen, vuongphong90, Xukangoc
TL: Kiến thức tử vi hay
NHỮNG MẢNG KIẾN THỨC NÀY, ĐƯỢC TP HỌC TỪ LÂU NGHIỄN NGẪM THẤY RẤT HAY.
SẼ TIẾP TỤC BIÊN TẬP NHỮNG KIẾN THỨC NHƯ TRÊN NẾU MỌI NGƯỜI CÓ NHÃ HỨNG
SẼ TIẾP TỤC BIÊN TẬP NHỮNG KIẾN THỨC NHƯ TRÊN NẾU MỌI NGƯỜI CÓ NHÃ HỨNG

Được cảm ơn bởi: Quan Nguyen, thongthien, duyquang_2511, dungnt21, bull, vuongphong90, anhky, nbdatbt, ThangGieng
TL: Kiến thức tử vi hay
Cám ơn tuongphap đã chia sẻ những kiến thức bổ ích. Mình có vài thắc mắc liên quan đến các thông tin trên, mong bạn xem PM dùm.
Cám ơn nhiều
Cám ơn nhiều

TL: Kiến thức tử vi hay
Cung Phúc Đức
Phúc Đức là cung cần phải xem cho kỹ, vì người ta có ảnh hưởng liên lạc đến cái âm đức của các Tiền nhân để lại như người Mệnh thật tốt mà Cung Phúc kém ắt cái hạnh phúc ở đời không được toại mãn. Lắm người Mệnh thật xấu Thân xấu, Hạn đi thường thường mà cung Phúc được tốt ắt là đời được hạnh phúc mỹ mãn. Muốn cho dễ hiểu tôi ví cái Thân Mệnh con người như cái áo dệt để bao thân thể, có hai thứ bằng gai, bằng tơ, bằng vải, bằng lụa, cái nào cũng có chỉ ngang chỉ dọc. Nhưng có cái lại có bông hoa đẹp đẽ, màu mè xinh tươi bọc lên tấm thân các vị Vua Chúa. Được nâng niu quí báu, có cái lại bọc cái thân xác ốm o của người bần hàn ti tiện. Thế là nghĩa làm sao?
Cái Phúc đức ta có thể tượng trưng trong ví dụ này là cái vị của cái áo ở được nơi quyền quí hay ở chỗ thấp hèn. Cũng như con người sao lắm người tài ba lỗi lạc mà thi không đỗ, ra xã hội lại bị nhiều cảnh éo le, lắm kẻ ngu muội hèn nhát lại được hưởng muôn sự hạnh phúc ở đời. Nếy không có những sự ảnh hưởng vô hình mà ta gọi là Âm Đức, ắt ta cho những sự chênh lệch khắt khe ấy là vô lý, không có Số Mệnh và Đạo Trời bất công vậy. Cho nên người có Âm Đức được hưởng vạn phúc lành bất kỳ trong trường hợp nào cũng vậy. Nếu Mệnh số là thứ dân ắt cũng được hạnh phúc vui vẻ, tai hoạ, qua khỏi, nếu là kẻ sĩ ắt phong vân gặp hội mà đường hoạn lộ ắt được cao thăng.
Cái Phúc Đức của Tổ Tiên để lại theo phương Đông là do Tiền nhân, mà cái xương cốt còn lại có ảnh hưởng trực tiếp với con cháu về sau. Khoa học hiện tại cho ta biết rằng có Nguyên tử mà Nguyên tử là bất diệt, nên những cái Nguyên tử của Tiền nhân còn lại ở Xương Cốt một khi được nhuần thấm các Thiên Khí, phong thuỷ đều hoà ung đúc thành như một cái máy "Phát khí lực" xấu hay tốt cho con cháu đời sau. Con Cháu đời sau đã sẵn có những loại Nguyên tử gia truyền, có người hợp kẻ xung, để chịu ảnh hưởng mau hay chậm những Âm Đức của Tiền nhân phóng ra. Đây một nguyên lý cao siêu vô hình mà các bạn có thể tưởng tượng cái Mồ mả của Tiền nhân như một đài "Phát Thanh" và các con cháu sau này như những cái máy "Thâu Thanh". Máy "Phát ra" này người Phương Đông lấy ở Mồ mả Tiền nhân làm căn bản, nó có thể hữu lý và chúng ta đã biết rằng Nguyên tử là bất diệt vậy. Nếu muốn tồn tại cái Phúc vì vậy người á Đông ta có môn Địa lý để phong thuỷ mồ mả, đó chỉ là một Khoa Học cao siêu biết được cái ký của Đất thu được Thiên Khí để hấp thụ cái di hài con Người còn lại là xương cốt
Bắt đầu từ đây giải xem cung Phúc đức:
Cung đằng trước là Tả là ngoài: Ba phương là Ngoại Long, Hổ và Khánh Sơn:
Cung đằng sau là Hữu là sau. Dương trạch âm phần đều xem như vậy. Ví dụ như cung Phúc đức ở cung Tý, cung Sửu ở đằng trước là Tả, cung Hợi là đằng sau là Hữu. Ba phương thì: Ngọ là Khánh Sơn, Thân là Long , Thìn là Hổ . Thân Tí Thìn tam hợp là ba phương. Xem Dương Trạch thì lấy cung Mệnh là Bản cung, xem hành hạn cũng vậy.
Hình Tính các sao trong cung Phúc Đức.
Thiên Cơ là mộc tinh vật là thảo mộc.
Thái Dương là Bình dương (ruộng bằng) hình như tấm kính, người là dương hồn (mộ đàn ông)
Liêm Trinh là gò cao nổi lên (như xương sống) hình như người ốm, ngồi một mình.
Thiên Phủ là Tổ sơn, Thổ Tinh đại địa, linh khí ở hữu đến.
Thái Âm là gò cao chót vót, người là Âm hồn (mộ đàn bà) hình như bán nguyệt.
Tham Lang là hắc thổ chi địa (đất màu bùn đen) vật là thảo mộc um tùm, hình như có chó ngồi.
Vũ Khúc là Côn Sơn.
Hoả Linh như cái cần giải.
Thiên Lương là đất bụi, hình như cái suốt giài (cái suốt trong khung cửi).
Cự Môn là cuộc đất vuông, ở dưới thì đất vàng, hình như cái chiếu giải.
Thiên Tướng là đất vuông vắn dày dặn hình như cái ấn vuông.
Thất Sát là đất khô đỏ, hình như cây cỏ giài thẳng và nhọn là cô sơn.
Phá Quân là cuộc đất tan tở, hình như tên quân thường cổi giáp.
Văn Xương như một cục sắt tròn.
Văn Khúc như giải nước khúc khuỷu.
Phù Bật là đất no đầy, hình như cái cạp chiếu nổi dầy đều lên.
Thiên Khôi như cái cột tươi sáng dựng lên.
Thiên Việt như hình cái kiếm lớn.
Thiên Mã là hình con ngựa.
Lộc Tồn là đất hình vuông, hình cái thương, là cô sơn.
Hoá Lộc là đất bao lần kim khí, hình như cái thương.
Hoá Quyền là đất như cụm cây vuông, hình như cái yên ngựa.
Hoá Khoa là cuộc đất hình cái khuôn cày như cái Bảng.
Hóa Kỵ là đất co nước ngưng tụ, bùn lầy, đất đen,
Không Kiếp là đất hung.
Phi Liêm là hoả tinh tán loạn là cô sơn (núi đứng một mình).
Hỉ Thần là đất bằng có cát.
Bệnh Phù là đất nhe cái đai.
Lưỡng Hao là đất hình nhọn, là phản lại.
Thiên Hình là đất có mảnh sành mảnh bát vỡ là nhà tù tối tăm.
Thiên Diêu là đất gần nước, ẩm ướt, về thảo mộc thì tươi tốt um tùm.
Tam Thai đất hình tam tinh.
Bát Toạ là đất hình Bát Diệu (8 sao hình như đồ Bát cống).
Hư Khốc là đất đường nhỏ hư lở.
Long Trì là đất giữ nước, hình cái ao, cái giếng cạn.
Phượng Các là hình lâu dài, về vật là loài chim sắc đỏ, con Phượng.
Tràng Sinh là đất tụ các thứ nước, nước ở thác xuống.
Thai là Trẩm long chi Thuỷ (nước có rồng lội)
Dưỡng là nước ở ngoài chiều đến.
Quan Đới là Huyền Vũ Thuỷ (khí phách về Võ) là cái Đài là hình bán nguyệt.
Tử là chỗ nước chảy mau, tử thuỷ.
Mộ là thoái thần chi thuỷ.
Hồng Loan là hình cái cung, uốn lên như cái mi mắt, hình bán nguyệt, là Nga mi.
Thiên Hỉ là Cát bùn.
Thái Tuế là hình cái xương sống gầy khô, hình như cái bút, về người thì chỉ thị phi quan sự.
Tấu Thư là hình Thần long đứng một mình.
Triệt Lộ là như con đường hẻm, đường làng nhỏ, cầu đất đương đầu với Huyền Vũ ắt giòng Trưởng bại.
Tuần Không là đất khoáng đạt không có gì, trong cuộc tán loạn.
Thiên Quan là miếu Dương Thần Linh là đình.
Thiên Phúc là Âm thần linh Tự (chùa) là Quán.
Hoa Cái là hình tựa như cái Hoa, cái bát, cái cây.
Thanh Long là Trường Thuỷ (sông lớn) hình người mang kiếm.
Phong Cáo là hình chiếu vuông vắn.
Thai Phụ là hình cái nón.
Suy là như cái xương sống gầy, sắc nhọn.
Bạch Hổ là đất đá trắng là hình Số.
Phàm luận về Phần Mộ thì chuyên lấy cung Phúc Đức làm bạn cung mà định cuộc đất, coi phương hướng, lấy tiều hạn can chi hành độ coi xung hợp ra sao. Lấy xem các sao xung hợp đắc địa, miếu vượng hay lạc hãm mà đoán cát hung. Xem có Văn Tinh ắt phát về Văn, có Vũ Tinh ắt phát về Võ, có Quí Tinh thì phát quí, có Tài Tinh thì phát phú. Lại cần phải tham bác cho kỹ những á c Sát tinh mà biện luận ắt không sai, lại lấy cả Can chi 12 cung để coi cả cuộc đất gần xa, hình Tính các phương rất linh diệu vậy. Xem Dương Trạch cũng vậy.
Thiên Cơ, Phong Cáo, Thai Phụ Hoá Khoa đứng đằng trước là ấn Tín, đứng đằng sau là Bảng.
Cự môn là con Tượng (voi). Thiên Việt là búa là Kiếm.
Thiên Mã là ngựa (gặp Đà La ở Tỵ Hợi là ngựa gãy cẳng).
Tam Thai ở cung đằng trước là Tiền cung, Tam Thai.
Thất Sát ở cung đằng sau là Hậu cung.
Thát Sát, Hỉ Thần, Thiên Hỉ là nước.
Khôi Việt là đầu, Tang môn là chân, Tuần Triệt là Thất Lộc (lạc mất đường).
Địa Kiếp là đương bị nghẽn tắc, gặp Long Trì Thanh long là sông bị nghẽn, giếng bị tắc.
Thất Sát, Địa Kiếp là Kiếm (vào hạng Tà không Chính)
Sương, Khúc, Khôi, Việt, Long, Phượng, Khoa, Quyền, Tả, Hữu, Hoá Lộc là Văn Tinh.
Vũ Tham, Dương, Lực sĩ, Linh Tinh ở vượng địa, Tử Vi Thất Sát là Vũ Tinh.
Kình Dương Đà La Hoả Linh đứng trước cung Phúc đức là Tiền quan, đứng sau là Hậu Quỉ.
Phúc Đức là cung cần phải xem cho kỹ, vì người ta có ảnh hưởng liên lạc đến cái âm đức của các Tiền nhân để lại như người Mệnh thật tốt mà Cung Phúc kém ắt cái hạnh phúc ở đời không được toại mãn. Lắm người Mệnh thật xấu Thân xấu, Hạn đi thường thường mà cung Phúc được tốt ắt là đời được hạnh phúc mỹ mãn. Muốn cho dễ hiểu tôi ví cái Thân Mệnh con người như cái áo dệt để bao thân thể, có hai thứ bằng gai, bằng tơ, bằng vải, bằng lụa, cái nào cũng có chỉ ngang chỉ dọc. Nhưng có cái lại có bông hoa đẹp đẽ, màu mè xinh tươi bọc lên tấm thân các vị Vua Chúa. Được nâng niu quí báu, có cái lại bọc cái thân xác ốm o của người bần hàn ti tiện. Thế là nghĩa làm sao?
Cái Phúc đức ta có thể tượng trưng trong ví dụ này là cái vị của cái áo ở được nơi quyền quí hay ở chỗ thấp hèn. Cũng như con người sao lắm người tài ba lỗi lạc mà thi không đỗ, ra xã hội lại bị nhiều cảnh éo le, lắm kẻ ngu muội hèn nhát lại được hưởng muôn sự hạnh phúc ở đời. Nếy không có những sự ảnh hưởng vô hình mà ta gọi là Âm Đức, ắt ta cho những sự chênh lệch khắt khe ấy là vô lý, không có Số Mệnh và Đạo Trời bất công vậy. Cho nên người có Âm Đức được hưởng vạn phúc lành bất kỳ trong trường hợp nào cũng vậy. Nếu Mệnh số là thứ dân ắt cũng được hạnh phúc vui vẻ, tai hoạ, qua khỏi, nếu là kẻ sĩ ắt phong vân gặp hội mà đường hoạn lộ ắt được cao thăng.
Cái Phúc Đức của Tổ Tiên để lại theo phương Đông là do Tiền nhân, mà cái xương cốt còn lại có ảnh hưởng trực tiếp với con cháu về sau. Khoa học hiện tại cho ta biết rằng có Nguyên tử mà Nguyên tử là bất diệt, nên những cái Nguyên tử của Tiền nhân còn lại ở Xương Cốt một khi được nhuần thấm các Thiên Khí, phong thuỷ đều hoà ung đúc thành như một cái máy "Phát khí lực" xấu hay tốt cho con cháu đời sau. Con Cháu đời sau đã sẵn có những loại Nguyên tử gia truyền, có người hợp kẻ xung, để chịu ảnh hưởng mau hay chậm những Âm Đức của Tiền nhân phóng ra. Đây một nguyên lý cao siêu vô hình mà các bạn có thể tưởng tượng cái Mồ mả của Tiền nhân như một đài "Phát Thanh" và các con cháu sau này như những cái máy "Thâu Thanh". Máy "Phát ra" này người Phương Đông lấy ở Mồ mả Tiền nhân làm căn bản, nó có thể hữu lý và chúng ta đã biết rằng Nguyên tử là bất diệt vậy. Nếu muốn tồn tại cái Phúc vì vậy người á Đông ta có môn Địa lý để phong thuỷ mồ mả, đó chỉ là một Khoa Học cao siêu biết được cái ký của Đất thu được Thiên Khí để hấp thụ cái di hài con Người còn lại là xương cốt
Bắt đầu từ đây giải xem cung Phúc đức:
Cung đằng trước là Tả là ngoài: Ba phương là Ngoại Long, Hổ và Khánh Sơn:
Cung đằng sau là Hữu là sau. Dương trạch âm phần đều xem như vậy. Ví dụ như cung Phúc đức ở cung Tý, cung Sửu ở đằng trước là Tả, cung Hợi là đằng sau là Hữu. Ba phương thì: Ngọ là Khánh Sơn, Thân là Long , Thìn là Hổ . Thân Tí Thìn tam hợp là ba phương. Xem Dương Trạch thì lấy cung Mệnh là Bản cung, xem hành hạn cũng vậy.
Hình Tính các sao trong cung Phúc Đức.
Thiên Cơ là mộc tinh vật là thảo mộc.
Thái Dương là Bình dương (ruộng bằng) hình như tấm kính, người là dương hồn (mộ đàn ông)
Liêm Trinh là gò cao nổi lên (như xương sống) hình như người ốm, ngồi một mình.
Thiên Phủ là Tổ sơn, Thổ Tinh đại địa, linh khí ở hữu đến.
Thái Âm là gò cao chót vót, người là Âm hồn (mộ đàn bà) hình như bán nguyệt.
Tham Lang là hắc thổ chi địa (đất màu bùn đen) vật là thảo mộc um tùm, hình như có chó ngồi.
Vũ Khúc là Côn Sơn.
Hoả Linh như cái cần giải.
Thiên Lương là đất bụi, hình như cái suốt giài (cái suốt trong khung cửi).
Cự Môn là cuộc đất vuông, ở dưới thì đất vàng, hình như cái chiếu giải.
Thiên Tướng là đất vuông vắn dày dặn hình như cái ấn vuông.
Thất Sát là đất khô đỏ, hình như cây cỏ giài thẳng và nhọn là cô sơn.
Phá Quân là cuộc đất tan tở, hình như tên quân thường cổi giáp.
Văn Xương như một cục sắt tròn.
Văn Khúc như giải nước khúc khuỷu.
Phù Bật là đất no đầy, hình như cái cạp chiếu nổi dầy đều lên.
Thiên Khôi như cái cột tươi sáng dựng lên.
Thiên Việt như hình cái kiếm lớn.
Thiên Mã là hình con ngựa.
Lộc Tồn là đất hình vuông, hình cái thương, là cô sơn.
Hoá Lộc là đất bao lần kim khí, hình như cái thương.
Hoá Quyền là đất như cụm cây vuông, hình như cái yên ngựa.
Hoá Khoa là cuộc đất hình cái khuôn cày như cái Bảng.
Hóa Kỵ là đất co nước ngưng tụ, bùn lầy, đất đen,
Không Kiếp là đất hung.
Phi Liêm là hoả tinh tán loạn là cô sơn (núi đứng một mình).
Hỉ Thần là đất bằng có cát.
Bệnh Phù là đất nhe cái đai.
Lưỡng Hao là đất hình nhọn, là phản lại.
Thiên Hình là đất có mảnh sành mảnh bát vỡ là nhà tù tối tăm.
Thiên Diêu là đất gần nước, ẩm ướt, về thảo mộc thì tươi tốt um tùm.
