Nhằm để cung cấp cho bạn đọc hiểu rõ thêm về lịch sử hình thành khoa Tử Vi Đẩu Số, tôi xin trích dẫn lên đây những bài viết được sưu tầm, tổng hợp nhiều nguồn để bạn đọc hiểu rõ hơn.
Thân!
Lịch sử hình thành khoa Tử Vi Đẩu Số
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục trao đổi kiến thức về tử vi dành cho thành viên chính thức. Các bài viết trao đổi cần có nội dung kiến thức hoặc cung cấp thông tin nghiệm lý. Muốn nhờ xem, luận giải lá số vui lòng đăng tại mục Xem tử vi.
Không được đính kèm lá số của trang web khác. Các bài viết và thành viên vi phạm sẽ bị xử lý.
Đây là chuyên mục trao đổi kiến thức về tử vi dành cho thành viên chính thức. Các bài viết trao đổi cần có nội dung kiến thức hoặc cung cấp thông tin nghiệm lý. Muốn nhờ xem, luận giải lá số vui lòng đăng tại mục Xem tử vi.
Không được đính kèm lá số của trang web khác. Các bài viết và thành viên vi phạm sẽ bị xử lý.
-
- Mới gia nhập
- Bài viết: 25
- Tham gia: 18:41, 09/06/11
-
- Mới gia nhập
- Bài viết: 25
- Tham gia: 18:41, 09/06/11
TL: Lịch sử hình thành khoa Tử Vi Đẩu Số
Bài đọc 1: Tinh chiêm học thời cổ đại
1. Thiên văn và Tinh chiêm học
Thời thượng cổ người xưa thấy các hiện tượng thiên nhiên rất thần bí, cho rằng cả vũ trụ có một đấng chủ tể tối cao vô thượng, người Trung Hoa cổ đại gọi đó là Thượng Đế. Cổ nhân lại cho rằng mọi hiện tượng thiên nhiên đều có những vị thần chủ trì, thế là họ nhân cách hóa, và đặt cho chúng những cái tên nhất định, thí dụ như Phong Sư (Thần Gió) thì gọi là Phi Liêm, Vũ Sư (Thần Mưa) thì gọi là Bình Ế, Vân Sư (Thần Mây) thì gọi là Phong Long, Nhật Ngự (Thần cai quản mặt trời) thì gọi là Hi Hòa, Nguyệt Ngự (Thần cai quản mặt trăng) thì gọi là Vọng Thư... đây chính là phản ánh quan niệm này. Những tên gọi này mang sắc thái thần thoại, bởi vì các tác gia cổ đại thường dùng nên nó đã trở thành những từ văn vẻ trong thi ca từ phú cổ điển.
Mặt khác, Trung Hoa là một đất nước có nền nông nghiệp phát triển rất sớm, điều này thúc đẩy sự phát triển tri thức về thiên văn. Căn cứ các sử liệu đáng tin cậy hiện còn, chữ giáp cốt của thời đại Ân Thương đã sớm ghi chép một số tên gọi các vị sao và hiện tượng nhật thực, nguyệt thực. Các sách thời Xuân Thu Chiến Quốc như Thượng Thư, Thi Kinh, Xuân Thu, Tả Truyện, Quốc Ngữ, Nhĩ Nhã; đời Hán thì có Thiên Quan Thư trong Sử Kí, có Thiên Văn Chí trong Hán Thư, thảy đều có ghi chép, nói về thiên tượng và tinh tú một cách khá phong phú. Tri thức thiên văn của cổ nhân cũng khá phổ cấp trong dân gian.
Thời cổ đại, tinh chiêm học chính là thiên văn học. Thiên văn học hay tinh chiêm học là một thân mà có hai nhiệm vụ:
- Nhiệm vụ thứ nhất là quan sát thiên tượng để nghiên cứu sự biến đổi của thời tiết, nhằm phục vụ cho sinh hoạt đời sống và sản xuất nông nghiệp.
- Nhiệm vụ thứ hai là quan sát thiên tượng để luận đoán cát hung, nhằm phục vụ cho các bấc đế vương.
Xét từ góc độ khoa học tự nhiên, việc quan sát các hiện tượng thiên văn hầu như chẳng có liên quan gì đến lịch sử chính trị của các triều đại. Nhưng Trung Hoa cổ đại, đối với sự hưng suy của các triều đại, sự tồn vong của các bậc đế vương, thiên văn học đã có một ảnh hưởng vô cùng trọng đại, đây là một hiện tượng đặc thù của nền văn minh nhân loại.
Người Trung Hoa cổ đại cho rằng, giữa trời và người có thể giao lưu với nhau thông qua một số phép tắc, Chu Dịch Đại Truyện - Hệ Từ Thượng viết: "Thiên thùy tượng, kiến cát hung", dịch là "Trời buông điểm xuống cho thấy cát hung".
Người xưa cho rằng, đối với nhất cử nhất động của nhân gian, đặc biệt các bậc Đế vương, trời cao đều có phản ứng bằng một số thiên tượng (hiện tượng của thiên nhiên), nhằm biểu thị sự cho phép hoặc cảnh cáo, còn bậc đế vương ở nhân gian, đểu biểu thị lòng thành kính đối với thiên mệnh, họ phải thực thi những việc thích đáng nhằm đáp ứng sự biến đổi của Trời. Quy tắc của toàn bộ "mối quan hệ giữa trời và người" này của người Trung Hoa cổ đại, chính là "Tinh chiêm học".
Tinh chiêm học là một học thuyết rất được cổ nhân xem trọng, luôn có người chuyên trách, chức danh của các tinh chiêm gia và các hoạt động chiêm tinh chuyên môn của họ cũng thường được ghi chép trong các sách sử, từ những ghi chép này chúng ta có thể tìm hiểu nguồn gốc lịch sử của môn tinh chiêm học.
Trong Sử Ký do Tư Mã Thiên trước tác, có chép danh sách các tinh chiêm gia cổ đại như sau:
- Trước thời Cao Tân có Trọng, Lê
- Thời đại Đường, Ngu có Hi thị, Hòa thị
- Đời Hạ có Côn Ngô
- Thời Ân Thương có Vu Hàm
- Nhà Chu có Sử Dật, Trường Hoằng
- Nước Tống có Tử Vi
- Nước Trịnh có Tì Tào, nước Tề có Tam Công, nước Sở có Đường Muội, nước Triệu có Duẫn Cao, nước Ngụy có Thạch Thân.
Trên là danh sách các chiêm tinh gia đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Gọi là "truyền thiên số giả" có nghĩa là người truyền đạt ý trời đến nhân gian. Bản thân Tư Mã Thiên cũng có thể liệt vào hàng "truyền thiên số giả", ông nhậm chức Thái sử lệnh, là thuộc vào hàng ngũ thiên văn hoàng gia, là đầu não của cơ cấu tinh chiêm. Sau Tư Mã Thiên, đời nào cũng không thiếu "truyền thiên số giả".
2. Ngũ hành với Tinh chiêm học
Thuyết ngũ hành chiếm một ví trí vô cùng quan trọng trong nền văn hóa Trung Hoa. Tiêu chí trọng yếu để tinh chiêm học trở nên hoàn chỉnh chính là sự dung hợp của tinh chiêm học với thuyết ngũ hành. Dùng nguyên lý ngũ hành tương sinh tương khắc để giải thích, phân tích tinh tượng là một bước tiến lớn trong tinh chiêm học. Điều này đã nói rõ bất kể về phương diện nội dung hay hình thức, tinh chiêm học đều đã được hệ thống hóa.
