TỬ VI NGHIỆM LÝ TOÀN THƯ

Trao đổi kiến thức về bộ môn tử vi
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục trao đổi kiến thức về tử vi dành cho thành viên chính thức. Các bài viết trao đổi cần có nội dung kiến thức hoặc cung cấp thông tin nghiệm lý. Muốn nhờ xem, luận giải lá số vui lòng đăng tại mục Xem tử vi.
Không được đính kèm lá số của trang web khác. Các bài viết và thành viên vi phạm sẽ bị xử lý.
ngo_ngot
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 702
Tham gia: 14:21, 03/03/11

TL: TỬ VI NGHIỆM LÝ TOÀN THƯ

Gửi bài gửi bởi ngo_ngot »

NĂNG LỰC QUAN TRỌNG CỦA NHỊ HỢP
Toán số mạng tùy thuộc vào luật âm dương thì một tam hợp không đủ phương tiện nhận chân bảnchuyển dịch trên địa bàn. Qui phạm đã ghi khuôn phép có tam hợp, nhị hợp và xung chiếu.
Tam hợp, một thế liên minh ba cung có thể đứng chan vạc (Sinh, Chính, Hệ) đồng lao cộng tác để tranh đấu với đối cục là thế xung, cùng lấn lướt thiếu dương và thiếu âm. Còn nhị hợp bổ khuyết những gì nêu rõ bnr lãnh tiềm tàng trong nội tâm mà tam hợp không phơi bày phân tích nổi, chỉ là một lực lượng dương hay âm hoàn toàn, nhị hợp phối hợp âm dương trọn vẹn.
Điển hình 14 chính tinh cho thấy, trừ ra 4 sao có tư cách khẳng định, còn lại 10 sao trường hợp nào cũng nêu rõ âm dương liên lạc như hình với bóng
4 Sao không có nhị hợp:
Tử Vi: đầy đủ đức hạnh
Thất Sát: nông nổi quá mức
Thiên Tướng: uy dũng đến cùng
Cự Môn: đàm luận đanh thép
10 Sao có nhị hợp:
Thiên Phủ cặp đôi với Thái Dương }Thường tình nhân
Vũ Khúc ………….. Thái Âm } sinh quan chia
Thiên Lương ………….. Liêm Trinh } làm 2 phần:
Phá Quân ………….. Thiên Cơ } thực tính
Tham Lang ………….. Thiên Đồng } và tinh thần
Trường hợp nào Thiên Phủ cũng có Thái Dương đầy đủ ý nghĩa Thiên Phủ sáng suốt cương nhu tùy lúc Thái Dương đóng ở dương hay âm cung. Vũ Khúc luôn luôn sống nhu thuận theo Thái Âm lập nghiệp. Thiên Lương không những đôn hậu mà còn liêm chính. Phá Quân bất khuất còn có tài tổ chức. Tham Lang vọng tưởng nhưng biết hối cải. Trái lại Thái Dương, Thái Âm, Liêm Trinh, Thiên Cơ và Thiên Đồng cũng vậy, trường hợp nào nhị hợp cũng cặp kè
bộ đôi với ý trung nhân như có ý nhắc nhở người có số cuộc đường dài (tràng sinh) phải dẫn dắt lấy mình cho hợp lý âm dương, đành rằng tam hợp chiếm phần chính, nhưng nhị hợp không thể quên. Trường đời đã cho thấy thói hư tật xấu dễ bành trướng, đức hạnh liêm chính thì khó nhập tâm. Nhìn vào địa bàn tướng số, những Liêm Tham, Vũ, Sát, Tử Tham đều đóng ở âm cung, dễ sinh xuất sang dương cung tiêm nhiễm nọc độc mà Cự Dương, Đồng Lương, Liêm Phủ rất chặt chẽ chỉ treo cao ảnh hưởng cho âm cung nhìn nhận.
Người Canh Tuất sanh ngày 6 tháng 5 giờ Mão.
Mệnh Tuế Phá Cơ Lương, Thân Thái Tuế vô chính diệu. Kim mạng được Thiên Lương (Mộc đối Thổ) phò trợ hẳn là một triết nhân hiền hậu có khả năng tổ chức, nhưng không bỏ qua Liêm Trinh, nhị hợp của Lương và Phá Quân nhị hợp của Cơ ở Dậu sinh nhập bổ khuyết liêm chính và vững tâm khuôn xử Quan cung ở Thân vô chính diệu. Tử Sát ở Tỵ chỉ là bức tranh vẽ cho đẹp buổi ban sơ và những cái gì lôi kéo sanh nhị hợp (Quan) bởi Tử Vi, Thất Sát không có cặp đôi với sao nào, nhưng vì ở âm cung xuất phát cung Quan ở dương được thâu nhập ảnh hưởng phải chậm. Lộc Mã Khốc Khách tuy vang dội no đủ lại thiếu chỉ huy nên không quá mộng tưởng. Cung Tài Đồng Âm (Tí) chỉ từng giai đoạn thay đổi (Thái Âm ở dương cung) được Tham (nhị hợp của Đồng), Vũ (nhị hợp của Âm), trợ lực đem lại kết quả hậu lai, nhưng Phá Toái ngăn chặn lối khiến khách bộ hành nhiều lúc bỡ ngỡ như lầm đường lạc lối.
Thân đứng Thái Tuế vô chính diệu được Hoa Cái đắc Thái Dương Cự Môn ở Dần hợp chiếu, tuy vướng Tuần mà thành đắc cách (Hỏa phùng Không), không khỏi khiến bản mạng kém sức khỏe (Hỏa khắc Kim). Thiên Tướng không có cầu để sang đắc lực cho Hoa Cái (Kim) thêm phẩm cách một danh sư chánh đạo, chỉ phần nào phụ họa lần lần ảnh hưởng (Mão sinh xuất cho Tuất). Thiết tưởng một Hoa Cái (Kim) cho người Tứ Mộ mạng Kim bao trùm hiệu lực cho người kim mệnh cũng rất đầy đủ thỏa mãn.
DI – MỘT LỰC LƯỢNG PHẢI ĐỂ Ý (1)
Trên địa bàn toán số Di đứng đối diện với Mệnh, thường thường cho là tình trạng đi ra ngoài, sự thật còn là ý nghĩa kẻ đối nghịch tranh đua với Mệnh, bởi vị trí đối kháng ở thế xung (giận hờn). Diện tích 12 cung, hành Thổ chiếm đến 4 ( 2 Dương Thìn Tuất, 2 Âm Sửu Mùi). Kim Mộc Thủy Hỏa mỗi hành chỉ có 2 ( 1 Dương 1 Âm ) sắp xếp đối diện nhau.
Lý đương nhiên đối diện là phải có chuyện khắc chế. Hai hành Thủy và Kim luôn luôn tay trên kẻ địch (Hỏa và Mộc). Còn 4 hành Thổ tranh đua nghiêng ngửa. Tính đến sát nước cờ Thìn và Sửu vẫn ở trên Tuất và Mùi vì lẽ Thìn đứng trong hàng ngũ Thủy nhị cục và Sửu, một thành phần Kim tứ cục. Vậy toàn diện đã phân cao thấp, tư thế hành tinh cung một cách bảo đảm phần nào thắng bại.
Phân tách âm dương Mệnh và Di các sao luôn luôn đồng đều cùng trong một phái lưỡng nghi ( Tử Phủ Vũ Tướng Phá Tham Liêm Sát hay Cơ Nguyệt Đồng Lương Cự Nhật). Phe văn tranh đua về lý tưởng, phái võ tranh đấu bằng sức mạnh. Hành của sao phân biệt lực lượng như Tham Lang (Mộc) đối diện Vũ Khúc (Kim). Vũ Khúc được thế thượng phong, Cung và Sao không khác gì địa thế và năng lực. Còn một cách mà thế nhân từ ngàn xưa cho đến nay đều trọng vọng viện nhiều lý lẽ đã có để tô điểm hành động, dầu thua hay thắng, vẫn được tiếng tốt để đời, đó là chánh danh. Phần này thuộc vòng Thái Tuế.
Tư cách Thái Tuế nâng phẩm cách nhân sinh viên mãn đời Hoa Cái Dương cho như 3 trường hợp sau đây nên thận trọng phân tách đâu rõ trắng đen:
a – Tuổi Canh Tuất Mệnh Thân ở Thìn có Khắc làm cốt cách thấy cả một ngôi dinh thự nguy nga vững chắc (Kim Mệnh đắc Vũ Khúc, Kim). Đối xung (Di) ở Tuất phải là Tham Lang (Mộc) cho thấy cả vị trí và sao đều thắng, khắc đối phương một cách dễ dàng ( Tam hợp Thìn ,Thủy khắc tam hợp Tuất Hỏa, Vũ khắc Kim khắc Tham Lang Mộc) Tuổi Canh Vũ Khúc hưởng thụ tất cả những gì tam hóa liên châu (Mệnh Quyền giáp Khoa và Lộc). Ở Thìn vị trí thuộc Thái Dương (Cẩm bào phô diễn ban ngày) chỉ kém đối phương có 1 Thái Tuế chứa đựng Hoa Cái Thanh Long (Long có rồng uốn khúc) đành thua cuộc vĩnh viễn ngàn năm.
b – Tuổi Giáp Ngọ, Mệnh Vũ Phủ ở Tý, Thân Thất Sát ở Ngọ. Cuộc diễn biến chuyển cho thấy người này sanh ra gặp nhiều bất như ý mà rất coi thường đối phương. Nhưng cuộc Tràng Sinh luôn luôn bị người nghịch gò ép.
c- Tuổi Nhâm Tuất có Phá Quân thủ mạnh ở Ngọ. Thân Liêm Tướng ở Tý là cả một cuộc đấu tranh lâu dài. Người này có công tạo sự nghiệp cho đời mình thụ hưởng vì đối phương quá nghiêm nghiệt. Nhưng khi bắt tay hành động lại coi thường đối phương, chỉ đem đến kết cuộc không mãn ý.
Tóm tắt trường hợp Di được khen tốt đẹp, chứa đựng nhiều trung tín đắc cách thì mệnh phải khắc phục nắm chắc trong tay mới mong kẻ đón người rước phản ảnh màn cảnh nhân sinh thực trạng còn Thân ở Di Thái Tuế là cuộc sống trường sinh lý tưởng.
(1) Luật âm dương chi phối chỗ đứng 14 chính tinh để biểu lộ ảnh hưởng khác nhau. 12 cung địa bàn chia thành 4 sinh ( Dần, Thân Dương, Tỵ Hợi âm) 4 chính ( Tý Ngọ Dương, Mão Dậu âm) và 4 mộ ( Thìn Tuất Dương, Sửu Mùi âm). Mỗi bộ sau khi đứng cặp đôi ở Dương, thì đứng ở Âm phải chia lìa đối diện hay tụ hợp ở âm, bước sang dương phải xé lẻ nhìn nhau như :
a- Tử Phủ Dần Thân, sang Tỵ Hợi Tử ở một đầu, Phủ ở đối diện.
b- Cơ Lương Thìn Tuất sang Sửu Mùi mỗi sao đứng 1 thế ngó nhau.
c- Liêm Tướng Tý Ngọ sang Mão Dậu đường ai nấy đi.
Hai thế đứng có 2 ý nghĩa :
1/ Đứng cặp đối cùng 1 cung tức bổ khuyết cho nhau.
2/ Đứng đối diện là có sự bất đồng ý (trừ bộ Nhật Nguyệt chính không bằng chiếu).
LƯƠNG NGUYỆT ĐỒNG CƠ CỰ NHẬT MỘT KHỐI ĐỒNG TẤN NHẤT TRÍ
Hai thể âm dương đã định thành phép tắc tạo tính cách hoàn toàn dị biệt như trắng với đen, sáng và tối. Vì vậy, 14 chính tinh, bên dương 8 sao Tử Phủ Vũ Tướng, Sát Phá Liêm Tham thường xuyên tranh đấu lẫn nhau từng bước, trái lại bên âm Lương Nguyệt Đồng Cơ Cự Nhật cả 6 sao đứng thành 1 khối liên kết hành động chung mật thiết.
Bộ Nhật Nguyệt 2 vầng sáng suốt như chỉ điểm đâu là đường đi thăng tiến, đâu là ngõ bí bế tắc để Thiên Lương trình bày luận lý theo dõi Thiên Đồng canh cải khiến tạo và Thiên Cơ tổ chức xếp đặt tức là nội Trạng Tử Phủ hay Phá Tham một khi đắc thế tạo nên sau đó Cự Môn lên tiếng khuyên răn nhắn nhủ :
Toán số mạng không phải chỉ là 1 pháp toán tìm hiểu hồi hưng thịnh lúc suy vong, còn là một giáo lý trình bày nhân quả hướng dẫn nhân luân trên bước đường dài làm sao cho trọn vẹn, dư âm còn lưu truyền mãi mãi.
Tại sao lại cũng chia làm hai phái, xếp Cơ đứng đầu mà Lương đứng cuối, không để Lương Cự Đồng Cơ và Nhật Nguyệt ?
Theo phép âm dương, lưỡng nghi chia xuống là phái tứ tượng. Bên dương đã chia làm 2 thì bên âm cũng phải chia 2. Để Cự Nhật có ý nghĩa lời phê bình cương trực sáng láng như vầng Thái dương. Bên kia Thiên Lương đáng lẽ dẫn đầu đoàn lại để Cơ chiếm đoạt ra ngồi khiêm nhượng ở ghế chót. Đây thiết tưởng cũng là trường hợp như Phá Quân bất nhân Thìn Tuất, chê bai triết nhân một phường hán nho ngông cuồng chỉ ngồi suy tưởng nông cạn không đáng kể, Cơ & Đồng mới là 2 giềng mối, cần thiết phải được tôn trọng.
Sự thật, những vị tri trên địa bàn, Lương và Cự theo qui phạm áp dụng luân phiên chia nhau sát nách Cơ Đồng như Lương Cơ (Thìn Tuất) Lương Đồng (Dần Thân) Cự Cơ (Mão Dậu) Nhật (Dần Thân).
Ba trường hợp dưới đây cũng như các trường hợp khác thấy khối thống nhất Nhật Nguyệt Lương Cự Đồng Cơ luôn luôn liên lạc mật thiết chu đáo.
a- Tử Vi ở Ngọ thấy cả một triều đường uy nghi quân thần tả sứ. Liêm Phủ văn ban ở Tuất, Vũ Tướng võ bá ở Dần, Thái Dương (Mão) dẫn đường Thiên Lương phối hợp Thái Âm ở Hợi, tuy rằng âm dương tịnh minh, sự thật Thái Âm đắc cách hơn thì mọi sự phải thu thuận mới đắc sách. Tổ chức (T.Cơ) có phần khéo léo, nhưng không che lấp được cải cách kiến tạo không hợp tình trạng (T.Đồng hãm ở Sửu). Cự Môn (Sửu hãm) không thể làm ngơ không mỉa mai nghiêm nghị. Đây chỉ là tất cả sự dàn bầy của chính tinh, còn 1 phần nó tùy thuộc ở tuổi (Thái Tuế) cục diện (tràng sinh) phụ thêm 1 đoàn trung phúc và sát tinh thêm bớt.
b- Phá Quân ở Tý cùng Tham Lang ở Thìn Tuất Sát ở Thân, mọi hình ảnh cuộc liên minh hảo hán bất khuất. Thiên Lương ở Mùi được Thái Âm (Mão) Thái Dương (Hợi) đồng chiếu, cho biết mọi sự còn trong vòng chưa được tỏ rõ phải từ từ khuôn xử thì hơn ( Thái Âm đắc cách hơn Thái Dương). Sự tổ chức (Cơ) tạm thời đúng lúc, nhưng cải cách còn bế tắc (Đồng hãm ở Dậu). Cự Môn ở Tỵ (hãm) không thể không mạnh tiếng bổ khuyết.
c- Tử Tướng ở Thìn, Phá Quân ở Tuất, một màn cảnh quyết liệt chống chọi. Thiên Lương ngao ngán thế cuộc tàn du sơn thủy. Cuộc xáo trộn chưa phân hắc bạch (âm dương tương tranh ở Sửu) Cự Môn nắm chắc Cơ và Đồng (cả 3 Cự Cơ Đồng đều đắc địa) lên tiếng dàn hòa sao cho mọi sự được êm đẹp. Kết quả phải trái cũng nhờ ở Thái Tuế mới qui định hẳn bên nào chịu trách nhiệm tình trạng xảy ra.
Được cảm ơn bởi: perry
Đầu trang

ngo_ngot
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 702
Tham gia: 14:21, 03/03/11

TL: TỬ VI NGHIỆM LÝ TOÀN THƯ

Gửi bài gửi bởi ngo_ngot »