Tam Thai đất hình tam tinh.
Bát Toạ là đất hình Bát Diệu (8 sao hình như đồ Bát cống).
Hư Khốc là đất đường nhỏ hư lở.
Long Trì là đất giữ nước, hình cái ao, cái giếng cạn.
Phượng Các là hình lâu dài, về vật là loài chim sắc đỏ, con Phượng.
Tràng Sinh là đất tụ các thứ nước, nước ở thác xuống.
Thai là Trẩm long chi Thuỷ (nước có rồng lội)
Dưỡng là nước ở ngoài chiều đến.
Quan Đới là Huyền Vũ Thuỷ (khí phách về Võ) là cái Đài là hình bán nguyệt.
Tử là chỗ nước chảy mau, tử thuỷ.
Mộ là thoái thần chi thuỷ.
Hồng Loan là hình cái cung, uốn lên như cái mi mắt, hình bán nguyệt, là Nga mi.
Thiên Hỉ là Cát bùn.
Thái Tuế là hình cái xương sống gầy khô, hình như cái bút, về người thì chỉ thị phi quan sự.
Tấu Thư là hình Thần long đứng một mình.
Triệt Lộ là như con đường hẻm, đường làng nhỏ, cầu đất đương đầu với Huyền Vũ ắt giòng Trưởng bại.
Tuần Không là đất khoáng đạt không có gì, trong cuộc tán loạn.
Thiên Quan là miếu Dương Thần Linh là đình.
Thiên Phúc là Âm thần linh Tự (chùa) là Quán.
Hoa Cái là hình tựa như cái Hoa, cái bát, cái cây.
Thanh Long là Trường Thuỷ (sông lớn) hình người mang kiếm.
Phong Cáo là hình chiếu vuông vắn.
Thai Phụ là hình cái nón.
Suy là như cái xương sống gầy, sắc nhọn.
Bạch Hổ là đất đá trắng là hình Số.
Phàm luận về Phần Mộ thì chuyên lấy cung Phúc Đức làm bạn cung mà định cuộc đất, coi phương hướng, lấy tiều hạn can chi hành độ coi xung hợp ra sao. Lấy xem các sao xung hợp đắc địa, miếu vượng hay lạc hãm mà đoán cát hung. Xem có Văn Tinh ắt phát về Văn, có Vũ Tinh ắt phát về Võ, có Quí Tinh thì phát quí, có Tài Tinh thì phát phú. Lại cần phải tham bác cho kỹ những á c Sát tinh mà biện luận ắt không sai, lại lấy cả Can chi 12 cung để coi cả cuộc đất gần xa, hình Tính các phương rất linh diệu vậy. Xem Dương Trạch cũng vậy.
Thiên Cơ, Phong Cáo, Thai Phụ Hoá Khoa đứng đằng trước là ấn Tín, đứng đằng sau là Bảng.
Cự môn là con Tượng (voi). Thiên Việt là búa là Kiếm.
Thiên Mã là ngựa (gặp Đà La ở Tỵ Hợi là ngựa gãy cẳng).
Tam Thai ở cung đằng trước là Tiền cung, Tam Thai.
Thất Sát ở cung đằng sau là Hậu cung.
Thát Sát, Hỉ Thần, Thiên Hỉ là nước.
Khôi Việt là đầu, Tang môn là chân, Tuần Triệt là Thất Lộc (lạc mất đường).
Địa Kiếp là đương bị nghẽn tắc, gặp Long Trì Thanh long là sông bị nghẽn, giếng bị tắc.
Thất Sát, Địa Kiếp là Kiếm (vào hạng Tà không Chính)
Sương, Khúc, Khôi, Việt, Long, Phượng, Khoa, Quyền, Tả, Hữu, Hoá Lộc là Văn Tinh.
Vũ Tham, Dương, Lực sĩ, Linh Tinh ở vượng địa, Tử Vi Thất Sát là Vũ Tinh.
Kình Dương Đà La Hoả Linh đứng trước cung Phúc đức là Tiền quan, đứng sau là Hậu Quỉ.
TL: Kiến thức tử vi hay
Sơ lược về cung Mệnh:
Từ lúc lọt lòng mẹ cho đến năm 30 tuổi, phải căn cứ vào cung Mệnh để xem xét một sự tốt xấu và luận đoán vận hạn, còn từ 30 tuổi trở đi, phải căn cứ vào cung Thân, nhưng dù sao cũng vẫn phải chú ý đến cung Mệnh.
Dương cư Dương vị: năm sinh thuộc Dương, cung Mệnh cũng thuộc Dương - hay Âm cư Âm vị: năm sinh thuộc Âm, cung an Mệnh cũng thuộc Âm, như vậy là thuận lý độ số gia tăng. Dương cư Âm vị: năm sinh thuộc Dương, cung Mệnh thuộc Âm - hay Âm cư Dương vị: năm sinh thuộc Âm, cung Mệnh thuộc Dương, như vậy là nghịch lý, độ số giảm thiểu
Nhận định cung Mệnh là Sinh địa, Vượng địa, Bại địa, hay Tuyệt địa. Phải căn cứ vào Bản Mệnh và coi bảng dưới đây :
Bản mệnh Cung mệnh
Sinh địa Vượng địa Bại địa Tuyệt địa
Kim Tỵ Dậu Ngọ Dần
Mộc Hợi Mão Tý Thân
Hoả Dần Ngọ Mão Hợi
Thuỷ - Thổ Thân Tý Dậu Tỵ
Thí dụ:
Kim Mệnh - cung Mệnh an tại Tỵ là Sinh địa: rất tốt.
Mộc Mệnh - cung Mệnh an tại Mão là Vượng địa: được nhiều lợi ích.
Hoả Mệnh - cung Mệnh an tại Mão là Bại địa: rất xấu.
Thuỷ Mệnh hay Thổ Mệnh - cung Mệnh an tại Tỵ là Tuyệt địa: giảm thọ, rất đáng lo ngại.
Cung Mệnh là Bại địa dù có gặp vận hạn tốt đẹp cũng chẳng được lâu bền, ví như cành hoa mong manh, sớm nở tối tàn.
Cung Mệnh là Tuyệt địa, rất cần phải có Chính diệu sáng sủa tốt đẹp toạ thủ hay Khoa, Quyền, Lộc hội hợp để cứu giải. Nếu không, rất đáng lo ngại.
Chính diệu cứu giải lại phải là cứu Chính diệu sinh được Bản Mệnh. Thí dụ: Thuỷ Mệnh, cung Mệnh an tại Tỵ là tuyệt địa, vậy cần phải có Văn Khúc toạ thủ để cứu giải, vì Vũ khúc thuộc Kim, sinh nhưng Thuỷ mệnh.
Cung Mệnh là Tuyệt địa, có Chính diệu sinh được Bản Mệnh toạ thủ để cứu giải, gọi là Tuyệt xứ phùng sinh, cũng ví như cành hoa tuy mong manh nhưng lâu tàn. Vậy cho nên cũng chẳng đáng lo ngại nhiều.
Đàn ông sinh năm Ngọ, Mùi, cung Mệnh an tại Tý, Sửu: suốt đời vất vả, chẳng mấy khi được xứng ý toại lòng.
Đàn bà, cung Mệnh an tại Tứ Mộ: đảm đang, khôn ngoan. Cung Mệnh an tại Dậu: ra ngoài được nhiều người yêu mến vị nể. Cung Mệnh an tại Tý, Ngọ: suốt đời an nhàn.
Cung Mệnh sinh được Chính diệu toạ thủ - Chính diệu toạ thủ lại sinh được Bản Mệnh, như vậy là thuận lý, độ số gia tăng. Thí dụ: Cung Mệnh an tại Mão, thuộc Mộc, có Thái dương thuộc Hoả toạ thủ, Bản Mệnh lại thuộc Thổ. Như vậy là thuận lý, vì cung Mộc sinh được Chính diệu thuộc Hoả. Chính diệu thuộc Hoả lại sinh được Thổ Mệnh. Đây, chắc chắn là độ số gia tăng.
Chính diệu thủ Mệnh sinh cung Mệnh - hay Bản Mệnh sinh Chính diệu thủ Mệnh: như vậy là nghịch lý, độ số giảm thiểu.
Cung Mệnh khắc Chính diệu toạ thủ, hay Chính diệu thủ Mệnh khắc Bản Mệnh: như vậy cũng là nghịch lý thì độ số cũng giảm thiểu, nhưng đáng lo ngại hơn trường hợp trên.
Cung Mệnh có nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp gặp nhiều Sát tinh hay Bại tinh xâm phạm, tuy cũng được hưởng phú quý, nhưng thăng giáng thất thường và hay phải lao tâm khổ tứ.
Cung Mệnh không có Chính diệu toạ thủ gọi là Mệnh vô Chính diệu. Người có Mệnh vô Chính diệu rất khôn ngoan sắc sảo và thường là con vợ lẽ hay con nàng hầu. Nếu là con vợ cả, tất hay đau yếu, sức khoẻ rất suy kém. Không những thế, lúc thiếu thời lại rất vất vả, thường lang thang phiêu bạt, vô sở, bất chí. Mệnh vô Chính diệu mà không gặp sự cứu giải của các sao như đã kể trên, thật đáng lo ngại. Đây, muốn tăng tuổi thọ, tất phải làm con nuôi họ khác, hay phải sớm gia đình.
Cung Mệnh và cung Thân đều sáng sủa tốt đẹp: độ số gia tăng. Chắc chắn là suốt đời được xứng với ý toại lòng
Cung Mệnh sáng sủa tốt đẹp, cung Thân mờ ám xấu xa: lúc thiếu thời sung sướng. Nhưng đến lúc đứng tuổi, về già lại chẳng mấy khi được toại ý.
Cung Mệnh mờ ám xấu xa, cung Thân sáng sủa tốt đẹp: lúc thiếu thời thường phải lao tâm khổ tứ. Nhưng đến lúc đứng tuổi, về già lại sung sướng.
Cung Mệnh có nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, nhưng cung Thân lại có nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hơn hội hợp. Như vậy gọi là Mệnh nhược Thân cường: suốt đời cũng được xứng ý toại lòng, nhưng không thể giàu có lớn được.
Cung Mệnh và cung Thân đồng nhất gọi là Mệnh Thân đồng cung.
Tại Tứ Mộ, vô Chính diệu: cùng khổ và giảm thọ. Đây rất cần phải có Tuần, Triệt án ngữ, hay nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp cứu giải. Như vậy cũng đỡ lo ngại, suốt đời cũng được no cơm ấm áo.
Tại Tý, Ngọ, vô Chính diệu, nếu có nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp: cùng khổ hay chết non: cũng ví như đoá hoa mới nở đã bị mưa gió vùi dập phũ phàng. Đây, nếu có Hoá Lộc toạ thủ thì giàu nhưng giảm thọ. Trái lại, nếu không có Hoá Lộc toạ thủ thì nghèo mà sống.
Cung Mệnh có Thân án ngữ: cung Thân có Triệt án ngữ: gọi là Mệnh Tuần, Thân Triệt. Đây, cung Mệnh hay cung Thân rất cần phải có Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương sáng sủa tốt đẹp hội hợp. Có như thế, suốt đời mới được xứng ý toại lòng. Nhất là khi về già mới có danh giá và được an nhàn.
Cung Mệnh có Triệt án ngữ: cung Thân có Tuần án ngữ, gọi là Mệnh Triệt, Thân Tuần. Đây, cung Mệnh và cung Thân rất cần phải có vô Chính diệu. Có như thế, suốt đời mới được xứng ý toại lòng, được tăng thêm tuổi thọ, về già lại được sung sướng án ngữ.
Cung Mệnh có Địa không toạ thủ: cung Thân có Địa kiếp toạ thủ gọi là Mệnh Không, Thân Kiếp. Người có "Mệnh không, Thân Kiếp" rất khôn ngoan sắc sảo. Nhưng trong đời vui ít, buồn nhiều, mưu sự thì thành bại thất thường: làm việc gì cũng chẳng được lâu bền. Đây, nếu cung Mệnh vô Chính diệu lại có Đại, Tiểu Hao hội hợp là người tuy ít học, nhưng cũng lập được công danh, sự nghiệp khá hiển hách. Cũng trong trường hợp này, nếu cung Mệnh hay cung Thân lại có Thiên Đồng, Thiên Lương hay Phá Quân toạ thủ, thật không sống lâu được.
Cung Mệnh có Địa kiếp toạ thủ: cung Thân có Địa không toạ thủ gọi là Mệnh Kiếp Thân Không. Người có Mệnh Kiếp Thân Không rất khôn ngoan sắc sảo. Nhưng trong đời vui ít buồn nhiều, mưu sự thì thành bại thất thường: làm việc gì cũng chẳng được lâu bền. Đây, nếu cung Mệnh vô Chính diệu lại có Hồng, Đào, Sát tinh hội hợp, tất phải chết non. Nếu không, lúc thiếu thời vất vả, gian truân. Cũng trong trường hợp này, nếu cung Mệnh hay cung Thân lại có Nhật, Nguyệt hay Tử vi sáng sủa tốt đẹp toạ thủ thì cũng được no cơm ấm áo.
Thân cư cung nào thì sự quan trọng của cung đó lại càng tăng thêm.
Thân cư Thiên di.
Nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp: lập nghiệp ở phương xa, rất thịnh vượng.
Tuần, Triệt án ngữ: hay có nhiều Sát tinh hội hợp: chết ở xa nhà.
Thân cư Thê Thiếp (hay Phu Quân)
Nguyệt toạ thủ: sợ vợ, thường phải nhờ vả nhà vợ.
Tuần, Triệt án ngữ: trắc trở về hôn phối, buồn thương vị tình.
Thân cư Tài bạch :
Toạ thủ: hay có Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương sáng sủa tốt đẹp hội hợp, hay có Sát, Phá, Liêm, Tham sáng sủa tốt đẹp hội hợp: có danh giá trước, có tiền tài sau.
Đại, Tiểu hao, Quyền, Lộc, Kiếp, Hoả hội hợp: buôn bán mà trở nên giàu có. Đây, nếu có thêm Phục, Kinh hội hợp: không nên buôn bông vải và phải luôn luôn đề phòng hoả hoại.
Lưu Kiếp hội hợp: nếu kiếm ăn bằng nghề đánh cá hay buôn bán qua lại sông nước, thật không thể tránh được thuỷ nạn.
Thân cư Quan lộc
Tuần Triệt án ngữ, Kiếp, Hoà, Kỵ hội hợp: đàn ông muộn đường công danh. Nếu có thêm nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, cũng phải ngoài 40 tuổi mới nhẹ bước thang mây.
Tuần Triệt án ngữ, nhiều Sát tinh hội hợp: đàn bà khó giữ được toàn danh tiết. Nếu có Tang, Hổ hội hợp, tất phải goá bụa cô đơn. Đây, nếu không muộn đường chồng con, hay nếu không chịu lấy kế, lấy lẽ, thật không thể tránh được mấy độ buồn thương.
Thân cư Phúc Đức
Sáng sủa tốt đẹp: được hưởng phúc sống lâu. Tránh được nhiều tai hoạ.
Mờ ám xấu xa: khó tránh được tai hoạ. Giảm thọ, dù cung Mệnh có sáng sủa tốt đẹp chăng nữa, cũng không thể sống lâu được.
Từ lúc lọt lòng mẹ cho đến năm 30 tuổi, phải căn cứ vào cung Mệnh để xem xét một sự tốt xấu và luận đoán vận hạn, còn từ 30 tuổi trở đi, phải căn cứ vào cung Thân, nhưng dù sao cũng vẫn phải chú ý đến cung Mệnh.
Dương cư Dương vị: năm sinh thuộc Dương, cung Mệnh cũng thuộc Dương - hay Âm cư Âm vị: năm sinh thuộc Âm, cung an Mệnh cũng thuộc Âm, như vậy là thuận lý độ số gia tăng. Dương cư Âm vị: năm sinh thuộc Dương, cung Mệnh thuộc Âm - hay Âm cư Dương vị: năm sinh thuộc Âm, cung Mệnh thuộc Dương, như vậy là nghịch lý, độ số giảm thiểu
Nhận định cung Mệnh là Sinh địa, Vượng địa, Bại địa, hay Tuyệt địa. Phải căn cứ vào Bản Mệnh và coi bảng dưới đây :
Bản mệnh Cung mệnh
Sinh địa Vượng địa Bại địa Tuyệt địa
Kim Tỵ Dậu Ngọ Dần
Mộc Hợi Mão Tý Thân
Hoả Dần Ngọ Mão Hợi
Thuỷ - Thổ Thân Tý Dậu Tỵ
Thí dụ:
Kim Mệnh - cung Mệnh an tại Tỵ là Sinh địa: rất tốt.
Mộc Mệnh - cung Mệnh an tại Mão là Vượng địa: được nhiều lợi ích.
Hoả Mệnh - cung Mệnh an tại Mão là Bại địa: rất xấu.
Thuỷ Mệnh hay Thổ Mệnh - cung Mệnh an tại Tỵ là Tuyệt địa: giảm thọ, rất đáng lo ngại.
Cung Mệnh là Bại địa dù có gặp vận hạn tốt đẹp cũng chẳng được lâu bền, ví như cành hoa mong manh, sớm nở tối tàn.
Cung Mệnh là Tuyệt địa, rất cần phải có Chính diệu sáng sủa tốt đẹp toạ thủ hay Khoa, Quyền, Lộc hội hợp để cứu giải. Nếu không, rất đáng lo ngại.
Chính diệu cứu giải lại phải là cứu Chính diệu sinh được Bản Mệnh. Thí dụ: Thuỷ Mệnh, cung Mệnh an tại Tỵ là tuyệt địa, vậy cần phải có Văn Khúc toạ thủ để cứu giải, vì Vũ khúc thuộc Kim, sinh nhưng Thuỷ mệnh.
Cung Mệnh là Tuyệt địa, có Chính diệu sinh được Bản Mệnh toạ thủ để cứu giải, gọi là Tuyệt xứ phùng sinh, cũng ví như cành hoa tuy mong manh nhưng lâu tàn. Vậy cho nên cũng chẳng đáng lo ngại nhiều.