Căn cứ sự khảo chứng các tài liệu còn lưu truyền, việc dung hợp giữa tinh chiêm học và thuyết ngũ hành là vào giai đoạn Tần Hán. Cho nên cũng có thể suy ra rằng, sự hoàn chỉnh của tinh chiêm học xảy ra ở đời Hán.
Năm 1974 người ta tìm được bản Ngũ Tinh Chiêm viết trên lụa trong ngôi mộ đời Hán ở Mã Văn Đôi, Trường Sa, có thể nói cho đến nay đây là thư tịch sớm nhất về khoa "Ngũ tinh chiêm". Theo khảo chứng, niên đại thành sách là năm 170 trước CN. Sách này sau khi chỉnh lý, có thể chia làm chính chương. Năm chương đầu phân ra theo thứ tự luận về ý nghĩa tinh chiêm học của năm đại hành tinh. Trong đó "ngũ tinh", "ngũ phương", "ngũ đế" được phân loại đối ứng với "ngũ hành" một cách chặt chẽ. Có thể nói, đây là tác phẩm chứng minh sự kết hợp giữa tinh chiêm học với thuyết ngũ hành.
Sử Ký - Thiên Quan Thư lại mang ngũ tinh đối ứng với bốn mua, đến Hán Thư - Thiên Văn Chí, những đối ứng này lại lan rộng đến khái niệm đạo đức luân lý, càng lúc càng có nhiều tầng lớp ý nghĩa. Tinh chiêm không những liên quan đến ngũ phương, bốn mùa, mà còn liên hệ với màu sắc, đạo đức, thêm vào đó là nguyên lý tương sinh tương khắc, khiến cho tinh chiêm học có thể phát huy tác dụng đến nhiều tầng lớp sinh hoạt trong xã hội. Đây chính là sự hoàn chỉnh của tinh chiêm học.
Chính là nhờ vào sự hoàn chỉnh của ngũ tinh chiêm mà tinh chiêm học đã phát huy được tác dụng quan trọng của nó trong sinh hoạt chính trị của các triều đại. Trong Hán Thư có ghi chép câu chuyện có thể chứng tỏ địa vị trọng yếu của tinh chiêm học vào thời ấy.
Vào thời Hán Tuyên Đế, Thần Tước nguyên niên (năm 61 trước CN), lão tướng Triệu Sung QUốc nhận lệnh dẫn quân đánh Tây Khương, không bao lâu, Hán Tuyên Đế phải quân tăng viện, và hạ chiếu chỉ muốn Triệu Sung QUốc dẫn quân tấn công thằng vào, với lý do: "Nay ngũ tinh xuất hiện điềm lành ở phương Đông, Trung Quốc đại lợi, Man Di đại bại. Sao Thái Bạch xuất hiện ở trên cao, dùng binh dám đánh sâu vào thì cát, không dám đánh thì hung. Tướng quân mau trang bị, vì thiên thời mà tru diệt bọn bất nghĩa, mọi việc sẽ chu toán, chớ có nghi ngại.".
Hán Tuyên Đế dùng chính lý luận của tinh chiêm học để chỉ huy tướng sĩ tiến tuyến, và muốn họ không được hoài nghi. Điều này đã chứng tỏ Hán Tuyên đế thành kính tin tưởng thuật tinh chiêm, mặt khác, cũng chứng tỏ toàn xã hội lúc bấy giờ đều tin tưởng thuật tinh chiêm, nếu không Hán Tuyên đế quyết không thể dùng phương pháp tinh chiêm để chỉ huy quân sự.
Hết bài đọc 1.
1. Thiên văn và Tinh chiêm học
Thời thượng cổ người xưa thấy các hiện tượng thiên nhiên rất thần bí, cho rằng cả vũ trụ có một đấng chủ tể tối cao vô thượng, người Trung Hoa cổ đại gọi đó là Thượng Đế. Cổ nhân lại cho rằng mọi hiện tượng thiên nhiên đều có những vị thần chủ trì, thế là họ nhân cách hóa, và đặt cho chúng những cái tên nhất định, thí dụ như Phong Sư (Thần Gió) thì gọi là Phi Liêm, Vũ Sư (Thần Mưa) thì gọi là Bình Ế, Vân Sư (Thần Mây) thì gọi là Phong Long, Nhật Ngự (Thần cai quản mặt trời) thì gọi là Hi Hòa, Nguyệt Ngự (Thần cai quản mặt trăng) thì gọi là Vọng Thư... đây chính là phản ánh quan niệm này. Những tên gọi này mang sắc thái thần thoại, bởi vì các tác gia cổ đại thường dùng nên nó đã trở thành những từ văn vẻ trong thi ca từ phú cổ điển.
Mặt khác, Trung Hoa là một đất nước có nền nông nghiệp phát triển rất sớm, điều này thúc đẩy sự phát triển tri thức về thiên văn. Căn cứ các sử liệu đáng tin cậy hiện còn, chữ giáp cốt của thời đại Ân Thương đã sớm ghi chép một số tên gọi các vị sao và hiện tượng nhật thực, nguyệt thực. Các sách thời Xuân Thu Chiến Quốc như Thượng Thư, Thi Kinh, Xuân Thu, Tả Truyện, Quốc Ngữ, Nhĩ Nhã; đời Hán thì có Thiên Quan Thư trong Sử Kí, có Thiên Văn Chí trong Hán Thư, thảy đều có ghi chép, nói về thiên tượng và tinh tú một cách khá phong phú. Tri thức thiên văn của cổ nhân cũng khá phổ cấp trong dân gian.
Thời cổ đại, tinh chiêm học chính là thiên văn học. Thiên văn học hay tinh chiêm học là một thân mà có hai nhiệm vụ:
- Nhiệm vụ thứ nhất là quan sát thiên tượng để nghiên cứu sự biến đổi của thời tiết, nhằm phục vụ cho sinh hoạt đời sống và sản xuất nông nghiệp.
- Nhiệm vụ thứ hai là quan sát thiên tượng để luận đoán cát hung, nhằm phục vụ cho các bấc đế vương.
Xét từ góc độ khoa học tự nhiên, việc quan sát các hiện tượng thiên văn hầu như chẳng có liên quan gì đến lịch sử chính trị của các triều đại. Nhưng Trung Hoa cổ đại, đối với sự hưng suy của các triều đại, sự tồn vong của các bậc đế vương, thiên văn học đã có một ảnh hưởng vô cùng trọng đại, đây là một hiện tượng đặc thù của nền văn minh nhân loại.
Người Trung Hoa cổ đại cho rằng, giữa trời và người có thể giao lưu với nhau thông qua một số phép tắc, Chu Dịch Đại Truyện - Hệ Từ Thượng viết: "Thiên thùy tượng, kiến cát hung", dịch là "Trời buông điểm xuống cho thấy cát hung".
Người xưa cho rằng, đối với nhất cử nhất động của nhân gian, đặc biệt các bậc Đế vương, trời cao đều có phản ứng bằng một số thiên tượng (hiện tượng của thiên nhiên), nhằm biểu thị sự cho phép hoặc cảnh cáo, còn bậc đế vương ở nhân gian, đểu biểu thị lòng thành kính đối với thiên mệnh, họ phải thực thi những việc thích đáng nhằm đáp ứng sự biến đổi của Trời. Quy tắc của toàn bộ "mối quan hệ giữa trời và người" này của người Trung Hoa cổ đại, chính là "Tinh chiêm học".
