SÁT DIỆU

Trao đổi kiến thức về bộ môn tử vi
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục trao đổi kiến thức về tử vi dành cho thành viên chính thức. Các bài viết trao đổi cần có nội dung kiến thức hoặc cung cấp thông tin nghiệm lý. Muốn nhờ xem, luận giải lá số vui lòng đăng tại mục Xem tử vi.
Không được đính kèm lá số của trang web khác. Các bài viết và thành viên vi phạm sẽ bị xử lý.
Chuồn chuồn
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 138
Tham gia: 17:24, 15/12/10

SÁT DIỆU

Gửi bài gửi bởi Chuồn chuồn »

Tại “đẩu số”, Kình Đà, Hỏa Linh là tứ Sát. thêm Không Kiếp là lục Sát.

Tứ Sát không hoàn toàn chủ hung, có khi cũng chủ thành kích phát lực, như [Hỏa Tham cách].Nữ nhân thích mang theo điểm Sát diệu, mới chủ diện mục đẹp, duyên dáng hoặc chủ thiếu vẻ đẹp. Như mệnh :

- có Đà-la chủ răng không đều,
- có Kình-dương đới Xương Khúc chủ có tàn nhang hoặc nốt ruồi đẹp, đều thuộc loại này.
Sát diệu và Phụ Tá chư diệu phối hiệp, ảnh hưởng đến tính chất “lục thập tinh hệ”, do vậy cũng thành nguyên tố của chư tinh tổ hiệp. luận thuật của thiên này là, “tính chất cơ bản của Sát diệu”. Học giả có thể dụng để phối hiệp tinh hệ, để xem bổn chất biến hóa.



KÌNH-DƯƠNG- ĐÀ-LA .
Kình là Bắc đấu tinh, Dương kim, Hóa khí là Hình, Chủ hình thương (có phá họai lực và khí hình sát)
Hỉ : chư cát, tứ mộ và tây bắc sinh nhân, cư tứ mộ (thìn tuất sửu mùi).

Kị : hư hung, cư tứ chính (tý ngọ mão dậu).
Đắc thì quyền uy, hung thì hình thương.

Đà là Bắc đẩu tinh, Âm kim, Hóa khí là Kị, Chủ trì hoãn, thị phi, đố kị, cố chấp.
Hỉ : chư cát, tứ mộ sinh nhân, cư tứ mộ (thìn tuất sửu mùi).
Kị : chư hung, cư tứ sinh (dần thân tị hợi).
Cát thì ngầm sinh quyền lực, hung thì ngầm bị lật đổ, thất bại.



Kình-dương thuộc dương kim, đới tính dương hỏa.
Đà-la thuộc âm kim, đới tính âm hỏa.
mỗi sao đủ tính chất [hỏa luyện kim], vì vậy :

- tình huống cát ắt là [đoán luyện] (rèn đúc, rèn luyện),

- tình huống hung ắt là [ngao tiên] (đau khổ, khó khăn; tra tấn).


Kình gọi là [Hình], Đà gọi là [Kị], hình dung chúng là hung tính. đại khái nói,
  1. Kình + Hỏa chủ kích phát (vì Kình + Hỏa giống như luyện kim : thành khí)
  2. Đà kiến Linh cũng chủ rèn dũa [ma luyện]; (Đà ngộ Linh giống như vật liệu nóng chảy thành hình), đây không phải là [Hình Kị], hung tính của tứ Sát liền hỗ tương bù đắp nhau, và diễn hóa thành lợi ích.(nhưng tính cách bỉ cực thái lai).Nhìn từ một góc độ khác,
    - kết cấu Kình và Hỏa, chủ minh tranh, do có minh tranh mới có kích phát lực.
    - kết cấu Đà và Linh, chủ ám đẩu, vì có ám đẩu mới chủ ma luyện.


    Nhưng nếu đổi qua lại tình huống trên,
    - Kình và Linh, ắt dương hỏa không đủ đễ nấu chảy khối kim;
    - Đà và Hỏa, liệt hỏa không thể tinh luyện lá vàng, ngược lại trở thành gian khổ, thành tính bất lương.Trên là đặc điểm khi tứ Sát kết hợp.