Đàn ông sinh năm Ngọ, Mùi, cung Mệnh an tại Tý, Sửu: suốt đời vất vả, chẳng mấy khi được xứng ý toại lòng.
Đàn bà, cung Mệnh an tại Tứ Mộ: đảm đang, khôn ngoan. Cung Mệnh an tại Dậu: ra ngoài được nhiều người yêu mến vị nể. Cung Mệnh an tại Tý, Ngọ: suốt đời an nhàn.
Cung Mệnh sinh được Chính diệu toạ thủ - Chính diệu toạ thủ lại sinh được Bản Mệnh, như vậy là thuận lý, độ số gia tăng. Thí dụ: Cung Mệnh an tại Mão, thuộc Mộc, có Thái dương thuộc Hoả toạ thủ, Bản Mệnh lại thuộc Thổ. Như vậy là thuận lý, vì cung Mộc sinh được Chính diệu thuộc Hoả. Chính diệu thuộc Hoả lại sinh được Thổ Mệnh. Đây, chắc chắn là độ số gia tăng.
Chính diệu thủ Mệnh sinh cung Mệnh - hay Bản Mệnh sinh Chính diệu thủ Mệnh: như vậy là nghịch lý, độ số giảm thiểu.
Cung Mệnh khắc Chính diệu toạ thủ, hay Chính diệu thủ Mệnh khắc Bản Mệnh: như vậy cũng là nghịch lý thì độ số cũng giảm thiểu, nhưng đáng lo ngại hơn trường hợp trên.
Cung Mệnh có nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp gặp nhiều Sát tinh hay Bại tinh xâm phạm, tuy cũng được hưởng phú quý, nhưng thăng giáng thất thường và hay phải lao tâm khổ tứ.
Cung Mệnh không có Chính diệu toạ thủ gọi là Mệnh vô Chính diệu. Người có Mệnh vô Chính diệu rất khôn ngoan sắc sảo và thường là con vợ lẽ hay con nàng hầu. Nếu là con vợ cả, tất hay đau yếu, sức khoẻ rất suy kém. Không những thế, lúc thiếu thời lại rất vất vả, thường lang thang phiêu bạt, vô sở, bất chí. Mệnh vô Chính diệu mà không gặp sự cứu giải của các sao như đã kể trên, thật đáng lo ngại. Đây, muốn tăng tuổi thọ, tất phải làm con nuôi họ khác, hay phải sớm gia đình.
Cung Mệnh và cung Thân đều sáng sủa tốt đẹp: độ số gia tăng. Chắc chắn là suốt đời được xứng với ý toại lòng
Cung Mệnh sáng sủa tốt đẹp, cung Thân mờ ám xấu xa: lúc thiếu thời sung sướng. Nhưng đến lúc đứng tuổi, về già lại chẳng mấy khi được toại ý.
Cung Mệnh mờ ám xấu xa, cung Thân sáng sủa tốt đẹp: lúc thiếu thời thường phải lao tâm khổ tứ. Nhưng đến lúc đứng tuổi, về già lại sung sướng.
Cung Mệnh có nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, nhưng cung Thân lại có nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hơn hội hợp. Như vậy gọi là Mệnh nhược Thân cường: suốt đời cũng được xứng ý toại lòng, nhưng không thể giàu có lớn được.
Cung Mệnh và cung Thân đồng nhất gọi là Mệnh Thân đồng cung.
Tại Tứ Mộ, vô Chính diệu: cùng khổ và giảm thọ. Đây rất cần phải có Tuần, Triệt án ngữ, hay nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp cứu giải. Như vậy cũng đỡ lo ngại, suốt đời cũng được no cơm ấm áo.
Tại Tý, Ngọ, vô Chính diệu, nếu có nhiều sao mờ ám xấu xa hội hợp: cùng khổ hay chết non: cũng ví như đoá hoa mới nở đã bị mưa gió vùi dập phũ phàng. Đây, nếu có Hoá Lộc toạ thủ thì giàu nhưng giảm thọ. Trái lại, nếu không có Hoá Lộc toạ thủ thì nghèo mà sống.
Cung Mệnh có Thân án ngữ: cung Thân có Triệt án ngữ: gọi là Mệnh Tuần, Thân Triệt. Đây, cung Mệnh hay cung Thân rất cần phải có Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương sáng sủa tốt đẹp hội hợp. Có như thế, suốt đời mới được xứng ý toại lòng. Nhất là khi về già mới có danh giá và được an nhàn.
Cung Mệnh có Triệt án ngữ: cung Thân có Tuần án ngữ, gọi là Mệnh Triệt, Thân Tuần. Đây, cung Mệnh và cung Thân rất cần phải có vô Chính diệu. Có như thế, suốt đời mới được xứng ý toại lòng, được tăng thêm tuổi thọ, về già lại được sung sướng án ngữ.
Cung Mệnh có Địa không toạ thủ: cung Thân có Địa kiếp toạ thủ gọi là Mệnh Không, Thân Kiếp. Người có "Mệnh không, Thân Kiếp" rất khôn ngoan sắc sảo. Nhưng trong đời vui ít, buồn nhiều, mưu sự thì thành bại thất thường: làm việc gì cũng chẳng được lâu bền. Đây, nếu cung Mệnh vô Chính diệu lại có Đại, Tiểu Hao hội hợp là người tuy ít học, nhưng cũng lập được công danh, sự nghiệp khá hiển hách. Cũng trong trường hợp này, nếu cung Mệnh hay cung Thân lại có Thiên Đồng, Thiên Lương hay Phá Quân toạ thủ, thật không sống lâu được.
Cung Mệnh có Địa kiếp toạ thủ: cung Thân có Địa không toạ thủ gọi là Mệnh Kiếp Thân Không. Người có Mệnh Kiếp Thân Không rất khôn ngoan sắc sảo. Nhưng trong đời vui ít buồn nhiều, mưu sự thì thành bại thất thường: làm việc gì cũng chẳng được lâu bền. Đây, nếu cung Mệnh vô Chính diệu lại có Hồng, Đào, Sát tinh hội hợp, tất phải chết non. Nếu không, lúc thiếu thời vất vả, gian truân. Cũng trong trường hợp này, nếu cung Mệnh hay cung Thân lại có Nhật, Nguyệt hay Tử vi sáng sủa tốt đẹp toạ thủ thì cũng được no cơm ấm áo.
Thân cư cung nào thì sự quan trọng của cung đó lại càng tăng thêm.
Thân cư Thiên di.
Nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp: lập nghiệp ở phương xa, rất thịnh vượng.
Tuần, Triệt án ngữ: hay có nhiều Sát tinh hội hợp: chết ở xa nhà.
Thân cư Thê Thiếp (hay Phu Quân)
Nguyệt toạ thủ: sợ vợ, thường phải nhờ vả nhà vợ.
Tuần, Triệt án ngữ: trắc trở về hôn phối, buồn thương vị tình.
Thân cư Tài bạch :
Toạ thủ: hay có Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương sáng sủa tốt đẹp hội hợp, hay có Sát, Phá, Liêm, Tham sáng sủa tốt đẹp hội hợp: có danh giá trước, có tiền tài sau.
Đại, Tiểu hao, Quyền, Lộc, Kiếp, Hoả hội hợp: buôn bán mà trở nên giàu có. Đây, nếu có thêm Phục, Kinh hội hợp: không nên buôn bông vải và phải luôn luôn đề phòng hoả hoại.
Lưu Kiếp hội hợp: nếu kiếm ăn bằng nghề đánh cá hay buôn bán qua lại sông nước, thật không thể tránh được thuỷ nạn.
Thân cư Quan lộc
Tuần Triệt án ngữ, Kiếp, Hoà, Kỵ hội hợp: đàn ông muộn đường công danh. Nếu có thêm nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, cũng phải ngoài 40 tuổi mới nhẹ bước thang mây.
Tuần Triệt án ngữ, nhiều Sát tinh hội hợp: đàn bà khó giữ được toàn danh tiết. Nếu có Tang, Hổ hội hợp, tất phải goá bụa cô đơn. Đây, nếu không muộn đường chồng con, hay nếu không chịu lấy kế, lấy lẽ, thật không thể tránh được mấy độ buồn thương.
Thân cư Phúc Đức
Sáng sủa tốt đẹp: được hưởng phúc sống lâu. Tránh được nhiều tai hoạ.
Mờ ám xấu xa: khó tránh được tai hoạ. Giảm thọ, dù cung Mệnh có sáng sủa tốt đẹp chăng nữa, cũng không thể sống lâu được.
TL: Kiến thức tử vi hay
Luận Cung Phúc Đức
Khởi ngược theo thiên bàn Tử Vi bắt đầu từ cung Phúc Đức,theo liền sau Phúc Đức là cung Phụ Mẫu,rồi tới cung Mệnh và tiếp sau là cung Bào,cung Phu Thê,cung Tử Tức,cung Tài Bạch,cung Giải ách,cung Thiên Di,cung Nô Bộc,cung Quan Lộc,cung Điền trạch,rồi lại về cung Phúc Đức cứ thế tuần hoàn,đủ thấy vai trò cực kỳ quan trọng của cung Phúc Đức chi phối cà 11 cung số khác trên thiên bàn Tử Vi.
Phúc Đức là cung kép,Đức chỉ phần sinh tồn sinh lý,bao gồm dương trạch,quan lộc,tài bạch,Thiên di,phần thọ yểu,tật ách của bản thân đương số và những người liên quan như vợ con,họ hàng.Những ảnh hưởng đó đều do đạo lý,cách sống của đương số,tàng ẩn ý nghĩa tu thân tích thiện đức,để phúc mai hậu cho con cháu.Chữ Phúc chỉ phần âm,bao gồm cội nguồn,mộ huyệt,đức tin.Vì vậy,khi xem xét cung Phúc Đức,phải định hướng mạch lạc rõ ràng hai phần Phúc (âm phần) và Đức (dương thế) trước mọi luận đoán.Trình tự như sau :
1.ÂM PHẦN
A.Định vị Âm phần
Cung Phúc Đức an tại cung nào thì cung đó gọi là cung chính mộ.Thí du,an tại Dần,thì cung chính mộ của đương số ở sơn Dần,thuộc Mộc
Cung Sửu và Mão là hai cung giáp trước và sau của chính mộ Dần,cung Mão (đàng trước theo chiếu thuận) gọi là cung Tả mộ (mặt trước),cung Sửu ( đàng sau theo chiều nghịch) gọi là cung Hữu mộ (mặt sau).
Cung xung chiếu chính mộ là cung Thân gọi là cung Tiền án.
Hai cung Ngọ và Tuất trong tam hợp Dần Ngọ Tuất,cung Ngọ gọi là Thanh Long, cung Tuất gọi là Bạch Hổ.Thanh Long chỉ dòng tộc dương và bạch Hổ chỉ dòng tộc âm.
B.Ảnh hưởng của Âm phần
Cung chính mộ cư cung nào là hành của cung đó.Hành mộc ý nghĩa Sinh, Dưỡng,Tự trọng.Hành kim ý nghĩa An Toàn.Hành Hỏa ý nghĩa Thành Tích.Hành thổ ý nghĩa Sinh tồn,Sinh lý.Hành thủy ý nghĩa Giao tiếp.Từ ý nghĩa hành của chính mộ luận sự thụ hưởng phúc của đương số.
Cung Phúc Đức có một chính diệu tọa thủ,chính diệu ấy chính là sao cai quản ngôi mộ đó.
Cung Phúc đức có hai chính diệu tọa thủ,trường hợp hai chính diệu cùng một hành,tức là có hai ngôi mộ ở gần nhau,cùng chi phối ảnh hưởng tới đương số.Ví dụ : Cung Phúc Đức có Cự Đồng tọa thủ đồng cung.Cự,Đồng đều hành thủy,nên phải chịu ảnh hưởng của ngôi mộ chú bác (Cự Môn) và ngôi mộ tổ (Thiên Đồng) để ở gần nhau.
Cung Phúc Đức có hai chính diệu tọa thủ đồng cung,trong đó có một chính diệu sinh Bản mệnh,đương số chịu ảnh hưởng của ngôi mộ sinh hành mệnh đó.Ví dụ,Cung Phúc Đức an tại Dần có Cự Nhật đồng cung,bản mệnh thuộc thổ.Như vậy,Cự Môn,mộ chú bác,hành thủy,không sinh được thổ.Còn Thái Dương, tượng ông nội,cụ nội,hoặc cha,hành hỏa sinh được bản mệnh thổ.Đương số chịu ảnh hưởng của sao cai quản ngôi mộ.
Cung Phúc đức có hai chính diệu tọa thủ đồng cung,đều không sinh được bản mệnh,thì bản mệnh sinh đựơc chính diệu nào là chịu ảnh hưởng của chính diệu đó.Ví dụ,cung Phúc Đức cư tại Mão do Cự,Cơ cai quản,bản mệnh hành kim. Như vậy cả Cự Môn (thủy,chú bác) và Thiên Cơ (mộc,ông nội) đều không sinh được bản mệnh kim,trong khi bản mệnh kim lại sinh được Cự Môn (thủy),nên bản mệnh chịu ảnh hưởng của sao Cự Môn (mộ chú bác).
Cung Phúc Đức có hai chính diệu đồng cung,mà không chính diệu nào sinh bản mệnh hoặc ngược lại,thì phải xem xét chính diệu nào bình hòa với bản mệnh, chính diệu đó ảnh hưởng đến bản mệnh.
Cung Phúc Đức Vô chính diệu,thì coi chính diệu của cung tiến án như chính diệu tọa thủ.
C.Chính diệu định thế Âm phần
Mộ tổ : Tử Vi,Thiên Đồng,Vũ Khúc,Thiên Phủ,Tham Lang,Thiên Tướng,Thiên Lương,Thất Sát,Phá Quân.
Hình sắc và thế đất : Tử Vi,Thiên Phủ,thế đất to lớn,gần núi đồi,với Tử Vi,linh khí từ tay trái triều lai,với Thiên Phủ triều lai tay phải.Thiên Đồng,đất trũng,xung quanh có nước.Vũ khúc,đất cao trơ trọi có hình như quả chuông dựng đứng.Tham Lang,đất nổi cao,cây cối rậm rạp.Thiên tướng,đất nổi cao vuông vắn như hình cái ấn.Thiên Lương,đất rời rạc,như hình con thoi,ở gần đường đi lối lại.Thất sát,đất khô nóng,có sắc đỏ.Phá Quận,đất không hình thể,rối rắm.
Mộ ông nội : Thiên Cơ.Mộ cha : Thái Dương.Mộ mẹ : Thái Âm.Mộ chú bác : Liêm Trinh,Cự Môn.
Thiên cơ,đất tốt,cây cỏ rậm rạp,tươi xanh.Thái Dương : Đất bằng phẳng.Thái Âm,thế đất hơi cao,chạy dài và uốn cong như hình bán nguyệt.Liêm trinh,đất khô cằn,gồ ghề,nổi cao như hình người ngồi,lại có sắc đỏ hay vàng.Cự Môn,đất vuông vắn,thường ở gần dinh sở hay lâu đài,đào sâu,dưới có lớp đất mầu vàng.
2.DƯƠNG THẾ
Hung hay Cát của âm phần,bản Mệnh không có cơ may chỉnh sửa,buộc phải chấp nhận,tuy nhiên không chấp nhận một cách tiêu cực,tuy cho phần số an bài,mà chấp nhận một cách tích cực bằng việc tu thân cho cát tường phần đức (dương thể) để tích phúc,sinh dưỡng và làm thay đổi số phận,thụ hưởng cát tường.Tu thân là đạo sống cho dù Phúc cung cát hay hung.Trước hết,hãy bình tâm,vô tư,nhìn vào các diệu tinh cư Phúc cung mà chiêm nghiệm hung cát,sau đó tự mình rèn luyện tu thân hữu hình được hỗ trợ bới các sức mạnh vô hình.
A.Ảnh hưởng của các sao tọa thủ Phúc cung
14 chính tinh
Đây là nhóm sao quan trọng bậc nhất trong việc định giá phúc cung.Trong số 14 chính tinh này,thì nhóm chính tinh thuộc nhóm mộ Tổ,xa với đời sống hiện tại của bản mệnh,bao gồm : Tử Vi,Thiên Đồng,Vũ Khúc,Thiên Phủ,Tham Lang, Thiên Tướng,Thiên Lương,Thất Sát,Phá Quân.Và nhóm mộ Ông Bà,Cha mẹ, Chú Bác,gần với đời sống bản mệnh,bao gồm : Thiên Cơ.Mộ cha : Thái Dương.Mộ mẹ : Thái Âm.Mộ chú bác : Liêm Trinh,Cự Môn.Phân biệt vậy để biết rõ nguồn cội của phúc và ảnh hưởng gần,xa của mộ huyệt với bản mệnh. Từ đó luận hung cát.Hung cát chi phối mạnh nhất trên ba lịnh vực : Thọ yểu, không gian lập nghiệp và thành tựu lập nghiệp.
Các trung tinh ảnh hưởng Phúc cung
Các trung tinh : Tả Hữu,Long Phượng,Xường Khúc,Khoa Quyền Lộc,Lộc Tồn, Khôi Việt...được coi là các trung tinh thiện chí,nếu miếu vượng,đắc địa tất phò cho phúc cung cát lợi,trường hợp hãm,bại địa cũng không gieo rắc họa hại cho phúc cung.
Các trung tinh không thiện chí,đặc biệt hai nhóm sao Lục sát (Kình,Đà, Không,Kiếp,Hỏa Linh) và Lục bại ( Riêu Kỵ,Song hao,Tang Hổ),dù miếu vượng hay hãm bại cũng đều khiến phúc cung suy nhược.Trường hợp miếu vượng,thì hại phúc bản mệnh thời gian Mệnh (30 năm tiền) sau đó cát phúc cho bản mệnh thời gian Thân (30 năm hậu).Trường hợp Lục sát,Lục bại xấu hãm,kể như là phúc bạc,cả đời gian nan vất vả,không đựơc vừa ý hài lòng.