Tinh chiêm học là một học thuyết rất được cổ nhân xem trọng, luôn có người chuyên trách, chức danh của các tinh chiêm gia và các hoạt động chiêm tinh chuyên môn của họ cũng thường được ghi chép trong các sách sử, từ những ghi chép này chúng ta có thể tìm hiểu nguồn gốc lịch sử của môn tinh chiêm học.
Trong Sử Ký do Tư Mã Thiên trước tác, có chép danh sách các tinh chiêm gia cổ đại như sau:
- Trước thời Cao Tân có Trọng, Lê
- Thời đại Đường, Ngu có Hi thị, Hòa thị
- Đời Hạ có Côn Ngô
- Thời Ân Thương có Vu Hàm
- Nhà Chu có Sử Dật, Trường Hoằng
- Nước Tống có Tử Vi
- Nước Trịnh có Tì Tào, nước Tề có Tam Công, nước Sở có Đường Muội, nước Triệu có Duẫn Cao, nước Ngụy có Thạch Thân.
Trên là danh sách các chiêm tinh gia đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Gọi là "truyền thiên số giả" có nghĩa là người truyền đạt ý trời đến nhân gian. Bản thân Tư Mã Thiên cũng có thể liệt vào hàng "truyền thiên số giả", ông nhậm chức Thái sử lệnh, là thuộc vào hàng ngũ thiên văn hoàng gia, là đầu não của cơ cấu tinh chiêm. Sau Tư Mã Thiên, đời nào cũng không thiếu "truyền thiên số giả".
2. Ngũ hành với Tinh chiêm học
Thuyết ngũ hành chiếm một ví trí vô cùng quan trọng trong nền văn hóa Trung Hoa. Tiêu chí trọng yếu để tinh chiêm học trở nên hoàn chỉnh chính là sự dung hợp của tinh chiêm học với thuyết ngũ hành. Dùng nguyên lý ngũ hành tương sinh tương khắc để giải thích, phân tích tinh tượng là một bước tiến lớn trong tinh chiêm học. Điều này đã nói rõ bất kể về phương diện nội dung hay hình thức, tinh chiêm học đều đã được hệ thống hóa.
Căn cứ sự khảo chứng các tài liệu còn lưu truyền, việc dung hợp giữa tinh chiêm học và thuyết ngũ hành là vào giai đoạn Tần Hán. Cho nên cũng có thể suy ra rằng, sự hoàn chỉnh của tinh chiêm học xảy ra ở đời Hán.
Năm 1974 người ta tìm được bản Ngũ Tinh Chiêm viết trên lụa trong ngôi mộ đời Hán ở Mã Văn Đôi, Trường Sa, có thể nói cho đến nay đây là thư tịch sớm nhất về khoa "Ngũ tinh chiêm". Theo khảo chứng, niên đại thành sách là năm 170 trước CN. Sách này sau khi chỉnh lý, có thể chia làm chính chương. Năm chương đầu phân ra theo thứ tự luận về ý nghĩa tinh chiêm học của năm đại hành tinh. Trong đó "ngũ tinh", "ngũ phương", "ngũ đế" được phân loại đối ứng với "ngũ hành" một cách chặt chẽ. Có thể nói, đây là tác phẩm chứng minh sự kết hợp giữa tinh chiêm học với thuyết ngũ hành.
Sử Ký - Thiên Quan Thư lại mang ngũ tinh đối ứng với bốn mua, đến Hán Thư - Thiên Văn Chí, những đối ứng này lại lan rộng đến khái niệm đạo đức luân lý, càng lúc càng có nhiều tầng lớp ý nghĩa. Tinh chiêm không những liên quan đến ngũ phương, bốn mùa, mà còn liên hệ với màu sắc, đạo đức, thêm vào đó là nguyên lý tương sinh tương khắc, khiến cho tinh chiêm học có thể phát huy tác dụng đến nhiều tầng lớp sinh hoạt trong xã hội. Đây chính là sự hoàn chỉnh của tinh chiêm học.
Chính là nhờ vào sự hoàn chỉnh của ngũ tinh chiêm mà tinh chiêm học đã phát huy được tác dụng quan trọng của nó trong sinh hoạt chính trị của các triều đại. Trong Hán Thư có ghi chép câu chuyện có thể chứng tỏ địa vị trọng yếu của tinh chiêm học vào thời ấy.
Vào thời Hán Tuyên Đế, Thần Tước nguyên niên (năm 61 trước CN), lão tướng Triệu Sung QUốc nhận lệnh dẫn quân đánh Tây Khương, không bao lâu, Hán Tuyên Đế phải quân tăng viện, và hạ chiếu chỉ muốn Triệu Sung QUốc dẫn quân tấn công thằng vào, với lý do: "Nay ngũ tinh xuất hiện điềm lành ở phương Đông, Trung Quốc đại lợi, Man Di đại bại. Sao Thái Bạch xuất hiện ở trên cao, dùng binh dám đánh sâu vào thì cát, không dám đánh thì hung. Tướng quân mau trang bị, vì thiên thời mà tru diệt bọn bất nghĩa, mọi việc sẽ chu toán, chớ có nghi ngại.".
Hán Tuyên Đế dùng chính lý luận của tinh chiêm học để chỉ huy tướng sĩ tiến tuyến, và muốn họ không được hoài nghi. Điều này đã chứng tỏ Hán Tuyên đế thành kính tin tưởng thuật tinh chiêm, mặt khác, cũng chứng tỏ toàn xã hội lúc bấy giờ đều tin tưởng thuật tinh chiêm, nếu không Hán Tuyên đế quyết không thể dùng phương pháp tinh chiêm để chỉ huy quân sự.
Hết bài đọc 1.
Được cảm ơn bởi: lovato8888, greenfield911
-
- Mới gia nhập
- Bài viết: 25
- Tham gia: 18:41, 09/06/11
TL: Lịch sử hình thành khoa Tử Vi Đẩu Số
CÁC MÔN PHÁI ĐẨU SỐ HIỆN ĐẠI
1. Các khuynh hướng luận đoán
Nói chung, tình hình nghiên cứu Tử Vi đẩu số của giai đoạn cuối thể kỷ 20, có thể nói là rất nhiều nhân tài, danh gia đua nhau xuất hiện. Hơn nữa, đã thoát li phương pháp luận đoán đơn giản của giai đoạn trước, tiến vào giai đoạn mới, cách luận đoán mang tính chỉnh thể, phức tạp mà chu đáo, không chỉ phân khoa tỉ mỉ mà còn có rất nhiều môn phải bổ khuyết chỗ sở trường, sở đoản cho nhau. Do phương pháp luận đoán của TVĐS thường dựa vào kinh nghiệm để suy diễn, không như khoa mệnh lý Tứ trụ có các nguyên tắc rõ ràng để noi theo, vì vậy nó không có khuôn khổ giới hạn nội dung luận đoán một cách rõ rệt. Nhưng nói một cách khái quát về các hướng luận đoán, thôn thường người ta phân chia thành hai khuynh hướng. Đó là khuynh hướng phái Chủ Tinh và phái Lưu Tinh. Trong phái Lưu Tinh lại chia thành hai chi phái là phái Thái Tuế và phái Tiểu Hạn.