TỨ HÓA ĐEM LẠI SẮC THÁI GÌ TRONG 10 CAN
Mỗi lần lập một bản số mạng, lúc điền 4 Hóa, cứ lấy Can của số làm gốc, tùy theo qui phạm sắp xếp tinh đẩu nào được phân phối Hóa nào là điểm ghi. Phẩm chất 4 Hóa trình bày bằng tên hiệu như Lộc Quyền Khoa Kỵ cho phép thấy ngay đâu là tốt xấu tính cách
<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->Nhưng do đâu mỗi Can qui định bằng cách nào cho những tinh đẩu đó được có Tứ Hóa và nghĩa lý ra sao ?
<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->Thưa rằng đây là cả một lộ trình muôn vạn dặm đạo lý vẽ nên bức tranh thủy mặc ghi lại bóng gió nhắn nhủ cuộc thế nhân sinh bằng 2 nét âm dương dị biệt sinh ra ngũ hành căn bản : thịnh phải có suy, quả phải có khinh, trọng phải có ghét. Dịch lý được khai thông làm sao cương nhu cho đúng lúc.
Tứ Hóa được áp đặt vào những tinh đẩu theo hàng Can của mỗi tuổi có ý nghĩa tiêu cực không nên quá mộng tưởng ngoài sự sống tự nhiên.
Trong số mạng trình bày ra 14 chính tinh có 4 sao khẳng định không chịu có bộ mặt 2 khía cạnh, nhất là Thiên Tướng và Thất Sát hành động theo như trực giác cương quyết chống náo loạn (Thiên Tướng) nông nổi không cần tính toán (Thất Sát) nên 2 sao này không chấp chức Tứ Hóa theo chân đứng sau Thiên Phủ là tinh đẩu có đủ tính cách bao gồm Khoa Quyền Lộc và không trở ngại đứng trước Hóa Kỵ. Muốn bổ khuyết cho thật đầy đủ, Xương Khúc (chi tiết của giờ) ngoài chi tiết ngày (chính tinh) và chi tiết năm (Long Phượng đặt nằm theo Thái Tuế)
Vai trò của Tứ Hóa khi Khoa được công nhận là đặc biệt đứng giữa dung hòa sao cho 2 phái Lộc Quyền không lệch đòn cân với Hóa Kỵ. Nếu Quyền Lộc nặng tay tất ghen ghét đố kỵ phải căng thẳng đem lại kết quả nguy hiểm gấp bội ( trèo cao ngã đau). Vậy Khoa đương nhiên phải được những sao có đủ tư cách thông minh, nhân hậu và từ thiện mới mong đủ uy tín dàn xếp. Thiết tưởng không ngoài Tử Vi, Thiên Lương, Tử Phủ, Văn Xương (Đế quân) và Thái Âm, còn các sao kia có thể quá thiên về 1 bên nên khó đóng đựoc vai trò trọng tài cho cuộc trường sinh đầy bối cảnh nhìn vào 10 hàng Can thấy sắp xếp :
Tuổi Lộc Quyền Khoa Kỵ
Giáp Liêm Phá Vũ Dương
Ất Cơ Lương Tử Nguyệt
Bính Đồng Cơ Xương Liêm
Đinh Âm Đồng Cơ Cự
Mậu Tham Âm Bật Cơ
Kỷ Vũ Tham Lương Khúc
Canh Nhật Vũ Đồng Âm
Tân Cự Dương Khúc Xương
Nhâm Lương Vi Phụ Vũ
Quý Phá Cự Âm Tham
Bằng cách sắp xếp như trên cho thấy 5 tuổi Ất Bính Kỷ Nhâm Quý được những tinh đẩu đóng vai trò dàn cảnh đầy đủ tư cách hiền lương nhân hậu, hẳn con thuyền ra khơi ít gặp phong ba bão lớn. Thuận buồm xuôi gió còn tùy thuộc ở hàng Chi (Thái Tuế) và dòng nước theo chiều cuộc diện (Tràng Sinh) hay không. Lấy 2 tuổi Giáo Ất đem ra phân tách :
a- Giáp là dương mộc Liêm hưởng Lộc, Phá cầm Quyền kể là xứng đáng quí cách (1) nhưng Vũ nắm Khoa nếu biết thuận theo Thái Âm (nhị hợp phải nhu thuận) thì mặt trái đối Thái Dương (Hỏa) mới bớt bị Hóa Kỵ (Thủy) diệt hại. Tuổi Giáp là Dương, lý dương luôn luôn phải Mệnh đóng Dương cung mới trúng cách, mà Thái Dương bị đặt ngồi ở âm cung lại bị thêm Hóa Kỵ tưởng khi tự do thật rất khó ngăn chặn.
TAM HÓA LIÊN CHÂU ĐEM HẠNH PHÚC TỚI MỨC ĐỘ NÀO MÀ LẠI CHỈ XUẤT HIỆN CHO TUỔI CANH VÀ ẤT.
Những hành tinh dịch chuyển trên địa bàn toán số có 4 sao khoác huy hiệu là Hóa (tạo thành) như tên đã đặt : Khoa (đức năng) Quyền (uy vũ), Lộc (phú cường) và Kỵ (hờn ghen).
Ba Hóa ở trên cần được trợ lực cho nhau mới chuyển đến hoàn hảo. Có Khoa mới dẫn đến Quyền rồi tạo ra Lộc. Nối đuôi ba sao này dễ khiến sanh ra Kỵ.
Quy phạm cho biết bộ tứ Hóa do hàng Can điều động bằng đường lối phụ thuộc cho 1 hành tinh quan trọng chi phối mỗi Hóa. Riêng 3 bộ Khoa Quyền Lộc được nêu danh như 3 viên ngọc quí một khi song hành nối tiếp nhau.
<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->Vậy tam hóa liên châu nhập Mệnh khác nhau với tam hóa cùng Mệnh thế nào ?
<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->Cùng Mệnh và Khoa Quyền Lộc đứng lối chân vạc trong tam hợp gồm Mệnh Quan và Tài tức là mệnh này tự tạo lấy Tam Hóa cho bản mạng. Còn liên châu nhập Mệnh gồm Phụ có 1 Hóa, Bào có 1 Hóa, ráp vào với Hóa của Mệnh tức là Mệnh đắc hạnh phúc nguyên nhân nhờ gia đình sẵn nếp vinh quang, tất nhiên hưởng rực rỡ hơn tam Hóa cùng Mệnh.
Vì sao chỉ có tuổi Canh mới có tam Hóa liên châu ?
Nhìn vào 10 tuổi hàng Can đứng trên 12 cung toán số, cho thấy chỉ có 4 tuổi Giáp Ất Canh Tân được hợp trúng mức âm dương mà Canh Tân đương nhiên mạnh hơn Giáp Ất (Kim khắc Mộc). Sở dĩ Ất nối bước theo chân Canh nhờ ở lý dương động âm tính tác hợp sinh thành đã sắp xếp thứ tự theo chỉ số :
Giáp là 1 hợp với Kỷ 6;
Ất là 1 hợp với Canh 7; Cơ : lẻ là sinh
Bính là 1 hợp với Tân 8; Ngẫu : chẵn là thành.
Đinh là 1 hợp với Nhâm 9;
Mậu là 1 hợp với Quý 10;
Năm cặp tác hợp cho thấy luôn luôn Dương khắc chế Âm mà Ất cũng được số tam Hóa liên châu cho dầu cách hợp cùng Canh trúng mức âm dương sinh thành từ tư thế ở ngôi vị đến hoàn hảo cặp đôi
Giáp hợp Tí : Kỷ đứng nghịch âm dương
Ất hợp Canh : cặp đôi trúng vị
Bính hợp Tân : Bính đứng nghịch
Đinh hợp Nhâm : cả 2 đều trái nghịch
Mậu hợp Quý
Trường hợp nào tuổi Canh cũng có tam hóa liên châu ... (Quyền giáp Khoa Lộc) còn tuổi Ất chỉ khi nào đắc Tử Tướng ở Thìn Tuất mới xuất hiện Khoa giáp Quyền Lộc. Đặc sắc nhất là Tỵ Dậu Sửu ở Thìn là vị trí Thiếu Âm, Khoa Quyền Lộc này được Quan Phúc và Thiên Ất quí nhân ủng hộ ai kia với tư thế nhân dân đảm nhận trách nhiệm kẻ cả. Đối với tuổi Hợi Mão Mùi thân thế Mệnh nhân ở trường hợp Thiếu Dương, Thiên Không nên thức tỉnh ghi nhớ Tứ Đức thực thi xây dựng đến mức độ nào. Cây thước Tài Thọ là kim thăng bằng cán cân sẽ báo hiệu cho biết kho tiết kiệm (Lộc Tồn) từ ngàn xưa tích lũy lại còn đầy hay vơi hay đã cạn hết để 3 quí nhân tùy cơ ứng dụng.
Bộ tam Hóa liên châu, một kho ngọc quí, nhận xét cho kỹ nhập Mệnh có vẻ kém phần thích đáng như ở cung Tử cả 2 tuổi Canh cũng như Ất.
Tuổi Canh thuộc Dương, một khi Mệnh chiếm cung Dương cung Tử phải là âm, nếu đắc Tam Hóa liên châu thì Lộc & Khoa phải là cung Dương có Thái Dương an vị nên hưng vượng được chính thức lâu bền, hơn hẳn Mệnh đắc Quyền ở dương cung giáp Khoa Lộc nằm ở 2 cung âm. Thái Dương nơi đó chỉ sáng ngời trong giai đoạn mà thôi.
Tuổi Ất xuất hiện ở Mùi (âm), Tử Tướng hiên ngang ở cung Thìn là cung Tử đắc Hóa liên châu cho thấy nếp gia đình đã hun đúc nên con người đầy đủ đức năng.
Kiểm điểm lại khả năng của Tứ Hóa đứng trong thập Can tuổi Canh có Hóa Kỵ mầm gây hấn, nằm chung cùng Lộc Khoa. Thương nhân nên khiêm tốn xử thế sẽ được vinh vì Khoa sẽ giải được Kỵ. Tuổi Ất Hóa Kỵ đứng chung Quyền Lộc, Mệnh đứng nghịch lý âm dương. Tử Tướng đắc Khoa, tưởng cũng nên nhu thuận, hướng dẫn cuộc đời đến ...
Lại có thuyết trình bày tứ Hóa tuổi Canh tuần tự theo 4 sao Nhật (Lộc) Vũ(Quyền) Âm(Khoa) Đồng (Kỵ) tức là Quyền giáp Lộc và Kỵ.
Xin thưa, đã nêu danh là tam Hóa liên châu, không lẽ chỉ có 2 viên ngọc quí trộn lẫn 1 viên mắt cá dính bùn nhơ. Mười tuổi hàng Can, những sao được trao cho sử dụng 4 Hóa thì Thái Âm đứng đầu đựoc 5 lần :
Tuổi Ất Thái Âm có Kỵ
Tuổi Đinh Thái âm có Lộc
Tuổi Mậu Thái Âm có Quyền
Tuổi Canh Thái Âm có Kỵ
Tuổi Quí Thái Âm có Khoa
Thái Âm đã đóng đủ vai Khoa Quyền Lộc và Kỵ. Hóa Kỵ được trao cho cả cặp Ất Canh vì bộ đôi này đều đắc vị âm dương, bộ Tứ Hóa diễn chuyển cùng ý nghĩa (bộ Tử Phủ ở giữa làm nòng cốt) khỉ khác Canh là dương tất cương (Quyền), Ất là âm phải nhu (Khoa). Hóa Kỵ đứng ngoài để phản ứng khuyên răn hai tuổi này đã được hoàn hảo đắc vị âm dương, lại đứng bộ đôi cùng chung cộng tác (2) cố gắng nên tự hiểu mà hướng dẫn cuộc đời :
Ất : Cơ Lương Vi Nguyệt : sống đều hơn tội lỗi.
Canh : Nhật Vũ Đồng Âm : khiêm tốn đắc vinh
Toán số học không phải chỉ là môn học để tìm biết thời cơ thuận nghịch, còn là một khoa giáo huấn nhắc nhở nhân toàn kín đáo để người đời thấu nhận đâu là giá trị của đệ tam “Tài” vũ trụ.
ĐÂU LÀ NGÔI VỊ CHÍNH XÁC CỦA THIÊN ẤT QUÍ NHÂN ( KHÔI VIỆT)
Bốn chữ Thiên Ất quí nhân cho thấy một phúc tinh ở ngôi vị khiêm nhượng “thứ” (Ất) mà đảm nhiệm trách vụ của Đấng trưởng (Giáp) nâng đỡ ai kia đã dày công xây đắp “chữ Thọ” nơi thế gian đang ở trong hoàn cảnh đáng che chở để đền bù thiên tâm ơn đức.
Nhìn vào những vị trí của Thiên Ất đứng lên hành động, thấy có nhiều chỗ khó hiểu nguyên ý như :
<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->Tuổi Giáp Mậu có Khôi ở Sửu, Việt ở Mùi.
<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->Tuổi Ất Kỵ có Khôi ở Tý, Việt ở Thân.
Bốn tuổi hoàn toàn ở nghịch địa âm dương nhất là Khôi (dương) của Giáp Mậu và Việt (âm) của Ất Kỵ.
Sáu tuổi Bính Đinh có Khôi ở Hợi, Việt ở Dậu.
Sáu tuổi Canh Tân có Khôi ở Ngọ, Việt ở Dần.
Sáu tuổi Nhâm Tí có Khôi ở Mão, Việt ở Tỵ.
Có sách lại ghi : Giáp Mậu Canh cùng ở Sửu Mùi, còn lại một Tân ở Dần Ngọ (hoàn toàn nghịch âm dương). Thật là vạn nan khó hiểu, ghi không cho biết nguyên do.
Nay xin thỉnh ý quý vị cao học, đâu là nguyên vị chính thức của bậc quí nhân tài đức đầy quả cảm này. Theo ý riêng xin trình bày :
12 cung địa bàn, 2 nơi mộ địa Thìn Tuất được ghi là nơi Thiên La, Địa Võng, thường đem lại sự chật vật cùng khó nhọc cho đương nhân ở cảnh sá lưới trời đất (tình trạng có Đà La mới trúng cách). Hai cung này được Khôi Việt sử dung làm biên giới phân chia thế đứng.
Biết rằng Thiên Ất là ngôi vị thứ “Ất” thay mặt cho Trưởng “Giáp” làm nhiệm vụ thì đương nhiên Khôi phải ở hoàn cảnh không thuận tiện mà Việt hẳn ở tình trạng vững vàng uy lực.
Căn cứ theo 2 tuổi Bính Đinh (Hỏa) Khôi (+) ở Hợi, Việt (-) ở Dậu, 2 tuổi Khôi bị sa lầy, Việt được thắng thế.
2 tuổi Nhâm Quý (thủy) có Khôi ở Mão bị tiêu hao. Việt ở Tỵ đắc cách khải ca. Còn Canh Tân (Kim) Mậu Kỷ (Thổ) Giáp Ất (Mộc) cũng chia làm 3 cặp phân phối như sau :
<!--[if !supportLists]-->a- <!--[endif]-->Canh Tân (Kim) để Khôi ở Ngọ bị khắc nhập, Việt ở Tí được sinh nhập.
<!--[if !supportLists]-->b- <!--[endif]-->Giáp Ất (mộc) thì Khôi ở Thân bị khắc nhập, Việt ở Tí được sinh nhập.
<!--[if !supportLists]-->c- <!--[endif]-->Mậu Kỷ (Thổ) Khôi ở Sửu bị Triệt và Phá Toái, Việt ở Mùi nhất là 3 tuổi Hợi, Mão, Mùi được Giải Thần và Hoa Cái phò tá.
Ngoài sứ mạng cứu khổ giải nguy Khôi Việt còn khả năng đặc sắc nâng cao những gì gặp gỡ về văn chương (Xương) nghệ thuật (Khúc) chiếm ngôi vị nguyện huân, nên đã được hàng Can trao cử nhiệm vụ vinh dự trên địa bàn như các bạn Quan, Phúc, Tứ Hóa, Lộc Tồn.
Thiết tưởng trong vũ trụ thời gian có luân lưu theo thời tiết biến dịch, nhưng không gian không bao giờ có gì nảy nở thêm hay tiêu hao mất. Nắng gắt phải có mưa lớn. Sông biển có chỗ bồi rộng tất có khúc quẹo sụp lở.
Tất cả hành tinh trên toán số, chỉ là những yếu tố dự bị trình bày lớp lang được xuất sắc còn tùy thuộc thiện chí khả năng diễn viên có chịu khó ra công đào luyện.
Xin thưa vẫn là luật bù trừ Tài Thọ.
Đảng Khôi Việt đứng trên Địa bàn.
Được cảm ơn bởi: perry
Đầu trang

ngo_ngot
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 702
Tham gia: 14:21, 03/03/11

TL: TỬ VI NGHIỆM LÝ TOÀN THƯ

Gửi bài gửi bởi ngo_ngot »