    Kình-dương :
    - cơ bản có tính phá hoại lực, thường chủ phát sinh cơ sở phá hoại, vì thế gọi là Hình. phá hoại của nó, lại là bề mặt của hoạnh nghịch, đương sự đối với hoạnh nghịch : nhìn thì thấy rõ ràng, có thể tránh được vấn đề khác.
    - cơ bản có khí hình sát, vì thế :
    • nên theo nghiệp binh, pháp luật, bác sĩ ngoại khoa, hoặc là công trình kĩ thuật nhân viên.
    • không nên kinh thương, văn chức, chánh trị.- thích cư tứ mộ (thìn tuất sửu mùi, đặc biệt là thìn tuất la võng), tối hỉ Kình kích phát. cùng Hỏa đồng hội, kích phát lực càng lớn. lúc đại vận đến cung độ này, phải rõ chánh diệu tinh hệ cung viên để định tế ngộ, đại khái trước trải qua khốn đốn mà thành đại khí, đối với hậu vận phát sanh ảnh hưởng lương hảo.- Kình bất hỉ cùng Liêm-trinh, cũng bất hỉ Cự-môn, gặp tinh hệ của hai chánh diệu này, thêm Hỏa đồng độ : không phải là kích phát, mà chủ : thị phi hoặc tai bệnh.
      • là do Liêm-trinh thuộc tù và Hỏa + Kình bổn chất xung đột.
      • Cự-môn thuộc ám thượng, đủ để chôn vùi dương dư, giải dương hỏa. Mệnh cung nam nữ gặp : một đời nhiều tai họa bệnh thống.- Kình bất hỉ cùng Vũ-khúc tinh hệ đồng độ, không thích hợp vũ chức, nếu Kình tại tam phương hội hiệp, nên theo công tác quân báo, an ninh.. .
        - Kình bất hỉ cùng Tham-lang đồng độ.
        • Tại ngọ cung, Tham-lang là [mộc hỏa thông minh] cách. Kiến Kình, tuy cũng gọi là [mã đầu ***** kiếm], nhưng không phải là chính cách, chủ trải qua gian tân sau mới phát tích biến thái, nhưng biến thái vẫn không lâu dài. [Thủy hỏa cướp bóc, quan Phi khuynh bại], thường sau khi thịnh lại sinh bế tắc, không kịp đề phòng.
        • Tại tí cung Tham và Kình, gọi là [phiếm thủy đào hoa], chủ một đời trầm mê tửu sắc, cũng không tốt đẹp.
        • Kình kiến [Hỏa Tham, Linh Tham cách] cũng bất hỉ, chủ sau khi bạo phát sản sanh cạnh tranh, ẩn núp cơ bạo bại. vì vậy phải cấp tốc giữ lấy phương châm bảo thủ, từ bỏ cạnh tranh đối thủ, mới có thể [xu cát tị hung].Đà-la :
          Đà-la thích cư tứ mộ cung, duy thích sửu mùi hơn, tại thìn tuất la võng cung không có đột phá lực.
          Đà-la chủ : kéo dài, cố chấp, thị phi, đố kị, nhược điểm của nó từ “Ám” mà ra, đương sự thường không biết nguyên nhân của thị phi hoạnh nghịch. vì vậy gọi Đà-la là Kị diệu. Kị diệu và Hình diệu bất đồng,
          • Hình là minh thương (như giáo đâm trước mặt),
          • Kị là ám tiễn (như tên bắn sau lưng). vì vậy Đà-la mang theo bất lợi thường khó [xu tị], và có hậu quả bất lợi cũng thường kéo dài một thời kì.- Đà-la tối bất hỉ cùng Cự-môn đồng độ (2 Ám tinh gặp nhau) chủ : thị phi trùng trùng, hoặc chủ : sanh ám tật.
            - Đà-la tối bất hỉ cùng Thất-sát đồng độ, nữ mệnh đặc biệt không hợp, chủ phu tử ly tán, hoặc chủ hôn nhân hết sức muộn.
            - Đà-la tối bất hỉ cùng Tham-lang tinh hệ đồng độ, phá hoại lực đối với [Hỏa Tham, Linh Tham] tương đối lớn, vì có thể khiến điểm tốt đột nhiên biến thành trì hoãn, tính chất mâu thuẫn lớn, tạo nên phá hoại lực. đại khái Tham-lang tinh hệ kiến Đà, chủ do sắc thành cố tật.
            • tại dần cung Tham Đà đồng độ, gọi là [phong lưu thải trượng], chủ do trầm mê tửu sắc ảnh hưởng tiến thủ của nhân sanh. tại Mệnh cung cũng chủ là người thông minh tuấn tú.
            • tại hợi cung Tham Đà đồng độ, cũng gọi là [phiếm thủy đào hoa], không phải là mỹ cách.Phàm Đà-la :
              • thủ Phu thê cung, chủ : chậm hôn.
              • thủ Tử-tức cung, chủ : chậm có con.
              • đồng hội Sự nghiệp cung hoặc Tài bạch cung :
                  • a/- nên tùng sự công nghệ, công trình.
                  • b/- không nên kinh thương, thường hãm vào bế tắc.


Kình Đà vĩnh viễn giáp Lộc-tồn, vì thế :

- chánh diệu tinh hệ không tốt cùng Lộc-tồn đồng độ : chủ keo bẩn, đa nghi.