Phái Chủ Tinh
Phái Chủ Tinh khá xem trọng hiệu lực của các sao chính và tính chất của các cục của sao. Mang tác dụng của các sao chính để suy diễn đến mức độ tinh tế, và phối hợp với các sao phụ để luận đoán sự phát sinh biến hóa tăng hay giảm. Phái luận đoán theo cách này rất chú trọng các hiện tượng trong mệnh bàn gốc, căn cứ vào đây để luận đoán mệnh vận, có độ chính xác khá cao. Đây là lưu phái TVĐS thuộc loại rất cơ bản.
Phái Thái Tuế
Ngoại trừ việc xem trọng sự ứng nghiệm của các sao chính và mệnh bàn, phái này còn có một bộ phận về "hành vận" có khuynh hướng tu chính bộ phận mệnh cục gốc. Về phương pháp luận đoán vận hạn lưu niên thì lấy cung vị Thái Tuế làm chủ, mang tinh diệu lưu niên của bản phái bày bố vào 12 cung địa chi theo từng năm để luận đoán cát hung hưng suy của vận đó. Nếu phân chia tỉ mỉ hơn về phương thức luận đoán thì lại có hai loại biến hóa khác nhau, một phái chủ trương sao động mà cung bất động, tức 12 cung bản mệnh bất động, còn lưu tinh thì "phi động"; và phái thứ hai chủ trương sao động mà cung cũng động, tức 12 cung bản mệnh "phi động" theo từng năm, lưu tinh cũng biến đổi theo từng năm.
Phái Tiểu hạn
Ngoại trừ việc xem trọng hiện tượng vốn có của các sao chính và mệnh bàn, phái này còn chú trọng bộ phận đại hạn, tiểu hạn, có khuynh hướng tu chính quan điểm mệnh cục gốc. Về phương pháp luận đoán vận hạn lưu niên thì lấy cung vị tiểu hạn làm chủ, mang tinh diệu lưu niên của bản phái xem trọng để bài bố "phi động" vào 12 cung địa chi theo từng năm, lấy cung vị tiểu hạn làm chủ yếu, theo nguyên tắc cung động và sao cũng động, vì vậy có thể luận đoán rất tỉ mỉ những thay đổi, biến động trong cuộc sống.
2. "Tam hợp pháp" và "Tứ hóa pháp"
Dù các phái hệ có thêm vào TVĐS các phương thức luận đoán như ngũ hành, bát quái, thần sát và quan sát, trung hạn hoặc lục nhâm... hay không, nói chung, phần lớn họ đều không tách rời phương thức lý luận truyền thống, chẳng hạn như vận dụng cách cục tính và tình của các sao, tinh hệ hỗ động (các hệ thống sao dẫn động lẫn nhau), và phương pháp "Tam phương tứ chính". Theo thói quen, các môn phái lấy phương pháp luận mệnh cung tam phương làm chủ yếu thì gọi chung là phái "Tam Hợp".
Khoảng thập niên 70,80 của thế kỉ trước, các thuyết phi tinh của TVĐS kế tiếp nhau ra đời tại Đài Loan. Nhóm môn phái này được một số người gọi là phái "Tứ Hóa". Về sau theo đà càng lúc càng có nhiều người phát biểu sự truyền thừa học thuyết phi tinh của mình, nên mọi người đổi lại gọi là phái "Phi Tinh". Theo truyền thuyết, phái "Phi Tinh" có một nguồn gốc lâu đời, lấy "Quái khí luân" của Đạo gia làm cốt cán, lấy "Hà lạc lý số" làm cơ sở, chú trọng vận dụng cung vị trùng điệp, thái cực điểm, thể dụng và quỹ tích của phi tinh tứ hóa.
Cái gọi là "Đồ hóa tứ tượng" còn gọi là "Tứ tượng hóa đồ", gọi tắt là "Tứ hóa". Tứ tượng là quy luật tự nhiên của trời đất, giống như bốn mùa thay đổi không ngừng. Bản chất của các sao gọi là "tinh tính" (tính của sao); các sao gặp gỡ nhau sẽ nảy sinh sự ưa ghét, hợp cách hay không hợp cách, đó gọi là "tinh tình" (tình của sao); và các sao luôn biến hóa thay đổi, bản chất luôn biến hóa thay đổi này của các sao gọi là "hóa diệu" (sao biến hóa). TVĐS vận dụng 18 sao chính để luận đoán cát hung. Các sao này vốn chỉ là biểu tượng, là phù hiệu đại biểu của "số". Cho nên TVĐS chỉ là sự vận dụng của "số", chứ không còn là "tinh chiêm" như đã thuật ở trước.
Các sao theo một quy luật nhất định bay vào các cung, nhưng sự cát hung của một cung cá biết không thể chỉ lấy sao ở một vị trí cung mà đoán định. Bởi vì vị trí các sao tuy đều là cố định, nhưng sẽ thay đổi theo thời gian, chịu ảnh hưởng bởi sự biến hóa của tứ tượng. Các tinh cung phối hợp nhau sẽ cho ra 144 loại tổ hợp, mà con người trên đời thì không dừng lại ở 144 loại tổ hợp mệnh cách này. Vì vậy, các tổ hợp sao theo quy luật tứ tượng mà "phi", đó gọi là "phi tinh".
Do đó "phi tinh tứ hóa" là mượn can để độn tinh (sao) lấy giả tượng phối hợp với các chi để ứng thời, làm căn bản cho nguyên lý phi tinh TVĐS.
Trước kia các phái Tam Hợp đều được gọi chung là "Nam phái", còn các phái Tứ Hóa thì gọi chung là "Bắc Phái".
Trong phần giới thiệu dưới đây, có không ít môn phái tự xưng mình đã được bí truyền thừa cả ngàn năm, một số phái vẫn giữ những tinh hoa trọng yếu trong TVĐS toàn thư và TVĐS toàn tập, chỉ chỉnh sửa có mức độ cho phù hợp với sự thay đổi của xã hội; nhưng cũng có một số phái cải cách mang tính căn bản, mang lí luạn của môn số thuật khác dung hợp với TVĐS, thêm vào kinh nghiệm bản thân mà mình đã ấn chứng để sáng tạo ra lý luận mới.
Căn cứ trên phương diện lấy cung vị làm tượng để luận đoán mà phân loại thì TVĐS có hai đại pháp môn: "Tam hợp pháp", và "Tứ hóa pháp".
"Tam hợp pháp" lấy cung mệnh, quan lộc, tài bạch làm "tam hợp", thêm vào cung thiên di làm "tứ chính" hợp thành "tam phương tứ chính". THeo địa chi "tam hợp" mà đoán việc của người, là cơ sở của học thuyết Đẩu số.
"Tứ hóa pháp" cũng lấy cung mệnh, quan lộc, tài bạch làm "tam hợp", nhưng "tứ chính" thì lấy "cung vị tứ tượng" để quy chiếu. Tức là lấy cung mệnh, tử nữ, thiên di và điền trạch làm tứ chính. Khác "Tam hợp pháp" ở chỗ là, "Tứ hóa pháp lấy thiên can của sáu cung này để làm tượng luận đoán, chứ không chỉ dựa vào tính của các sao. Nếu không, sao của sáu cung sẽ hỗn loạn, khó mà đoán được.