ĐỊNH Ý GÌ ĐẶT NĂM TUỔI Ở MỘ CUNG ĐỐI XUNG VỚI TAM HỢP THÁI TUẾ
Đứng trên địa bàn toán số 12 địa chi tranh đua lập thành 4 tam hợp cục. Mỗi cung trong cục đều có tính cách riêng mà đương nhân nên hiểu để hành động cho phải lý đúng cách.
Người tứ sinh nhất là ở vị trí tứ sinh có bổn phận bao dung nâng đỡ tùy theo cương (Dần Thân) hay nhu (Tỵ Hợi) mà thực thi mới đúng cách, mới bền vững lâu dài (Trường Sinh).
Người tứ chính nên rõ vai trò của mình là hiên ngang bất khuất (tí ngọ) hay không chếp nê những ti tiện (Mão Dậu) mới xứng đáng ngôi vị đàn anh (Đế Vượng) đại diện của mọi nghành.
Con người tứ mộ biểu hiện của sự tàn tạ trong tam hợp cục mà Mệnh, Thân lại cùng nằm ở vị trí Mộ cung thì dầu đương nhân là vị lương y đại danh thì sức khỏe cũng năm ngày ba tật yếu kém hơn ai, như ý thức được cuộc đời cuối cùng chỉ là một địa mà dốc tâm xây dựng chữ Thọ sẽ được lưu truyền hậu lai một vinh dự với chiếc lọng che “Hoa Cái”.
Thái Tuế đã được ghi vào cung có tên hàng chi của tuổi, vậy tại sao lại ghi năm tuổi vào cung mộ đối xứng với tam hợp Thái Tuế ?
Hai chữ Thái tuế nêu ra để ca tụng phô bày khí thế của nghĩa vụ nhất là Thân ở Thái Tuế có ý nghĩa thời gian khó nhọc (Phá Hư) đương nhân phải phấn đấu đến mức độ nào do bộ máy tiếp xúc (Thiên Mã) được bao nhiêu mã lực. Biết rằng chỉ có tam hợp của Phá Tang Môn Điếu Khách bất cứ tuổi nào đều có Mã để bồi đắp nghị lực cho ai kia cũng thế âm hay dương như Thái Tuế để tranh đua mong đem lại sự hoàn hảo một mục đích thích đáng.
Mà cũng có nhiều thứ, nào là Bạch Mã (Thân), Ô Mã (Hợi) Mã Trạng Nguyên (Dần) xích thố (Tỵ) đương nhân có đồng hành thì mọi sự cố gắng được dễ dàng còn như khắc chế phải có nhiều ít khó khăn.
Thế nhân dẫu cả Mệnh lẫn Thân đều ở Thái Tuế cũng phải phấn đấu vì là thời gian đối kháng (Phá Hư) rồi ra thành công đến mức độ nào nêu cao Thiên Mã của Vĩ nhân càng nhiều giá trị.
Vậy cái nguyên lý để năm Tuổi ở mộ cung để trình bày các mức tàn tạ của nhân sinh đến mức nào phải phấn đấu mới mong đem lại cái gì là vinh quang, không thể ỷ lại trông chờ ở sự phụ giúp hay may mắn chỉ là chừng nào thuận lợi mà thôi.
Phép toán số theo cổ thư để lại tính đại vận đặc cách cho Dương nam và Âm nữ đi thuận, còn Âm nam và Dương nữ phải đi ngược. Với tiểu hạn chỉ nói nam đi thuận nữ đi nghịch. Chỗ này thiển nghĩ cần phải thẩm duyệt lại đâu là chân lý.
Thuận hay ngược có nghĩa là thuận hay nghịch lý âm dương đã cho thấy hạn hành 10 năm một rất trúng cách lại tiểu hạn hằng năm bị nghi ngờ như sách bị tam sao thất bản hay vì tư kỳ mà làm lạc hướng đi năm tuổi để nằm ở tứ một đối xung Thái Tuế có ý nghĩa để dành sự thông đạt cho riêng môn phái.
Người Dương nam đi thuận và người Dương nữ đi nghịch là thuận lý cho người Âm nam và Âm nữ cũng theo như trên cho thấy trên địa bàn toán số trình diễn sai lạc mất hẳn hướng đi.
Căn cứ ở nghịch lý âm dương theo tư thế của 4 cách : Thái Tuế, Tuế Phá, Thiếu Dương và Thiếu Âm nên đã xếp đặt bộ 3 Đào Hoa, Thiên Không, Kiếp Sát để răn chừng ngăn cản (tương đối ) thêm Lưu Hà như có gì nặn nể hay mới về cõi thọ do hồ sơ nghiệp quả đã thanh toán.
Căn cứ vào nhiều bản toán âm nam và âm nữ thấy nhiều tiểu hạn ngỡ ngàng vì lối đi thuận nghịch lạc lõng (Nam thuận nữ nghịch)
Như 2 bàn số sau đây âm nam đi nghịch và âm nữ đi thuận rất xác thực :
<!--[if !supportLists]-->a- <!--[endif]-->Cụ Sào Nam sinh năm Đinh Mão về cõi Thọ năm Canh Thìn 74 tuổi
Tóm lại hợp lý âm dương vẫn là dương nam hay âm nữ đi thuận mà âm nam dương nữ dẫu là tiểu hạn vẫn đi nghịch mới hợp cách phối trí hung sát tinh trên bước dừng vận niên.
NGHĨA VỤ BỘ TAM MINH RA SAO MÀ THIÊN HI LẠI ĐỨNG ĐỐI DIỆN HỒNG LOAN
Bộ ba Đào Hồng Hỉ được liệt danh làm bộ tam minh như có phân sự cởi mở hoán cải tình trạng đen tối, nhất là đối với bộ Âm Dương đứng trong vị trí lạc hãm. Lý đương nhiên bộ 3 bày phải có sự liên lạc để phối hợp hành động cho được dễ dàng. Vậy Thiên Hỉ lại đứng đối diện Hồng Loan như khắt khe chống lại không cùng cộng tác hẳn là có sự bí hiểm nên khai thông minh bạch nguyên lý.
Trên 12 cung địa bàn 4 tam hợp chia nhau đứng ganh đua, thấy rằng Kim tứ Cục (Tỵ Dậu Sửu) dễ dàng lấn bước Mộc tam Cục (Hợi Mão Mùi) và Thủy nhị Cục thường trực làm khó Hỏa lục Cục (Thân Tí Thìn khắc chế Dần Ngọ Tuất). Sự thực vẫn có những then ngang làm cân phân đôi lực lượng.
Trong Kim tứ Cục thường xuyên có Phá Toái làm rời rã khả năng để cho Mộc tam Cục sánh đôi ngang ngửa, mà Thủy nhị Cục đặt nằm ở khu vực thuộc Thái Âm phải kém uy danh sáng lạn của Hỏa lục Cục thuộc Thái Dương. Hai chữ “Ngọ Môn” chiếm phần chánh nghĩa Đế quyền hơn hẳn Tí cung bá chủ.
Mỗi tuổi số cũng chia làm 4 thế đứng :
Thái Tuế là danh hiệu của tuổi đứng trong tam hợp cung của mình nhưng đầy đủ xứng đáng với trách nhiệm nên được bộ Long Phượng lộ điểm uy nghi. Với tuổi dương chủ nhận một Long ...... là đầy ý nghĩa, bằng tinh thần hào hiệp nhượng cho đối phương (xung) một Phượng coi như khen tặng cho ai kia có tư cách tranh đua (tuổi Dương chỉ có 1 Long trong tam hợp Thái Tuế) còn tuổi âm đầy đủ cả 2 (Long Phượng) vốn tính điềm đạm nhu thuận ít phô trương.
Ba thế đứng còn lại đều có những khuyết điểm cần có những lá bài phụ như kinh nhật tụng nhắc nhở vỗ về an ủi..
Đứng đầu là tam hợp Tuế Phá (Tang Môn Điếu Khách) đầy tự hào như ai Thái Tuế đồng thế Âm Dương, lẽ nào đương nhiên bó tay nhường bước. Vậy Thiên mã bộ máy bồi đắp nghị lực để đi ... hạ màn phân tách rõ ràng hắc bạch. Đây là hai thế ganh đua ngang ngửa chẳng đường chung kết. Thiên Mã chủ dành riêng cho thủ đứng trong tam hợp này.
Thiếu Dương và Thiếu Âm (Thiếu Dương Tử Phù, Phúc Đức và Thiếu âm, Long Đức, Trực Phù) là 2 thế nghịch lý âm dương với tuổi. Nhưng trên bước đường đi Thiếu Dương thường được ưu đãi trong tình trạng được sinh nhập hay khắc xuất, nên dễ khinh thường mà lạm dụng. Vì thế , cả 3 bộ Đào Hoa Thiên không Kiếp Sát đứng chận chỉ đường Tứ Đức cho đương nhân thức tỉnh tiến bước.
Còn lại Thiếu Âm trong tư thế Long Đức Trực Phù bị thua thiệt mọi lẽ, nên Hồng Loang và Thiên Hỉ chia nhau làm nghĩa vụ chia sẻ phần nào phù vân an ủi.
Ngẫm nhìn 2 vị trí của Hồng Loan và Thiên Hỉ đều đứng trong nghịch lý âm dương với tuổi và 2 sao đối xứng nhau tức có phân việc khác nhau trong hoàn cảnh phải gánh vác và tùy hoàn cảnh vẫn phải liên lạc với Đào Hoa là vai trò chủ chốt trường hợp nào cũng đứng ở tứ chính chỉ huy.
Nhận thấy rằng đối với những tuổi Dương Hồng Loan không bao giờ liên hệ với Đào Hoa đứng vào vị trí Thiếu Âm để phò trợ.
Tóm lại Hồng Loan đứng ở vị trí thiếu Âm để an ủi riêng cho tuổi Dương. Trái lại Thiên hỉ đối xứng với Hồng Loan để phò trợ riêng cho tuổi âm cung ở trường hợp Thiếu Âm. Đầy đủ ý nghĩa Hông Loan nhắn nhủ người Dưong bị hãm vào thế âm nhưng đừng quên chân bản ngã kiên nhẫn rồi cũng được dự phần sáng tỏ. Với Thiên Hỉ khuyên bảo đương nhân vốn người hiền lương thì hoàn cảnh nào cũng gửi cho được hòa nhã vui vẻ.
Bằng ở 4 yếu tố tinh thần Long Phượng Thiên Mã Thiên Không và Hồng Hỉ phân phối nhân sih những gì chánh đáng, nghị lực gắng công, răn chừng lạm dụng và khuyên nhủ an ủi trường hợp chẳng may.
Với bộ ba Đào Hồng Hỉ nghĩa vụ đặt vào hoàn cảnh nghịch lý âm dương, giao phó Đào Hoa ngôi vị tứ chính để có sức quyến rũ tham vọng mãnh liệt xếp vào thế Thiếu Dương vĩnh viễn, bị kẹp cứng bằng lưỡi hái Kiếp Sát càng thêm manh mối. Đôi khi quá nguy hiểm đủ mặt cả Lưu hà (1cặp Thiên Hà Địa sát) thời gian coi như gần mộ địa hầu gần hết danh nhân đều được lấy đó làm thời gian chót mãn số(1).
Hồng Loan vốn nghiêm trang đứng trong cảnh Thiếu Âm tô điểm riêng cho tuổi Dương không nên thiếu khí phách. Trái lại Thiên Hỉ vốn tính vui vẻ tươi hiền dịu được trao điều khiển tuổi Âm sao cho thùy mị hợp nết, vì thế Hồng Loan và Thiên Hỉ phải đối diện để làm việc nghĩa trong hoàn cảnh Thiếu Âm, nhưng khác phái Âm Dương
<!--[if !supportLists]-->(1) <!--[endif]-->a- Cụ Phan Thanh Giản sanh năm 1796 (Dương nam Bính Thìn) chết năm 1867 Đinh Mão
c- Bà Đoàn thị Điểm sanh năm 1705 (Âm nữ Ất Dậu) chết năm 1748 Mậu Thìn
a, c Dương nam Âm nữ đi thuận đại cung như tiểu hạn.
b,d Âm nam Dương nữ đại tiểu hạn đều đi nghịch
NGHỊCH LÝ ÂM DƯƠNG LÀ MỨC CÂN PHÂN CÔNG ĐỨC XÂY DỰNG Và LỖI LẦM DỤC VỌNG
Toán số mạng là một nhánh của dịch lý mà căn bản chính của dịch lý là Âm Dương. Thuận lý âm dương tức là điều hòa thông suốt . Nghịch lý âm dương cho thấy sự thua sút không phù hợp với tính cách như âm nam dương nữ hẳn phải có sự thiệt thòi trong muôn một so với dương nam âm nữ.
Nhìn vào địa bàn toán số 14 chính tinh chia ra hai phái âm dương, xuống dần tứ tượng, bên dương 2 bộ Tử Phủ và Phá Tham không ngừng tranh đua. Trái lại 6 sao bên âm có tinh thần thống nhất. Nhờ ở cặp Âm Dương Thiên Lương, nêu cao đạo lý để Cự môn theo dõi Đồng Cơ (ảnh hưởng tinh thần của bên Tử Phủ Phá Tham) lên tiếng phê bình tức là Âm Dương thực thi luôn luôn dị biệt. Vậy khi gặp nghịch lý phải có trái cảnh không hợp cách.Vì thế toán số trình bày thêm Nhị hợp để nhắn nhủ sự thiệt hơn giữa tư cách chánh bổn nên thêm tinh thần suy tính tùy lúc nhu kiện, củng như lúc ba trường hợp cho giữa 3 bộ cũng phải e dè:
<!--[if !supportLists]-->a. <!--[endif]-->Tử Vi bị Cự Môn: uy thế phải e dè bình phê
<!--[if !supportLists]-->b. <!--[endif]-->Thiên Tướng bị Thiên Cơ: cương quyết phải tùy theo tổ chức
<!--[if !supportLists]-->c. <!--[endif]-->Thất Sát bị Thái Dương: nhẹ dạ phải sáng suốt
Trường hợp nghịch lý âm dương thường xuyên cho thấy có mặt các phúc tinh Quan, Phúc, Thiến Ất, Thiên Đức, Nguyệt Đức, Long Đức và Phúc Đức. Tại sao vậy?
Với ba vị Quan Phúc và Thiên Ất luôn luôn che đậy cho ai kia ở ngoài hoàn cảnh đáng cứu vớt, nhất là Thiên Ất mách bảo các thứ nhân dám thọ lãnh gánh vác những vai trò quan hệ phần trưởng từ gia đình đến xã hội cũng như trách vụ của là Ất thay mặt cho Giáp làm bổn phận. Còn Tứ Đức là con đường rõ ràng vạch ra cho ai trong tình trạng Thiên Không, Kiếp Sát, Đào Hoa nên sớm tỉnh ngộ dầu chậm củng hy vọng được phần nào nâng đỡ.
Đứng đầu một đoàn sát tinh trong tình trạng nghịch lý âm dương là Hà – Sát do Can Chi phối hợp cắt đặt bởi Đào Hoa múa gậy vườn hoang Thiên Không phải phúc trình. Trường hợp vắng bóng Lưu Hà là hoàn cảnh suy bại nhưng chính đích cho Giáp Dần Ngọ Tuất, Ất Hợi Mão Mùi, Canh Thân Tí Thìn và Tân Tỵ Dậu Sửu. Tiếp theo Không Kiếp hiên ngang không cần biết đến tuổi nào dầu là Thái Tuế, khinh mạng đứng theo giờ nghịch lý âm dương ( giờ Tí ở âm, giờ Sửu ở Dương …) làm cho điêu đứng như sinh bất phùng thời.
Rồi đến Kình Đà rất nghiêm khắc với sự lâm dụng của bốn tuổi Ất Giáp Canh Tân, dùng nghịch lý để canh chừng. Những người Bính Đinh Dần Ngọ Tuất và Nhâm Thân Tí Thìn nên giữ phần mình khiêm nhượng vì Kình ở Tí Ngọ rất kiêu hùng rước lấy nghiệp quả.
Còn lại Hỏa Linh rất âm thầm đúng theo hàng Chi gây bất hạnh như vi trùng nhập mạch máu lần bước theo:
1/ Tuổi Dần Ngọ Tuất Hỏa cục, Hỏa Linh phát khởi ở âm cung
2/ Tuổi Thân Tí Thìn Thủy cục, Hỏa Linh phát khởi ở dương cung
3/ Còn lại 6 tuổi Âm Tỵ Dậu Sửu và Hợi Mão Mùi: Hỏa Linh xâm nhập khởi ở cả hai mặt âm dương như Quan Phúc đã coi chừng 5 tuổi Bính Đinh Canh Kỷ Quý ( trường hợp châm chế).
Hai nhóm Phúc tinh và Sát tinh phận sự mỗi bên mỗi khác, cũng như Long Phương Tả Hữu, Xương Khúc theo năm tháng và giờ khởi từ hai cung dương (Thìn Tuất) mà hợp cách âm dương trên phương diện thời gian, Thìn thuộc Thái Dương Ất thuộc Thái Âm, để tô điểm phẩm cách hạng bậc cao đẳng nhân sinh xuất sắc.
Mỗi Hoa giáp thành lập cho thấy hàng Can đứng trên làm gốc, Chi đứng sau là phụ . Thời gian biến dịch mỗi khiCan được sinh nhập hay khắc xuất, tương đối thấy có phần nào lành mạnh, trái lại khi bị sinh xuất hay khắc nhập đều có vẻ khó khăn đều là con số lẻ 5 và 9 (+) 3 và 7 ( xấu) tức là dương gặp dương và âm gặp âm, không hề âm dương nghịch lý là tại sao vậy?
- Hàng Can tuy là gốc nhưng nạp âm mới là toàn thể. Mỗi khi toàn thể đắc thắng ( nạp âm được sinh nhập) hàng Can có bị suy bại củng không đến nỗi mệnh hệ nào. Trong 60 Hoa giáp, luôn luôn mỗi hành có hai hoa liên tiếp tức là dương và âm như Giáp Tí ( dương Kim)
là có Ất Sửu n( Âm Kim). Thời gian thiên khắc địa xung không phải chỉ đề phòng có một âm hay dương và nạp âm ở tình trạng sinh hay khắc, nhập hay xuất.
- Bằng 4 yếu tố năm, tháng, ngày, giờ lập thành chỉ có trên nửa triệu bản số khác nhau, sao vẫn thấy mổi cá nhân một mệnh hệ không ai giống ai?
- Những hành tinh diễn chuyển trên địa bàn toán số cho thấy những điểm phác họa của một tư thế. Riêng Phúc tinh và Sát tinh đứng ở hai bên đòn cân so sánh độ lượng : Thọ kia đã xây dựng đến mức độ nào thì Tài nọ sẽ đền đáp sao cho ngang bằng xứng đáng.
Vậy dương nhân phải biết cách nào thực thi?
- Nhân số có âm có dương: Thân luôn luôn liên hệ với Mệnh ở Mệnh, Phúc, Quan, Di, Tài và Phối. Bản tính của dương là cường kiện chu đáo, người dương phải hành động sao cho hợp ngoại giao bề rộng chữ Thọ mới ở nội tộc ( Phúc) nghề nghiệp (Quan) ngoại giới (Di), sự nghiệp ( Tài) và ngoại tộc ( Phối). Người âm thì buông thả dễ dãi nhu thuận nên chu đáo trong nội gia ( hiếu cha mẹ) tài sản ( Điền) phụ thuộc ( Nô) anh em ( Bào) con ( Tử) và Tai (Ách). Sự khác biệt ở chỗ là người khôn kẻ dại, người làm nhiều kẻ làm ít, trong mức độ nào đó cũng được Quan Phúc Thiên Ất luận đàm cùng Thương Sứ sau đó giao kết cuộc cho Sát tinh thừa hành nghiêm lệnh.
Công lao xây dựng nhân luân để cho loài người được hãnh diện liệt vào hàng đầu các sinh vật xứng đáng một năng lực của Tam Tài hiên ngang trong vũ trụ. Phải chăng cũng chỉ một thứ Tài Thọ mà tiền nhân trồng trọt từ Thái cổ để sinh thọ hưởng nếu ngày nay không biết ra công xới bón.
Được cảm ơn bởi: perry
Đầu trang

ngo_ngot
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 702
Tham gia: 14:21, 03/03/11