- Nếu chánh diệu tinh hệ cát cùng Lộc-tồn đồng độ : chủ đa tư lự.

- chánh diệu hóa Kị cùng Lộc-tồn đồng độ, là bị [Kình Đà giáp Kị] chủ : tai bệnh, khuynh bại;

- Thiên-lương cùng Lộc-tồn đồng độ ở tị cung, bị Kình Đà giáp, lại có Sát Hình xung phá : ở dậu, sửu niên phải phòng tai họa lao ngục. Tử Sát cùng Lộc-tồn đồng độ tại tị hợi cung. cũng bất hỉ vì bị Kình Đà giáp, chủ có cơ hội phát triễn tốt, hay bị người níu kéo, hạn chế. (Lộc-tồn tại Tị là tuổi Bính Mậu, tuổi Bính thì Liêm hóa Kị tại Sự nghiệp, tuổi Mậu thì Cơ hóa Kị tại Huynh đệ, còn Lộc-tồn tại Hợi là tuổi Nhâm thì Vũ hóa Kị tại Tài cung).- Nếu Mệnh cung Đà đồng độ, Phúc đức cung tất kiến Kình, đại khái chủ : tư tưởng có kích phát lực mà hành động thường do dự bất quyết.
- Nếu Mệnh cung cùng Kình đồng độ, Phu thê cung tất kiến Đà, chủ : Phu thê tính cách không giống nhau, mỗi người một ý.


- Nam mệnh Thái-âm hóa Kị, bị Kình Đà giáp, tại Mệnh cung hoặc Thê cung, chủ : hôn nhân thất lợi, bị thê tử tha luy.
- Nữ mệnh Thái-dương hóa Kị, bị Kình Đà giáp, tại Mệnh cung hoặc Phu cung, chủ : chồng không hiền (không đàng hoàng), hoặc chủ trượng phu tai bệnh.


Tử Sát cùng Lộc-tồn đồng độ tại tị hợi cung. cũng bất hỉ vì bị Kình Đà giáp, chủ có cơ hội phát triễn tốt, hay bị người níu kéo, hạn chế. (Lộc-tồn tại Tị là tuổi Bính Mậu, tuổi Bính thì Liêm hóa Kị tại Sự nghiệp, tuổi Mậu thì Cơ hóa Kị tại Huynh đệ, còn Lộc-tồn tại Hợi là tuổi Nhâm thì Vũ hóa Kị tại Tài cung).- Nếu Mệnh cung Đà đồng độ, Phúc đức cung tất kiến Kình, đại khái chủ : tư tưởng có kích phát lực mà hành động thường do dự bất quyết.
- Nếu Mệnh cung cùng Kình đồng độ, Phu thê cung tất kiến Đà, chủ : Phu thê tính cách không giống nhau, mỗi người một ý.
Được cảm ơn bởi: thaihoa, kiba_119, Hoa Chau, wumingxing
Đầu trang

Chuồn chuồn
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 138
Tham gia: 17:24, 15/12/10

TL: SÁT DIỆU

Gửi bài gửi bởi Chuồn chuồn »

HỎA-TINH LINH-TINH .

Hỏa-tinh là Nam đẩu tinh, Dương hỏa, Hóa khí là Sát, Chủ cương.
Hỉ chư cát, hỉ đông nam sinh nhân, hỉ dần ngọ tuất mão tị sinh nhân.
Hỉ cư dần ngọ tuất. Kị chư hung, kị cư thân tí thìn.
Cát thì tinh hoa, tốt đẹp, hung thì tai ách.


Linh-tinh là Nam đẩu tinh, Âm hỏa, Hóa khí là sát, Chủ liệt (cháy dữ, lửa mạnh, ác, thừa, rớt lại..) Hỉ kị giống Hỏa tinh.
Cát thì ngầm phát phúc, hung thì hại ngầm đến.

Hỏa thuộc dương hỏa, Linh thuộc âm hỏa. vì thế có thuyết pháp [Hỏa minh Linh ám]. cũng tức Hỏa mang phá hoại tính rõ ràng, tai hại của Linh là ám muội.

Cũng chính do bổn chất này, [Hỏa Kình] chủ kích phát mà [Linh Đà] chủ ma luyện. Độc giả đối với vấn đề then chốt này nên kĩ lưỡng thể hội. so sánh hai tình huống, [Linh Đà] tự nhiên không bằng [Hỏa Kình].

Phàm Hỏa Linh tại Mệnh cung. hoặc tại Phụ mẫu cung, chủ [ấu niên ly gia] hoặc [quá kế xuất tự] (mẹ lấy chồng đi theo).

Hỏa-tinh thủ Mệnh, hoặc thủ Phụ mẫu cung, kiến Phụ Tá chư diệu đơn tinh (1 sao) chủ hai lần phụ mẫu, mang hai họ, hoặc phụ thân chết trẻ.