"Tam hợp pháp" gặp trường hợp cung vị không có chính diệu thì mượng chính diệu đối cung để dùng. "Tứ hóa pháp" gặp trường hợp này thì lại không mượn. Ngoài ra "Tam hợp pháp" theo thuyết ngũ hành chú trọng tinh đẩu, cho nên tnih diệu mới có thuyết "miếu vượng lợi hãm". Còn "Tứ hóa pháp" phối hợp với quẻ và lý số, chú trọng tượng số, cho nên tinh diệu không có thuyết "miếu vượng lợi hãm" này.
Nói về sự biến hóa của TVĐS, ngoại trừ các lưu phái chính vừa kể trên, có một số lưu phái trong quá trình luận đoán, còn dẫn dụng một cách ít công khai các tác dụng đặc thù khác, chẳng hạn tứ trụ, phong thủy, chiêm bốc, thaamjc hí đến số mục hay màu sắc của các sao... trong đó sự phân chia khoa mục luận đoán rất tỉ mỉ không kém sự phân loaijcuar khoa học hiện đại, khiến cho người đời sau học phải mất tinh lực của cả đời người mới có thể nghiệm một cách hoàn bị và sâu sắc khoa TVĐS.
Danh sách các môn phái
Nhóm Nam phái Tam hợp
1. Phái Trung Châu: Tổ sư là Bạch Ngọc Thiền và Ngô Cảnh Loan.
2. Phái Tử Vân: Tổ sư là Tử Vân
3. Phái Hiện Đại: Tổ sư là Liễu Vô cư sĩ (vốn đệ tử của Tử Vân)
(Ba môn phái trên là ba môn phái lớn. Sẽ được giới thiệu đầy đủ tiếp theo sau)
4. Phái Thiên Cơ: Thiên Cơ Thượng Nhân Hoàng Xuân Lâm sáng lập. Dùng lí luận tam hợp truyền thống, tinh yếu của "Đẩu Số hỉ kị thần" tương tự phương pháp dùng ngũ hành sinh khắc để lấy dụng thần trong khoa mệnh lí Tứ Trụ. Ngoại trừ việc xem xét khí của sao, cung vị thiên can, ngũ hành địa chi, phái còn xét đến ngũ hành nạp âm của thiên can địa chi hợp lại.
5. Phái Tinh Hóa: Thẩm Bình Sơn sáng lập. Tương tự phái Trung Châu về cơ bản. Nổi bật là trong luận đoán hạn, thì lấy đại hạn phân chia tỉ mỉ thành các trung hạn để tính toán chuẩn xác thời gian và sự việc cát hung.
6. Phái Chiêm Nghiệm: Có hai nhân vật đại biểu là Thiết Bản đạo nhân Trần Nhạc Kì, và Thiên Ất thượng nhân. Vận dụng truyền thống cách cục tình của sao, lại dung hợp với kì môn động giáp, thêm vào lí luận phi hóa 12 cung của phái Phi tinh. Trong đoán lưu vận, ngoại trừ bản mệnh cơ bản, đại vận bàn và Thái Tuế bàn ra, còn thêm tiểu hạn và Đẩu Quân, tổng cộng 5 bàn.
7. Phái Thấu Thiên: Còn gọi là phái Minh Đăng, Chưởng môn là Trương Diệu Văn. Phái này có cách an mệnh, thân khác truyền thống và mệnh bàn không an cung can.
8. Phái Thiên Vận Hợp Tham: Sở Hoàng là người sáng lập. Phái hiện đại đầu tiên mang TVĐS dung hợp với Tứ Trụ, lấy "cung khí", "hỉ kị thần", "Tỉ Kiếp" để luận đoán.
9. Phái Tân Thuyên: Tuệ Tâm trai chủ là người sáng lập. Phái này trung thành thuyết truyền thống, giống như Liễu Vô cư sĩ và Vương Đình Chi, ông trước tác vô số, cống hiến khá nhiều.
10. Phái Tam Hợp: Người sáng lập là Cung Giám lão nhân. Môn phái này có quan hệ mật thiết với phong thủy
Nhóm Bắc phái Phi tinh
1. Phái Hà Lạc: Do Tăng Quốc Hùng, người Đài Loan sáng lập. Lấy Hà lạc lí số và lí luận Hóa Kị làm cơ sở, chú trọng nghiệm chứng thực bàn.
2. Phái Khâm Thiên Môn: Do Mai Huyện Tố Tâm lão nhân, người Quảng Đông sáng lập. Phái rất chú trọng phi tinh.
3. Phái Thiên Tông: Người sáng lập là Chính Huyền Sơn Nhân, Đài Loan. Chủ trường Tử Vi và Tử Bình cùng tham chiếu, nạp âm ngũ hành
Các môn phái khác
1. Nhất Diệp Tri Thu Thuật: Do Phan Tử Ngư sáng lập, là một đại sư TVĐS rất nổi tiếng ở Phả Lập. Phái xem trọng hoàn cảnh từng cung.
2. Phái Khoa Kĩ: Đổng sự trưởng môn phái là Trương Thịnh Thư, ông muốn mang khoa học vào TVĐS và phổ cập hóa TVĐS giống như môn chiêm tinh của Tây phương.
Phái Trung Châu
Khởi Nguồn
Khởi nguồn ở Lạc Dương, tổ sư là Bạch Ngọc Thiền và Ngô Cảnh Loan, theo truyền thuyết, phái này mỗi đời chỉ thu nhận một đệ tử và truyền miệng khẩu quyết cho nhau. Mãi đến sau khi Vương Đình Chi công khai sở học, mới gọi là phái Trung Châu. Trước Vương Đình Chi, có một phân chi là Lục Bân Triệu.
Ở Hương Cảng có hai chi phái TVĐS mà người ta rất quen thuộc, đó là chi phái Lục Bân Triệu và chi phái Vương Đình Chi. Tuy Vương Đình Chi từng phát biểu các nghiên cứu của mình và trước tác khá nhiều, nhưng hiếm nghe ai tự xưng mình là truyền nhân của phái Trung Châu Vương Đình Chi. Ngược lại, truyền nhân của phân chi Lục Bân Triệu thì có rất nhiều. Nhưng bất luận thế nào, đối với giới nghiên cứu TVĐS ở Hương Cảng và Đài Loan, phần lớn không xa lạ gì học thuyết của phái Trung Châu Vương Đình Chi.
Đặc Điểm
Lục Bân Triệu thì được chân truyền "Khâm Thiên Giám bí cấp", còn Vương Đình Chi nổi danh với "Tử Vi Tinh Quyết". Nhưng vì chưa có ai trực tiếp nhìn thấy hai bản bí kíp được gọi là "khẩu khẩu tương truyền" này, cho nên người ta chỉ có thể lần theo dấu vết của chúng trong các trước tác của họ.
Phái Trung Chấu chú trọng tính chất của sao và cách cục tình của sao, khi luận mệnh vận yêu cầu người ta phải có năng lực suy lý. Thí dụ như, một hệ thống sao gặp một hệ thống sao khác thì sẽ sinh biến hóa; phương pháp luận mệnh vận là phải từ những biến hóa mà suy diễn ra.
Nói một cách khái quát, lí luận của phái Trung Chấu khá gần với lý thuyết trong thư tịch truyền thống của "Tử Vi đẩu số toàn thư", và "Tử Vi đẩu số toàn tập". Nhưng phái Vương Đình Chi ngoài việc nghiên cứu sâu cách cục tình của sao, còn vận dụng "Tứ Hoa" đa dạng hơn so với phương pháp truyền thống.