TL: TỬ VI NGHIỆM LÝ TOÀN THƯ

Gửi bài gửi bởi ngo_ngot »

ĐÂU LÀ NGUYÊN NHÂN ĐÃ CHẤP NHẬN ĐỂ TẢ HỮU XƯƠNG KHÚC ĐƯỢC NHẬP ĐOÀN ĐIỀU ĐỘNG TẢ HỮU – XƯƠNG KHÚC
Tứ Hóa là những hình thể đa dạng chuyển dịch của 10 hàng Can để quyết định cho những hành tinh trình diễn. Những hành tinh phải có những nghệ thuật riêng biệt thực thi cho trúng cách vai trò cắt cử.
Ngắm trong hàng 14 chính tinh thấy có 3 sao từ chối thi thố khả năng nên vắng mặt như:
Thiên Phủ thì Khoa Quyền Lộc nào sánh kịp, và Kỵ cũng thể giảm uy danh.
Thiên tướng chỉ biết có bổn phận với tấm lòng trung hậu luôn luôn chịu dưới quyền Thiên Phủ để chung lo công việc (thường xuyên trong tam hợp cùng Thiên Phủ).
Thất Sát bổn tánh nhẹ dạ cả tin nên e dè ảnh hưởng sáng suốt của Thiên Phủ (Thái Dương nhị hợp của Thiên Phủ cũng là lục hại của Thất Sát).
Vậy chỉ còn 11 sao đối với thập can, tính trung bình mỗi sao phải thủ diễn 3 hay 4 lần. Thực trạng những sao có uy tín như Tử Vi, Phá Quân, Liêm Trinh, mỗi sao chỉ có 2 lần xuất hiện tượng trưng cho đến Thiên Lương cũng chỉ 3 lần phơi bày tư cách.
Biết rằng bộ Âm Dương phải làm việc nhiều nhất để nêu tính cách lợi hại khẳng định quy luật âm dương làm con đường chính.
Thái Dương trình diễn trong 3 tuổi Giáp Canh Tân phơi bày cái thế dương cường nhất quyết.
Giáp (Liêm Phá Vũ Dương): dồn tất cả Khoa Quyền Lộc vào thế dương lưỡng nghi (Tử Phủ Phá Tham – Dương; Cự Nhật Đồng Lương – Âm) đáo hạn nghịch địa cùng Thái Dương Hóa Kỵ là cảnh vực sâu đen tối.
Canh (Nhật Vũ Đồng Âm) phô trương tam hóa liên châu hợp cách dương đắc Quyền bị kẹp Lộc thuộc Thái Dương ở nghịch địa âm, cho thấy nền hưng vượng không được lâu bền.
Tân thuộc Âm mà Thái Dương cầm quyền tức là thế lấn nghịch cảnh dầu cho nghệ thuật thiện mỹ đến đâu cũng vẫn khó khăn cho uy tín của 1 vị Đế quân văn học (Xương ngộ Kỵ).
Thái Âm xuất hiện những 5 lần trong những tuổi Ất Đinh Mậu Canh và Quý đủ vai thủ diễn Khoa (Quý) Quyền (Mậu) Lộc (Đinh) và Kỵ (Ất và Canh) nhắn nhủ người đời đường lối nhu diệu tất được trời quang gió mát.
Những sao còn lại không thể ôm quá nhiều, e ngại không đủ tài năng thi thố nghệ thuật, vậy phải tuyển thêm đào kép trong hàng ngũ đàn em (trung tinh) có hy vọng phát triển bắt đầu xuất phát từ Thìn (Dương), Tuất (Âm) hợp lý âm dương (Tí ở Thìn Tuất, Sửu ở Tỵ Dậu) có thể đủ tài trình diễn không ngại ngùng sơ sót.
Tại sao chỉ tuyển dụng 2 bộ Tả Hữu - Xương Khúc mà loại bỏ bộ Long Phượng?
Xin thưa là bộ Long Phượng là trung tinh đứng ra để phơi bày tư thế quý cách của Thái Tuế, ngôi vị thượng đẳng cao đẹp, nên bộ Long Phượng thường trực đứng trong tam hợp để làm phận sự tô điểm chiếc ngai vàng uy nghi, có lọng che (Hoa Cái). Tả Hữu – Xương Khúc tuy chỉ là đại diện cho tháng và giờ, nhưng bộ sao này đều có tùy tùng phụ thuộc Thai Tọa (1) và Quang Quý (2) chạy trong quỹ đạo của mình đề cao minh chủ đủ tài năng xuất chúng điều khiển được chữ “Khoa” trong mọi lãnh vực và nhắn nhủ người đời dẫn dắt cuộc sống ở hoàn cảnh bị Kỵ, không bao giờ mơ tưởng tham gia Quyền Lộc, điển hình như:
Xương thủ vai Khoa trong tuổi Bính để bào chữa cho giá trị Liêm Trinh bị Kỵ.
Khúc trong tuổi Tân ra tay cứu vãn ô danh cho thấy (Xương thường trực đề cao bằng Thai Phụ, Phong Cáo xuất phát từ Khúc) nhắn nhủ ai kia Quyền Lộc không hợp pháp chỉ là phù vân.
Tả Hữu đã khoác áo Khoa thực thi rất tài danh trong 2 tuổi Mậu và Nhâm là 2 tuổi đầy dẫy khó khăn trong 5 tuổi dương (Giáp Bính Mậu Canh và Nhâm) tột độ như Mậu Dần Ngọ Tuất, Thân Tí Thìn có Kình Dương tứ chính sánh vai Thái Tuế.
1. Tuổi Mậu có Tham Lang ôm Lộc, Thái Âm nắm quyền, Thiên Cơ bị Kỵ. Hữu Bật nơi đấy làm sao quân bình được 2 phe Quyền Lộc trong thế lưỡng nghi, rồi lại cân phân giữa Quyền Lộc với Kỵ phụ lực cho thế hiên ngang Kình Dương ở Ngọ, Tuất cả một giấc mơ mộng tưởng.
2. Nhâm đắc Thiên Lương giữ gìn Lộc, Tử Vi chấp chánh Quyền đều hòa trong thế lưỡng nghi, Tả Phù có phần dễ dàng đủ tài an ủi Vũ Khúc bị Kỵ. Nhưng Kình Dương ở Tí có phần sâu sắc bén nhọn hơn ở Ngọ. Tả Phù phải đủ khả năng như đệ nhị Thiên Phủ mới mong giải quyết êm đẹp.
Kình Dương Tí Ngọ với 6 tuổi Dần Ngọ Tuất, Thân Tí Thìn đều phát huy biệt tài hơn người, tất lòng tự hào không thể không cao, sẽ hứng chịu phần nào thừa trừ nguy hiểm.
Tiếc thay công nhiều quả thiếu.
Hai bộ Tả Hữu - Xương Khúc được đầy đủ tín nhiệm được nhập đoàn chỉ huy Tứ Hóa do thực lực uy danh có trong quỹ đạo của mình một chi nhóm phụ thuộc làm sáng tỏ khả năng cao quý với trách nhiệm một trong 4 thành phần chính của toán số mạng học:

<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->Đại diện năm: Thái Tuế
<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->Đại diện tháng: Tả Hữu
<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->Đại diện ngày: Chính tinh
<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->Đại diện giờ: Xương Khúc
<!--[if !supportLists]-->(1) <!--[endif]-->Giá trị ngôi tam công, bát trụ của 1 triều đại
<!--[if !supportLists]-->(2) <!--[endif]-->Xứng đáng ghi trong đề danh bảo vật
MUỐN ĐỐI CHIẾU DƯƠNG LỊCH VÀ ÂM LỊCH
Biết rằng âm lịch diễn biến cứ theo 60 hoa giáp liên hồi luân chuyển từ cổ xưa đến nay, còn dương lịch từ lúc xuất hiện đến nay, cứ chồng chất lên thành số, cứ mỗi ngày mỗi lớn. Đem khép vào âm lịch phải chia ra làm hai giai đoạn: Trước Công Nguyên và Công Nguyên. Ở giai đoạn giữa này thấy 6 năm như sau:
Mậu Ngọ: năm thứ 3 trước Công Nguyên
Kỷ Mùi: năm thứ 2 trước Công Nguyên
Canh Thân : năm thứ 1 trước Công Nguyên
Tân Dậu: năm thứ 1 khởi đầu Công Nguyên
Nhâm Tuất: năm thứ 2 Công Nguyên
Quý Hợi: năm thứ 3 Công Nguyên
Nhìn vào 6 năm trên của Âm lịch, từ Mậu Ngọ đến Quý Hợi tuần tự Can Chi của 6 năm cuối cùng của 60 hoa giáp. Vậy 3 năm đầu của Công Nguyên là 3 năm cuối của 60 hoa giáp, vậy muốn đối chiếu dương và âm lịch phải chia làm 2 giai đoạn và nguyên tắc áp dụng phải khác nhau.
1. Trước Công Nguyên:
Lấy tuổi sanh năm dương lịch chia cho 60, còn lại bao nhiêu phân tánh như sau:
10 thuộc Tân Hợi
20 thuộc Tân Sửu
30 thuộc Tân Mão
40 thuộc Tân Tị
50 thuộc Tân Mùi
Vì năm 1 thuộc Công Nguyên là Canh Thân đếm ngược lại 10 là Tân Hợi, 20 là Tân Sửu…còn hàng đơn vị đếm ngay trước cung hàng chục đi ngược lại đến số đơn vị, còn thừa là năm tuổi âm lịch.
Ví dụ: như năm 453 trước Công Nguyên số còn lại là 33, thì 10 là Tân Hợi, 20 là Tân Sửu, 30 là Tân Mão. Số đơn vị 1 là Canh Dần, 2 là Kỷ Sửu, 3 là Mậu Tý – 453 trước Công Nguyên.
Khổng Phu Tử sinh 551 trước Công Nguyên thời Trung cổ, lấy 551 chia 60 được 11, số 1 đơn vị đứng trước 10 là Canh Tuất – 551 trước Công Nguyên.
2. Sau Công Nguyên
Bởi 3 năm đầu của Công Nguyên là 3 năm cuối của 60 hoa giáp, vậy phải lấy năm dương lịch trừ ngay với 3. Còn lại chia cho 60, còn dư bao nhiêu thì phân tánh như sau:
10 thuộc Giáp Tý
20 thuộc Giáp Tuất
30 thuộc Giáp Thân
40 thuộc Giáp Ngọ
Hàng đơn vị 7 của 10 năm thuộc Giáp Thìn:
01 là Giáp Thìn
02 là Ất Tị
03 là Bính Ngọ
04 là Đinh Mùi
05 là Mậu Thân
06 là Kỷ Dậu
07 là Canh Tuất – 1910 dương lịch (ghi là “08 là Canh Tuất – 1910 dương lịch” nhưng có lẽ “07…” chính xác hơn)
NGUYÊN TẮC CHUNG
1. Trước Công Nguyên: sau khi chia cho 60, số còn lại, hàng chục bắt đầu từ Hợi tính là Tân Hợi, đi thuận sang Sửu (20), Mão (30),…hàng đơn vị đứng ngay trên đi nghịch lại.
2. Sau Công Nguyên: sau khi trừ cho 3 và chia cho 60, hàng chục bắt đầu Giáp Tý đi nghịch (10), Giáp Tuất (20), Giáp Thân (30),… hàng đơn vị thuộc con Giáp nào bắt đầu đi thuận lại.
Sanh năm Âm lịch muốn tìm ra năm Dương lịch thì lấy số tuổi của âm lịch trừ đi 01, vì âm lịch thường tính trội hơn dương lịch 1 tuổi, sau đó lấy số năm dương lịch đang sống trừ đi số tuổi âm lịch (bớt đi 01) thì thấy số còn lại là năm sanh dương lịch như:
Tuổi Kỷ Mão ở năm 1984 là 46 tuổi, trừ bớt đi 1 còn lại 45 tức là 1984 trừ 45 còn lại 1939 là Kỷ Mão.
Thiết tưởng, nếu cứ nói 60 hoa giáp diễn đi trình lại cứ thế thật quá nông cạn, còn đâu sự dị biệt. Xin nói đó chỉ là 1 phần của nguyên đại bao gồm 3 giai đoạn: Thượng Nguyên – Trung Nguyên – Hạ Nguyên.
Tất cả có 180 năm. Mỗi đại nguyên chỉ là 1/6 của một địa cuộc hoa giáp: 180x6 = 1080 năm. Vậy 6 hoa giáp có 6 x 180 = 6480 năm.
Vậy 1 thời gian dài từ Thái Cổ cho đến sau này biêt bao đổi thay khác nhau. Bằng ở Thể điển hình “Can - Chi” thực dụng, lấy âm dương ngũ hành chế hóa, chuyển diễn thành muôn hình vạn trạng. Đó mới là căn bản chính của Dịch học toán học.
1- Thái cực
2- Lưỡng nghi
3- Tam tài
4- Tứ tượng
5- Ngũ hành
VÀI QUAN ĐIỂM VỀ : LIÊM TRINH – THAM LANG
1. Hai chính diệu Liêm Tham (chỉ ở 2 cung Tị và Hợi) gặp nhau là có ý nghĩa 2 bộ tam giác âm dương Sát Phá Tham gặp Liêm Tử Vũ hội nhập nhau (Tử Phá ở Sửu Mùi, điểm tụ của âm dương, nhưng lại là điểm tán của 2 sao Nhật Nguyệt) mà bộ Sát Phá Tham (dương) gặp Liêm Tử Vũ (âm) thì luôn luôn gây ra hãm địa ở 3 cung có 6 sao này đụng độ nhau. Tất yếu điềm lành thì ít, điềm xấu thì nhiều. Và chăng cơ cấu chung quanh Liêm Tham cũng xấu: cung Bào là Thái Âm đóng cung dương Thìn Tuất (tệ nhất là Thái Âm ở Thìn), rồi cung Phúc lục hình cung Ách (mà Thân cư Phúc lại càng bá thở !). Cung Tài ôm gọn 2 ông Tử Phá chán ơi là chán.
2. Tuy nhiên nếu Liêm Tham lại thuộc tuổi Tị-Dậu-Sửu hay tuổi Hợi-Mão-Mùi (để có vòng Thái Tuế ở cung Mệnh) thì chưa chắc đã xấu gì? Lại trở thành phán quan (nếu ôm vòng Thái Tuế!) hay trở thành lực sỹ (hâm mộ thể thao là yếu nhất) một khi Liêm Tham ở mệnh lại thuộc vòng Tuế Phá - Thiên Mã.
3. Hình ngục nan đào là khi đương số sinh giờ Tý (tức là Ách có Thiên Hình) hay giờ Tỵ (mệnh có Thiên Hình) hoặc giả đương số sinh vào các tháng âm thì Không Kiếp (nhất là Địa Không) luôn bám trụ ở các cung mạnh (ảnh hưởng trực tiếp tới đương số) như: Mệnh-Quan-Tài và Phúc-Di-Phối (nếu như Thân cư ở các cung này Thân cư Phúc, Thân cư Di, Thân cư Phối)
4. Còn chỉ luận chung mạng Hỏa (hay mạng Thủy nếu Liêm Tham ở Hợi) thì có Liêm Tham ở mệnh (Tị Hợi) không sợ gì mấy về tù tội, điều này mơ hồ lắm. Tất cả phải bám vào cơ cấu của tinh đẩu trong lá số (như 1 bàn cờ thế đã bày ra) và luôn luôn quan sát 3 vòng chính: Tràng Sinh – Thái Tuế – Lộc Tồn, được coi như xương sống của lá số Tử vi. Một khi Liêm Tham đã có đủ 3 vòng này hội nhập (vòng Tràng Sinh chỉ có Kim cục và Mộc cục) thì lo gì hình ngục nan đào?.
5. Việc luận thêm Tuần Triệt và Hóa Kỵ đóng thêm vào cung của Liêm Tham vẫn chỉ là cách coi Tử vi trên cơ chế “Vocabulary” chứ chưa có cú pháp văn phạm gì cả thì làm sao mà sáng tỏ được.
Vậy chừng nào mà người nghiên cứu Tử vi quên cái cơ cấu ổn định trong từng lá số thì vai trò của các nhà tử vi gia chuyên coi sao (tinh đẩu) còn đất dụng võ và tử vi còn…mơ hồ ! Có thêm Tuần Triệt và Hóa Kỵ ở Liêm Tham - hưởng trực tiếp tới đương số) như: ̀ Tý (́-Thiên mãặpnhau.chỉ là thêm gia vị cho món ăn,còn món ăn này ngon hay dở thì phải luận tới các sự liên hệ vào các cơ cấu tinh đẩu trong lá số tử vi nữa.
Được cảm ơn bởi: perry
Đầu trang

ngo_ngot
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 702
Tham gia: 14:21, 03/03/11