Các trung tinh,bàng tinh khác,khi hội hợp với nhau thành cách cát hoặc cách hung,có năng lực dịch biến Phúc cung,nhưng đó chỉ là những biệt cách,phải căn cứ vào cách cụ thể để xem xét.Ví dụ : Thiên Phủ độc thủ Phúc cung hội với Tam Không là cách vô cùng xấu hãm.Hoặc,Tham Vũ cư Phúc cung tại Sửu Mùi,gặp sao Hỏa hoặc sao Linh,là cách phúc cát,tăng thêm tuổi thọ,công danh hiển đạt,quyền quí.
B.Tu thân dưỡng Phúc
Tu thân nguồn cội : Đạo lý sống uống nước nhớ nguồn.Chăm sóc mộ huyệt dòng tộc,tổ tiên.Hiếu nghĩa với ông bà,cha mẹ.
Tu thân đức tin,sống thuận lý với hoàn cảnh,môi trường,thường nhật tích thiện đức để dưỡng phúc.
Khởi ngược theo thiên bàn Tử Vi bắt đầu từ cung Phúc Đức,theo liền sau Phúc Đức là cung Phụ Mẫu,rồi tới cung Mệnh và tiếp sau là cung Bào,cung Phu Thê,cung Tử Tức,cung Tài Bạch,cung Giải ách,cung Thiên Di,cung Nô Bộc,cung Quan Lộc,cung Điền trạch,rồi lại về cung Phúc Đức cứ thế tuần hoàn,đủ thấy vai trò cực kỳ quan trọng của cung Phúc Đức chi phối cà 11 cung số khác trên thiên bàn Tử Vi.
Phúc Đức là cung kép,Đức chỉ phần sinh tồn sinh lý,bao gồm dương trạch,quan lộc,tài bạch,Thiên di,phần thọ yểu,tật ách của bản thân đương số và những người liên quan như vợ con,họ hàng.Những ảnh hưởng đó đều do đạo lý,cách sống của đương số,tàng ẩn ý nghĩa tu thân tích thiện đức,để phúc mai hậu cho con cháu.Chữ Phúc chỉ phần âm,bao gồm cội nguồn,mộ huyệt,đức tin.Vì vậy,khi xem xét cung Phúc Đức,phải định hướng mạch lạc rõ ràng hai phần Phúc (âm phần) và Đức (dương thế) trước mọi luận đoán.Trình tự như sau :
1.ÂM PHẦN
A.Định vị Âm phần
Cung Phúc Đức an tại cung nào thì cung đó gọi là cung chính mộ.Thí du,an tại Dần,thì cung chính mộ của đương số ở sơn Dần,thuộc Mộc
Cung Sửu và Mão là hai cung giáp trước và sau của chính mộ Dần,cung Mão (đàng trước theo chiếu thuận) gọi là cung Tả mộ (mặt trước),cung Sửu ( đàng sau theo chiều nghịch) gọi là cung Hữu mộ (mặt sau).
Cung xung chiếu chính mộ là cung Thân gọi là cung Tiền án.
Hai cung Ngọ và Tuất trong tam hợp Dần Ngọ Tuất,cung Ngọ gọi là Thanh Long, cung Tuất gọi là Bạch Hổ.Thanh Long chỉ dòng tộc dương và bạch Hổ chỉ dòng tộc âm.
B.Ảnh hưởng của Âm phần
Cung chính mộ cư cung nào là hành của cung đó.Hành mộc ý nghĩa Sinh, Dưỡng,Tự trọng.Hành kim ý nghĩa An Toàn.Hành Hỏa ý nghĩa Thành Tích.Hành thổ ý nghĩa Sinh tồn,Sinh lý.Hành thủy ý nghĩa Giao tiếp.Từ ý nghĩa hành của chính mộ luận sự thụ hưởng phúc của đương số.
Cung Phúc Đức có một chính diệu tọa thủ,chính diệu ấy chính là sao cai quản ngôi mộ đó.
Cung Phúc đức có hai chính diệu tọa thủ,trường hợp hai chính diệu cùng một hành,tức là có hai ngôi mộ ở gần nhau,cùng chi phối ảnh hưởng tới đương số.Ví dụ : Cung Phúc Đức có Cự Đồng tọa thủ đồng cung.Cự,Đồng đều hành thủy,nên phải chịu ảnh hưởng của ngôi mộ chú bác (Cự Môn) và ngôi mộ tổ (Thiên Đồng) để ở gần nhau.
Cung Phúc Đức có hai chính diệu tọa thủ đồng cung,trong đó có một chính diệu sinh Bản mệnh,đương số chịu ảnh hưởng của ngôi mộ sinh hành mệnh đó.Ví dụ,Cung Phúc Đức an tại Dần có Cự Nhật đồng cung,bản mệnh thuộc thổ.Như vậy,Cự Môn,mộ chú bác,hành thủy,không sinh được thổ.Còn Thái Dương, tượng ông nội,cụ nội,hoặc cha,hành hỏa sinh được bản mệnh thổ.Đương số chịu ảnh hưởng của sao cai quản ngôi mộ.
Cung Phúc đức có hai chính diệu tọa thủ đồng cung,đều không sinh được bản mệnh,thì bản mệnh sinh đựơc chính diệu nào là chịu ảnh hưởng của chính diệu đó.Ví dụ,cung Phúc Đức cư tại Mão do Cự,Cơ cai quản,bản mệnh hành kim. Như vậy cả Cự Môn (thủy,chú bác) và Thiên Cơ (mộc,ông nội) đều không sinh được bản mệnh kim,trong khi bản mệnh kim lại sinh được Cự Môn (thủy),nên bản mệnh chịu ảnh hưởng của sao Cự Môn (mộ chú bác).
Cung Phúc Đức có hai chính diệu đồng cung,mà không chính diệu nào sinh bản mệnh hoặc ngược lại,thì phải xem xét chính diệu nào bình hòa với bản mệnh, chính diệu đó ảnh hưởng đến bản mệnh.
Cung Phúc Đức Vô chính diệu,thì coi chính diệu của cung tiến án như chính diệu tọa thủ.
C.Chính diệu định thế Âm phần
Mộ tổ : Tử Vi,Thiên Đồng,Vũ Khúc,Thiên Phủ,Tham Lang,Thiên Tướng,Thiên Lương,Thất Sát,Phá Quân.
Hình sắc và thế đất : Tử Vi,Thiên Phủ,thế đất to lớn,gần núi đồi,với Tử Vi,linh khí từ tay trái triều lai,với Thiên Phủ triều lai tay phải.Thiên Đồng,đất trũng,xung quanh có nước.Vũ khúc,đất cao trơ trọi có hình như quả chuông dựng đứng.Tham Lang,đất nổi cao,cây cối rậm rạp.Thiên tướng,đất nổi cao vuông vắn như hình cái ấn.Thiên Lương,đất rời rạc,như hình con thoi,ở gần đường đi lối lại.Thất sát,đất khô nóng,có sắc đỏ.Phá Quận,đất không hình thể,rối rắm.
Mộ ông nội : Thiên Cơ.Mộ cha : Thái Dương.Mộ mẹ : Thái Âm.Mộ chú bác : Liêm Trinh,Cự Môn.
Thiên cơ,đất tốt,cây cỏ rậm rạp,tươi xanh.Thái Dương : Đất bằng phẳng.Thái Âm,thế đất hơi cao,chạy dài và uốn cong như hình bán nguyệt.Liêm trinh,đất khô cằn,gồ ghề,nổi cao như hình người ngồi,lại có sắc đỏ hay vàng.Cự Môn,đất vuông vắn,thường ở gần dinh sở hay lâu đài,đào sâu,dưới có lớp đất mầu vàng.
2.DƯƠNG THẾ
Hung hay Cát của âm phần,bản Mệnh không có cơ may chỉnh sửa,buộc phải chấp nhận,tuy nhiên không chấp nhận một cách tiêu cực,tuy cho phần số an bài,mà chấp nhận một cách tích cực bằng việc tu thân cho cát tường phần đức (dương thể) để tích phúc,sinh dưỡng và làm thay đổi số phận,thụ hưởng cát tường.Tu thân là đạo sống cho dù Phúc cung cát hay hung.Trước hết,hãy bình tâm,vô tư,nhìn vào các diệu tinh cư Phúc cung mà chiêm nghiệm hung cát,sau đó tự mình rèn luyện tu thân hữu hình được hỗ trợ bới các sức mạnh vô hình.
A.Ảnh hưởng của các sao tọa thủ Phúc cung
14 chính tinh
Đây là nhóm sao quan trọng bậc nhất trong việc định giá phúc cung.Trong số 14 chính tinh này,thì nhóm chính tinh thuộc nhóm mộ Tổ,xa với đời sống hiện tại của bản mệnh,bao gồm : Tử Vi,Thiên Đồng,Vũ Khúc,Thiên Phủ,Tham Lang, Thiên Tướng,Thiên Lương,Thất Sát,Phá Quân.Và nhóm mộ Ông Bà,Cha mẹ, Chú Bác,gần với đời sống bản mệnh,bao gồm : Thiên Cơ.Mộ cha : Thái Dương.Mộ mẹ : Thái Âm.Mộ chú bác : Liêm Trinh,Cự Môn.Phân biệt vậy để biết rõ nguồn cội của phúc và ảnh hưởng gần,xa của mộ huyệt với bản mệnh. Từ đó luận hung cát.Hung cát chi phối mạnh nhất trên ba lịnh vực : Thọ yểu, không gian lập nghiệp và thành tựu lập nghiệp.
Các trung tinh ảnh hưởng Phúc cung
Các trung tinh : Tả Hữu,Long Phượng,Xường Khúc,Khoa Quyền Lộc,Lộc Tồn, Khôi Việt...được coi là các trung tinh thiện chí,nếu miếu vượng,đắc địa tất phò cho phúc cung cát lợi,trường hợp hãm,bại địa cũng không gieo rắc họa hại cho phúc cung.
Các trung tinh không thiện chí,đặc biệt hai nhóm sao Lục sát (Kình,Đà, Không,Kiếp,Hỏa Linh) và Lục bại ( Riêu Kỵ,Song hao,Tang Hổ),dù miếu vượng hay hãm bại cũng đều khiến phúc cung suy nhược.Trường hợp miếu vượng,thì hại phúc bản mệnh thời gian Mệnh (30 năm tiền) sau đó cát phúc cho bản mệnh thời gian Thân (30 năm hậu).Trường hợp Lục sát,Lục bại xấu hãm,kể như là phúc bạc,cả đời gian nan vất vả,không đựơc vừa ý hài lòng.
Các trung tinh,bàng tinh khác,khi hội hợp với nhau thành cách cát hoặc cách hung,có năng lực dịch biến Phúc cung,nhưng đó chỉ là những biệt cách,phải căn cứ vào cách cụ thể để xem xét.Ví dụ : Thiên Phủ độc thủ Phúc cung hội với Tam Không là cách vô cùng xấu hãm.Hoặc,Tham Vũ cư Phúc cung tại Sửu Mùi,gặp sao Hỏa hoặc sao Linh,là cách phúc cát,tăng thêm tuổi thọ,công danh hiển đạt,quyền quí.
B.Tu thân dưỡng Phúc
Tu thân nguồn cội : Đạo lý sống uống nước nhớ nguồn.Chăm sóc mộ huyệt dòng tộc,tổ tiên.Hiếu nghĩa với ông bà,cha mẹ.
Tu thân đức tin,sống thuận lý với hoàn cảnh,môi trường,thường nhật tích thiện đức để dưỡng phúc.
TL: Kiến thức tử vi hay
LUẬN CUNG THIÊN DI
Cung Thiên Di là một trong bốn cung quan trọng (Mệnh Viên,Quan Lộc,Thiên Di,Tài Bạch), gọi là tứ trụ của cung Mệnh,khi xem Tử Vi người ta thường nói tắt là Mệnh, Quan,Di,Tài.
Cung Thiên Di là cung trực xung với cung Mệnh,hàm nghĩa những sự và việc bên ngoài cung Mệnh,đó là sự giao tiếp,sự tương thích hòa hợp giữa mệnh với môi trường với cộng đồng.Còn hàm nghĩa sự may rủi,quí nhân,sự cầu muốn.
Cung Thiên di cư tại bốn cung : Tỵ,Ngọ,Mùi,Thân thuộc phương Thiên,thường việc Thiên Di may mắn,được phò trợ và gần nới quí hiển,được lợi ích.Cung Thiên Di cư bốn cung : Dần,Sửu,Tí và Hợi thuộc phương Địa,thường việc Thiên Di dễ hòa đồng, cởi mở thân thiên và cộng hưởng lợi ích.Cung Thiên Di cư bốn cung Thìn,Tuất,Mão, Dậu thuộc phương Nhân,thường việc Thiên Di phải biết nhún nhường,cởi mở,dễ bị thị phi ganh ghét,đố kỵ,cư tại bốn cung này tàng ẩn nhiều ý nghĩa tranh đấu.Từ ý nghĩa tóm lược trên,khi xem cần vận dụng để định hướng luận đoán,ví dụ : Cung Thiên Di cư Tí có nghĩa là cung Mệnh cư Ngọ,ý nghĩa của Thiên Di là có thể dụng tiền bạc để thành tựu giao tiếp.Ngược lại Thiên Di cư Ngọ,có nghĩa là cung Mệnh cư Tí,ý nghĩa lại là Giao tiếp giỏi sẽ thành tựu tiền bạc.
Trường hợp cung Thiên Di vô chính diệu thì phải mượn chính tinh của cung Mệnh mà xem xét.Ngược lại,cung Mệnh vô chính diệu thì chính tinh của cung Thiên Di chính là chính tinh của cung Mệnh vậy.
Trường hợp Thân cư Thiên Di phải được xem xét thật cẩn trọng,vì ý nghĩa trực xung (hình bóng) giữa Mệnh và Thiên Di không đơn thuần là hình bóng mà đã thành một khối,một cung,chi phối và ảnh hưởng với nhau suốt đồi.Tam hợp cung Mệnh là Mệnh- Quan-Tài,xem xét giai đoạn từ 1-30 tuổi.Tam hợp cung Thân,trường hợp Thân cư Thiên Di thì tam hợp Di ắt là Di-Phúc-Phối,chi phối ba mươi năm từ 31-60 tuổi đời người.Nói vậy để thấy 60 năm cuộc đời trong hai cung Mệnh Di.Sáu cung trong hai tam hợp này phải được cân nhắc xem xét trong tất cả các vận hạn dài ngắn.
Về sao : Các chinh tinh cư trong cung Thiên Di ý nghĩa cát hung miếu hãm tương tự như cư tại các cung khác.Riêng các trung và bàng tinh kết hội với nhau thành hai nhóm tích tực và tiêu cực rõ rệt,vận động sự hung cát,miếu hãm của thiên di.Một vài đơn cử sau :
Nhóm tích cực :
Xương khúc,Khôi Việt,Khoa Quyền : Ra ngoài luôn được cận kề nơi quyền quí,gặp gỡ quí nhân,người quyền cao chức trọng,luôn được giúp đỡ và có lợi ích.
Đào,Hồn,Hỉ,Thiên Mã : Sáng láng mặt mày,công việc thuận lợi trôi chảy,tình cảm lai láng đi dây đi đó tung tăng mà được việc,được tình.
Nhóm tiêu cực :
Hỏa Linh,Không Kiếp,Kình Đà,Lưu Hà : Dễ gặp tai họa tật ách
Riêu,Đà,Kỵ,Không Kiếp : Dễ bị miệng tiếng thị phi,ganh ghét đố kỵ.
Thai,Dưỡng,Binh,Tướng Đào,Hồng : Duyên tình nhố nhăng,khó giữ danh tiết.
Cung Thiên Di là một trong bốn cung quan trọng (Mệnh Viên,Quan Lộc,Thiên Di,Tài Bạch), gọi là tứ trụ của cung Mệnh,khi xem Tử Vi người ta thường nói tắt là Mệnh, Quan,Di,Tài.
Cung Thiên Di là cung trực xung với cung Mệnh,hàm nghĩa những sự và việc bên ngoài cung Mệnh,đó là sự giao tiếp,sự tương thích hòa hợp giữa mệnh với môi trường với cộng đồng.Còn hàm nghĩa sự may rủi,quí nhân,sự cầu muốn.
Cung Thiên di cư tại bốn cung : Tỵ,Ngọ,Mùi,Thân thuộc phương Thiên,thường việc Thiên Di may mắn,được phò trợ và gần nới quí hiển,được lợi ích.Cung Thiên Di cư bốn cung : Dần,Sửu,Tí và Hợi thuộc phương Địa,thường việc Thiên Di dễ hòa đồng, cởi mở thân thiên và cộng hưởng lợi ích.Cung Thiên Di cư bốn cung Thìn,Tuất,Mão, Dậu thuộc phương Nhân,thường việc Thiên Di phải biết nhún nhường,cởi mở,dễ bị thị phi ganh ghét,đố kỵ,cư tại bốn cung này tàng ẩn nhiều ý nghĩa tranh đấu.Từ ý nghĩa tóm lược trên,khi xem cần vận dụng để định hướng luận đoán,ví dụ : Cung Thiên Di cư Tí có nghĩa là cung Mệnh cư Ngọ,ý nghĩa của Thiên Di là có thể dụng tiền bạc để thành tựu giao tiếp.Ngược lại Thiên Di cư Ngọ,có nghĩa là cung Mệnh cư Tí,ý nghĩa lại là Giao tiếp giỏi sẽ thành tựu tiền bạc.
Trường hợp cung Thiên Di vô chính diệu thì phải mượn chính tinh của cung Mệnh mà xem xét.Ngược lại,cung Mệnh vô chính diệu thì chính tinh của cung Thiên Di chính là chính tinh của cung Mệnh vậy.
Trường hợp Thân cư Thiên Di phải được xem xét thật cẩn trọng,vì ý nghĩa trực xung (hình bóng) giữa Mệnh và Thiên Di không đơn thuần là hình bóng mà đã thành một khối,một cung,chi phối và ảnh hưởng với nhau suốt đồi.Tam hợp cung Mệnh là Mệnh- Quan-Tài,xem xét giai đoạn từ 1-30 tuổi.Tam hợp cung Thân,trường hợp Thân cư Thiên Di thì tam hợp Di ắt là Di-Phúc-Phối,chi phối ba mươi năm từ 31-60 tuổi đời người.Nói vậy để thấy 60 năm cuộc đời trong hai cung Mệnh Di.Sáu cung trong hai tam hợp này phải được cân nhắc xem xét trong tất cả các vận hạn dài ngắn.
