NHÀ CÁCH MẠNG TẠ THU THâU MỘT TẤM GƯƠNG HIẾU ĐỄ
Thiên Lương
Bốn mươi năm trước đây, người dân hiền lành của Hòn ngọc viễn đông (lời khoe SÀi gòn tốt đẹp của người Pháp) mỗi khi có việc gì phải di chuyển thường cố trÁnh khúc đường Gia Long từ ngã tư Thủ khoa Huân đến Nguyễn Trung Trực. Ở đó thường xuyên có mắt cú vọ tay sai của chính quyền thực dân, để ý dò dẫm những ai qua lại. Đầu đường Nguyễn Trung Trực là tòa nhÀ khám lớn, sở căn cước lục hình cũng kế bên (đó là về phần chÁnh quyền). Còn dân sự, căn nhÀ làm trường dạy lái xe hơi của Trịnh Hưng Ngẫu, một chiến sĩ lao động dÁm đÁm đÁ tay đôi với Pháp, ở giữa phố, rồi đến tòa bÁo Tranh Đấu (La Lutte) trụ sở của nhóm mấy ông Ninh, Thâu, Hùm, Thạch, cuối cùng góc Gia Long, Thủ Khoa Huân là tiệm chiếu “Fabrinat” của cao thủ Tạ Thu Thâu, không biết có bÁn được hÀng không, tưởng cũng không mấy ai dÁm đến để mua đồ.
Dưới thời thực dân thống trị, ở Thủ đô miền Nam có thể là cả miền Nam đã là người dân Việt là biết đến tên bộ ba: Ninh, Thâu, Hùm, một bộ tướng sĩ tượng chính phái cao tay ấn.
Khi đoán số Nguyễn Thái Học, vị lãnh tụ Việt Nam Quốc dân Đảng, lòng tôi vẫn ước ao được biết số liệt sĩ Nguyễn An Ninh thì nay được số Tạ Thu Thâu, tuổi Đinh Mùi sanh ngày 5 thÁng 5 giờ Hợi, là cả một sự hân hoan thích thú, nhất là được thấy rõ tư cách nội tâm của một danh nhân không hổ thẹn với lòng Ái mộ của quốc dân ghi nhớ bằng tấm bảng tên đặt cho con đường từ Nguyễn Trung Trực chạy thẳng đến cửa Đông chợ Bến ThÀnh.
Người nÀo đã được Thái Tuế đóng đô ngay ở Mệnh, không phải là dễ có, là người như đã có sứ mạng gì, phải làm cho cái nơi mình được gọi là “chôn nhau cắt rún” không nhiều thì ít, có bổn phận đóng góp mồ hôi, xương mÁu công cuộc xây dựng kiến tạo không khi nÀo tơ hÀo tư tưởng phá hại.
NhÀ cách mạng Tạ Thu Thâu tuổi Đinh Mùi, Mệnh ngự trị ngay tại cung Mùi, tức là Thái Tuế in ngay trước ngực như người hãnh diện với tấm huy chương ngoại hạng danh dự của Hóa công cho người công dân phải có công gì với núi sông. Đó là định mệnh đã đặt người nÀy vào cái khuôn khổ đó. Nhưng con người của ông, cái “TA” phấn đấu chÁnh xÁc của Tạ Thu Thâu, chỉ đem lại kết quả cụ thể cho đời ông là bất mãn, không biết làm gì hơn là cái sở trường “nói”. ông dồn đối phương vào ngõ bí rồi thuyết phục họ vào đường phải theo, thấy dễ như trở bÀn tay (Điếu khách ở vị trí Tỵ, Dậu, Sửu khắc phục được Hợi Mão Mùi).
Mệnh Thái tuế, Thân Điếu khách (Tỵ) biểu lộ tất cả cái Tài hùng biện của một danh nhân, một dũng sĩ vững tay lái trên con đường sứ mạng. Nhưng khốn nỗi xe lại quá cũ kỹ xộc xệch, chết mÁy nằm đường luôn, phút cuối cùng lại lỏng tay lái, đâm vào gốc cây khiến chủ nhân phải thiệt mạng. Liêm SÁt ở Mùi hiển nhiên không phải là ông được Thái Tuế đưa lên vai trò thủ lãnh để rồi bị ĐÀ La gò bó mÀ chịu trận (chết đường). Tạ Thu Thâu chính cống phải là Thiên Tướng (Thân) tư cách của người can đảm mÀ đôn hậu, ngay thẳng mÀ bao dung, được Thiên Mã ở Tỵ đồng cung là một nghị lực mẫn cÁn phi thường dẫn dắt.