Hỏa-tinh hỉ (mừng) :

- cùng Tham-lang đồng độ. Chủ : cuộc sống tích cực tiến thủ. chủ đắc tài.

- cùng Tử Sát, hội thêm Kình càng đẹp. cũng chủ tích cực giảng giải. Duy không bằng [Hỏa Tham] hóa Lộc có thể bạo phát. (Tử-vi tọa mệnh, đến hạn Thất-sát cung, cũng chủ đột nhiên biến thái (tốt đẹp). Duy không bằng [Hỏa Tham].

Kết cấu hai tinh diệu thuật ở trên, không nên lại thấy Đà-la đồng độ, nếu không ắt là phá cục.



Hỏa-tinh cùng tinh hệ ổn định đồng triền (như Tử-vi, Tử Phủ, Thiên-phủ, Thiên Lương …), gia hội Phụ Tá chư diệu, ắt có thể khiến cho chánh diệu tinh hệ có thiên hướng phát triển cương tính.

nhưng [Nhật Lương] chỉ có tính chủ quan, thêm Hỏa ắt là ngoan cố.



Linh-tinh uy lực yếu hơn Hỏa-tinh, nhưng âm hỏa tính chất kéo dài và liên tục hơn, vì vậy tai nạn cũng có vĩnh cửu tính.

- ví như Hỏa mang theo nhiều tổn thất vật chất, nhưng thuộc bất hạnh nhất thời,

- tai nạn Linh mang theo: thường có nội tâm thống khổ, đương sự rất khó quên được.

[Linh, Xương, Đà, Vũ tứ diệu, vu thìn tuất nhị cung], chủ khuynh bại, mà khuynh bại này tất do tự chiêu. khi lưu Đà, lưu Xương xung khởi nguyên cục [linh xương đà vũ], ắt tai họa càng kịch liệt.



Linh-tinh bất hỉ :

- cùng Liêm hóa Kị có Kình đồng độ, gọi là [hình tù hội Linh], chủ chết không phải do mệnh hết, hoặc chết vì binh tai. Nguyên cục [hình tù hội Linh], lưu niên có lưu Kình xung khởi, họa càng kịch liệt, thường ứng rất cấp tốc.

- cùng Liêm Sát có Kình đồng độ, gọi là [Liêm Sát Kình Linh] : chết trận.

- cùng Phá-quân đồng độ, chủ kinh thương tỏa bại. Nhưng vẫn thích kinh doanh hàng hóa mang tính [tỏa chiết]. Như nha y, chỉnh hình, tàu hư, phế liệu….

Phàm cung bị giáp [Hỏa Linh], thường là cung liên kết yếu nhất cho cuộc sống.

- Như giáp Tài bạch, chủ tuy lao lục bôn ba mà tài khí vẫn kém,

Hỏa Linh chia ra cư :

Phúc đức cung cùng Mệnh cung, chủ : một đời khởi nhiều ba chiết.
Mệnh cung cùng Phu thê cung, cũng chủ : vợ chồng nhiều lần ăn cơm riêng, nhân sanh quyết khó thuận toại.

chánh diệu không thích bị Hỏa Linh tương giáp hoặc đồng triền là : Thiên-cơ, Thiên-đồng, Cự môn, Thiên-tướng, Thiên-lương : dễ phá cách. (Như Cơ Cự tại mão an Mệnh, Cự hóa Lộc, là [Cơ Cự đồng lâm cách] chủ phú quý, Hỏa Linh triền độ tức chủ [ôn thực : đói lạnh ???]).

Phu thê cung kiến Hỏa Linh tương hội, chủ : vội vàng kết hôn.

Mệnh cung Hỏa Linh cùng hội, chủ : trước [công bại thùy thành : thất bại khi sắp thành công], sau trải qua nỗ lực, ắt chuyển thành [công thành thùy bại : thành công khi sắp bại]. Vũ chức gặp, chủ lập công huân (công trạng).


Nữ mệnh kiến Hỏa Linh, cổ nhân cho là lăng mạ chồng khắc con, nhân duyên bất túc, tính cách cương cường, đặc biệt lấy Hỏa-tinh làm trọng, gọi là [nội tâm lang độc]. luận này vẫn phải xem chánh diệu Mệnh cung tinh hệ mà định, không thể đoán cẩu thả bừa bãi được.

Phúc đức kiến Hỏa Linh, phần nhiều nội tâm cáu kỉnh, thô bạo, nhưng phân biệt :

Hỏa tính cương, vì thế hỏa bạo ở tì khí (xong là hết),
Linh tính liệt. miệng không nói, nhưng vẫn hành động để phản kháng hiện thật
Được cảm ơn bởi: thaihoa, dungnt21, Hoa Chau, Vũ Tướng, satrungkim
Đầu trang

Trả lời bài viết