Về sao : Các chinh tinh cư trong cung Thiên Di ý nghĩa cát hung miếu hãm tương tự như cư tại các cung khác.Riêng các trung và bàng tinh kết hội với nhau thành hai nhóm tích tực và tiêu cực rõ rệt,vận động sự hung cát,miếu hãm của thiên di.Một vài đơn cử sau :
Nhóm tích cực :
Xương khúc,Khôi Việt,Khoa Quyền : Ra ngoài luôn được cận kề nơi quyền quí,gặp gỡ quí nhân,người quyền cao chức trọng,luôn được giúp đỡ và có lợi ích.
Đào,Hồn,Hỉ,Thiên Mã : Sáng láng mặt mày,công việc thuận lợi trôi chảy,tình cảm lai láng đi dây đi đó tung tăng mà được việc,được tình.
Nhóm tiêu cực :
Hỏa Linh,Không Kiếp,Kình Đà,Lưu Hà : Dễ gặp tai họa tật ách
Riêu,Đà,Kỵ,Không Kiếp : Dễ bị miệng tiếng thị phi,ganh ghét đố kỵ.
Thai,Dưỡng,Binh,Tướng Đào,Hồng : Duyên tình nhố nhăng,khó giữ danh tiết.
TL: Kiến thức tử vi hay
LUẬN THÂN CƯ PHU THÊ
Trời (Cha mẹ ) sinh ra ta là ban cho ta Mệnh,còn ta phải tự xây dựng cuộc đời mình là ta lập Thân.Theo phân định của Tử Vi thì thời gian từ 1-30 tuổi là thuộc Mệnh và từ 31-60 tuổi là thuộc Thân.Mệnh và Thân đều lập bởi Tứ Trụ (giờ,ngày,thàng,năm),Mệnh có thể cư bất kỳ cung nào trên thiên bàn Tử Vi,nhưng Thân thì không thể,mà chỉ có thể cư tại sáu vị trí : Thân cư cung Mệnh,và các cung Phúc Đức,Tài Bạch,Quan Lộc, Phu Thê,và Thiên Di.Không bao giờ Thân cư các cung Phụ Mẫu,Tử Tức,Giải Ách,Điền Trạch,Nô Bộc và Huynh Đệ.
Theo quan niệm cổ,với người nam,Thân cư các cung : Phúc Đức,Quan Lộc,Tài Bạch bảo là Thân cư cường cung.Trường hợp thân cư Thiên Di và Thê Thiếp bảo là Thân cư nhược cung,Thân cư Thiên Di là phiêu bồng cách,Thân cư Thê Thiếp là phiếm đào cách.
Cũng theo quan niệm cổ,với người nữ,Thân cư các cung : Phúc Đức và Phu Quân là Thân cư cường cung,Thân cư Quan Lộc,Tài Bạch,Thiên Di là Thân cư nhược cung,còn gọi là Ích Khổn cách.
Trường hợp Thân,Mệnh đồng cung thì thời gian không phân chia như nói trên mà suốt từ 1-60 hung cát thế nào vận vào đời thế ấy.Trường hợp Thân Mệnh đồng cung và các trường hợp Thân cư Phúc,Quan,Tài,Di,sẽ có dịp bàn luận trong các bài viết khác.Bài viết này chỉ bàn luận về Thân cư Phu Thê.
Thân cư Thê Thiếp : Là người bịn rịn vợ,mục đích (hay lý tưởng sống) của mình là vợ,cái hắt hơi của vợ khiến bồn chồn lo lắng hơn cả cơn đau quặn thắt ngực của mẹ, cái lứ mắt của vợ uy lực hơn cả lời nghiêm khắc của cha của thầy.Người Thân cư Thê sinh dưỡng một tình si mê vợ (chình xác là đàn bà,gọi là thê là thiếp hay tỳ nữ cũng vậy ),vì thế không chỉ là người lụy thê,mà còn là người tàn độc,quyết đoán với Thê,một khi đã chán chê,tình rạn vỡ thì muốn đạp đổ tức khắc xóa sạch cấ kỳ và tâm trí thôi thúc hướng tới một tình yêu khác,như là một giải pháp thay thế không thể chậm trễ.
Quan niệm cổ phương Đông bảo Thân cư Thê là hèn cung.Cha mẹ phiền lòng con trai lụy vợ mà quên việc hiếu nghĩa gia đình.Xã hội,đồng môn,đồng nghiệp,vua quan không dành nhiều tín nhiệm,vì e người Thân cư Thê mải lo việc vợ,chí trai còn được bao nhiêu lo việc cộng đồng,xã tắc.
Nhưng giờ đây,thời khắc của thế kỷ 21,quan niệm trên không hẳn bị xem là cổ hủ,lỗi thời nhưng cũng không còn là khuôn vàng thước ngọc của đạo đức Nho Khổng.Nhất vợ nhì trời thì có gì là xấu ?
Người Thân cư Thê có nhất thiết đa thê ? Không.Như đã nói,người Thân cư Thê xem chuyện vợ là quan trọng (bậc nhất) của đời mình,nên chăm chút chuyện vợ đến quên thân.Vì thế có thể chăm chút một vợ suốt cả đời,với điều kiện người vợ đáp ứng được những tiêu chuẩn mà người Thân cư Thê tự đăt ra và phấn đấu hướng tới.Trường hợp,các tiêu chuẩn ấy không thỏa mản,người Thân cư Thê cần ngay một hình bóng khác trước là đắp vào chỗ thiếu hụt của người thê,sau nữa là thay thế vị trí người thế bị ruồng bỏ.Vì vậy,chính xác hơn là người Thân cư Thê không đa thê,nhưng đa tình,lụy tình,nôm na là không thể sống thiếu đàn bà.Hệ thống các sao tọa thủ và hội chiếu cung Thê Thiếp sẽ là những căn cứ luận đoán nhất thê hay đa thê,đa tình.
Thân cư Phu Quân :Là người mệnh nữ gửi thân vào phúc nhà chồng,cũng là quan niệm cổ,trọng nam khinh nữ,coi thân người nữ như hạt mưa,sa vào sông thì thành sông,sa vào cống rãnh thì thành cống rãnh,cái gọi là may nhờ rủi chịu ấy,trông mong vào cội phúc đức người chồng.Người mệnh có Thân cư Phú Quân là người coi mục đích lý tưởng sống của mình là sự vun đắp cho sự nghiệp của người chồng và đảm đang thiên chức của người vợ,người mẹ.Vì thế,người nữ Thân cư Phu bảo là người có cách cục Vượng Phu Ích Tử .Người nam luôn ao ước tìm hiểu và xây dựng gia đình với người Thân cư Phu.
Thân cư Phu bảo rằng mệnh nữ cường cung là vậy.Nhưng thực tế có là vậy ? Căn bản là vậy,vì Thân là nửa thời gian đời (31-60) dành mọi đường sinh,dưỡng phu cung,bảo sao người phu của cung số ấy không vừa lòng,toại ý.Đó là thế hành sinh nhập,cát tường bậc 1.Tuy nhiên đã nói tương sinh,thì ắt có sinh dư mà thành phản sinh,mà úng nếu là thủy,mà lấp nếu là thổ,mà kiệt nếu là hỏa,mà tối nếu là kim,mà triết nếu là mộc.Trong các trường hợp ấy sinh nhập dịch biến mà hóa.Thân cư Phu mà có khi góa sớm,Thân cư Phu mà có khi hai,ba lần đò chưa sang tới bến,Thân cư Phu mà có khi tử tức nhiều dòng,con anh,con tôi,con chúng ta.Do cái sự biến hóa ấy,không thể khảng định số Thân cư Phu là phúc dầy,là cát tường trọn vẹn,mà cần xem xét thế cung,thế sao của từng trường hợp cụ thể mỗi khi luận đoán.
Tuy nhiên với các lá số có Thân cư Thê hoặc Thân cư Phu thì cung Phối Ngẫu này phải được coi là cung quan trọng ngang với cung Mệnh để việc xét đoán không sai lạc và nhầm lần.Tử Vi không thật sự xem trọng cung Phu Thê trong lá số,nhưng trong thiên bàn Bát Quái Hậu Thiên thì cung Hôn Nhân đứng vị trí thứ 2,sau cung Mệnh (Sự Nghiệp),đủ biết Bát Quái xác lập vai trò Hôn Nhân quan trọng thế nào với đời người.Qua thực nghiệm nhận thấy cung Hôn Nhân đúng là đứng vị trí thứ hai trong thành bại của đời người.
Trời (Cha mẹ ) sinh ra ta là ban cho ta Mệnh,còn ta phải tự xây dựng cuộc đời mình là ta lập Thân.Theo phân định của Tử Vi thì thời gian từ 1-30 tuổi là thuộc Mệnh và từ 31-60 tuổi là thuộc Thân.Mệnh và Thân đều lập bởi Tứ Trụ (giờ,ngày,thàng,năm),Mệnh có thể cư bất kỳ cung nào trên thiên bàn Tử Vi,nhưng Thân thì không thể,mà chỉ có thể cư tại sáu vị trí : Thân cư cung Mệnh,và các cung Phúc Đức,Tài Bạch,Quan Lộc, Phu Thê,và Thiên Di.Không bao giờ Thân cư các cung Phụ Mẫu,Tử Tức,Giải Ách,Điền Trạch,Nô Bộc và Huynh Đệ.
Theo quan niệm cổ,với người nam,Thân cư các cung : Phúc Đức,Quan Lộc,Tài Bạch bảo là Thân cư cường cung.Trường hợp thân cư Thiên Di và Thê Thiếp bảo là Thân cư nhược cung,Thân cư Thiên Di là phiêu bồng cách,Thân cư Thê Thiếp là phiếm đào cách.
Cũng theo quan niệm cổ,với người nữ,Thân cư các cung : Phúc Đức và Phu Quân là Thân cư cường cung,Thân cư Quan Lộc,Tài Bạch,Thiên Di là Thân cư nhược cung,còn gọi là Ích Khổn cách.
Trường hợp Thân,Mệnh đồng cung thì thời gian không phân chia như nói trên mà suốt từ 1-60 hung cát thế nào vận vào đời thế ấy.Trường hợp Thân Mệnh đồng cung và các trường hợp Thân cư Phúc,Quan,Tài,Di,sẽ có dịp bàn luận trong các bài viết khác.Bài viết này chỉ bàn luận về Thân cư Phu Thê.
Thân cư Thê Thiếp : Là người bịn rịn vợ,mục đích (hay lý tưởng sống) của mình là vợ,cái hắt hơi của vợ khiến bồn chồn lo lắng hơn cả cơn đau quặn thắt ngực của mẹ, cái lứ mắt của vợ uy lực hơn cả lời nghiêm khắc của cha của thầy.Người Thân cư Thê sinh dưỡng một tình si mê vợ (chình xác là đàn bà,gọi là thê là thiếp hay tỳ nữ cũng vậy ),vì thế không chỉ là người lụy thê,mà còn là người tàn độc,quyết đoán với Thê,một khi đã chán chê,tình rạn vỡ thì muốn đạp đổ tức khắc xóa sạch cấ kỳ và tâm trí thôi thúc hướng tới một tình yêu khác,như là một giải pháp thay thế không thể chậm trễ.
Quan niệm cổ phương Đông bảo Thân cư Thê là hèn cung.Cha mẹ phiền lòng con trai lụy vợ mà quên việc hiếu nghĩa gia đình.Xã hội,đồng môn,đồng nghiệp,vua quan không dành nhiều tín nhiệm,vì e người Thân cư Thê mải lo việc vợ,chí trai còn được bao nhiêu lo việc cộng đồng,xã tắc.
Nhưng giờ đây,thời khắc của thế kỷ 21,quan niệm trên không hẳn bị xem là cổ hủ,lỗi thời nhưng cũng không còn là khuôn vàng thước ngọc của đạo đức Nho Khổng.Nhất vợ nhì trời thì có gì là xấu ?
Người Thân cư Thê có nhất thiết đa thê ? Không.Như đã nói,người Thân cư Thê xem chuyện vợ là quan trọng (bậc nhất) của đời mình,nên chăm chút chuyện vợ đến quên thân.Vì thế có thể chăm chút một vợ suốt cả đời,với điều kiện người vợ đáp ứng được những tiêu chuẩn mà người Thân cư Thê tự đăt ra và phấn đấu hướng tới.Trường hợp,các tiêu chuẩn ấy không thỏa mản,người Thân cư Thê cần ngay một hình bóng khác trước là đắp vào chỗ thiếu hụt của người thê,sau nữa là thay thế vị trí người thế bị ruồng bỏ.Vì vậy,chính xác hơn là người Thân cư Thê không đa thê,nhưng đa tình,lụy tình,nôm na là không thể sống thiếu đàn bà.Hệ thống các sao tọa thủ và hội chiếu cung Thê Thiếp sẽ là những căn cứ luận đoán nhất thê hay đa thê,đa tình.
Thân cư Phu Quân :Là người mệnh nữ gửi thân vào phúc nhà chồng,cũng là quan niệm cổ,trọng nam khinh nữ,coi thân người nữ như hạt mưa,sa vào sông thì thành sông,sa vào cống rãnh thì thành cống rãnh,cái gọi là may nhờ rủi chịu ấy,trông mong vào cội phúc đức người chồng.Người mệnh có Thân cư Phú Quân là người coi mục đích lý tưởng sống của mình là sự vun đắp cho sự nghiệp của người chồng và đảm đang thiên chức của người vợ,người mẹ.Vì thế,người nữ Thân cư Phu bảo là người có cách cục Vượng Phu Ích Tử .Người nam luôn ao ước tìm hiểu và xây dựng gia đình với người Thân cư Phu.
Thân cư Phu bảo rằng mệnh nữ cường cung là vậy.Nhưng thực tế có là vậy ? Căn bản là vậy,vì Thân là nửa thời gian đời (31-60) dành mọi đường sinh,dưỡng phu cung,bảo sao người phu của cung số ấy không vừa lòng,toại ý.Đó là thế hành sinh nhập,cát tường bậc 1.Tuy nhiên đã nói tương sinh,thì ắt có sinh dư mà thành phản sinh,mà úng nếu là thủy,mà lấp nếu là thổ,mà kiệt nếu là hỏa,mà tối nếu là kim,mà triết nếu là mộc.Trong các trường hợp ấy sinh nhập dịch biến mà hóa.Thân cư Phu mà có khi góa sớm,Thân cư Phu mà có khi hai,ba lần đò chưa sang tới bến,Thân cư Phu mà có khi tử tức nhiều dòng,con anh,con tôi,con chúng ta.Do cái sự biến hóa ấy,không thể khảng định số Thân cư Phu là phúc dầy,là cát tường trọn vẹn,mà cần xem xét thế cung,thế sao của từng trường hợp cụ thể mỗi khi luận đoán.
Tuy nhiên với các lá số có Thân cư Thê hoặc Thân cư Phu thì cung Phối Ngẫu này phải được coi là cung quan trọng ngang với cung Mệnh để việc xét đoán không sai lạc và nhầm lần.Tử Vi không thật sự xem trọng cung Phu Thê trong lá số,nhưng trong thiên bàn Bát Quái Hậu Thiên thì cung Hôn Nhân đứng vị trí thứ 2,sau cung Mệnh (Sự Nghiệp),đủ biết Bát Quái xác lập vai trò Hôn Nhân quan trọng thế nào với đời người.Qua thực nghiệm nhận thấy cung Hôn Nhân đúng là đứng vị trí thứ hai trong thành bại của đời người.
Được cảm ơn bởi: yakblack
TL: Kiến thức tử vi hay
___HƯỚNG NGHIỆP BẰNG TỬ VI____
1.HƯỚNG NGHIỆP BẰNG NĂM SINH.
Năm sinh hay còn gọi là tuổi,bao gồm 12 chi,chia ra làm năm nhóm ngũ hành : Thìn,Tuất,Sửu Mùi thuộc thổ / Thân,Dậu thuộc kim / Hợi,Tý thuộc thủy/ Dần,Mão thuộc mộc,/ và Tỵ,Ngọ thuộc hỏa. Nguyên lý ngũ hành các hành không thể đứng đơn độc,mà phải sinh khắc để tương thích với nhau mà tạo ra đời sống.Nhìn vào ngũ hành phân chia ở trên,ta thấy Thổ bao gồm tới 4 chi,còn các hành khác chỉ gồm hai chi.Vì vậy thổ được coi là quan trọng nhất,phụ trách sinh tồn sinh lý,và được dụng làm hành căn bản phần chia 12 chi ngũ hành thành bốn nhóm hành :
Thuộc kim : Tỵ-Dậu-Sửu.Phụ trách an toàn (tiền và pháp luật)
Thuộc thủy : Thân-Tí-Thìn.Phụ trách việc giao tiếp.
Thuộc mộc : Hợi-Mão-Mùi.Phụ trách việc sinh,dưỡng,tự trọng.
Thuộc hỏa : Dần-Ngọ-Tuất.Phụ trách việc thành tích (tiền và danh)
Tham khảo sự phân chia các nhóm chi này sẽ có thêm căn cứ hướng nghiệp.Vi dụ,người sinh năm Giáp Tí,1984,nên học và làm các việc có tính giao tiếp.Người sinh năm 1976,tuổi Bính Thìn,nên học và làm các nghề có khuynh hướng sinh tồn,sinh lý và nếu thích giao tiếp,làm giao tiếp cũng thành đạt.Hoặc những người tuổi Dần,Ngọ,Tuất thích và sẽ thành tựu với các nghề có khuynh hướng tiền và danh.
Nhấn mạnh : Hướng nghiệp bằng tuổi (năm sinh) không phải bằng hành năm sinh.