TL: TỬ VI NGHIỆM LÝ TOÀN THƯ

Gửi bài gửi bởi ngo_ngot »

KỸ THUẬT ỔN ĐỊNH CỦA VÀI TINH ĐẨU TRONG KHOA TỬ VI
A. Cách an vĩnh viễn của Văn Xương và Tả Phù:
Theo sách vở xưa thì tinh đẩu Văn Xương an theo giờ, còn Tả Phù an theo tháng sinh, độc đáo là ở chỗ ấy:
<!--[if !supportLists]-->1. <!--[endif]-->An sao Văn Xương:
Sinh tháng giêng, an Văn Xương ở cung Tài Bạch
Sinh tháng hai, an Văn Xương ở cung Ách
Sinh tháng ba, an Văn Xương ở cung Di
Sinh tháng tư, an Văn Xương ở cung Nô
Sinh tháng năm, an Văn Xương ở cung Quan
Sinh tháng sáu, an Văn Xương ở cung Điền
Sinh tháng bảy, an Văn Xương ở cung Phúc
Sinh tháng tám, an Văn Xương ở cung Phụ mẫu
Sinh tháng chín, an Văn Xương ở cung Mệnh
Sinh tháng mười, an Văn Xương ở cung Bào
Sinh tháng mười một, an Văn Xương ở cung Phối
Sinh tháng mười hai, an Văn Xương ở cung Tử tức
<!--[if !supportLists]-->2. <!--[endif]-->An sao Tả Phù:
Sinh giờ Tý, Tả Phù ở cung Phúc Đức
Sinh giờ Sửu, Tả Phù ở cung Điền
Sinh giờ Dần, Tả Phù ở cung Quan
Sinh giờ Mão, Tả Phù ở cung Nô
Sinh giờ Thìn, Tả Phù ở cung Di
Sinh giờ Tị, Tả Phù ở cung Ách
Sinh giờ Ngọ, Tả Phù ở cung Tài
Sinh giờ Mùi, Tả Phù ở cung Tử
Sinh giờ Thân, Tả Phù ở cung Phối
Sinh giờ Dậu, Tả Phù ở cung Bào
Sinh giờ Tuất, Tả Phù ở cung Mệnh
Sinh giờ Hợi, Tả Phù ở cung Phụ Mẫu
<!--[if !supportLists]-->3. <!--[endif]-->Sao Văn Khúc thì căn cứ vào vị trí của sao Văn Xương mà di chuyển theo luật tán ở Thìn Tuất, tụ ở Sửu Mùi.
<!--[if !supportLists]-->4. <!--[endif]-->Sao Hữu Bật cũng vậy, nghĩa là theo luật tán với Tả Phù ở Thìn Tuất, và tụ với Tả Phù ở Sửu Mùi.
Sự liên quan của sao Thiên Hình với cung an Thân:
Thiên Hình với cung an Thân (cùng căn cứ vào giờ sinh) có sự liên quan và rõ ràng đây là dấu ấn của mỗi hành động của ra tạo ra. Như chúng ta đã biết Thân là hành động còn Thiên Hình là sự phán xét, kết cấu với nhau như bóng với hình:
Thân cư Mệnh thì Thiên Hình ở Ách hay Phụ Mẫu
Thân cư Quan thì Thiên Hình ở Tử hay Điền
Thân cư Tài thì Thiên Hình ở Bào hay Nô
Thân cư Di thì Thiên Hình ở Phối hay Quan lộc
Thân cư Phúc thì Thiên Hình ở Tài hay Phúc.
Theo sách cổ thì an Thiên Hình theo tháng sinh nhưng nay học phái Thiên Lương lại chỉ căn cứ vào giờ sinh (điều này rõ ràng là nghiệm lý) mà phán xét. Thiên Hình nằm ở cung nào, trong số 12 cung liên hệ chung thân với cuộc đời của đương nhân. Bây giờ lại tìm ra cái liên hệ ổn định giữa cung an Thân với Thiên Hình như vừa nêu, rõ ràng có nhiều điều hay lạ. Lại nữa, những cung Thiên Hình đóng luôn luôn ở thế xung đối (không bao giờ khác được) như Ách với Phụ mẫu (khi Thân cư Mệnh), Tài Bạch với Phúc Đức (khi Thân cư Phúc), điều này giờ sinh đóng vai trò quyết định rất quyết liệt, chẳng hạn sinh giờ Sửu thì Thiên Hình ở Tài Bạch, mà sinh giờ Mùi thì Thiên Hình ở Phúc Đức (dù rằng cả hai giờ này đều là Thân cư Phúc). Các mô hình khác cũng vậy cả: sinh giờ Tý thì Thiên Hình ở cung Phụ Mẫu, còn sinh giờ Ngọ thì Thiên Hình chạy sang Ách cung (là cung xung đối) dù cả hai đều ở thế “Mệnh Thân đồng cung”. Đây là nguyên lý nhị nguyên của Triết học biện chứng, bao giờ cũng vậy, thời cùng 1 hiện tượng (Thân cư nào đó) nhưng có hai bản chất trái hẳn nhau (Thiên Hình đóng ở 2 cung xung đối nhau) thế nên cuộc đời con người bao giờ cũng bất ngờ (hay gọi là ngẫu nhiên), ta tưởng như vậy là do 1 tha (thế) lực chi phối ? Không phải vậy đâu! Cái gọi là sự nghiệp đời ta chẳng qua là do cả 1 quá trình hành động của ta mà thôi! Chúng ta không nên tin có 1 tha lực (hay còn gọi là thần thánh gì đó) nào, bắt ta làm nô lệ cho một số phận (chung thân bị an bài sắp đặt trước), tất cả không có gì ngẫu nhiên thần bí đâu: chỉ có tất nhiên mà mỗi bản thân ta phải gánh chịu hậu quả mà ta đã làm. Vậy làm sao mà khám phá ra những dự án phác đồ một đời người ? Chỉ có phác đồ trong lá số mà khoa tử vi họ nổ lực kín đáo diễn tả ra. Người này Thân cư Quan mà Thiên Hình ở Điền, còn Thân cư Quan mà Thiên Hình ở Tử Tức? Hẳn nhiên 2 cuộc đời này sẽ không thể giống nhau (dù rằng cùng đồng dạng Thân cư Quan ! ) cái yếu tố thời gian nhỏ bé lúc sinh ra (giờ Dần hay Thân) đã giúp ta dự kiến trước khả năng sẽ phải đương đầu (mất con hay phải chịu thiệt hại nhà đất, chẳng hạn) mà đương nhân tự do chọn lựa cách xử thế trong quá trình làm việc công ích xã hội (Quan Lộc).
TỬ VI THỜI LÝ HỌC
Tử vi là một học khoa cổ đại của triết học phương Đông nhằm giúp cho kẻ sỹ xưa và trí thức ngày nay, biết phép xuất sử ở đời, sống với tha nhân (trong quần thể xã hội) sao êm đẹp và tiến bộ chung. Do đó học phái Thiên Lương chúng tôi mạnh dạn đặt tên cho Tử vi là “Tử vi thời Lý học” nghĩa là môn học nghiên cứu thêm chiều thứ tư (trong hình học không gian chỉ có 3 chiều) là thời gian, đã ảnh hưởng đến chuổi dài sinh sống của sinh vật nói chung và của con người nói riêng như thế nào? Nói cách khác thì khoa “Tử vi thời Lý học” nhằm xem xét cấu trúc thời gian và các diễn biến sự sống của con người, kể cả các ảnh hưỡng của các yếu tố ngoài môi. Chứ tuyệt nhiên, không bao giờ xem Tử vi là môn thần bí (mê tín dị đoan) để cho một số người lợi dụng hầu cố tình lòe bịp thiên hạ để trục lợi, nói năng bậy bạ, hủ hóa một ngành học có tính nhân văn, đạo đức. Cụ thể hơn nữa, học thuyết âm dương hình thành một cách sinh động (nhờ yếu tố tác động mà phạm trù âm dương trở thành dịch động uyên áo) nhất trong khoa Tử vi. Âm và Dương đối lập nhau (là tính thời gian) để sự vật không ngừng vận động (phát sinh, phát triển và tiêu vong). Lý học phương Đông là như vậy đấy và khoa Tử vi là cố gắng của người xưa (tuy chưa hoàn chỉnh) giải thích dòng sống có quy luật của mỗi con người một cách tổng thể (nghĩa là người xưa tìm hiểu thiên nhiên để sống thuận lý với thiên nhiên). Chứ khoa Tử vi thời Lý học không tin có định mệnh sắp đặt trước của tha lực thần quyền nào cả. Con người là một vi thể của tạo vật, có những quy luật ràng buộc (một cách tinh diệu phức tạp) như những sinh vật khác nhưng không phải là con người nô lệ cho những quy luật sinh học ấy. Trình độ hiểu Tử vi của một số lớn người còn nặng nề về vị trí (lợi ích vật chất riêng tư, cầu tài, cầu danh) nên để bị bọn người xấu (buôn Thần bán Thánh lạc hậu) lợi dụng, hốt bạc, chứ đã mấy ai chịu nghiệm lý cái đạo sống đầy nhân bản tính trong lá số ?
Thập kỷ cuối của thế kỷ 20 này, do công trình gian khổ của 2 nhà bác học Halberg và Renaberg mà khoa Thời sinh học (chronobylogic) ra đời, nhằm khám phá thêm những qui luật sinh học bấy lâu chi phối sự sống của muôn loài. Bốn thông số Toán học trong khoa Thời sinh học là : chu kỳ T, biên độ A, Thông số …… và mức điều chỉnh M đã giúp nhân loại hiểu rõ rằng: có thể con người là một hệ thống sinh học tinh diệu, hoạt động theo qui luật của các nhịp sinh học có thể giúp chúng ta xác định những giờ có năng suất cao trong sản xuất cũng như tránh được những giờ dễ bị tai nạn lao động. Tiếc thay, do hoàn cảnh và trình độ non yếu nhiều người lầm lạc về nhịp sinh học trong thiên nhiên là tha lực huyền bí, đã gieo rắc đầu óc mê tín dị đoan!
Ngôn ngữ xưa và nay có khác nhau, nhưng rõ ràng nhân loại luôn chủ động vươn lên làm chủ thiên nhiên (để mưu cầu hạnh phúc chung) thì khoa Tử vi thời Lý học có những dữ kiện (tinh đẩu hay sao) chia làm 4 nhóm thông số Toán học trong thời sinh học hiện đại:
<!--[if !supportLists]-->1. <!--[endif]-->Chu kỳ T: khoa Tử vi dùng vòng Thái tuế làm ý niệm thời gian để định mức thuận lợi hay khó khăn (từng đại vận 10 năm, tiểu vận 1 năm, tháng, ngày,…), Học phái Thiên Lương nhấn mạnh vào chu kỳ T của vận Thái Tuế Quan Phù Bạch Hổ là thời điểm tối ưu (và nghiệm lý sơ sài đã thấy hiển nhiên trong tam giác Thái Tuế Quan Phù Bạch Hổ luôn có Long Cái Phượng). Chu kỳ T trong Tử vi như vậy có 4 loại tam giác của Thái Tuế, tam giác của Tuế Phá (Mã Hư), tam giác của Thiếu Dương (có Đào Không Sát), tam giác của Thiếu Âm (có Long Đức). Với 4 tam giác vừa nêu, chỉ có 2 tam giác Thái Tuế, Tuế Phá là thuận Âm Dương với tuổi sinh, từ đây rút ra hệ luận: những ai mệnh cung ở kiểu (modèle) “tiền Cái hậu Mã hay tiền Mã hậu Cái” đều là trái Âm Dương cả (cách đóng của Thiếu Âm) không thể sáng giá…vô cớ như sách cổ Tử vi đã in bấy lâu nay.
Thông số (Acrophase): theo thuật ngữ Hi-lạp thì Akcras có nghĩa là nhiều nhất, cao nhất. Thông số trong tử vi là thời điểm có nhiều biến động nhất (hiểu theo nghĩa tốt nhiều hơn), như vậy là xét vòng Tràng sinh và 4 bộ mặt chuyên đề của 14 chính diệu (tùy theo hàng Can của tuổi sinh) tức Khoa Quyền Lộc Kỵ. Cơ bản vốn là vòng Tràng sinh trụ ở tam giác Sinh Vượng Mộ diễn tả cái hanh thông suông sẻ của lực phát triển trong mỗi lá số. Chu kỳ T thuận lợi là tam giác Thái Tuế Quan Phù Bạch Hổ nếu hội nhập được tam giác Sinh Vượng Mộ cộng thêm tam giác Bác Sỹ Quốc Ấn Tướng Quân thì chính là thông số ngon lành nhất vậy. Trong nhãn quan thời lý học này phải nghiệm lý đã không nhìn nhận công thức: mệnh Vô chính diệu đắc Tam không nhi phú quý khả kỳ. Vì rằng: đắc Tam không (Tuần Không, Địa Không và Thiên Không trong tam hợp) là đã trái âm dương (mất tính chu kỳ T thuận lợi), thì không thể phú quý khả kỳ được. Phải đổi lại dạng thông số: mệnh VCD đắc tam luân…phú quý khả kỳ được. Các thông số khác là Khoa Quyền Lộc cũng phải nằm trong cách Mệnh cung thuộc dạng Thái Tuế mới là hữu hảo (tệ lắm thì cung an Thân phải nằm trong modèle Thái Tuế có Khoa Quyền Lộc tam hợp). Một đôi khi nhà nghiên cứu Tử vi thời lý học cũng phải xem cả các “lõm tiểu cực” của nhịp sống trong dòng sống của đương nhân, tức là các tụ điểm thời gian có nhiều sự xấu, không may mắn (Suy Tuyệt Mộc Dục có thêm Hóa Kỵ và cá hung tinh khác nữa), các “lõm cực tiểu” này là hình thái thông số phản diện trong Tử vi.
Mức điều chỉnh M: cái hay lạ và cũng phong phú tính đạo đức cao thượng của con người, trong Tử vi thời lý học, là mức điều chỉnh M, điều chỉnh cân đối các dạng chu kỳ.
Thí dụ 1: Công thức Tuần Triệt tháo gỡ cho nhau (Trong đại vận Triệt gỡ cho Tuần)
Thí dụ 2: Chu kỳ Thiên Không (bị Đào Sát dằn mặt) thì cũng có quý tinh Thiên Nguyệt Đức hóa giải (nếu đương nhân chọn cái cởi bỏ, cái buộc vào người, tự do tính của đạo đức).
Thí dụ 3: Thiên Quan, Thiên Phúc đóng cung nào thì báo hiệu ở cung đó có sự xấu (đe dọa họa hại) đương nhân cần suy nghĩ mà xử lý với đời.
Thí dụ 4: tuổi Âm vốn dĩ thua sút tuổi Dương (về cái thuận lý, trong sáng, thanh khiết) nên khi gặp chu kỳ Thái tuế bao giờ cũng gặp đủ Tứ Linh – Phượng Long Cái Hổ, rõ ràng là Phượng các (có Giải thần bên cạnh) là mức điều chỉnh M trong lá số vậy. Các tinh đẩu đóng vào thông số M khá nhiều: Thiên Hình, Không Kiếp, Tả Hữu, Xương Khúc,…nói chung, là chỉ cần một trong số các dữ kiện nêu trên xuất hiện ở cung nào cũng đủ làm lệch đòn cân thuận lợi hay họa nạn rồi!
Thí dụ 5: chỉ cần biết sinh vào giờ Tý là biết ngay cung Ách có Thiên Hình, sinh giờ Tị là mệnh cung có Thiên Hình, làm mệt mỏi đương nhân không ít trong dòng sống của cuộc đời, tất nhiên chỉ về mặt sức khỏe là chính. ??? trải nghiệm lý lý thú đã tìm ra quy luật: người sinh vào tháng ??? ???, Quan, Tài, Di, Phối, Phúc bọ Địa không phá tán, gây phiền phức (chưa kể Địa Kiếp tam hợp nếu sinh vào giờ lẻ).
Tóm lại Khoa Tử vi thời Lý học là một cách nhìn xứng đáng cho Khoa cổ học Tử vi, nhằm thật sự nghiên cứu về con người trong tạo vật, chủ động đưa ý thức con người vươn lên làm chủ cuộc sống bản thân, đồng thời ích thiện với xã hội.
NHỮNG NÉT ĐẶC KHOẢN CỦA BỐN TUỔI ẤT MẬU TÂN NHÂM
Được biết mỗi hoa giáp được lập thành bằng hai chữ Can và Chi phối hiệp mệnh danh là nạp âm. MỖI chữ Can Chi có một hành riêng, nạp âm lại có một hành chung như Giáp Tí thì nạp âm thuộc kim, mà phân tách thấy chữ Giáp thuộc Mộc, chữ Tí thuộc Thủy. Vậy nạp âm là toàn bộ bao quát, Can trình bày nguồn khai thông biến dịch, CHI là phần gốc như được trình bày theo thời gian tuổi tiểu nhi: 1 tuổi ở Mệnh, 2 ở Tài, 3 ở Ách, 4 ở Phối, 5 ở Phúc, 6 ở Quan, 7 ở Nô, 8 ở Di, 9 ở Tử, 10 ở Bào, 11 ở Phụ, 12 ở Điền.
Người sanh năm Giáp Tí, năm 3 tuổi ở Ách là năm Bính Dần, chữ Giáp phải sinh xuất cho Bính (Mộc sinh Hỏa) phải hao tổn tức là Ách. Năm lên 5 tuổi ở Phúc tức là Mậu Thìn, chữ Giáp khắc xuất chữ Mậu (Mộc khắc Thổ) có hy vọng thắng lợi tức là Phúc. Năm lên 7 tuổi ở Nô tức là Canh Ngọ, chữ Giáp bị chữ Canh khắc nhập (Kim khắc Mộc) đói phải tranh đua để thua thiệt ở Nô. Năm lên 9 ở Tử tức là Nhâm Thân, chữ Giáp được chữ Nhâm sinh nhập (Thủy sinh Mộc) có nghĩa con cháu là nguồn hy vọng. Từ đó trở đi cứ những năm có số 3 như 13, 23, 33, 43 … và số 7 như 17,27,37,47 … đều phải e dè đề phòng mọi sự bất trắc, vì thế Thương Sứ được điều động tới Nô Ách để nhắc nhở người đời khoảng thời gian đó nên thận trọng, nhất là đại vận ngoài 40 ngấp nghé chữ Thọ làm sao tránh được yếu vong (1).
Trái lại những năm có các số như 15, 25, 45 … và 9 như 19, 29, 39, 49 … được hy sự may mắn. Tóm lại tốt nhất chữ 9, tốt nhất là chữ 9, tốt vừa là số 5, xấu nhất là số 7, xấu vừa là số 3. Hàng Can này chỉ phô bày nét đại, còn đắc thất phải tùy ở nạp âm diễn chuyển theo thời gian so sánh kết thúc.
<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->Vậy làm sao chỉ có 4 tuổi Ất Mậu Tân Nhâm có những nét đặc khoản khả dĩ phân biệt với 6 tuổi còn lại?
<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->Biết rằng hàng Can có nhiệm vụ quan trọng xếp đặt các hành tinh trọng yếu trên địa bàn toán số. Với 4 tuổi Ất Mậu Tân Nhâm thấy những diễn cảnh các vị Phúc tinh thường chung lưng với nhau làm việc, và củng chỉ có 4 Can này mới bày ra khu đất ”La Võng” lưới sắt gò bó người đời khó khăn vùng vẫy nơi hậu cứ kho tàng quí giá của định mệnh, mà đằng trước có lực sĩ kiêu hùng canh gác (2).
tuổi Ất Mậu Tân Nhâm đã bị Đà La tranh giật khép kín hai khu Thìn (Ất Mậu) và Tuất (Tân Nhâm) như được thất tuổi Ất cả ba vị Thiên Quan Thiên Quý và Thiên Ất quây tròn tam hợp cung Thìn. Tuổi Nhâm có Quan Phúc đứng ở Ngọ Tuất nơi Địa Võng ngó chung THIÊN Mã của Thân Tí Thìn bị Triệt, còn Thiên Ất đón đường Hà Sát. Tuổi Mậu tất cả 3 vị Thiên Ất, Thiên Phúc thường trực ở Mão Mùi để tham dự hẳn Thiên Không của người Mậu Dần Ngọ Tuất. Tuổi Tân có Thiên Ất chờ sẵn ở Dần Ngọ trông chừng Địa Võng (TUẤT) và Quan Phúc ở Dậu và Tí giúp đỡ cho Hợi Mão Mùi khỏi bị mất nghị lực (Mã bị Triệt)khách hào hoa có đủ khả năng trình bày nghệ thuật xa lánh uy quyền như bảng tứ Hóa đã mở khép 4 chữ Cự Dương Khúc Xương (tuổi Âm) –Tân – để Thái Dương chấp quyền, nghệ thuật – Khúc – đến mức độ nào cũng dễ ghi danh đế quân văn học).
Tuổi Ất có Cơ Lương Vi Nguyệt. Người tuổi Âm có Cơ Nguyệt ở Âm, hoàn cảnh Quyền Khoa nghịch địa, hẳn là một bài học kín đáo khuyên ai sống đều hơn tốt lỏi, để mang lụy trong đường lối éo le nên cả 3 vị quý nhân đều sẵn sàng nhúng tay trong trường hợp đương nhân có thiện tâm.
Tuổi Mậu có Tham Âm Bật Cơ. Tuổi dương Tham ở Dương nắm Lộc, Âm, Quyền Cơ Kỵ với sức mạnh Bật thi thố Khoa là tất cả then chốt của giấc mộng mơ hồ cho nên tất cả Quan Phúc Ất quí nhân đều cùng nhau xúm quanh nghịch địa đón cảnh suy tàn hiểm nguy.
Tuổi Nhâm có Lương Vi Phủ Vũ, cả 4 chữ nêu một cảnh thanh bình vô vị lợi, một diễn xuất thiên nhiên đặc sắc thành thực, khác hẳn 4 chữ của Giáp Liêm Phá Vũ Dương. Liêm nắm Lộc rất hay, Phá giữ Quyền rất nên thận trọng vì sao chỉ tinh thần CƠ phù hợp với Vũ để dễ dàng tròn bổn phận bằng tinh thần, Thái Âm nhu thuận gỡ bớt phần nào Thái Dương lạc địa âm cung ngộ Hóa Kỵ.
Kính thưa, đây là một diễn cảnh tranh đua ở thế gian mà người đời nên thận trọng ”Càn khôn nhất hí trường, nhân sinh thi bi kịch”
Người Nhâm Tí, sinh ngày 2 tháng 9 giờ Mão. Nguyên 2 chữ Nhâm Tí đã chứng minh cho người có khả năng dù không hơn ai, nhưng khó nhường bước trước một ai. Kình Dương ở Tí một biểu hiện không quá kiêu như ở Ngọ, sự thực cũng không quên sức (sự?) tự hào Là một bạch diện thư sinh với Thiên Lương (Mệnh) và Thiên Cơ (Thân) nhưng không thể không tinh thần Liêm Tướng (nhị hợp Mệnh) ở Ngọ và Phá Quân, Kình Dương (nhị hợp Thân) ở Tí. Chẳng may gặp vận suy tàn ở Ách có Tử Phủ và Mã bị Không Kiếp đành chấp nhận cả Triệt lẫn Tuần lôi cuốn có đầy đủ Quan Phúc chung giảm lòng sắt son thành thực.
<!--[if !supportLists]-->(1) <!--[endif]-->Những năm tiểu hạn đến Nô và Ách không bao giờ ở số lẻ như 3,5,7,9 mà là số chẵn, vì Nô Ách luôn luôn đúng nghịch lý âm dương với Mệnh.
<!--[if !supportLists]-->(2) <!--[endif]-->Tuổi Bính cũng có Đà La ở Thìn, nhưng bị Triệt đã tháo gỡ đến 70% không còn trở ngại gì mấy, nên Quan Phúc đứng lẻ loi mỗi vị một chỗ không cùng tam hợp.
Được cảm ơn bởi: perry
Đầu trang