Tuy vậy ông cÀng cường quá bao nhiêu ông cÀng điêu linh bấy nhiêu do tư thế của Mã nÀy đối với người mạng Thủy. ông cÀng dễ dÀng làm chủ được Mã nÀy thì ông phải khổ công với nó mÀ cũng không nên cơm chÁo gì (Kình Lực) rồi ra Thiên Tướng bị ép ở giữa thế gọng kìm Kình Hình (tù đÀy, bất đắc kỳ tử).
Đời ông sanh ra được chÁnh nghĩa bao phủ (Thái Tuế nhập mệnh) tuy vậy đối phương vẫn ở thế tay trên đÀn Áp đời (Hợi Mão Mùi bị Tỵ Dậu Sửu khắc nhập). TrÁi lại chính trong thâm tâm đầu óc tin tưởng ông, ông vẫn coi họ không nghĩa lý gì (Thân lại ở vị trí Tỵ Dậu Sửu khắc xuất Hợi Mão Mùi) nên ông dễ dÀng khắc phục lại. Thật là cả một vấn đề tế nhị mÀ quanh quẩn đó là tư thế đối ngoại của ông.
Còn nội cảnh của Mệnh, Thân (nhị hợp) ta thấy Mệnh ở Mùi là cảnh trí sinh xuất cho BÀo, Thân ở Tỵ sinh xuất cho Phụ. Người nÀy có đầu óc gia đình, dầu ở hoÀn cảnh nÀo cũng muốn trợ lực cha mẹ và nâng đỡ anh chị em, chứ không phải vì được nội tướng giỏi, quán xuyến gia đình đảm đang (Thiên Tướng đắc địa ở Thê) mÀ râu quặp, đÀnh là nể (Thân cư Thê).
Số nÀy tam hợp Mệnh cũng là tam hợp tuổi, đÁng lẽ được một phần thưởng gì với thế gian mới phải vì bộ SÁt Phá Tham quá yếu (quá bÁn hãm địa) như Quan cung Vũ Phá bị bôi lọ, còn bị tù đÀy luôn phiên là khác (Liêm Xương Phủ) Tài Tử Tham yếu kém còn bị cả Tuần lẫn Triệt kể như là suông. Mệnh đóng ở tam hợp tuổi (Thái tuế) muốn được thỏa trí mãn nguyện, luôn luôn phải là giai đoạn tuổi ngoÀi 40.
Liệt sĩ Tạ Thu Thâu thÀnh “ThÁnh” trước hạn định đó (39 tuổi) thấy ngao ngÁn cho những ai bị Thân đóng ở thế Tuế Phá, Tang môn, Điếu khách là tư thế của người chỉ thấy cái bất mãn, ngậm đắng nuốt cay của nhân thế, ôm một khối hận chờ chuyển kiếp lai sinh.
Đây là một tấm gương hiếu đễ, nhÀ cách mạng Tạ Thu Thâu phải trần thân làm việc ngay từ tuổi 13, kèm trẻ em học lấy tiền nâng đỡ gia đình ở giai đoạn Thiên Lương, Lộc tồn ở Ngọ. Nhảy sang cung Tỵ là lao đầu vào cuộc để khÁng, đi Pháp năm 1927 (22 tuổi) bị trục xuất về nước năm 1930, kéo dÀi tranh đấu đến năm 1944 (3 lần vào tù, 2 lần tuyệt thực) bị bÁn thân bất toại (Tướng, Mã, Kình).
Đời kết liễu ở Thìn, tuổi Đinh gặp Cự, Kỵ khó thoÁt đi đôi với Mệnh thủy đến Thổ cung sau 5 năm bị giam cầm ở Côn đảo (1939-1944). Sau khi ở đảo về bị sÁt hại ở Quảng Ngãi trong cuộc đi quan sÁt tìm hiểu tình hình đất nước để sả thân phụng sự quốc gia dân tộc.
Với bản số nÀy, tôi nhìn theo ống kính nhỏ bé, ngoÀi khía cạnh chính trị, thấy nhÀ cách mạng Tạ Thu Thâu, một hình ảnh hiếu đễ quá rõ ràng (Mệnh sinh xuất cho BÀo, Thân sinh xuất cho Phụ).