2.HƯỚNG NGHIỆP BẰNG TỬ VI
Nếu chỉ xem xét đơn thuần về nghề nghiệp,khả năng chuyên môn và sự thành đạt của khả năng chuyên môn ấy,thì cung quan trọng nhất cần xem xét là cung Quan Lộc,các cung khác kể cả Phúc, Mệnh hay Tài đều chỉ mang ý nghĩa tham khảo.
Các chính tinh cư cung Quan Lộc chỉ xét được hai khía cạnh nghề nghiệp theo quan niệm cổ là nghề văn và nghề võ.Các sao chính tinh thuộc chòm sao Tử Vi,Thiên Phủ,gồm : Tử,Phủ,Vũ,Tướng, Sát,Phá,Liêm,Tham,thuộc võ cách.Các sao chính tinh quan hệ với hai chòm sao Thái Dương và Thái Âm,bao gồm : Thái Dương,Thái Âm,Thiên Lương,Thiên Cơ,Cự Môn,Thiên Đồng,thuộc văn cách.
Hiện nay,về căn bản sự phân chia văn cách và võ cách này không có gì thay đổi lớn,chỉ có điều nghĩa rộng hơn vì bao hàm nhiều nghề nghiệp hơn.Tựu trung vẫn là cách văn và cách võ và trong cách văn hay võ đó đều hàm chứa hai khối công việc lao động trí óc và lao động chân tay.
Hướng nghiệp theo tuổi nói ở trên và hướng nghiệp theo các sao chính tinh tử vi căn bản giống nhau,tuy nhiên đều bị hạn chế phần đáng kể,vì các định hướng này chỉ mang ý nghĩa đại thể,không có khả năng chi tiết hướng nghiệp.
Chi tiết hướng nghiệp phài căn cứ vào các sao trung tinh và bàng tinh tọa thủ hoặc hội chiếu cung Quan Lộc.Có thể chia các sao này vào các nhóm ý nghĩa sau đây :
Nhóm sao ý nghĩa hiển đạt sự nghiệp khuynh hướng danh vọng : Văn Xương,Văn Khúc. Thiên Khôi,Thiên Việt.Tả Phù,Hữu Bật.Long Trì,Phượng Các.Ân Quang Thiên Quí.Tam Thai, Bát Tọa.Khoa Quyền Lộc.
Nhóm sao ý nghĩa hiển đạt sự nghiệp,khuynh hướng phú quí : Lộc Tồn,Hóa Lộc.Thiên Mã.Đào Hoa,Hồng Loan,Thiên Hỉ,Hỷ Thần.
Nhóm sao ý nghĩa hiển đạt sự nghiệp khuynh hướng nhân cách thiện đức : Tứ linh (Long,Phương,Hổ cái) Tứ Đức (Thiên,Nguyệt,Phúc,Long đức),Quan Phúc hoặc Binh,Hình, Tướng,Ấn.
Nhóm sao ý nghĩa hiển đạt sự nghiệp khuynh hướng tài hoa,cây cảnh cá vàng : Bạch Hổ,Thiên Riêu,Tấu Thư,Hoa cái.Đào Hoa,Hồng Loan,Thiên Hỉ.Tam Thai,Bát Tọa.
Nhóm sao ý nghĩa hiển đạt sự nnghiệp khuynh hướng bị thị phi,khinh ghét : Kinh Dương Lực Sĩ.Kiếp,Hư,Hao,Quyền.Khốc Hư Tí Ngọ,Không Kiếp Tỵ Hợi.Lưỡng Phá (Phá Quân,Phá Toái). Mộc Dục,Hoa Cái.Đào Thai.
Tất nhiên,trên đây chỉ là những đúc kết kinh nghiệm,năng lực chế biến,hóa giải hoàn toàn có khả năng trên căn bản tu thân đức tin thuận lý.
Nhấn mạnh sau cùng :
Nếu cung Quan Lộc vô chính diệu thì cần nhất phải tìm tứ không (Tuần Không,Triệt Không,Thiên Không,Địa Không),có từ 1-3 không án ngữ hoặc hội chiếu cung Quan Lộc,thì mọi việc lúc đầu gian nan,khó khăn nhưng kết cục được thành tựu.Nếu không có bất kỳ một Không nào thủ hoặc chiếu thì phải xem xét các sao của cung Phối Ngẫu,cung này đơợc coi là cung quan lộc thứ hai.
Trường hợp cung Quan Lộc có Thái Dương miếu vượng tọa thủ hoặc hội chiếu thì coi như việc hướng nghiệp đã được máy trời sắp đặt,nhất định toại nguyện và thành đạt.Bởi vậy mới bảo Thái Dương miếu vượng cư Quan Lộc là thượng cách sự nghiệp.
Tử vi và chữ THỜI !
Làm rõ một chữ Thời không dễ,bởi chữ Thời tàng ẩn sâu sắc trong dịch,đòi hỏi thấu hiểu,cảm thụ,không phải là tán dương nông cạn.Đành mượn Tử Vi,như một phương tiện để luận đa chiều xung quanh một chữ Thời.
1.HƯỚNG NGHIỆP BẰNG NĂM SINH.
Năm sinh hay còn gọi là tuổi,bao gồm 12 chi,chia ra làm năm nhóm ngũ hành : Thìn,Tuất,Sửu Mùi thuộc thổ / Thân,Dậu thuộc kim / Hợi,Tý thuộc thủy/ Dần,Mão thuộc mộc,/ và Tỵ,Ngọ thuộc hỏa. Nguyên lý ngũ hành các hành không thể đứng đơn độc,mà phải sinh khắc để tương thích với nhau mà tạo ra đời sống.Nhìn vào ngũ hành phân chia ở trên,ta thấy Thổ bao gồm tới 4 chi,còn các hành khác chỉ gồm hai chi.Vì vậy thổ được coi là quan trọng nhất,phụ trách sinh tồn sinh lý,và được dụng làm hành căn bản phần chia 12 chi ngũ hành thành bốn nhóm hành :
Thuộc kim : Tỵ-Dậu-Sửu.Phụ trách an toàn (tiền và pháp luật)
Thuộc thủy : Thân-Tí-Thìn.Phụ trách việc giao tiếp.
Thuộc mộc : Hợi-Mão-Mùi.Phụ trách việc sinh,dưỡng,tự trọng.
Thuộc hỏa : Dần-Ngọ-Tuất.Phụ trách việc thành tích (tiền và danh)
Tham khảo sự phân chia các nhóm chi này sẽ có thêm căn cứ hướng nghiệp.Vi dụ,người sinh năm Giáp Tí,1984,nên học và làm các việc có tính giao tiếp.Người sinh năm 1976,tuổi Bính Thìn,nên học và làm các nghề có khuynh hướng sinh tồn,sinh lý và nếu thích giao tiếp,làm giao tiếp cũng thành đạt.Hoặc những người tuổi Dần,Ngọ,Tuất thích và sẽ thành tựu với các nghề có khuynh hướng tiền và danh.
Nhấn mạnh : Hướng nghiệp bằng tuổi (năm sinh) không phải bằng hành năm sinh.
2.HƯỚNG NGHIỆP BẰNG TỬ VI
Nếu chỉ xem xét đơn thuần về nghề nghiệp,khả năng chuyên môn và sự thành đạt của khả năng chuyên môn ấy,thì cung quan trọng nhất cần xem xét là cung Quan Lộc,các cung khác kể cả Phúc, Mệnh hay Tài đều chỉ mang ý nghĩa tham khảo.
Các chính tinh cư cung Quan Lộc chỉ xét được hai khía cạnh nghề nghiệp theo quan niệm cổ là nghề văn và nghề võ.Các sao chính tinh thuộc chòm sao Tử Vi,Thiên Phủ,gồm : Tử,Phủ,Vũ,Tướng, Sát,Phá,Liêm,Tham,thuộc võ cách.Các sao chính tinh quan hệ với hai chòm sao Thái Dương và Thái Âm,bao gồm : Thái Dương,Thái Âm,Thiên Lương,Thiên Cơ,Cự Môn,Thiên Đồng,thuộc văn cách.
Hiện nay,về căn bản sự phân chia văn cách và võ cách này không có gì thay đổi lớn,chỉ có điều nghĩa rộng hơn vì bao hàm nhiều nghề nghiệp hơn.Tựu trung vẫn là cách văn và cách võ và trong cách văn hay võ đó đều hàm chứa hai khối công việc lao động trí óc và lao động chân tay.
Hướng nghiệp theo tuổi nói ở trên và hướng nghiệp theo các sao chính tinh tử vi căn bản giống nhau,tuy nhiên đều bị hạn chế phần đáng kể,vì các định hướng này chỉ mang ý nghĩa đại thể,không có khả năng chi tiết hướng nghiệp.
Chi tiết hướng nghiệp phài căn cứ vào các sao trung tinh và bàng tinh tọa thủ hoặc hội chiếu cung Quan Lộc.Có thể chia các sao này vào các nhóm ý nghĩa sau đây :
Nhóm sao ý nghĩa hiển đạt sự nghiệp khuynh hướng danh vọng : Văn Xương,Văn Khúc. Thiên Khôi,Thiên Việt.Tả Phù,Hữu Bật.Long Trì,Phượng Các.Ân Quang Thiên Quí.Tam Thai, Bát Tọa.Khoa Quyền Lộc.
Nhóm sao ý nghĩa hiển đạt sự nghiệp,khuynh hướng phú quí : Lộc Tồn,Hóa Lộc.Thiên Mã.Đào Hoa,Hồng Loan,Thiên Hỉ,Hỷ Thần.
Nhóm sao ý nghĩa hiển đạt sự nghiệp khuynh hướng nhân cách thiện đức : Tứ linh (Long,Phương,Hổ cái) Tứ Đức (Thiên,Nguyệt,Phúc,Long đức),Quan Phúc hoặc Binh,Hình, Tướng,Ấn.
Nhóm sao ý nghĩa hiển đạt sự nghiệp khuynh hướng tài hoa,cây cảnh cá vàng : Bạch Hổ,Thiên Riêu,Tấu Thư,Hoa cái.Đào Hoa,Hồng Loan,Thiên Hỉ.Tam Thai,Bát Tọa.
Nhóm sao ý nghĩa hiển đạt sự nnghiệp khuynh hướng bị thị phi,khinh ghét : Kinh Dương Lực Sĩ.Kiếp,Hư,Hao,Quyền.Khốc Hư Tí Ngọ,Không Kiếp Tỵ Hợi.Lưỡng Phá (Phá Quân,Phá Toái). Mộc Dục,Hoa Cái.Đào Thai.
Tất nhiên,trên đây chỉ là những đúc kết kinh nghiệm,năng lực chế biến,hóa giải hoàn toàn có khả năng trên căn bản tu thân đức tin thuận lý.
Nhấn mạnh sau cùng :
Nếu cung Quan Lộc vô chính diệu thì cần nhất phải tìm tứ không (Tuần Không,Triệt Không,Thiên Không,Địa Không),có từ 1-3 không án ngữ hoặc hội chiếu cung Quan Lộc,thì mọi việc lúc đầu gian nan,khó khăn nhưng kết cục được thành tựu.Nếu không có bất kỳ một Không nào thủ hoặc chiếu thì phải xem xét các sao của cung Phối Ngẫu,cung này đơợc coi là cung quan lộc thứ hai.
Trường hợp cung Quan Lộc có Thái Dương miếu vượng tọa thủ hoặc hội chiếu thì coi như việc hướng nghiệp đã được máy trời sắp đặt,nhất định toại nguyện và thành đạt.Bởi vậy mới bảo Thái Dương miếu vượng cư Quan Lộc là thượng cách sự nghiệp.
Tử vi và chữ THỜI !
Làm rõ một chữ Thời không dễ,bởi chữ Thời tàng ẩn sâu sắc trong dịch,đòi hỏi thấu hiểu,cảm thụ,không phải là tán dương nông cạn.Đành mượn Tử Vi,như một phương tiện để luận đa chiều xung quanh một chữ Thời.
Mỗi quẻ đơn,ví dụ tám quẻ cái : Càn,Khảm,Cấn Chấn,Tốn,Ly,Khôn,Đoài mổi quẻ gồm ba hào âm dương.Hai quẻ đơn giao hoan với nhau kết thành một trùng quái gồm 6 hào âm dương.Ví một trùng quái là một đời người,đời người bảo là gồm 60 năm, cũng có thuyết cho rằng mỗi đơn quái là 60 năm,mỗi hào là 20 năm và mỗi trùng quái đời người có thể dài tới 120 tuổi,không có quy ước nào bắt buộc như thế nhưng Dịch coi là thế,Tử Vi coi là thế và con người cũng thuận theo là thế.Đời người là gồm 60 năm hay 120 tuổi,mỗi hào trong quẻ là 10 năm,hay 20 năm là tùy thuộc theo mỗi cách luận mà thôi.
Xin bằng lòng và luận theo dịch cổ,đời người là 60 năm.
Một trùng quái,ba hào dưới gọi là nội quái,ba hào trên gọi là ngoại quái.Nội quái là 30 năm đời người kể từ khi ra đời.Và ngoại quái kể từ tuổi 31 đến 60 tuổi.60 năm cuộc đời ấy được chia làm 6 hào,mỗi hào là 10 năm.Như vậy thời của Quẻ là thời 60 năm,thời của hào là thời 10 năm,không thể luận khác được.Như vậy thời hào liên quan đến thời quẻ,nhưng ý nghĩa cát hung chi phối không nhiều,nếu không muốn nói là thời hào có định kiến riêng,độc lập và hàm chứa cái "đức" riêng của mỗi hào.
Một trùng quái,ba hào dưới gọi là nội quái,ba hào trên gọi là ngoại quái.Nội quái là 30 năm đời người kể từ khi ra đời.Và ngoại quái kể từ tuổi 31 đến 60 tuổi.60 năm cuộc đời ấy được chia làm 6 hào,mỗi hào là 10 năm.Như vậy thời của Quẻ là thời 60 năm,thời của hào là thời 10 năm,không thể luận khác được.Như vậy thời hào liên quan đến thời quẻ,nhưng ý nghĩa cát hung chi phối không nhiều,nếu không muốn nói là thời hào có định kiến riêng,độc lập và hàm chứa cái "đức" riêng của mỗi hào.
Xem xét : Quẻ Thiên/Địa Bĩ,thời của quẻ là thời Bĩ (hung xấu),cái nghĩa thời đó ai cũng biết là thời Bĩ,nên cần gì phải luận thêm về Bĩ.Vì thế,thời của 6 hào trong quẻ,luôn là thời cố gắng vươn lên,thời tu thân thiện đức,thời dịch bĩ thành thái,do vậy,không thời hào muốn choàng lên cố mình cái Bĩ để bĩ thêm,thời quẻ Bĩ,đức của hào là kháng bĩ.
Và xem xét : Quẻ Hỏa/Thiên Đại Hữu,thời quẻ Đại Hữu là thời giầu sang phú quí.Nhưng thời của 6 hào gần như không hào nào bàn thêm về sự giầu sang phú quí,mà thời của mỗi hào,tùy thuộc sự đắc trung chính hay không đắc trung chính mà khuyên răn nên kiệm,nên đề phòng họa ách,nên tu thân vị tha,nên khiêm nhường hành xử.Tóm lại thời của hào trong quẻ Đại Hữu rất khác với thời của quẻ Đại Hữu.
Và xem xét : Quẻ Hỏa/Thiên Đại Hữu,thời quẻ Đại Hữu là thời giầu sang phú quí.Nhưng thời của 6 hào gần như không hào nào bàn thêm về sự giầu sang phú quí,mà thời của mỗi hào,tùy thuộc sự đắc trung chính hay không đắc trung chính mà khuyên răn nên kiệm,nên đề phòng họa ách,nên tu thân vị tha,nên khiêm nhường hành xử.Tóm lại thời của hào trong quẻ Đại Hữu rất khác với thời của quẻ Đại Hữu.
Lược dẫn ở trên nhằm giới thiệu chữ Thời của quẻ và chữ Thời của hào.Chữ thời hào và thời quẻ có dịch biến,đó là chữ Thời dịch biến.Thời dịch biến được thể hiện bằng quẻ biến và quẻ hỗ.Khi xem xét chữ thời cụ thể nào đó,phải căn cứ trên phương diện thời của ba quẻ : Chủ,biến và hỗ.Tất nhiên kiến thức càng tinh thông, càng uyên bác thì việc luận giảng càng cao siêu và càng ứng nghiệm.
Nói vậy,chẳng hóa đánh đố tri thức (vì mấy ai dám vỗ ngực cho là mình đã thấu đạt dịch học ) trước các chi tiết hung cát từng giai đoạn đời người ? Câu hỏi này sẽ luận giải tham khảo trong bài viết về dụng cụ đo lường cát hung của dịch hay còn gọi là Ma trận bát quái,vào dịp khác.Bài này,giới hạn trong việc dụng Tử Vi luận chữ Thời.
Thời của quẻ,với Tử Vi gọi là thời của Mệnh Thân,có thể khập khiễng,nhưng cứ tạm coi thời của Nội quái là thời của Mệnh,thời của Ngoại quái là thời của Thân.Thời của mỗi hào là thời của Đại vận Tử Vi.Chi tiết hơn quẻ dịch,thời của Đại vận Tử Vi,chia ra làm 10 năm và mỗi năm gọi là một Tiểu hạn,là thời Tiểu hạn.Chưa hết còn thời Nguyệt hạn,thời Thời hạn.Như vậy chữ thời của dịch nghĩa mở nên rộng rãi,bao la, tùy thuộc năng lực kiến thức luận.Còn thời trong Tử Vi khuôn định,giới hạn và chi tiết,chẳng những thế,thời Tử Vi còn có khả năng biện luận,chứng minh cụ thể.
Khán Tử Vi,muốn xem thời ngày,ngoài việc tìm những căn cứ của các sao cát hung cư trong cung ngày ấy,còn phải xem thời của tháng ấy,bởi cát hung của ngày phụ thuộc rất nhiều vào cát hung của tháng.Ví dụ,hạn tháng sáng sủa đẹp đẽ,thì hạn ngày cho dù xấu hãm cũng là không đáng kể.Ngược lại,hạn tháng xấu hãm,hung tối thì dù hạn ngày có tốt đẹp mấy cũng bị triết giãm đáng kể.