ngo_ngot
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 702
Tham gia: 14:21, 03/03/11

TL: TỬ VI NGHIỆM LÝ TOÀN THƯ

Gửi bài gửi bởi ngo_ngot »

MỤC LỤC
Nguyên lý của Hoa Giáp……………………………………… …………… 1
Ý nghĩa mỗi năm trong 60 Hoa Giáp………………………………… 4
Đâu là nguyên lý ngữ hành nạp âm của 60 Hoa Giáp……………8
Những câu phú nên thận trọng khi áp dụng……………………… 11
Những sao Lộc, nhất là Lộc tốn ban phát ra nên rất chặt chẽ…14
Danh dự của Long Phượng Tả Hữu Xương Khúc……………………… 17
Bùa mê thuốc lú Khoa Quyền Lộc …………………………………… 19
Cô Thần Quả Tú không bao giờ được đóng góp chung với Thái Tuế 22
Căn bản huyền diệu của Tử vi có phải là những hành tinh………24
Hiệu năng của Quốc Ấn đường Phù ……………………………………… 27
Chớ coi thường quyền uy của Đẩu Quân …………………………………30
Thế nào là Thiên La Địa Võng …………………………………… 34
Lưu niên văn tinh là gì mà được Thiên Can định vị………………… 37
Thiên Trù cũng quan hệ lắm sao? ………………………………… 39
Oan trái nghiệp quả Hình Riêu Không Kiếp……………………………….41
Hùng Khí của Lục Sát Tinh ………………………………......43
Những Sát tinh ngộ chế là đáng quý ……………………………………… 46
Phẩm chất riêng biệt giữa Văn Xương và Văn Khúc …………………49
Bởi đâu mà Bạch Hổ Đường trở nên ác hại………………………………..54
Những trường hợp ngoại lệ của Bại Lục Tinh…………………………… 56
Luật Âm Dương của địa bàn thay đổi hẳn tình trạng các chính tinh… 58
Thật khéo hai chữ Tài Thọ …………………………………… 60
Thương Sứ là hai đổn canh cho 3 đoạn đường lượn khúc ………63
Những đấng đức hạnh cao dầy không có gì ngăn cản nhiệm vụ… 66
Khôi Việt Thiên Ất Quý Nhân …………………………………… 71
Trường hợp nào là người Tứ Đức …………………………………… 74
Tinh thần và thể xác khác biệt tùy theo Mệnh Thân đóng ở
Tứ Sinh, Tứ Chính hay Tứ Mộ ……………………… 76
Phải minh xác thận trọng Phúc Đức, Mệnh, Thân…………………… 79
Khu đất phì nhiêu trong cung địa bàn …………………………………….. 82
Bộ Nhật Nguyệt đòi hỏi sự thận trọng ……………………………………. 85
Mười 14 chính tinh đâu là ngọc châu quý giá…………………………… 88
Tuần Triệt có ích lợi gì cho Mệnh có chính diệu ………………92
Tác dụng của Nhị hợp Tam hợp và Xung chiếu ……………… 96
Căn cứ vài yếu điểm nào để quyết định giờ sinh …………… 100
Trong Tử vi vòng Tràng Sinh có ý nghĩa gì? …………… 103
Chính không bằng chiếu, chiếu không bằng giáp …………… 107
Đâu là một lá số đẹp ………………………………… 110
Bản thể thực chất của Thái Tuế ……………………………………114
Sự ngang ngửa giữa Tam hợp Cục ……………………………………. 118
Bào dây liên lạc với Nô ………………………………… 122
Phụ Mẫu liên quan gì tới Tật Ách …………………………………….126
Giàu nhờ bạn, sang nhờ vợ …………………………………129
Vận hạn nên tính thế nào? ………………………………133
Thế nào là vận hội tốt? ………………………………136
Triết lý chính danh trong Tử vi ………………………………… 140
Ba ngôi: Trời, Đất, Người …………………………………143
Mỗi đời người, mỗi nhân quả ………………………………… 146
Những trạng thái diễn biến của sáu chữ Giáp 149
Càn khôn nhất hí trường, nhân sinh thị bi kịch 153
Tử vi chính thị đích tôn của dịch lý……………………………………. 156
Toán số dịch học, một phương tiện giáo huấn đạo lý nhân sinh 159
Càn Khôn một khối vĩ đại Đức Hạnh………………………………… 161
Đức Hạnh Càn Khôn đi đến đồng nhân đại hữu chữ Thời với
Lý Âm Dương …………………………… 166
Khả năng của Tam tài hun đúc thế nhân……………………………… 169
Đây hẳn là nghiệp báo ……………………………………….. 171
Thái độ của xung phải tùy theo không gian và thời gian…………174
Sao lại chỉ sử dụng ”Kê Mã Chư Long Hổ” …………………177
Người thuộc Thổ ngũ Cục Tràng Sinh xuất phát ở đâu? …………179
Cục vì đâu trở thành phần quan trọng của số ………… 181
Dư âm phê bình tư thế nhân sinh được triết lý minh xác
Trên địa bàn toán số ………………………… 184
Phẩm chất giữa Tử vi và Phá Quân ……………………………… 187
Thất Sát Ngưỡng và Triều Đẩu (Tử Vi hay Phá Quân) 190
Năng lực quan trọng của nhị hợp ………………………………… 192
Di, một lực lương cần phải để ý …………………………………… 195
Cơ Nguyệt Đồng Lương Cự Nhật một khối đồng tấu nhất trí… 198
Tứ Hóa đem lại sắc thái gì trong 10 Can ………… 200
Tam Hóa Liên Châu đem hạnh phúc tới mức độ nào mà chỉ
xuất hiện cho Tuổi Canh và Ất ……… 202
Đâu là ngôi vị chính xác của Thiên Ất Quý Nhân (Khôi Việt) 205
Định ý gì đặt 5 tuổi ở Mộ Cung đối xứng với Tam Hợp Thái Tuế.... 207
Nghĩa vụ bộ Tam Minh ra sao mà Thiên Hỉ lại đứng dối diện Hồng Loan ........ 210
Nghịch lý Âm dương là mức cân phân công đức xây dựng và
lỗi lầm dục vọng ……………………… 214
Những nét đặc khoản của bốn tuổi Ất Mậu Tân Nhâm ……… 217
Đâu là nguyên nhân đã chấp nhận Tả Hữu, Xương Khúc
được nhập đoàn điều động Tứ Hóa …………………… 220
Muốn đối chiếu Dương lịch và Âm lịch…………………………..... 223
Nguyên tắc chung ………………………… 225
Vài quan điểm về Liêm Trinh và Tham Lang……………………… 226
Kỹ thuật ổn định của vài tinh đẩu trong Tử Vi……………………228
Tử Vi theo Lý học …………………………… 231