Ngoại trừ lý luận "các hệ thống sao liên quan mật thiết với nhau", bộ sao tứ hóa của các can Canh, Mậu và Nhâm cũng khác với truyền thống. Còn các sao lưu niên như: Xương, Khúc, Hồng Loan, Dương Đà và Lộc Mã... cách vận dụng cũng khác nhiều.
Phái Tử Vân
Khởi nguồn
Tử Vân trước bái lão sư họ Hà làm thầy, về sau dựa vào các thư tịch mà tự nghiên cứu, sau 30 năm nỗ lực nghiền ngẫm rồi tự thành lập một phái. Các trước tác của ông cũng rất được giới nghiên cứu Đẩu Số hoan nghênh.
Đặc điểm
Tử Vân tự sáng tạo các lí luận như "Tam đại luận", "Thái Tuế nhập quái luận", "Thái Tuế cung vị luận". Trong đó "tinh bàn hỗ động" của "Thái Tuế nhập quái" là chưa từng xuất hiện trong khoa TVĐS truyền thống, nhưng có lưu truyền trong hệ phái Phi tinh. Cho nên lý luận của phái Tử Vấn, có thuyết là do ông tự sáng tạo, có thuyết là ông mượn bí ruyền của phái khác rồi biên loại. Bất luận thế nào, lý luận của ông đều được xây dựng trên cơ sở của phái Tam hợp truyền thống là "Tử Vi đẩu số toàn thư", và "Tử Vi đẩu số toàn tập".
Phái Hiện Đại
Khởi nguồn
Nhân vật đại biểu của phái hiện đại là Liễu Vô cư sĩ. Liễu Vô cư sĩ vốn là đệ tử của Tử Vân, nhưng vì ông kiên trì với lý luận của mình nên tự sáng lập thành một phái riêng. Từ tháng tư năm 1985, ông cùng Hứa Hưng Trí, Tuệ Canh thuật sĩ, Lạc Đà Sinh, Quách tiên sinh, Thái Quân Siêu, Phổ Giang Đăng Chi, Nam Ngư và Phi Vân cư sĩ, xuất bản bảy cuốn "Hiện đại Tử Vi", từ đó tiếng tăm của phái Hiện Đại không ngừng lan rộng.
Đặc điểm
Liễu Vô cư sĩ phản đối phương pháp gộp Tử Vi và Tử Bình lại cùng nhau tham chiếu, đề xướng trả Tử Bình về Tử Bình, trả Tử Vi về Tử Vi. Phản đối mang "thần sát" và "quan sát" vào Đẩu Số, rất khác với quan niệm "tập đại thành các nhà" của sự phụ ông là Tử Vân. Do ông giữ vững quan niệm của mình, cho nên được nhiều người ủng hộ. Cũng giống Vương Đình Chi, Liễu Vô cư sĩ rất thích bình chú cổ tịch, cho rằng tinh yếu của TVĐS nằm hết trong các trước tác của tiền nhân.
Thân!
1. Các khuynh hướng luận đoán
Nói chung, tình hình nghiên cứu Tử Vi đẩu số của giai đoạn cuối thể kỷ 20, có thể nói là rất nhiều nhân tài, danh gia đua nhau xuất hiện. Hơn nữa, đã thoát li phương pháp luận đoán đơn giản của giai đoạn trước, tiến vào giai đoạn mới, cách luận đoán mang tính chỉnh thể, phức tạp mà chu đáo, không chỉ phân khoa tỉ mỉ mà còn có rất nhiều môn phải bổ khuyết chỗ sở trường, sở đoản cho nhau. Do phương pháp luận đoán của TVĐS thường dựa vào kinh nghiệm để suy diễn, không như khoa mệnh lý Tứ trụ có các nguyên tắc rõ ràng để noi theo, vì vậy nó không có khuôn khổ giới hạn nội dung luận đoán một cách rõ rệt. Nhưng nói một cách khái quát về các hướng luận đoán, thôn thường người ta phân chia thành hai khuynh hướng. Đó là khuynh hướng phái Chủ Tinh và phái Lưu Tinh. Trong phái Lưu Tinh lại chia thành hai chi phái là phái Thái Tuế và phái Tiểu Hạn.
Phái Chủ Tinh
Phái Chủ Tinh khá xem trọng hiệu lực của các sao chính và tính chất của các cục của sao. Mang tác dụng của các sao chính để suy diễn đến mức độ tinh tế, và phối hợp với các sao phụ để luận đoán sự phát sinh biến hóa tăng hay giảm. Phái luận đoán theo cách này rất chú trọng các hiện tượng trong mệnh bàn gốc, căn cứ vào đây để luận đoán mệnh vận, có độ chính xác khá cao. Đây là lưu phái TVĐS thuộc loại rất cơ bản.
Phái Thái Tuế
Ngoại trừ việc xem trọng sự ứng nghiệm của các sao chính và mệnh bàn, phái này còn có một bộ phận về "hành vận" có khuynh hướng tu chính bộ phận mệnh cục gốc. Về phương pháp luận đoán vận hạn lưu niên thì lấy cung vị Thái Tuế làm chủ, mang tinh diệu lưu niên của bản phái bày bố vào 12 cung địa chi theo từng năm để luận đoán cát hung hưng suy của vận đó. Nếu phân chia tỉ mỉ hơn về phương thức luận đoán thì lại có hai loại biến hóa khác nhau, một phái chủ trương sao động mà cung bất động, tức 12 cung bản mệnh bất động, còn lưu tinh thì "phi động"; và phái thứ hai chủ trương sao động mà cung cũng động, tức 12 cung bản mệnh "phi động" theo từng năm, lưu tinh cũng biến đổi theo từng năm.
Phái Tiểu hạn
Ngoại trừ việc xem trọng hiện tượng vốn có của các sao chính và mệnh bàn, phái này còn chú trọng bộ phận đại hạn, tiểu hạn, có khuynh hướng tu chính quan điểm mệnh cục gốc. Về phương pháp luận đoán vận hạn lưu niên thì lấy cung vị tiểu hạn làm chủ, mang tinh diệu lưu niên của bản phái xem trọng để bài bố "phi động" vào 12 cung địa chi theo từng năm, lấy cung vị tiểu hạn làm chủ yếu, theo nguyên tắc cung động và sao cũng động, vì vậy có thể luận đoán rất tỉ mỉ những thay đổi, biến động trong cuộc sống.
2. "Tam hợp pháp" và "Tứ hóa pháp"
Dù các phái hệ có thêm vào TVĐS các phương thức luận đoán như ngũ hành, bát quái, thần sát và quan sát, trung hạn hoặc lục nhâm... hay không, nói chung, phần lớn họ đều không tách rời phương thức lý luận truyền thống, chẳng hạn như vận dụng cách cục tính và tình của các sao, tinh hệ hỗ động (các hệ thống sao dẫn động lẫn nhau), và phương pháp "Tam phương tứ chính". Theo thói quen, các môn phái lấy phương pháp luận mệnh cung tam phương làm chủ yếu thì gọi chung là phái "Tam Hợp".