Xem hạn tháng nhất thiết phải biết hạn của năm.Xem hạn năm nhất thiết phải biết hạn của đại vận 10 năm.Xem hạn vận 10 năm,nhất thiết phải biết hạn vận của Mệnh (1-30) và Thân (31-60).
Đại hạn sáng sủa tốt đẹp trong một Mệnh Thân cũng sáng sủa tốt đẹp,đó là thượng cách tốt đẹp.Đại vận tốt đẹp nhưng Mệnh Thân xấu hãm thì nhất thiết phải biết dụng cát tường của hạn mà giải cứu hung xấu của Mệnh Thân.Trường hợp Mệnh Thân sáng sủa tốt đẹp,đại vận hung xấu,thì phải dụng tốt đẹp của Thân Mệnh chi phối cứu giải đại vận.Đó là phép biện chứng của các chữ Thời đồng hành.
Xem hạn tháng nhất thiết phải biết hạn của năm.Xem hạn năm nhất thiết phải biết hạn của đại vận 10 năm.Xem hạn vận 10 năm,nhất thiết phải biết hạn vận của Mệnh (1-30) và Thân (31-60).
Đại hạn sáng sủa tốt đẹp trong một Mệnh Thân cũng sáng sủa tốt đẹp,đó là thượng cách tốt đẹp.Đại vận tốt đẹp nhưng Mệnh Thân xấu hãm thì nhất thiết phải biết dụng cát tường của hạn mà giải cứu hung xấu của Mệnh Thân.Trường hợp Mệnh Thân sáng sủa tốt đẹp,đại vận hung xấu,thì phải dụng tốt đẹp của Thân Mệnh chi phối cứu giải đại vận.Đó là phép biện chứng của các chữ Thời đồng hành.
Tóm lại : Thuật Nhân trắc học dù bằng dịch học hay bằng Tử Vi,thì chữ Thời,có thể nói,là một căn cứ soi sáng quan trọng bậc nhất.
Sửa lần cuối bởi tuongphap vào lúc 17:45, 27/05/11 với 1 lần sửa.
TL: Kiến thức tử vi hay
Chuyền đề: Đào Hoa tinh
Luận rằng : Đào Hoa thuộc mộc,vậy mà "sát tình" như kim,nước da trắng nõn,ẩn trong trắng nõn là sắc hồng,là mắt xuân lúng liếng,lúng liếng như cười,được yêu thì vênh vang, không được yêu thì AQ chửi vụng.Ai cũng muốn mệnh số có Đào hoa,người có thì giấu đào hoa vào ngực,người không có thì cầu xin,thì ghen tức,nghĩ thật lạ.
.
Luận rằng : Đào hoa chỉ cư tứ tuyệt,cư Mão (mộc) cho người tuổi Dần Ngọ Tuất (tam hợp hỏa),cư Ngọ (hỏa) cho người tuổi Tỵ Dậu Sửu (tam hợp kim),cư Dậu ( kim) cho người tuổi Thân Tí Thìn (tam hợp thủy) ,và cư Tí (thủy) cho người tuổi Hợi Mão Mùi (tam hợp mộc).Vậy là,Đào hoa cư Mảo,cư Dậu,cư Tí đều là thế sinh nhập cho tuổi mà Đào hoa phò trợ,riêng Đào hoa cư Ngọ,là thế Thành tích quá kiêu ngạo,là khắc xuất,chế ngự tam hợp tuổi thuộc Tỵ Dậu Sửu,thuộc kim,đây là thế tam hợp tuổi duy nhất nghiêng ngả,sống mái,hung cát,oan khiên với Đào hoa tinh.
.
Luận rằng : Đào hoa cư Mão là đào hoa ban mai,khoe sắc suốt ngày,bền và đẹp,nhưng ai bảo khoe sắc suốt ngày mà không là dài,là mệt nhỉ ? Đào hoa cư Ngọ là đào hoa giữa trưa,rực rỡ tuyệt vời cùng nắng Ngọ,nhưng hoa phơi nắng gắt e mau héo,mau tàn ? Đào hoa cư Dậu,là đào hoa nở lúc sẫm tối,trăng non vừa nhú ngọn tre,là Đào hoa đong đưa, duyên dáng,bóng bẩy như thơ và cũng gầy yếu như thơ.Đào hoa cư Tí,trăng vằng vằc giữa trời,hoa trăng đua chen phô khoe hương sắc,nếu gặp Thái Âm là tuyệt cách đa tình mà chính chuyên,nếu gặp Tham Lang e là tình dẹp như hoa nhưng bồng bềnh trên dòng lưu thủy.
.
Luận Quan cung rằng : Một khi cung Mệnh có Đào Hồng tọa thủ,cư Tí,tất nên tự biết kiềm chế tham muốn,là bởi đường công danh,nghề nghiệp thành đạt mau lẹ,rực rỡ,chỉ tiếc là thành tựu ấy tỷ lệ nghịch với tuổi trời.Và một khi,Đào hoa hội với Hồng Loan,Thiên Riêu,Tấu Thư,Thiên Cơ,Vũ Khúc,ắt nên chọn nghề múa hát,cải lương,tuồng kịch.
.
Luận Nô cung rằng : Đào hoa cư Nô cung,mệnh số dễ mang lụy vì tình.Đàn ông thường đa mang lẽ mọn,ưa việc trăng gió bướm hoa,đàn bà hay gian tình.Một khi,Nô cung có Đào hoa ngộ Hóa quyền,e là vợ bé cướp quyền vợ lớn.Nhưng trường hợp Đào Hồng Tả Hữu cư Nô thì các phòng nhất,nhị thậm chí tam,tứ cũng vẫn đồng ca kết đoàn.Nhưng nếu Đào Hồng phùng Thai Vượng,cư Nô nên cẩn trọng sự gian dâm dòng tộc.
.
Luận Di cung,rằng : Đào,Hồng Hỉ cư Thiên Di hôn nhân không tìm cũng đến,được cách này,đàn ông ra dường lắm gái theo,đàn bà được nhiều người thương thầm nhớ trộm. Một khi,cung Thiên Di có Đào Hồng hội với Tướng,Binh e là tơ duyên rắc rối,dễ mắc lừa tình,hội thêm Thai,Vượng e là dễ vướng lưới tình,khó toàn danh tiết.
.
Cung Giải Ách có Đào Hồng,nên phòng tim mạch và bệnh tật huyệt truyền giống.
.
Luận Tài cung,rằng : Đào Hồng cư Tài bạch lúc nào túi cũng sẵn tiền.Một khi,Hồng Loan phùng Lộc trai tiêu tiền vợ và gái nhờ nhan sắc mà hái được tiền.Nhưng,trường hợp Hội với Đại Tiểu Hao,thì Đào Hồng dự báo cảnh đàn ông gom tiền bao gái và đàn bà đem tiền bạc bao trai.
.
Luận Phối cung,rằng : Ai được cách Đào,Hồng phùng Thiên Tướng ắt trai lấy vợ đẹp,hiền ngoan,khá giả,gái lấy chồng học thức,tài ba,danh giá.Ai có cách này : Đào Hồng phùng Đà Kỵ,cách rằng,yêu nhau lắm nhưng trong tình ấy vẫn như thiếu vẫn như còn thèm tình,nên dối gạt nhau,nhi nhăng tìm tình khác ong bướm làm vui.Và các các sau : Đào Hồng phùng Hoa cái : dâm đãng lắm.Đào Hồng Kỵ vửa rứt tình hôm trước đã bén tình mới hôm sau.Đào Riêu ái tình bệnh hoạn.Đào Hồng phùng Tả Hữu thật khó một chồng một vợ,hai chưa là nhiều,ba bốn vẫn như thiếu.Nhưng nếu,Đào Hồng gặp các cách coi là xấu hãm kể trên,mà hội được Tứ Đức,đặc biệt là Nguyệt Đức,kể như Đào Hồng lại nhuận tươi mà cát vượng thuận lý.
.
Những luận trên e là công thức lỗi thời chăng ? Công thức thì chắc chắn là không,vì cái gọi là công thức đó là do chính con người đặt ra,nhỏ thì như đặt ra Kinh Dịch,lớn là đạo lý làm người.Chừng nào con ngưới ta còn sống với những căn bản đạo đức,nhân đức truyền thống,thì chừng đó đạo đức,nhân đức vẫn là công thức không thể khác được.Tuy nhiên,đạo đức,nhân đức biến động theo thời,vì vậy công thức cũng cần dịch biến theo thời thì mới không lỗi thời.
Một ví du : Có trai có gái là để yêu nhau,lấy nhau.Đó là công thức bất biến.Nhưng công thức xưa,trâu đi tìm cọc.Công thức ấy hiện nay bị coi là lỗi thời,bởi hiện nay cọc và trâu hai phía đều có thể tìm nhau.
.
Thể theo sự biến động của chữ Thời,hung cát của Đào Hoa tinh nên dụng luận thoải mái,phóng khoáng hơn,không nên quá thăng hoa phúc họa của Đào Hoa tinh mà làm biến dạng đời sống vốn tươi đẹp như tự có,và khi dự đoán nên điều tiết cân bằng hung cát sao cho sự phối ngẫu âm dương là một trong hai căn bãn sinh tồn và sinh lý tạo nên hạnh phúc của đời sống con người.
.
Khi hiểu rằng : Tình yêu không hoàn toàn mang lại hạnh phúc,tình yêu giúp ta đứng gần hạnh phúc.Nghĩa là,tình yêu có thể mang lại cho ta hạnh phúc,nhưng cũng có thể mang lại cho ta bất hạnh.Thấu đáo được điều đó,ta sẽ không ngạc nhiên gì khi tình yêu bất chấp mọi cản trở thẳng tiến tới hôn nhân,và cũng có tình yêu được bao bọc trong nhung lụa gấm hoa mà tình yêu vẫn vượt thoát mọc sừng.Sinh dưỡng để tình yêu thành hạnh phúc đích thực và cắt đứt,đoạn tuyệt để đến với một tình yêu khác không có nghĩa là tráo trở thấp hèn.
.
Sao Đào Hoa là một bàng tinh nhỏ bé so với một trăm hai chục sao trong lá số Tử Vi.Nhưng lại là sao tàng ẩn ý nghĩa tính tình tính cách của đương số thể hiện trong lĩnh vực tình yêu và hôn nhân.Xưa,lĩnh vực này vốn cũng được quan niệm nhỏ bé tầm thường, nhất là đối với nam nhi quân tử.Nhưng giờ đây chuyện tình yêu hôn nhân đang lấy lại vị thế hàng đầu (sinh tồn và sinh lý) của mình và đã trở nên quan trọng trong cuộc sống của bất kỳ tiểu nhân hay quân tử nào trên cõi thế.Cũng vì lẽ đó,sao Đào Hoa,cần được giải đoán sao cho hợp thời và tương thích với đời sống đương đại.
Đào Hoa phùng Tuần,Triệt
Tuần,tên gọi đầy đủ là Tuần Lộ Không Vong.Triệt,tên đầy đủ là Triệt Lộ Không Vong, goi là bộ Nhị Không,bộ này không là sao,nên không có hành và mang một sứ mạng vô thức là xóa sạch,tiêu dịệt và đảo ngược.Hội thêm với hai sao Thiên Không và Địa không thành bộ Tứ Không vô cùng hung hãn.Tuy nhiên,chức phận xóa sạch của Tứ Không này không chỉ giáng họa,mà nhiều khi kết cục của giáng họa lại mang về thành tựu sự phúc,việc lộc,việc thọ.Do vậy,để không dự báo sai lầm khi cung số gặp Tuần Triệt,cần nắm biết một số điều căn bản sau đây :
1.Tuần Không an theo năm sinh,trong khoảng 10 năm được giới hạn theo hàng can từ Giáp đến Quí,nên Tuổi từ Giáp Tí đến Quí Dậu an Tuần Không tại ranh giới hai cung Tuất và Hợi.10 năm hàng can Giáp Tuất an tại ranh giới hai cung Thân,Dậu.10 năm hàng can Giáp Thân an tại hai cung Ngọ,Mùi.Giáp Ngọ an tại Tỵ,Thìn.Giáp Thìn an tại Dần Mão và Giáp Dần an tại Tí,Sửu.
2.Triệt Không an theo Can của năm sinh : Can Giáp.Kỷ an tại Thân,Dậu.Can Ất canh an tại Ngọ Mùi,can Bính Tân an tại Thìn,Tỵ.Can Đinh Nhâm an tại Dần,Mão và can Mậu Quí an tại Tý Sửu (Hai cung Tuất Hợi không bao giờ có Triệt Không).
3.Phú cổ có câu : Triệt đáo kim cung,Tuần lâm hỏa địa.Nên hiểu là khi Triệt an tại hai cung Thân và Dậu (thuộc Kim) đựơc coi là vị trí miếu của Triệt,tính hung hãn của Triẹt được cân bằng ôn hòa,và Tuần an tại Ngọ Mùi được coi là vị trí miếu của Tuần,vì ở vị trí này Tuần câu hút được âm dương làm cường thịnh cho hỏa Ngọ Mùi.
4.Triệt và Tuần đều ý nghĩa xóa sạch,các đại sư kinh dịch tiền bối cho rằng vì Triệt an theo can nên chỉ hung dữ xóa sạch thời đoạn Mệnh,tức là 30 năm đầu đời,còn Tuần an theo chi,tuy không hung dữ bằng Triệt,nhưng lại kéo dài suốt đời,từ 1-60 tuổi,tức là hết cả thời đoạn Thân.
5.Với phận nhiệm xóa sạch đó,cho nên giáng họa xóa phúc hoặc ngược lại ở tất cả mọi cung số.Tuy nhiên,phải xem xét hung họa ấy theo ý nghĩa cung.Phải nên hiểu hai chữ xóa sạch ở đây là xóa sạch cả hung và cát của cung và sao nơi Tuần Triệt an tọa. Tham khảo ba thí du giáng họa mà được cát dưới đây để luận giải hung cát cho các trường hợp cụ thể của từng lá số khi xem xét Tuần,Triệt.
Tuần Triệt án ngữ cung Vô chính diệu,được cách " Vô chính diệu đắc Tam Không phú quí khả kỳ (Cung không có chính diệu tọa thủ,có Tuần Triệt án ngữ, hội với Thiên hoặc Địa Không là được phú quí khả kỳ,khả là khả năng,kỳ là ký hạn,kỳ diệu,kỳ lạ).
Tuần Triệt án ngữ cung có Âm,Dương miếu vượng,xóa sạch sự miếu vượng ấy của Âm Dương,ngược lại án ngữ cung Âm,Dương phản bối,xóa sạch sự phản bối đó mà khiến Âm Dương sáng sủa rực rỡ trở lại.
Tâm lý người xem và người được xem Tử Vi thường ái ngại,lo lắng về sự gieo rắc họa ách của Tuần triệt,mà ít công bằng,hoan hỉ với năng lực diệt trừ họa ách của Tuần Triệt như trường hợp Tuần Triệt án ngữ cung Giải Ách được cách " Tam phương xung sát hạnh đắc nhất Triệt nhi khả bằng"(ba phương dù có sát hung tinh tọa chiếu,gặp sao Triệt mọi sư bình an).
Trở lại với
Đào Hoa phùng Tuần Triệt
Đào Hoa là một sao nhỏ,tự thân nội lực mong manh,nhưng khi hội với Hồng Loan, Thiên Hỉ thành bộ Tam Minh,lại giữ một vai trò khá quan trọng trong đời người.Vì vậy, nói Đào Hoa phùng Tuần triệt là nói tắt,đầy đủ phải là Đào-Hồng-Hỉ phùng Tuần Triệt.
1.Đào Hoa thuộc Mộc,trên thiên bàn Tử Vi tọa thủ tại Tứ Tuyệt,tại Tí với người Hợi, Mão,Mùi,tại Ngọ với người Tỵ Dậu Sửu,tại Mão với người Dần Ngọ Tuất và tại Dậu với người Thân Tí Thìn.
Hồng Loan thuộc thủy đới kim,đứng một mình chỉ là ánh kim lóng lánh.Cặp trùng với Thiên Hỉ thuộc thủy,như miếng trầu,điếu thuốc,ly rượu hội ngộ,hay một phong thư hồng.Hồng Loan khởi từ Mão,tính ngược đến năm sinh,ngưng cung nào an Loan tại đó.Và Hỉ an nơi cung đối của Loan.
2.Tính tình tính cách,trách phận của Tam Minh :
Vui vẻ,mau mắn,đa tình,lẳng lơ,hoa nguyệt,sinh nở (ám chỉ nữ nhân).Có ảnh hưỡng lớn đến hôn nhân vợ chồng.
Quan thiết đến việc cưới gả,lợi ích cho việc thi cử,thăng tiến công danh,kiến quí,mang lại hỉ sự,thiệp mừng.
Làm cho Tử Phủ thêm rực rỡ,cho Nhật Nguyệt nắng tằm,trăng quế.
Cung Mệnh,Thân có Đào Hồng tọa thủ hôn nhân đôi ba lần đò.
Cung Mệnh,Thân có Đào Hồng tọa thủ hội với sát hung tinh thật khó sống lâu.
Cung Mệnh Thân có Đào Hồng tọa thủ hội với Riêu Đà Kỵ,nữ nhân khó giữ toàn danh tiết,dễ lâm cảnh hãm hiếp hoang thai,nam nhân thân tàn ma dại,thậm chí chết vì gái.
Từ những đặc điểm nói trên của Tuần Triệt và Đào Hồng Hỉ,nên khi hai bộ sao này gặp (phùng) nhau trong vị thế đồng tọa thủ,đặc biệt tại cung Mệnh Thân,hoặc tại cung mong cầu như quan lộc hay tài bạch xóa sạch cái minh sáng,duyên may của thăng quan tiến chức,đỗ đạt,tiền bạc và cũng phải hiểu là sư xóa sạch này đã cứu thoát tình cảnh vì quan lộc,tài bạch có thể dẫn đến tù tội do tham nhũng,do mép môi,son phấn lường gạt mà băng hoại đạo đức.Đồng thời cũng nên hiểu Đào Hồng Hỉ phùng Tuần Triệt có tác dụng ý nghĩa tiêu cực khi thời trẻ,nhưng lại có ý nghĩa tích cực khi tuổi già.