MẪY CHỖ CẦN ĐÍNH CHÍNH
Trang 5 :
-Hai tuổi Giáp Thìn và Giáp Tuất là 2 tuổi đều hàng Can Giáp (Mộc) khắc Chi Thân Tuất (Thổ) .Xin sửa lại “ khắc chi Thìn Tuất (Thổ)
Trang 15-
-Ngồi vào ghế Tiểu hao cũng là Thiếu âm (Thái Tuế ) bề ngoài vẫn vui tươi, sự thật tiếng ca nhà Không (tiếng có mà không???) vì quá tin lầm lẫn .
Xin sửa lại tiếng cả nhà không
Trang 17
-Sự kết thúc oan hay đúng, chánh danh hay phản nghịch phải nhờ ở những tay chân kiệt sĩ nêu cao nghĩa cả là các bộ trung tinh .
Xin sửa là “ Sự kết thúc oan hay ưng “.
Trang 19
-Riêng người Bạch hổ mang danh nghĩa khí, còn để ý đến quyền lộc riêng tư, một khi gánh vác những điều làm chánh nghĩa thì ham mê với bất cứ giá nào.
Xin sửa là “ không còn để ý đến …”
-ngàn năm lưu sử ố danh.
Xin sửa là “ ngàn năm lưu xú ô danh”.
Trang 20:
-cho ai ai thấy đều muốn xa lánh,
Xin sửa là “ cho ai ai thảy đều muốn xa lánh “
Xin bổ túc cho hết trang 21 :
Trang 19:
Bộ 3 này riêng Hoá khoa có một giá trị lớn hơn cả
Xin sửa l à “ lướt hơn cả
Trang 21 :
Khôi Việt phục lực Thiên Cương (Lương?) sao bằng mọi sự xung sát với thế căn phân của mệnh Hoả ở Tỵ cung đụng nhầm Cự môn Hoá Kỵ.
Xin sửa “ Thiên Lương"
Trang 22 :
<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->thiên phú thông minh hơn người nếu sớm tri giác ( Hồng Loan, Thiên Không – sắc sắc không không)
<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->Xin sửa “nếu sớm tỉnh giác…”
Trang 23:
<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->những gì Kỳ khu trở nên quí giá.
<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->Chổ này đúng trong sách, nhưng không hiểu được.
Trang 27:
- Là một bộ đôi bàng tinh chạy trong quĩ đạo của Lộc tồn như Thai Toạ của Tả Hữu và Quang Quí của Lương Khúc" Xin sửa là “ Xương Khúc “
Trang 28 :
<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->vì chữ Thiếu có ý nghĩa là bần không mỹ mãn đầy đủ Trong sách ghi là « bàn »
Trang 32 :
<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->làm sao vén khíu được tài chính ổn định được đời sống nhân dân .Xin sửa là “ vén khéo… »
<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->vậy cái áo đã thêu chữ ”Quân” phải là hiên ngang,Đúng là chữ “Quân”
Trang 41:
<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->Quan trọng là Hình Riêu đứng cặp với bộ nào hợp hình hợp cảnh làm cho bộ đó có một ý nghĩa tăng lên, lợi hay hại tuỳ trường hợp .
Xin sửa là “ hợp tình hợp cảnh “
Trang 42 :
<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->là tao nhân mặt khách đắn đo chín chắn hành động của mình,
Xin sửa là “ tao nhân mặc khách”
Trang 46 :
<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->Kình Đà đeo (gieo?) tai hoạ, Linh Hoả giảm thiểu sức khoẻ.Đúng là “ gieo tai họa.”
Trang 53 :
-Sự thật còn nhiều uẩn khúc. Nếu là tuổi Dần Ngọ Tuất mà Mệnh Phá Quân ở Thìn. Nơi đây Phá quân dành được chính nghĩa (Thái Tuế).Xin sửa là “ Phá Quân ở Tuất…..”
-Tài Thọ có thể quyết định sóng hẳn ngược chiều sang gió.
Xin sửa là “ Tài Thọ có thể quyết định soay hẳn ngược chiều sóng gió”.
-Táo Tháo Tướng đem được chữ Thọ.
Xin sửa là “ Tào Thừa Tướng …”
Trang 68 :
-Kiếp sống nhân sinh chỉ là kết quả của Thần (vòng Tràng Sinh) nhúng tay gặt hái.
Xin sửa là “ của Thân.. ‘’
Trang 69 :-còn bị thêm Linh Tinh (hãm) tiêu hỏa,Xin sửa là “ tiêu hao..”.
Trang 73 :
-định mệnh làm cho nghiêng ngửa (ngả?) để rồi Khôi Việt ra tay tế độ mới rõ rệt chân lý.
Xin sửa là “ làm cho nghiên ngữa …”
Trang 83 :
-Tử Vi Thiên Phủ đích thân đến cửa đông ( Dần) điều đình
Chỗ này đúng rồi.
-Khu đất thuận lợi cho Sát Phá Tham là 2 trường hợp ở Thìn Thất sát ở Tí, Tham Lang ở Thân.
Chỗ này cần nghiên cứu lại
Trang 85:
-Ngoài ra Vũ Tướng, Sát Phá Liêm Tham và Đồng Lương Cơ Cự chỉ là văn ban võ bá 2 hàng, một khi đắc cách phải không nên sự nghiệp.
Chỗ này cũng cần nghiên cứu lại.
Trang 86 :
-Thái Dương ở Tí là nghịch cảnh sa lầy ghê sợ cho người tuổi dương. Thái âm không mấy tốt đẹp hơn Thái Dương chỉ là hợp tình. Thái âm ở Mão với người tuổi Âm, nghịch cảnh của Thái Dương ở Ngọ nhưng tương lai không phải là không thuận bước cho người dương, Thái âm ở Dần cùng trường hợp ở Thân, người dương mộc rất thuận lợi.
Tại đây xin bỏ nguyên câu :” Thái âm không mấy tốt đẹp hơn Thái Dương chỉ là hợp tình. Thái âm ở Mão với người tuổi Âm,”
-Nhật Nguyệt được những bộ trên tô điểm sáng rực rỡ bao nhiêu, trái lại rất cần xa lánh tứ hung Kình Đà Hình Kỵ.
Đúng vậy.
Trang 94 :
<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->biết mình chỉ là quân bài hy sinh tốt hơn là sống theo kiểu tuỳ gia phong kiệm, tiếng cả nhà không an phận.
Đúng vậy.
Trang 98 :
<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->Tuổi Tỵ Dậu Sửu đưởng hưởng Lộc Tồn thuộc hàng thiên can “Tân”
Đúng vậy
Trang 100:
<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->Còn giờ của số là thời dạo theo thời tiết như Xuân và Thu thời gian ngày và đêm gần như bằng nhau,
Xin sửa là :” thời đạo.. ’’
Trang 105 :
<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->dầu cho Phá Quân thủ mạng ( tối hãm ) cũng không được giá trị của một Thái Tuế huống chi còn là Lộc Tồn Bác sỹ và Tràng sinh.Xin sửa là :”cũng được ..”
Trang 108:
-Nói đến song giáp thường thường lưu ý đến các bộ trung dịch mà phải là những bộ trung tinh
Xin sửa là “ các bộ trung tinh mà..”
-ở 2 cung Thìn Tuất mà phải là tuổi Bính Đinh Nhâm Tí."
Xin sửa là “ Bính Đinh Nhâm Quí”.
Trang 110:
-thiển nghĩ có lẽ cho là một cây làm thành rừng ,.
Xin sửa là “ một cây làm chẳng nên rừng”
Trang 111:
-Thấy rất khó mà canh trúng nổi khắc, ngày giờ còn lấy sai bê bối,
Xin sửa là “ ngay giờ còn.. ».
Trang 112 và 113 :
-Tử vi ở Tí = Bá ngự
Xin sửa tất cả các chử Bá thành Đế..
Trang 116
-Đó là người xứng đáng được trọng vọng dầu có bị Không Kiếp trà trộn, chỉ thêm lòng bác ái ngại cho ai không được đời biết đến hay bị đố kỵ mà yếm thế, hạng người này không phải ăn ở hai lòng,x xin dâng danh hiệu là Nhạc Bất Quần,
Xin sửa và thêm (tại dấu x) thành nguyên câu như sau :” hạng người này không phải ăn ở hai lòng. Tại Thân cho tuổi Thân, Tí, Thìn . Ngoài ra xin dâng danh hiệu là Nhạc Bất Quần,
Trang 118:
-Bắc Nam Đông Tây với đủ màu sắc riêng biệt xám đỏ xanh trắng biểu hiện cho 4 mùa thời tiết xuân (xanh) hạ (đỏ) thu ( trắng) đông ( xám)
Đúng ra là “thanh”, nhưng thanh có nghỉa là “xanh”, nên có thể để như vậy.
Trang 119:
-tuyệt không thể khắc chế một ai.
Xin bỏ chử “thể”

Trang 141:
-không qua nổi nên thường xuyên.
Đúng vậy.
-bằng đức cao dày của bậc nguyên quân (Long Đức)
Xin sửa là “ bậc nguyên huấn (Long Đức) »
Trang 150:-Những âm hành Ất Tân Kỷ Quý cũng vậy
Xin thêm “Ất Tân Kỷ Đinh Quý cũng vậy”
Trang 154:
-phần bị mang man thư (không rõ) làm
Xin sửa “ phần bị nạn man thư làm cho”
-thử phân tích (mất chữ) đều chính xác
Xin sửa “ thử phân tích thêm điều chính xác”
-Người có số tự tu (Không rõ) với Tài Thọ ở cung điền
Sửa “ Người có số tự tu tỉnh với Tài Thọ
Trang 156-Phần chương lãnh dịch học phải biết
Xin sửa là “Phần cương lãnh dịch học phải biết”
Trang 157:
<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->và nước thấm xuống không đi tới lửa, việc sở cầu như trống đánh xuôi, kèn thổi ngược hợp cách 6 hào âm dương không đắc vị.
Theo trong sách ghi là : “ không đi với lửa…”,tuy nhiên có lẽ sửa như Helen hợp lý hơn.
Trang 168:
<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->Người mệnh Thái Tuế và Thân Tuế Phá ở nghĩa người này vụng suy
Xin sửa là “Thân Tuế Phá có nghĩa người…”
Trang 169:
<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->Biết rằng khả năng của Lộc Tồn và Thái Tuế đều như 2 điều kiện tiên quyết
Xin sửa là “Biết rằng khả năng của Lộc Tồn và Thái Tuế kể như 2 điều kiện tiên quyết”
Trang 170:
<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->Kim và Thủy Mệnh, còn các tuổi khác phải tùy sự sinh khắc mà thế bớt đi đối với phần việc của Tài Thọ bù trừ trọ vẹn.”
Xin sửa :” Kim và Thủy Mệnh, còn các tuổi khác phải tùy sự sinh khắc mà thêm bớt đi đối với phần việc của Tài Thọ bù trừ trọn vẹn.
Trang 172:
<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->Liêm Sát (lộ thượng mai nhi = chết đường)
Xin sửa :” Liêm Sát (lộ thượng mai thi = chết đường)
Trang 173:Tham Lang tuy là thủy là đời mộc
Xin sửa “Tham Lang tuy là thủy mà đới mộc”
Trang 179:-Gặp xung thấy mọi sự bị phản bội tình dợt bạc nghĩa.
Xin sửa :” Gặp xung thấy mọi sự bị phản bội tình đời bạc nghĩa.
-Đối với 4 hành Kim Mộc Thủy Hỏa, Trường Sinh thuận lý (Dương nam, Âm nữ) đi xuôi,
Xin sửa “Đối với 4 hành Kim Mộc Thủy Hỏa, Trường hợp thuận lý (Dương nam, Âm nữ) đi xuôi.
Trang 184:
-như khi hai trường hợp tự đặt tuyệt đích là Tử Vi xưng Đế ở Ngọ Môn hay Phá Quân lên ngôi bá chủ ở Bắc phương (Tí).
Xin sữa là : như khi hai thế đạt trường hợp tuyệt đích là Tử Vi xưng Đế ở Ngọ Môn hay Phá Quân lên ngôi bá chủ ở Bắc phương (Tí).
-Thiên Lương và Cự Môn trường hợp nào cũng nắm chắc trong tay. Thiên cơ là tất cả những gì cấu tạo tổ chức quản lý hành động và Thiên Đồng là kế hoạch cải cách kiểu tạo. Tóm lại, nhờ hai ngọn đèn thần Thái Dương Thái Âm soi tỏ bước đường cho Thiên Lương và Cự Môn thấu đáo Thiên Đồng và Thiên Cơ, tuy theo cuộc xử thế (vòng tràng sinh) mà Tử Vi hay Phá Quân lãnh đạo đắc thái.
Xin sửa : Thiên Lương và Cự Môn trường hợp nào cũng nắm chắc trong tay. Thiên cơ là tất cả những gì cấu tạo tổ chức quản lý hành động và Thiên Đồng là kế hoạch cải cách kiến tạo. Tóm lại, nhờ hai ngọn đèn thần Thái Dương Thái Âm soi tỏ bước đường cho Thiên Lương và Cự Môn thấu đáo Thiên Đồng và Thiên Cơ, tuy theo cuộc xử thế (vòng tràng sinh) mà Tử Vi hay Phá Quân lãnh đạo đắc thất.
Trang 185 :
<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->cũng gồm đủ quân thần lã sử người lương thiện trung thành,
Xin sữa : cũng gồm đủ quân thần tá sứ người lương thiện trung thành,
Trang 187 :
<!--[if !supportLists]-->- <!--[endif]-->Khổng Tử đặt thập đức để cho 64 quẻ Phục Hy được bội phần sáng tỏa.
“Thập đức”? Chỗ này cần nghiên cứu lại.
Trang 191 :-sớm đã tối đánh
Xin sửa : sớm đầu tối đánh
Trang 192 :
Tam hợp, một thế liên minh ba cung có thể đứng chan vạc (Sinh, Chính, Hệ)
Xin sửa : Tam hợp, một thế liên minh ba cung có thể đứng chân vạc (Sinh, Chính, Mộ)
Trang 195:
-Tuổi Canh Tuất Mệnh Thân ở Thìn có Khắc làm cốt cách
Xin sửa : Tuổi Canh Tuất Mệnh Thân ở Thìn có Khúc làm cốt cách
-Vũ khắc Kim khắc Tham Lang Mộc)
Xin sửa : Vũ khúc Kim khắc Tham Lang Mộc)
Trang 198 :
- Thiên Đồng canh cải khiến tạo và Thiên Cơ
Xin sửa : Thiên Đồng canh cải kiến tạo và Thiên Cơ
-Cự Cơ (Mão Dậu) Nhật (Dần Thân).
Xin thêm : Cự Cơ (Mão Dậu) Cự Nhật (Dần Thân).
Trang 199:
-Thái Âm đắc cách hơn thì mọi sự phải thu thuận mới
Xin sửa : Thái Âm đắc cách hơn thì mọi sự phải nhu thuận mới
Trang 203 :
-Giáp hợp Tí : Kỷ đứng nghịch âm dương
Xin bỏ chử Tí : Giáp hợp Kỷ đứng nghịch âm dương
Trang 205 :
-Tuổi Ất Kỵ có Khôi ở Tý, Việt ở Thân.
Xin sửa : Tuổi Ất Kỷ có Khôi ở Tý, Việt ở Thân.
- Bốn tuổi hoàn toàn ở nghịch địa âm dương nhất là Khôi (dương) của Giáp Mậu và Việt (âm) của Ất Kỵ.
Xin sửa : Bốn tuổi hoàn toàn ở nghịch địa âm dương nhất là Khôi (dương) của Giáp Mậu và Việt (âm) của Ất Kỷ.
-Sáu tuổi Nhâm Tí có Khôi ở Mão, Việt ở Tỵ.
Xin Sửa : Sáu tuổi Nhâm Quí có Khôi ở Mão, Việt ở Tỵ.
Trang 207:
-Con người tứ mộ biểu hiện của sự tàn tạ trong tam hợp cục mà Mệnh,
Xin sửa : Còn người tứ mộ biểu hiện của sự tàn tạ trong tam hợp cục mà Mệnh
Trang 210:
-Thiên Mã chủ dành riêng cho thủ đứng trong tam hợp này.
Xin sửa : Thiên Mã chỉ dành riêng cho thế đứng tam hợp này.
Trang 215
-con số lẻ 5 và 9 (+) 3 và 7 ( xấu) tức là dương gặp dương và âm gặp âm,
Xin sửa : con số lẻ 5 và 9 (tốt) 3 và 7 ( xấu) tức là dương gặp dương và âm gặp âm,
Trang 222:
-Kình Dương ở Ngọ, Tuất cả một giấc mơ mộng tưởng.
Xin sửa : Kình Dương ở Ngọ.Tất cả một giấc mơ mộng tưởng.
Trang 231:
Thập kỷ cuối của thế kỷ 20 này, do công trình gian khổ của 2 nhà bác học Halberg và Renaberg mà khoa Thời sinh học (chronobylogic) ra đời.
Xin sửa : Thập kỷ cuối của thế kỷ 20 này, do công trình gian khổ của 2 nhà bác học Halberg và Reimberg mà khoa Thời sinh học (chronobiologic) ra đời.
Trang 233:
??? trải nghiệm lý lý thú đã tìm ra quy luật: người sinh vào tháng ??? ???, Quan, Tài, Di, Phối, Phúc bọ Địa không phá tán, gây phiền phức
Xin sửa : Trải nghiệm lý lý thú đã tìm ra quy luật: người sinh vào tháng chẳn Quan, Tài, Di, Phối, Phúc bị Địa không phá tán, gây phiền phức
Được cảm ơn bởi: emoidoianhve_emnhe89, greenfield911, perry
Đầu trang

greenfield911
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2126
Tham gia: 23:05, 14/05/11

TL: TỬ VI NGHIỆM LÝ TOÀN THƯ

Gửi bài gửi bởi greenfield911 »

mình gửi tặng bạn 30 lượng nha ,xem như cám ơn bạn đã post bài ,từ lâu muốn xem rùi mà ko biết xem ở đâu ,sách ờ ngoài thì rất nh tiền :D
Đầu trang

ngo_ngot
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 702
Tham gia: 14:21, 03/03/11

TL: TỬ VI NGHIỆM LÝ TOÀN THƯ

Gửi bài gửi bởi ngo_ngot »

greenfield911 đã viết:mình gửi tặng bạn 30 lượng nha ,xem như cám ơn bạn đã post bài ,từ lâu muốn xem rùi mà ko biết xem ở đâu ,sách ờ ngoài thì rất nh tiền :D
hihi. tks bạn nhá. xúc động quá. mình cũng chỉ là tình cờ thấy trên mạng nên cop về cho mọi người. cái này ai nghiên cứu thì chắc đều có sách đọc roài. mình chỉ là người cưỡi ngựa xem hoa thôi. thấy tài liệu này cũng có nhiều điểm mới mẻ trước đây mình ít biết nên nghĩ những bạn amater như mình ko phải ai cũng tìm được để đọc nên cop & share cho các thành viên mới của lyso đỡ mất công tìm kiếm ;)
Đầu trang

dontorngoc
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 146
Tham gia: 10:20, 12/09/10