Khoảng thập niên 70,80 của thế kỉ trước, các thuyết phi tinh của TVĐS kế tiếp nhau ra đời tại Đài Loan. Nhóm môn phái này được một số người gọi là phái "Tứ Hóa". Về sau theo đà càng lúc càng có nhiều người phát biểu sự truyền thừa học thuyết phi tinh của mình, nên mọi người đổi lại gọi là phái "Phi Tinh". Theo truyền thuyết, phái "Phi Tinh" có một nguồn gốc lâu đời, lấy "Quái khí luân" của Đạo gia làm cốt cán, lấy "Hà lạc lý số" làm cơ sở, chú trọng vận dụng cung vị trùng điệp, thái cực điểm, thể dụng và quỹ tích của phi tinh tứ hóa.
Cái gọi là "Đồ hóa tứ tượng" còn gọi là "Tứ tượng hóa đồ", gọi tắt là "Tứ hóa". Tứ tượng là quy luật tự nhiên của trời đất, giống như bốn mùa thay đổi không ngừng. Bản chất của các sao gọi là "tinh tính" (tính của sao); các sao gặp gỡ nhau sẽ nảy sinh sự ưa ghét, hợp cách hay không hợp cách, đó gọi là "tinh tình" (tình của sao); và các sao luôn biến hóa thay đổi, bản chất luôn biến hóa thay đổi này của các sao gọi là "hóa diệu" (sao biến hóa). TVĐS vận dụng 18 sao chính để luận đoán cát hung. Các sao này vốn chỉ là biểu tượng, là phù hiệu đại biểu của "số". Cho nên TVĐS chỉ là sự vận dụng của "số", chứ không còn là "tinh chiêm" như đã thuật ở trước.
Các sao theo một quy luật nhất định bay vào các cung, nhưng sự cát hung của một cung cá biết không thể chỉ lấy sao ở một vị trí cung mà đoán định. Bởi vì vị trí các sao tuy đều là cố định, nhưng sẽ thay đổi theo thời gian, chịu ảnh hưởng bởi sự biến hóa của tứ tượng. Các tinh cung phối hợp nhau sẽ cho ra 144 loại tổ hợp, mà con người trên đời thì không dừng lại ở 144 loại tổ hợp mệnh cách này. Vì vậy, các tổ hợp sao theo quy luật tứ tượng mà "phi", đó gọi là "phi tinh".
Do đó "phi tinh tứ hóa" là mượn can để độn tinh (sao) lấy giả tượng phối hợp với các chi để ứng thời, làm căn bản cho nguyên lý phi tinh TVĐS.
Trước kia các phái Tam Hợp đều được gọi chung là "Nam phái", còn các phái Tứ Hóa thì gọi chung là "Bắc Phái".
Trong phần giới thiệu dưới đây, có không ít môn phái tự xưng mình đã được bí truyền thừa cả ngàn năm, một số phái vẫn giữ những tinh hoa trọng yếu trong TVĐS toàn thư và TVĐS toàn tập, chỉ chỉnh sửa có mức độ cho phù hợp với sự thay đổi của xã hội; nhưng cũng có một số phái cải cách mang tính căn bản, mang lí luạn của môn số thuật khác dung hợp với TVĐS, thêm vào kinh nghiệm bản thân mà mình đã ấn chứng để sáng tạo ra lý luận mới.
Căn cứ trên phương diện lấy cung vị làm tượng để luận đoán mà phân loại thì TVĐS có hai đại pháp môn: "Tam hợp pháp", và "Tứ hóa pháp".
"Tam hợp pháp" lấy cung mệnh, quan lộc, tài bạch làm "tam hợp", thêm vào cung thiên di làm "tứ chính" hợp thành "tam phương tứ chính". THeo địa chi "tam hợp" mà đoán việc của người, là cơ sở của học thuyết Đẩu số.
"Tứ hóa pháp" cũng lấy cung mệnh, quan lộc, tài bạch làm "tam hợp", nhưng "tứ chính" thì lấy "cung vị tứ tượng" để quy chiếu. Tức là lấy cung mệnh, tử nữ, thiên di và điền trạch làm tứ chính. Khác "Tam hợp pháp" ở chỗ là, "Tứ hóa pháp lấy thiên can của sáu cung này để làm tượng luận đoán, chứ không chỉ dựa vào tính của các sao. Nếu không, sao của sáu cung sẽ hỗn loạn, khó mà đoán được.
"Tam hợp pháp" gặp trường hợp cung vị không có chính diệu thì mượng chính diệu đối cung để dùng. "Tứ hóa pháp" gặp trường hợp này thì lại không mượn. Ngoài ra "Tam hợp pháp" theo thuyết ngũ hành chú trọng tinh đẩu, cho nên tnih diệu mới có thuyết "miếu vượng lợi hãm". Còn "Tứ hóa pháp" phối hợp với quẻ và lý số, chú trọng tượng số, cho nên tinh diệu không có thuyết "miếu vượng lợi hãm" này.
Nói về sự biến hóa của TVĐS, ngoại trừ các lưu phái chính vừa kể trên, có một số lưu phái trong quá trình luận đoán, còn dẫn dụng một cách ít công khai các tác dụng đặc thù khác, chẳng hạn tứ trụ, phong thủy, chiêm bốc, thaamjc hí đến số mục hay màu sắc của các sao... trong đó sự phân chia khoa mục luận đoán rất tỉ mỉ không kém sự phân loaijcuar khoa học hiện đại, khiến cho người đời sau học phải mất tinh lực của cả đời người mới có thể nghiệm một cách hoàn bị và sâu sắc khoa TVĐS.
Danh sách các môn phái
Nhóm Nam phái Tam hợp
1. Phái Trung Châu: Tổ sư là Bạch Ngọc Thiền và Ngô Cảnh Loan.
2. Phái Tử Vân: Tổ sư là Tử Vân
3. Phái Hiện Đại: Tổ sư là Liễu Vô cư sĩ (vốn đệ tử của Tử Vân)
(Ba môn phái trên là ba môn phái lớn. Sẽ được giới thiệu đầy đủ tiếp theo sau)
4. Phái Thiên Cơ: Thiên Cơ Thượng Nhân Hoàng Xuân Lâm sáng lập. Dùng lí luận tam hợp truyền thống, tinh yếu của "Đẩu Số hỉ kị thần" tương tự phương pháp dùng ngũ hành sinh khắc để lấy dụng thần trong khoa mệnh lí Tứ Trụ. Ngoại trừ việc xem xét khí của sao, cung vị thiên can, ngũ hành địa chi, phái còn xét đến ngũ hành nạp âm của thiên can địa chi hợp lại.
5. Phái Tinh Hóa: Thẩm Bình Sơn sáng lập. Tương tự phái Trung Châu về cơ bản. Nổi bật là trong luận đoán hạn, thì lấy đại hạn phân chia tỉ mỉ thành các trung hạn để tính toán chuẩn xác thời gian và sự việc cát hung.
6. Phái Chiêm Nghiệm: Có hai nhân vật đại biểu là Thiết Bản đạo nhân Trần Nhạc Kì, và Thiên Ất thượng nhân. Vận dụng truyền thống cách cục tình của sao, lại dung hợp với kì môn động giáp, thêm vào lí luận phi hóa 12 cung của phái Phi tinh. Trong đoán lưu vận, ngoại trừ bản mệnh cơ bản, đại vận bàn và Thái Tuế bàn ra, còn thêm tiểu hạn và Đẩu Quân, tổng cộng 5 bàn.