KHHB số 74G1
Thiên Lương
Bốn mươi năm trước đây, người dân hiền lành của Hòn ngọc viễn đông (lời khoe SÀi gòn tốt đẹp của người Pháp) mỗi khi có việc gì phải di chuyển thường cố trÁnh khúc đường Gia Long từ ngã tư Thủ khoa Huân đến Nguyễn Trung Trực. Ở đó thường xuyên có mắt cú vọ tay sai của chính quyền thực dân, để ý dò dẫm những ai qua lại. Đầu đường Nguyễn Trung Trực là tòa nhÀ khám lớn, sở căn cước lục hình cũng kế bên (đó là về phần chÁnh quyền). Còn dân sự, căn nhÀ làm trường dạy lái xe hơi của Trịnh Hưng Ngẫu, một chiến sĩ lao động dÁm đÁm đÁ tay đôi với Pháp, ở giữa phố, rồi đến tòa bÁo Tranh Đấu (La Lutte) trụ sở của nhóm mấy ông Ninh, Thâu, Hùm, Thạch, cuối cùng góc Gia Long, Thủ Khoa Huân là tiệm chiếu “Fabrinat” của cao thủ Tạ Thu Thâu, không biết có bÁn được hÀng không, tưởng cũng không mấy ai dÁm đến để mua đồ.
Dưới thời thực dân thống trị, ở Thủ đô miền Nam có thể là cả miền Nam đã là người dân Việt là biết đến tên bộ ba: Ninh, Thâu, Hùm, một bộ tướng sĩ tượng chính phái cao tay ấn.
Khi đoán số Nguyễn Thái Học, vị lãnh tụ Việt Nam Quốc dân Đảng, lòng tôi vẫn ước ao được biết số liệt sĩ Nguyễn An Ninh thì nay được số Tạ Thu Thâu, tuổi Đinh Mùi sanh ngày 5 thÁng 5 giờ Hợi, là cả một sự hân hoan thích thú, nhất là được thấy rõ tư cách nội tâm của một danh nhân không hổ thẹn với lòng Ái mộ của quốc dân ghi nhớ bằng tấm bảng tên đặt cho con đường từ Nguyễn Trung Trực chạy thẳng đến cửa Đông chợ Bến ThÀnh.
Người nÀo đã được Thái Tuế đóng đô ngay ở Mệnh, không phải là dễ có, là người như đã có sứ mạng gì, phải làm cho cái nơi mình được gọi là “chôn nhau cắt rún” không nhiều thì ít, có bổn phận đóng góp mồ hôi, xương mÁu công cuộc xây dựng kiến tạo không khi nÀo tơ hÀo tư tưởng phá hại.
NhÀ cách mạng Tạ Thu Thâu tuổi Đinh Mùi, Mệnh ngự trị ngay tại cung Mùi, tức là Thái Tuế in ngay trước ngực như người hãnh diện với tấm huy chương ngoại hạng danh dự của Hóa công cho người công dân phải có công gì với núi sông. Đó là định mệnh đã đặt người nÀy vào cái khuôn khổ đó. Nhưng con người của ông, cái “TA” phấn đấu chÁnh xÁc của Tạ Thu Thâu, chỉ đem lại kết quả cụ thể cho đời ông là bất mãn, không biết làm gì hơn là cái sở trường “nói”. ông dồn đối phương vào ngõ bí rồi thuyết phục họ vào đường phải theo, thấy dễ như trở bÀn tay (Điếu khách ở vị trí Tỵ, Dậu, Sửu khắc phục được Hợi Mão Mùi).
Mệnh Thái tuế, Thân Điếu khách (Tỵ) biểu lộ tất cả cái Tài hùng biện của một danh nhân, một dũng sĩ vững tay lái trên con đường sứ mạng. Nhưng khốn nỗi xe lại quá cũ kỹ xộc xệch, chết mÁy nằm đường luôn, phút cuối cùng lại lỏng tay lái, đâm vào gốc cây khiến chủ nhân phải thiệt mạng. Liêm SÁt ở Mùi hiển nhiên không phải là ông được Thái Tuế đưa lên vai trò thủ lãnh để rồi bị ĐÀ La gò bó mÀ chịu trận (chết đường). Tạ Thu Thâu chính cống phải là Thiên Tướng (Thân) tư cách của người can đảm mÀ đôn hậu, ngay thẳng mÀ bao dung, được Thiên Mã ở Tỵ đồng cung là một nghị lực mẫn cÁn phi thường dẫn dắt.