TL: TỬ VI NGHIỆM LÝ TOÀN THƯ

Gửi bài gửi bởi dontorngoc »

ngo_ngot đã viết:KHÔI VIỆT THIÊN ẤT QUÍ NHÂN
Trong các bộ trung tinh của Tử Vi, chỉ có 3 đôi có tính cách đặc biệt là Xương Khúc, Long Phượng, Tả Hữu, được người đời tiếp đón chủ về văn học sáng giá, riêng bộ Xương Khúc phối hiệp với Khôi Việt là khoa bảng quyền uy. Xương Khúc đứng cặp với Âm Dương, dầu là vị trí lạc hãm cũng được cải tạo quang minh là những bậc uyên bác học gia. Khôi Việt có tính cách nổi bật cao siêu. Đứng cặp với Xương Khúc thì nêu cao văn tài để rồi chiếm địa vị đàn anh trên khoa trường .
Khôi Việt đứng với Tả Hữu là khả năng lãnh tụ.
Khôi Việt đứng với Long Phượng là ngôi vị cao cả của danh nhân chính phái.
Xương Khúc Tả Hữu Long Phượng là 3 bộ trung tinh quí cách cho phẩm giá cá nhân không như tam hoá Khoa Quyền Lộc chỉ là những tấm huy chương phản ánh về quyền lộc.
Tiếc rằng Khôi Việt ít khi đứng cặp với 3 bộ Xương Khúc Long Phượng Tả Hữu nhất là Khôi. Vị trí đặc biệt của bộ này đứng trong địa bàn không cho phép tiếp tay, nên hãn hữu mà có thì cũng nghịch hẳn lý âm dương: Tuổi Giáp Mậu là dương đặt Khôi Việt ở Sửu Mùi mà có thì cũng bị Tuần Triệt bẻ gẫy.
Khôi Việt đứng theo thiên can sắp xếp, hoàn toàn gần như nghịch hẳn lý âm dương:
Tuổi Giáp Mậu là dương đặt Khôi Việt ở Sửu Mùi ( âm cung)
Tuổi ất Kỷ là âm đặt Khôi Việt ở Tí Thân ( dương cung)
Tuổi Bính (D) Đinh (Â) đặt Khôi Việt ở Hợi Dậu ( âm cung)
Tuổi Nhâm (D) Quí (Â) đặt Khôi Việt ở Mão Tỵ ( âm cung)
Tuổi Canh ( D) Tân ( Â) đặt Khôi Việt ở Ngọ Dần ( dương cung)
Theo chỗ đứng như bảng ở trên Thiên Khôi luôn luôn ở chỗ bị chôn bời cung và Triệt làm cho thất thế. Là tư cách đoàn trưởng mà chính lại là người ở bậc thứ trung, làm nổi bật hẳn ý nghĩa của 4 chữ Thiên ất Quí Nhân.
Thiên Ất là gì ?
Xưa nay thương nghe 2 chữ Độn Giáp hay Thái Ất thần số là một môn toán dịch lý thuyết đoán cát hung của mỗi sự việc . Vậy tại sao lại gọi là Độn Giáp hay Thái ất ?
Độn Giáp là đôn chữ Ất lên thay thế cho chữ Giáp là địa vị đoàn trưởng của 10 Thiên Can, để chữ Giáp luân lưu ẩn chỗ của 6 chữ Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quí ở 6 con Giáp Ti', Tuất, Thân, Ngọ, Thìn , Dần.
Thái ất cũng cùng một ý nghĩa là chữ Ất ngôi vị thứ nhì lên lãnh vai thủ trưởng của Giáp.
Thiên ất là ngôi vị thứ nhì kế cận ngôi cao quí thiêng liêng, là vị tối cao phụ tá ban phước lành (quí nhân) che chở cho những ai xét ra hợp lý mà tính đáng thương.
Những ai được Thiên Ất thủ mạng là những người đương nhiên không bao giờ là người Thái Tuế cũng như Tuế Phá. Người Thái Tuế là người sinh ra như để gánh vác một công việc gì cao cả tốt đẹp, phải gặp nhiều điều may mắn để tiếp đón nhận lãnh trách nhiệm, đứng trong nghịch lý âm dương của Thiên mã làm hậu thuẫn. Hai phái này luôn luôn đứng trong nghịch lý âm dương của Thiên Ất, tức là Khôi Việt đóng ở dương cung thì Thái Tuế, Tuế' Phá phải ở âm cung, trái lại Thiên Ất ở âm cung thì Thái Tuế, Tuế Phá đứng ở dương cung. Chỉ còn 2 phái Thiếu Dương là người có linh tính nhạy cảm hơn người và Thiếu Âm là người thành thật mà bị thua thiệt, là ở cùng Khôi còn Việt chỉ có 2 tuổi Đinh Tỵ, Quí Sửu đứng chung Thái Tuế. Đau đớn cho tuổi Canh Dần Ngọ Tuất và Quí Dậu hoàn toàn thất bại vì Triệt thủ tiêu mất Khôi hoặc Long Phượng.
Vậy tình cảm người được Thiên ất quí nhân thủ mạng là tình cảm hoàn toàn không đắc ý. Ở địa vị thứ nhân mà đương nhiên thủ vai trò đoàn trưởng lo toan mọi việc có tính cách phước thiện . Cái gì trái với đạo lý nghịch luân thường là khẳng định bất khuất.
Người Thái Tuế là người định mệnh nặn ra để lãnh những nhiệm vụ sáng giá.
Người Thiên Ất là người sinh ra phụ giúp cho đời bằng hành động tích cực nhân nghĩa.
Trong Tử vi có rất nhiều hào thủ đức độ và từ thiện đứng đầu là Thiên Quan, Thiên Phúc quí nhân, Thiên Đức, Nguyệt Đức, Long đức, Phúc đức, Giải Thần, là một đoàn linh mục thượng toạ đầy đủ nhân hậu. Nhưng không sức mạnh quyền uy như Thiên Ất là ngôi vị ở ngay chính toà trực tiếp với vị tối cao ra lệnh cứu nhân độ thế. Việc cứu giải tai hoạ mọi sự đắc lực thành công dễ dàng hơn.
Tóm lại Khôi Việt là Thiên Ất quí nhân có tính cách lãnh tụ của vai trò mà thứ nhân quản nhiệm rất thành công trong việc cứu giải tai nạn cho dương nhân, được chuẩn nhận xứng đáng mà đương thời không mấy đắc ý.
Nữ văn thi hào Tương Phổ là điển hình của Thiên Ất quí nhân, tuổi Đinh Dậu ngày 22 tháng 11 giờ Mão. Nhờ tuổi Đinh mà mệnh đứng ngay vị trí Thái Tuế ( Dậu cung) chung cùng Thiên Việt một cặp minh tinh hành Hoả đắc cách cho Hoả mệnh vô chính diệu. Thân phá cách ( Tuế Phá) bổ khuyết cho mệnh đắc Khôi Xương Khúc là đặc tài văn chương xuất chúng, vẫn phải chịu hẩm hiu lẻ bóng goá chồng ngay từ tuổi 23. Lời văn bà là cả giọt mưa ngâu buồn bã thánh thót gợi mối thương tâm do Bà ( Thân) đủ tư cách khêu gợi.
Phải chăng người lỗi lạc của Thiên Ất quí nhân nếu được trường hợp nào đắc cách hơn ai thì không thể không có giông tố phũ phàng vùi dập, bởi do vị trí nghịch lý âm dương mà Khôi Việt bị xếp đặt trong khuôn khổ. Nói chung, người được Thiên Ất quí nhân chiếu cố là người đã có sự đồng ý của định mệnh làm cho nghiêng ngửa (ngả?) để rồi Khôi Việt ra tay tế độ mới rõ rệt chân lý.
TRƯỜNG HỢP NÀO LÀ NGƯỜI TỨ ĐỨC
Đức là phần tôn vinh thuộc về tinh thần, có tính cách nhân ái rộng lòng vị tha. Người được khen là có đức là người dẫn dắt cuộc sống theo đạo lý lập công hơn là kể ơn. Cổ nhân đã sắp xếp bên dương (nam) cũng như bên âm (nữ) có 4 đức. Nam thì hiếu để trung tín tức là đạo hiếu với cha mẹ trước nhất, rồi đến mến yêu anh em mới thành người trung của nước, tín thực với mọi người. Nữ thì công dung ngôn hạnh nghĩa là thông hiểu mọi việc, đi đứng khoan thai, nói năng khuôn phép, hạnh kiểm nết na, lại còn buộc theo môt khuôn sống là tam tòng (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử). Xét ra có phần nghiêm khắc cho phái nữ .
Tứ đức trong tử vi là đức chung bao gồm từ cả vũ trụ xuống đến một giòng họ thế nhân. Hai thế lưỡng nghi là Thiên đức (dương) Nguyệt đức (âm) xuống đến tứ tượng Long đức (Thiếu âm) Phúc Đức (Thiếu Dương) là tất cả đạo lý cao dầy cần phải nhận định sao cho hợp hoàn cảnh.
Tứ đức đứng chụm vào vòng Thái Tuế là vòng do địa chi chi phối tạo nên tư thế cá nhân trong xã hội nhân quần. Thái Tuế Quan Phù Bạch Hổ là trách vụ nặng nề phải gánh vác được đền công xứng đáng tuyệt đối. Cái gì đã được nêu tên là “Thái”' (tối đa thì còn có gì vượt lên trên được). Theo luật ngũ hành giao dịch có sinh phải có khắc, có xuất tất phải có nhập. Thái đã là tối đa rồi mà lại được nhập thêm, đương nhiên là điều bất hạnh. Lý công bằng là khi thiếu cần phải bổ khuyết, khi đã đầy đủ rồi mà bồi đắp thêm sẽ đi đến thế lệch, lệch đến thế tận cùng là tàn tạ. Do đó mới có Thiên Không đứng bên Thái Tuế.
Phải chăng Thiên không là giấc mộng hoàng lương đối với 3 hạng người trong tử vi có những điều kiện khác biệt.
Hạng người tứ chính ( Tí Ngọ Mão Dậu ) là người khẳng khái nhiều khi quá cứng rắn, nên kết quả thường đem lại có phần ác liệt (Thiên Không tứ mộ). Người tứ sinh (Dần Thân Tỵ Hợi) vì lòng tự hào có phần cao nên Thiên không hăm hạng này vào vòng di luỵ mỗi khi tham vọng quá mức (Đào Hoa Thiên không). Còn người Tứ Mộ ( Thìn Tuất Sửu Mùi) biết thân hiểu phận chân yếu tay mềm, dễ khiến nhạy cảm yếm thế ( Hồng Loan, Thiên Không).
Ba hạng này một khi đã bị Thiên không thâm nhập huyết quản thì đồng đều ở trong tam hợp có Thiên đức, Nguyệt đức và Phúc đức, còn Long đức đứng ở thế xung, có nghĩa là phân chia cho Thiếu dương tam đức, còn để dành cho Thiếu âm.
Sao vậy ?
Theo luật âm dương, hai phái khác biệt hẳn nhau như nước với lửa, kim với mộc. Thiếu dương đã vượt lên trên Thái Tuế tức là tinh khôn hơn Thiếu âm đứng ở tam hợp sau Thái Tuế có phần thật thà thua thiệt, vì Thiếu dương luôn luôn có Hồng Đào xốc nách ( Thiếu âm nhiều trường hợp không có) . Giữa Thiếu Dương và Thiếu âm đã thấy rõ ràng cán cân bù trừ chính xác. Thiếu dương được Hồng Đào vì vướng Thiên không nên được tam tứ đức đứng ra khuyên nhủ. Thiếu âm bị bạc đãi nên chỉ một Long đức đứng lên khuyên nhủ.
Trước cảnh hùng bí bao la của bầu trời (Thiên đức ), cái dịu mát trong sáng của trăng soi (nguyệt Đức), cái độ lượng nhân hậu của bậc nguyên huấn (Long đức) và sự ham muốn tu tạo bác ái của một giòng giống ( Phúc đức) hẳn những ai trong kiếp nhân sinh chẳng may ở vào vị trí Thiên không không thể không suy nghĩ kỹ càng với bộ óc thông minh ( Thiếu dương Hồng Loan) được định mệnh đã ban phát, dầu là hợp tình hợp cảnh giữa ngã rẽ độ đường Tứ Đức với Thiên không.
Điển hình trên những lá số nên cần được vô chính diệu ở trong có những An Quang (Mộc), Hỷ thần ( Hoả), Thiên thọ ( Thổ), Tấu Thư ( (Kim), Thanh Long ( Thuỷ) tuỳ theo hợp hành với Mệnh là đắc cách. Nếu có chính tinh thì mệnh phải khắc sao cho phù hợp như vô chính diệu và Hoá Khoa điều chỉnh để dọn đường cho Tứ Dức dễ dàng sinh hoạt. Chẳng may vô chính diệu lại chứa chấp sát tinh như Thiên Hình (Kim) Lưu Hà (Thuỷ) Kiếp sát (Hoả)… mà mệnh lại đồng hành là tất cả những gì độc hại không bờ bến.
TINH THẦN VÀ THỂ XÁC KHÁC BIỆ TUỲ THEO MỆNH THÂN ĐÓNG Ở TỨ SINH, TỨ CHÍNH HAY TỨ MỘ
Tử vi là một khoa nằm trong dịch lý. Căn bản của dịch lý là âm dương. Trong âm dương phân tách thấy ngũ hành phối hợp. Từ cái bất dịch là hình xác một vật gì, trải qua thời gian là giao dịch sinh khắc chế hoá tạo mối hưng thịnh đến lẽ suy vong thay đổi là biến dịch.
Trong địa bàn tử vi có đầy đủ ngũ hành, thấy phần trội là Thổ có nghĩa là mọi sự diễn biến đều ở trong đất mà ra, mà sự khắc chế chỉ ở 4 thế Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả mới đáng kể Mỗi hành đều có thể liên minh để củng cố thế tranh đua như Thân Tí Thìn ( Thuỷ) Dần Ngọ Tuất ( Hoả) , Tỵ Dậu Sửu (Kim) và Hợi Mão Mùi (Mộc) được ghi danh là tam hợp cục.
Tứ chính là cái nguyên bản ngã của nó nên Tí Ngọ Mão Dậu được liệt danh là chính xác của hành đắc dụng làm 4 phương chính:
Tí = Bắc phương thuộc thuỷ
Ngọ = Nam phương thuộc Hoả
Mão = Đông Phương thuộc Mộc
Dậu = Tây phương thuộc Kim
Trong thế liên minh cái thế phát nguồn được đặt ở trên để nuôi dưỡng thế chính đứng ở giữa được gọi là tứ sinh: Dần Thân Tỵ Hợi. Dần là Mộc nuôi Hoả là Ngọ. Thân là Kim bù trừ cho Thuỷ là Tí. Tỵ là Hoả ở trong có cái Mậu Thổ sản sản ra Kim là Dậu, Hợi là Thuỷ dưỡng Mộc là Mão. Mọi sự đều dùng sân khấu thế gian là Thổ, đến khi tàn tạ cũng về với đất là Thìn Tuất Sửu Mùi là giai đoạn chót ghi danh là Mộ địa.
Mỗi thế liên minh (tam hợp cục) đều có cung sinh cung chính và cung mộ. Mỗi cung đều có ảnh hưởng trực tiếp cho cái bản xác Mệnh thân ở đó tuỳ tinh thần cho đến thể xác tuỳ theo trách nhiệm của cung làm phận sự.
Dần Thân Tỵ Hợi là sứ sinh, công việc của chúng vốn là bồi bổ cho Tí Ngọ Mão Dậu nên có lòng tự hào quá cao ( ưa đề cao khoe khoang) nuôi dưỡng người được sức khoẻ dồi dào ( tràng sinh) nhưng không phải là người nặng cân.
Tí Ngọ Mão Dậu là phần danh dự lãnh vai trò chính xác của ngũ hành phải là người cương nghị, sức khoẻ đầy đủ ( Đế vượng) .
Vị trí tứ Mộ là nơi gần đất xa trời, người này thường là thiếu thốn sức khoẻ ( năm ngày ba tật). Biết phận mình nên không ưa muốn phiền nhiễu ai, là tư cách chính đáng của người tứ mộ (mềm dẻo).
Dầu là tứ sinh, tứ chính hay tứ mộ vẫn một phần quan trọng phối hợp lẽ âm dương mỗi hành đều có một cung dương và một cung âm ), tức là dương cung thì cứng rắn nhiều hơn, trái lại âm cung thì phần hoà hợp có lấn trội, vì dương là tư cách của người sinh nhập nên chu đáo cẩn thận đúng mức, còn âm tư là tư cách của người sinh xuất nên rộng rãi bao dung.
Có thể xếp thành nguyêt tắc căn bản đại cương như:
a/- Mệnh Thân ở tứ Sinh : Mạnh khoẻ, ít khi nặng cân , tính tình hay đề cao ưa phô trương.
b/- Mệnh Thân ở tứ Chính: Đầy đủ sức khoẻ, tinh thần kiên quyết.
c/- Mệnh Thân ở Tứ Mộ: hay đau yếu nhưng không muốn phiền luỵ ai, tính tình mềm dẻo.
Như thế chẳng hoá ra thiệt thòi cho 4 tuổi Thìn Tuất Sửu Mùi một khi được vinh dự đóng ở Thái Tuế ( tứ mộ) .
Thưa rằng: Thái Tuế không phải là khi nào ngồi vào vị trí chính xác Thái tuế . Bốn tuổi này đều ở vị trí Quan Phù hay Bạch hổ phải kể là dị nhân kỳ tài, đem hết khả năng tận tình suy tính để tạo nên sự nghiệp huy hoàng phải kể là đáng trọng ( Số Trương Lương Hàn Tín ) . Bốn tuổi này đã được quy định là nơi Mộ địa là nơi trình diễn những vở tuống đời sáng giá với chiếc lọng che uy nghi cao cả ( Hoa cái do hàng chi xắp dặt ngôi vị thực thể ) để đền bù sự suy kém sức khoẻ.
Đứng trước cái tài tình thông đạt của dịch lý, là hậu sinh không thể không nghiêng đầu kính cẩn vị thánh nhân Phục Hy thời Thái cổ đã khám phá rành rẽ được sự bí hiểm huyền bí tạo vật, một ý nguyện mong người đời thấu đáo đạo lý xử thế.
Những thành quả đặc biệt của Tràng sinh, Đế vượng và Hoa Cái ( một hình tượng của Mộ theo luật âm dương ) .
Tràng sinh chỉ đứng ở 4 cung Dần Thân Tỵ Hợi tức là thế sinh của tam hợp. Vậy chỉ những tuổi tứ sinh mới đắc cách hợp thức luật âm dương và Thái tuế. Về phương diện ngũ hành người Thuỷ mệnh được chủ cách bền vững lâu dài.
Đế vượng chỉ ở 4 chính cung Tí Ngọ Mão Dậu thì cũng chỉ 4 tuổi này mới thụ hưởng những gì là tư thế thịnh đạt vượt mức với Kim mệnh.
Hoa cái, một lợi điểm danh dự cho những người tuổi Thìn Tuất Sửu Mùi tuỳ theo ngũ hành chế hoá của Mệnh với Hoa cái ( Kim) tới mức nào
tại sao viết hay thế nhỉ/
Đầu trang

ngo_ngot
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 702
Tham gia: 14:21, 03/03/11

TL: TỬ VI NGHIỆM LÝ TOÀN THƯ

Gửi bài gửi bởi ngo_ngot »

dontorngoc đã viết: tại sao viết hay thế nhỉ/
đây là các cụ viết chứ ko phải tớ viết đâu à nha. sách của cao nhân ko hay mới lạ :D
Đầu trang

Trả lời bài viết