7. Phái Thấu Thiên: Còn gọi là phái Minh Đăng, Chưởng môn là Trương Diệu Văn. Phái này có cách an mệnh, thân khác truyền thống và mệnh bàn không an cung can.
8. Phái Thiên Vận Hợp Tham: Sở Hoàng là người sáng lập. Phái hiện đại đầu tiên mang TVĐS dung hợp với Tứ Trụ, lấy "cung khí", "hỉ kị thần", "Tỉ Kiếp" để luận đoán.
9. Phái Tân Thuyên: Tuệ Tâm trai chủ là người sáng lập. Phái này trung thành thuyết truyền thống, giống như Liễu Vô cư sĩ và Vương Đình Chi, ông trước tác vô số, cống hiến khá nhiều.
10. Phái Tam Hợp: Người sáng lập là Cung Giám lão nhân. Môn phái này có quan hệ mật thiết với phong thủy
Nhóm Bắc phái Phi tinh
1. Phái Hà Lạc: Do Tăng Quốc Hùng, người Đài Loan sáng lập. Lấy Hà lạc lí số và lí luận Hóa Kị làm cơ sở, chú trọng nghiệm chứng thực bàn.
2. Phái Khâm Thiên Môn: Do Mai Huyện Tố Tâm lão nhân, người Quảng Đông sáng lập. Phái rất chú trọng phi tinh.
3. Phái Thiên Tông: Người sáng lập là Chính Huyền Sơn Nhân, Đài Loan. Chủ trường Tử Vi và Tử Bình cùng tham chiếu, nạp âm ngũ hành
Các môn phái khác
1. Nhất Diệp Tri Thu Thuật: Do Phan Tử Ngư sáng lập, là một đại sư TVĐS rất nổi tiếng ở Phả Lập. Phái xem trọng hoàn cảnh từng cung.
2. Phái Khoa Kĩ: Đổng sự trưởng môn phái là Trương Thịnh Thư, ông muốn mang khoa học vào TVĐS và phổ cập hóa TVĐS giống như môn chiêm tinh của Tây phương.
Phái Trung Châu
Khởi Nguồn
Khởi nguồn ở Lạc Dương, tổ sư là Bạch Ngọc Thiền và Ngô Cảnh Loan, theo truyền thuyết, phái này mỗi đời chỉ thu nhận một đệ tử và truyền miệng khẩu quyết cho nhau. Mãi đến sau khi Vương Đình Chi công khai sở học, mới gọi là phái Trung Châu. Trước Vương Đình Chi, có một phân chi là Lục Bân Triệu.
Ở Hương Cảng có hai chi phái TVĐS mà người ta rất quen thuộc, đó là chi phái Lục Bân Triệu và chi phái Vương Đình Chi. Tuy Vương Đình Chi từng phát biểu các nghiên cứu của mình và trước tác khá nhiều, nhưng hiếm nghe ai tự xưng mình là truyền nhân của phái Trung Châu Vương Đình Chi. Ngược lại, truyền nhân của phân chi Lục Bân Triệu thì có rất nhiều. Nhưng bất luận thế nào, đối với giới nghiên cứu TVĐS ở Hương Cảng và Đài Loan, phần lớn không xa lạ gì học thuyết của phái Trung Châu Vương Đình Chi.
Đặc Điểm
Lục Bân Triệu thì được chân truyền "Khâm Thiên Giám bí cấp", còn Vương Đình Chi nổi danh với "Tử Vi Tinh Quyết". Nhưng vì chưa có ai trực tiếp nhìn thấy hai bản bí kíp được gọi là "khẩu khẩu tương truyền" này, cho nên người ta chỉ có thể lần theo dấu vết của chúng trong các trước tác của họ.
Phái Trung Chấu chú trọng tính chất của sao và cách cục tình của sao, khi luận mệnh vận yêu cầu người ta phải có năng lực suy lý. Thí dụ như, một hệ thống sao gặp một hệ thống sao khác thì sẽ sinh biến hóa; phương pháp luận mệnh vận là phải từ những biến hóa mà suy diễn ra.
Nói một cách khái quát, lí luận của phái Trung Chấu khá gần với lý thuyết trong thư tịch truyền thống của "Tử Vi đẩu số toàn thư", và "Tử Vi đẩu số toàn tập". Nhưng phái Vương Đình Chi ngoài việc nghiên cứu sâu cách cục tình của sao, còn vận dụng "Tứ Hoa" đa dạng hơn so với phương pháp truyền thống.
Ngoại trừ lý luận "các hệ thống sao liên quan mật thiết với nhau", bộ sao tứ hóa của các can Canh, Mậu và Nhâm cũng khác với truyền thống. Còn các sao lưu niên như: Xương, Khúc, Hồng Loan, Dương Đà và Lộc Mã... cách vận dụng cũng khác nhiều.
Phái Tử Vân
Khởi nguồn
Tử Vân trước bái lão sư họ Hà làm thầy, về sau dựa vào các thư tịch mà tự nghiên cứu, sau 30 năm nỗ lực nghiền ngẫm rồi tự thành lập một phái. Các trước tác của ông cũng rất được giới nghiên cứu Đẩu Số hoan nghênh.
Đặc điểm
Tử Vân tự sáng tạo các lí luận như "Tam đại luận", "Thái Tuế nhập quái luận", "Thái Tuế cung vị luận". Trong đó "tinh bàn hỗ động" của "Thái Tuế nhập quái" là chưa từng xuất hiện trong khoa TVĐS truyền thống, nhưng có lưu truyền trong hệ phái Phi tinh. Cho nên lý luận của phái Tử Vấn, có thuyết là do ông tự sáng tạo, có thuyết là ông mượn bí ruyền của phái khác rồi biên loại. Bất luận thế nào, lý luận của ông đều được xây dựng trên cơ sở của phái Tam hợp truyền thống là "Tử Vi đẩu số toàn thư", và "Tử Vi đẩu số toàn tập".
Phái Hiện Đại
Khởi nguồn
Nhân vật đại biểu của phái hiện đại là Liễu Vô cư sĩ. Liễu Vô cư sĩ vốn là đệ tử của Tử Vân, nhưng vì ông kiên trì với lý luận của mình nên tự sáng lập thành một phái riêng. Từ tháng tư năm 1985, ông cùng Hứa Hưng Trí, Tuệ Canh thuật sĩ, Lạc Đà Sinh, Quách tiên sinh, Thái Quân Siêu, Phổ Giang Đăng Chi, Nam Ngư và Phi Vân cư sĩ, xuất bản bảy cuốn "Hiện đại Tử Vi", từ đó tiếng tăm của phái Hiện Đại không ngừng lan rộng.
Đặc điểm
Liễu Vô cư sĩ phản đối phương pháp gộp Tử Vi và Tử Bình lại cùng nhau tham chiếu, đề xướng trả Tử Bình về Tử Bình, trả Tử Vi về Tử Vi. Phản đối mang "thần sát" và "quan sát" vào Đẩu Số, rất khác với quan niệm "tập đại thành các nhà" của sự phụ ông là Tử Vân. Do ông giữ vững quan niệm của mình, cho nên được nhiều người ủng hộ. Cũng giống Vương Đình Chi, Liễu Vô cư sĩ rất thích bình chú cổ tịch, cho rằng tinh yếu của TVĐS nằm hết trong các trước tác của tiền nhân.
Thân!
Được cảm ơn bởi: lovato8888, greenfield911