Tuy vậy ông cÀng cường quá bao nhiêu ông cÀng điêu linh bấy nhiêu do tư thế của Mã nÀy đối với người mạng Thủy. ông cÀng dễ dÀng làm chủ được Mã nÀy thì ông phải khổ công với nó mÀ cũng không nên cơm chÁo gì (Kình Lực) rồi ra Thiên Tướng bị ép ở giữa thế gọng kìm Kình Hình (tù đÀy, bất đắc kỳ tử).
Đời ông sanh ra được chÁnh nghĩa bao phủ (Thái Tuế nhập mệnh) tuy vậy đối phương vẫn ở thế tay trên đÀn Áp đời (Hợi Mão Mùi bị Tỵ Dậu Sửu khắc nhập). TrÁi lại chính trong thâm tâm đầu óc tin tưởng ông, ông vẫn coi họ không nghĩa lý gì (Thân lại ở vị trí Tỵ Dậu Sửu khắc xuất Hợi Mão Mùi) nên ông dễ dÀng khắc phục lại. Thật là cả một vấn đề tế nhị mÀ quanh quẩn đó là tư thế đối ngoại của ông.
Còn nội cảnh của Mệnh, Thân (nhị hợp) ta thấy Mệnh ở Mùi là cảnh trí sinh xuất cho BÀo, Thân ở Tỵ sinh xuất cho Phụ. Người nÀy có đầu óc gia đình, dầu ở hoÀn cảnh nÀo cũng muốn trợ lực cha mẹ và nâng đỡ anh chị em, chứ không phải vì được nội tướng giỏi, quán xuyến gia đình đảm đang (Thiên Tướng đắc địa ở Thê) mÀ râu quặp, đÀnh là nể (Thân cư Thê).
Số nÀy tam hợp Mệnh cũng là tam hợp tuổi, đÁng lẽ được một phần thưởng gì với thế gian mới phải vì bộ SÁt Phá Tham quá yếu (quá bÁn hãm địa) như Quan cung Vũ Phá bị bôi lọ, còn bị tù đÀy luôn phiên là khác (Liêm Xương Phủ) Tài Tử Tham yếu kém còn bị cả Tuần lẫn Triệt kể như là suông. Mệnh đóng ở tam hợp tuổi (Thái tuế) muốn được thỏa trí mãn nguyện, luôn luôn phải là giai đoạn tuổi ngoÀi 40.
Liệt sĩ Tạ Thu Thâu thÀnh “ThÁnh” trước hạn định đó (39 tuổi) thấy ngao ngÁn cho những ai bị Thân đóng ở thế Tuế Phá, Tang môn, Điếu khách là tư thế của người chỉ thấy cái bất mãn, ngậm đắng nuốt cay của nhân thế, ôm một khối hận chờ chuyển kiếp lai sinh.
Đây là một tấm gương hiếu đễ, nhÀ cách mạng Tạ Thu Thâu phải trần thân làm việc ngay từ tuổi 13, kèm trẻ em học lấy tiền nâng đỡ gia đình ở giai đoạn Thiên Lương, Lộc tồn ở Ngọ. Nhảy sang cung Tỵ là lao đầu vào cuộc để khÁng, đi Pháp năm 1927 (22 tuổi) bị trục xuất về nước năm 1930, kéo dÀi tranh đấu đến năm 1944 (3 lần vào tù, 2 lần tuyệt thực) bị bÁn thân bất toại (Tướng, Mã, Kình).
Đời kết liễu ở Thìn, tuổi Đinh gặp Cự, Kỵ khó thoÁt đi đôi với Mệnh thủy đến Thổ cung sau 5 năm bị giam cầm ở Côn đảo (1939-1944). Sau khi ở đảo về bị sÁt hại ở Quảng Ngãi trong cuộc đi quan sÁt tìm hiểu tình hình đất nước để sả thân phụng sự quốc gia dân tộc.
Với bản số nÀy, tôi nhìn theo ống kính nhỏ bé, ngoÀi khía cạnh chính trị, thấy nhÀ cách mạng Tạ Thu Thâu, một hình ảnh hiếu đễ quá rõ ràng (Mệnh sinh xuất cho BÀo, Thân sinh xuất cho Phụ).
KHHB số 74G1