Tóm lại,Đào Hoa phùng Tuần Triệt là một trong hàng trăm cách cục chi tiết của Tử Vi, chỉ nên xem xét khi cần thiết (xem hôn nhân,trăng gió,thai sản,thăng tiến,mau mắn...) và khi xem xét phải căn cứ hành Mệnh,độ tuổi,giới tính đối chứng với cung, với sao mà luận cát hung và tìm thế cứu giải hoặc tiếp đón.
Sau cùng : Kinh nghiệm cá nhân cho rằng,cung mệnh,Thân hay các cung số khác được cách Đào Hồng Hỉ tọa chiếu cho dù có phùng Tuần Triệt,thì đời sống của những lá số ấy vẫn sinh động với nhiều âm thanh,sắc mầu đời hơn những là số thèm muốn Đào Hồng Hỉ,dù thế xấu hãm,mà vẫn không thể,nên thường ủ ê,trầm mặc.
Luận rằng : Đào Hoa thuộc mộc,vậy mà "sát tình" như kim,nước da trắng nõn,ẩn trong trắng nõn là sắc hồng,là mắt xuân lúng liếng,lúng liếng như cười,được yêu thì vênh vang, không được yêu thì AQ chửi vụng.Ai cũng muốn mệnh số có Đào hoa,người có thì giấu đào hoa vào ngực,người không có thì cầu xin,thì ghen tức,nghĩ thật lạ.
.
Luận rằng : Đào hoa chỉ cư tứ tuyệt,cư Mão (mộc) cho người tuổi Dần Ngọ Tuất (tam hợp hỏa),cư Ngọ (hỏa) cho người tuổi Tỵ Dậu Sửu (tam hợp kim),cư Dậu ( kim) cho người tuổi Thân Tí Thìn (tam hợp thủy) ,và cư Tí (thủy) cho người tuổi Hợi Mão Mùi (tam hợp mộc).Vậy là,Đào hoa cư Mảo,cư Dậu,cư Tí đều là thế sinh nhập cho tuổi mà Đào hoa phò trợ,riêng Đào hoa cư Ngọ,là thế Thành tích quá kiêu ngạo,là khắc xuất,chế ngự tam hợp tuổi thuộc Tỵ Dậu Sửu,thuộc kim,đây là thế tam hợp tuổi duy nhất nghiêng ngả,sống mái,hung cát,oan khiên với Đào hoa tinh.
.
Luận rằng : Đào hoa cư Mão là đào hoa ban mai,khoe sắc suốt ngày,bền và đẹp,nhưng ai bảo khoe sắc suốt ngày mà không là dài,là mệt nhỉ ? Đào hoa cư Ngọ là đào hoa giữa trưa,rực rỡ tuyệt vời cùng nắng Ngọ,nhưng hoa phơi nắng gắt e mau héo,mau tàn ? Đào hoa cư Dậu,là đào hoa nở lúc sẫm tối,trăng non vừa nhú ngọn tre,là Đào hoa đong đưa, duyên dáng,bóng bẩy như thơ và cũng gầy yếu như thơ.Đào hoa cư Tí,trăng vằng vằc giữa trời,hoa trăng đua chen phô khoe hương sắc,nếu gặp Thái Âm là tuyệt cách đa tình mà chính chuyên,nếu gặp Tham Lang e là tình dẹp như hoa nhưng bồng bềnh trên dòng lưu thủy.
.
Luận Quan cung rằng : Một khi cung Mệnh có Đào Hồng tọa thủ,cư Tí,tất nên tự biết kiềm chế tham muốn,là bởi đường công danh,nghề nghiệp thành đạt mau lẹ,rực rỡ,chỉ tiếc là thành tựu ấy tỷ lệ nghịch với tuổi trời.Và một khi,Đào hoa hội với Hồng Loan,Thiên Riêu,Tấu Thư,Thiên Cơ,Vũ Khúc,ắt nên chọn nghề múa hát,cải lương,tuồng kịch.
.
Luận Nô cung rằng : Đào hoa cư Nô cung,mệnh số dễ mang lụy vì tình.Đàn ông thường đa mang lẽ mọn,ưa việc trăng gió bướm hoa,đàn bà hay gian tình.Một khi,Nô cung có Đào hoa ngộ Hóa quyền,e là vợ bé cướp quyền vợ lớn.Nhưng trường hợp Đào Hồng Tả Hữu cư Nô thì các phòng nhất,nhị thậm chí tam,tứ cũng vẫn đồng ca kết đoàn.Nhưng nếu Đào Hồng phùng Thai Vượng,cư Nô nên cẩn trọng sự gian dâm dòng tộc.
.
Luận Di cung,rằng : Đào,Hồng Hỉ cư Thiên Di hôn nhân không tìm cũng đến,được cách này,đàn ông ra dường lắm gái theo,đàn bà được nhiều người thương thầm nhớ trộm. Một khi,cung Thiên Di có Đào Hồng hội với Tướng,Binh e là tơ duyên rắc rối,dễ mắc lừa tình,hội thêm Thai,Vượng e là dễ vướng lưới tình,khó toàn danh tiết.
.
Cung Giải Ách có Đào Hồng,nên phòng tim mạch và bệnh tật huyệt truyền giống.
.
Luận Tài cung,rằng : Đào Hồng cư Tài bạch lúc nào túi cũng sẵn tiền.Một khi,Hồng Loan phùng Lộc trai tiêu tiền vợ và gái nhờ nhan sắc mà hái được tiền.Nhưng,trường hợp Hội với Đại Tiểu Hao,thì Đào Hồng dự báo cảnh đàn ông gom tiền bao gái và đàn bà đem tiền bạc bao trai.
.
Luận Phối cung,rằng : Ai được cách Đào,Hồng phùng Thiên Tướng ắt trai lấy vợ đẹp,hiền ngoan,khá giả,gái lấy chồng học thức,tài ba,danh giá.Ai có cách này : Đào Hồng phùng Đà Kỵ,cách rằng,yêu nhau lắm nhưng trong tình ấy vẫn như thiếu vẫn như còn thèm tình,nên dối gạt nhau,nhi nhăng tìm tình khác ong bướm làm vui.Và các các sau : Đào Hồng phùng Hoa cái : dâm đãng lắm.Đào Hồng Kỵ vửa rứt tình hôm trước đã bén tình mới hôm sau.Đào Riêu ái tình bệnh hoạn.Đào Hồng phùng Tả Hữu thật khó một chồng một vợ,hai chưa là nhiều,ba bốn vẫn như thiếu.Nhưng nếu,Đào Hồng gặp các cách coi là xấu hãm kể trên,mà hội được Tứ Đức,đặc biệt là Nguyệt Đức,kể như Đào Hồng lại nhuận tươi mà cát vượng thuận lý.
.
Những luận trên e là công thức lỗi thời chăng ? Công thức thì chắc chắn là không,vì cái gọi là công thức đó là do chính con người đặt ra,nhỏ thì như đặt ra Kinh Dịch,lớn là đạo lý làm người.Chừng nào con ngưới ta còn sống với những căn bản đạo đức,nhân đức truyền thống,thì chừng đó đạo đức,nhân đức vẫn là công thức không thể khác được.Tuy nhiên,đạo đức,nhân đức biến động theo thời,vì vậy công thức cũng cần dịch biến theo thời thì mới không lỗi thời.
Một ví du : Có trai có gái là để yêu nhau,lấy nhau.Đó là công thức bất biến.Nhưng công thức xưa,trâu đi tìm cọc.Công thức ấy hiện nay bị coi là lỗi thời,bởi hiện nay cọc và trâu hai phía đều có thể tìm nhau.
.
Thể theo sự biến động của chữ Thời,hung cát của Đào Hoa tinh nên dụng luận thoải mái,phóng khoáng hơn,không nên quá thăng hoa phúc họa của Đào Hoa tinh mà làm biến dạng đời sống vốn tươi đẹp như tự có,và khi dự đoán nên điều tiết cân bằng hung cát sao cho sự phối ngẫu âm dương là một trong hai căn bãn sinh tồn và sinh lý tạo nên hạnh phúc của đời sống con người.
.
Khi hiểu rằng : Tình yêu không hoàn toàn mang lại hạnh phúc,tình yêu giúp ta đứng gần hạnh phúc.Nghĩa là,tình yêu có thể mang lại cho ta hạnh phúc,nhưng cũng có thể mang lại cho ta bất hạnh.Thấu đáo được điều đó,ta sẽ không ngạc nhiên gì khi tình yêu bất chấp mọi cản trở thẳng tiến tới hôn nhân,và cũng có tình yêu được bao bọc trong nhung lụa gấm hoa mà tình yêu vẫn vượt thoát mọc sừng.Sinh dưỡng để tình yêu thành hạnh phúc đích thực và cắt đứt,đoạn tuyệt để đến với một tình yêu khác không có nghĩa là tráo trở thấp hèn.
.
Sao Đào Hoa là một bàng tinh nhỏ bé so với một trăm hai chục sao trong lá số Tử Vi.Nhưng lại là sao tàng ẩn ý nghĩa tính tình tính cách của đương số thể hiện trong lĩnh vực tình yêu và hôn nhân.Xưa,lĩnh vực này vốn cũng được quan niệm nhỏ bé tầm thường, nhất là đối với nam nhi quân tử.Nhưng giờ đây chuyện tình yêu hôn nhân đang lấy lại vị thế hàng đầu (sinh tồn và sinh lý) của mình và đã trở nên quan trọng trong cuộc sống của bất kỳ tiểu nhân hay quân tử nào trên cõi thế.Cũng vì lẽ đó,sao Đào Hoa,cần được giải đoán sao cho hợp thời và tương thích với đời sống đương đại.
Đào Hoa phùng Tuần,Triệt
Tuần,tên gọi đầy đủ là Tuần Lộ Không Vong.Triệt,tên đầy đủ là Triệt Lộ Không Vong, goi là bộ Nhị Không,bộ này không là sao,nên không có hành và mang một sứ mạng vô thức là xóa sạch,tiêu dịệt và đảo ngược.Hội thêm với hai sao Thiên Không và Địa không thành bộ Tứ Không vô cùng hung hãn.Tuy nhiên,chức phận xóa sạch của Tứ Không này không chỉ giáng họa,mà nhiều khi kết cục của giáng họa lại mang về thành tựu sự phúc,việc lộc,việc thọ.Do vậy,để không dự báo sai lầm khi cung số gặp Tuần Triệt,cần nắm biết một số điều căn bản sau đây :
1.Tuần Không an theo năm sinh,trong khoảng 10 năm được giới hạn theo hàng can từ Giáp đến Quí,nên Tuổi từ Giáp Tí đến Quí Dậu an Tuần Không tại ranh giới hai cung Tuất và Hợi.10 năm hàng can Giáp Tuất an tại ranh giới hai cung Thân,Dậu.10 năm hàng can Giáp Thân an tại hai cung Ngọ,Mùi.Giáp Ngọ an tại Tỵ,Thìn.Giáp Thìn an tại Dần Mão và Giáp Dần an tại Tí,Sửu.
2.Triệt Không an theo Can của năm sinh : Can Giáp.Kỷ an tại Thân,Dậu.Can Ất canh an tại Ngọ Mùi,can Bính Tân an tại Thìn,Tỵ.Can Đinh Nhâm an tại Dần,Mão và can Mậu Quí an tại Tý Sửu (Hai cung Tuất Hợi không bao giờ có Triệt Không).
3.Phú cổ có câu : Triệt đáo kim cung,Tuần lâm hỏa địa.Nên hiểu là khi Triệt an tại hai cung Thân và Dậu (thuộc Kim) đựơc coi là vị trí miếu của Triệt,tính hung hãn của Triẹt được cân bằng ôn hòa,và Tuần an tại Ngọ Mùi được coi là vị trí miếu của Tuần,vì ở vị trí này Tuần câu hút được âm dương làm cường thịnh cho hỏa Ngọ Mùi.
4.Triệt và Tuần đều ý nghĩa xóa sạch,các đại sư kinh dịch tiền bối cho rằng vì Triệt an theo can nên chỉ hung dữ xóa sạch thời đoạn Mệnh,tức là 30 năm đầu đời,còn Tuần an theo chi,tuy không hung dữ bằng Triệt,nhưng lại kéo dài suốt đời,từ 1-60 tuổi,tức là hết cả thời đoạn Thân.
5.Với phận nhiệm xóa sạch đó,cho nên giáng họa xóa phúc hoặc ngược lại ở tất cả mọi cung số.Tuy nhiên,phải xem xét hung họa ấy theo ý nghĩa cung.Phải nên hiểu hai chữ xóa sạch ở đây là xóa sạch cả hung và cát của cung và sao nơi Tuần Triệt an tọa. Tham khảo ba thí du giáng họa mà được cát dưới đây để luận giải hung cát cho các trường hợp cụ thể của từng lá số khi xem xét Tuần,Triệt.
Tuần Triệt án ngữ cung Vô chính diệu,được cách " Vô chính diệu đắc Tam Không phú quí khả kỳ (Cung không có chính diệu tọa thủ,có Tuần Triệt án ngữ, hội với Thiên hoặc Địa Không là được phú quí khả kỳ,khả là khả năng,kỳ là ký hạn,kỳ diệu,kỳ lạ).
Tuần Triệt án ngữ cung có Âm,Dương miếu vượng,xóa sạch sự miếu vượng ấy của Âm Dương,ngược lại án ngữ cung Âm,Dương phản bối,xóa sạch sự phản bối đó mà khiến Âm Dương sáng sủa rực rỡ trở lại.
Tâm lý người xem và người được xem Tử Vi thường ái ngại,lo lắng về sự gieo rắc họa ách của Tuần triệt,mà ít công bằng,hoan hỉ với năng lực diệt trừ họa ách của Tuần Triệt như trường hợp Tuần Triệt án ngữ cung Giải Ách được cách " Tam phương xung sát hạnh đắc nhất Triệt nhi khả bằng"(ba phương dù có sát hung tinh tọa chiếu,gặp sao Triệt mọi sư bình an).
Trở lại với
Đào Hoa phùng Tuần Triệt
Đào Hoa là một sao nhỏ,tự thân nội lực mong manh,nhưng khi hội với Hồng Loan, Thiên Hỉ thành bộ Tam Minh,lại giữ một vai trò khá quan trọng trong đời người.Vì vậy, nói Đào Hoa phùng Tuần triệt là nói tắt,đầy đủ phải là Đào-Hồng-Hỉ phùng Tuần Triệt.
1.Đào Hoa thuộc Mộc,trên thiên bàn Tử Vi tọa thủ tại Tứ Tuyệt,tại Tí với người Hợi, Mão,Mùi,tại Ngọ với người Tỵ Dậu Sửu,tại Mão với người Dần Ngọ Tuất và tại Dậu với người Thân Tí Thìn.
Hồng Loan thuộc thủy đới kim,đứng một mình chỉ là ánh kim lóng lánh.Cặp trùng với Thiên Hỉ thuộc thủy,như miếng trầu,điếu thuốc,ly rượu hội ngộ,hay một phong thư hồng.Hồng Loan khởi từ Mão,tính ngược đến năm sinh,ngưng cung nào an Loan tại đó.Và Hỉ an nơi cung đối của Loan.
2.Tính tình tính cách,trách phận của Tam Minh :
Vui vẻ,mau mắn,đa tình,lẳng lơ,hoa nguyệt,sinh nở (ám chỉ nữ nhân).Có ảnh hưỡng lớn đến hôn nhân vợ chồng.
Quan thiết đến việc cưới gả,lợi ích cho việc thi cử,thăng tiến công danh,kiến quí,mang lại hỉ sự,thiệp mừng.
Làm cho Tử Phủ thêm rực rỡ,cho Nhật Nguyệt nắng tằm,trăng quế.
Cung Mệnh,Thân có Đào Hồng tọa thủ hôn nhân đôi ba lần đò.
Cung Mệnh,Thân có Đào Hồng tọa thủ hội với sát hung tinh thật khó sống lâu.
Cung Mệnh Thân có Đào Hồng tọa thủ hội với Riêu Đà Kỵ,nữ nhân khó giữ toàn danh tiết,dễ lâm cảnh hãm hiếp hoang thai,nam nhân thân tàn ma dại,thậm chí chết vì gái.
Từ những đặc điểm nói trên của Tuần Triệt và Đào Hồng Hỉ,nên khi hai bộ sao này gặp (phùng) nhau trong vị thế đồng tọa thủ,đặc biệt tại cung Mệnh Thân,hoặc tại cung mong cầu như quan lộc hay tài bạch xóa sạch cái minh sáng,duyên may của thăng quan tiến chức,đỗ đạt,tiền bạc và cũng phải hiểu là sư xóa sạch này đã cứu thoát tình cảnh vì quan lộc,tài bạch có thể dẫn đến tù tội do tham nhũng,do mép môi,son phấn lường gạt mà băng hoại đạo đức.Đồng thời cũng nên hiểu Đào Hồng Hỉ phùng Tuần Triệt có tác dụng ý nghĩa tiêu cực khi thời trẻ,nhưng lại có ý nghĩa tích cực khi tuổi già.
Tóm lại,Đào Hoa phùng Tuần Triệt là một trong hàng trăm cách cục chi tiết của Tử Vi, chỉ nên xem xét khi cần thiết (xem hôn nhân,trăng gió,thai sản,thăng tiến,mau mắn...) và khi xem xét phải căn cứ hành Mệnh,độ tuổi,giới tính đối chứng với cung, với sao mà luận cát hung và tìm thế cứu giải hoặc tiếp đón.
Sau cùng : Kinh nghiệm cá nhân cho rằng,cung mệnh,Thân hay các cung số khác được cách Đào Hồng Hỉ tọa chiếu cho dù có phùng Tuần Triệt,thì đời sống của những lá số ấy vẫn sinh động với nhiều âm thanh,sắc mầu đời hơn những là số thèm muốn Đào Hồng Hỉ,dù thế xấu hãm,mà vẫn không thể,nên thường ủ ê,trầm mặc.