Hà Uyên đã viết:
Dịch - quẻ Cổ - Lời quẻ nói: "Tiên Giáp tam nhật, hậu Giáp tam nhật"
Khi xưa, ta còn mỏng manh thì hiểu rằng, trước can Giáp 3 ngày là can Bính, sau can Giáp ba ngày là can Quý. Rồi ta liền trở thành Giám đốc tự phong, và lập ngôn rằng: đây chẳng qua là nói về Chính ấn - Thực thần mà thôi. Thật là sai lầm tai hại khi tự phong mình làm Giám đốc, phải chăng là sự thèm khát Hóa quyền !
Nay, ta có thêm chút tuổi, thì mới tự ngộ được rằng, Dịch nói "tiên - hậu" là chỉ về "ngôi thứ", hóa ra trước can Giáp 3 ngày là can Đinh, sau can Giáp ba ngày là can Tân.
Can Giáp đứng ở đầu 10 can, là đầu mối của mọi sự mọi việc, của vạn vật trong trời đất. Ý nghĩa đầu tiên mà ta phải hiểu, đó là "có cuối ắt có đầu". Khi xưa, ngài Tiêu Diên Thọ lập thuyết, ông đề xuất Giáp chính là mặt Trời, khi phối ứng với Đất, mà thấy được đầu mối là từ Giáp Tý.
Ngài Tiêu Diên Thọ nhận thấy rằng, Giáp Tý theo với hào Sơ quẻ Càn thì "tiềm" thì "ẩn", ứng hợp với hào Sơ quẻ Càn là hào Tứ quẻ Khôn, thì là "thắt" là "khóa". Ông hiểu rằng, đã là "tiềm", đã là "ẩn", thì ngài gọi là "độn Giáp"; đã là "thắt", đã là "khóa", thì ngài gọi là "độn Nhâm".
Ngài tuân thủ theo những gì mà Dịch đã quy định, đó chính là quẻ Tốn. Lời hào Ngũ quẻ Tốn nói: "Tiên Canh tam nhật, hậu Canh tam nhật, cát", họ Tiêu đã đề xuất: lấy can Canh để tượng trưng cho sự "canh cải", "biến canh", để chỉ về sự thay đổi vậy. Nhưng trước Canh ba ngày là can Quý, sau Canh ba ngày là can Đinh, họ Tiêu nhận thấy sự trùng lập của can Giáp và Canh đều ở ngôi vị can Đinh. Khi Giáp thống lĩnh dẫn đầu, thì can Đinh ở ngôi vị số 4, Ông thấy thật khó hiểu ???
Căn cứ vào Lời quẻ Cổ, cùng với Lời hào Ngũ quẻ Tốn, họ Tiêu đề xuất và xây dựng thuyết về can Giáp: có cuối ắt có đầu, và từ can Canh: "không có đầu mà lại có cuối".
Lời quẻ Phục nói: "thất nhật lai phục", rồi Lời hào Nhị quẻ Chấn nói: "thất nhật đắc"
Giáp: "có cuối ắt có đầu"
乾元用九,乃見天則, 天下治也 。
Kiền nguyên dụng cửu, nãi kiến thiên-tắc, thiên-hạ trị dã.
Trong Đạo Càn Khôn mà biết dùng hào dương, là đã thấy được phép tắc của trời, thời bình trị được thiên hạ.
Dịch viết: "Trời 1 đất 2, trời 3 đất 4, trời 5 đất 6, trời 7 đất 8, trời 9 đất 10".
Dịch - quẻ Lâm - Lời quẻ nói: "Chí vu bát nguyệt hữu hung".
Ngài Tiêu Diên Thọ bảo rằng: từ cung Hợi - Tý - Sửu - Dần, quái Khôn đi ra mà làm chủ bên ngoài. Từ cung Tị - Ngọ - Mùi - Thân, thì quái Càn làm chủ bên ngoài. Cung Mão - Tuất hai quái Chấn - Cấn làm chủ bên ngoài. Cung Thìn - Dậu thì quái Đoài làm chủ cung Thìn ở bên ngoài - quái Tốn làm chủ cung Dậu ở bên ngoài.
Cha thì làm chủ 4 cung bên ngoài, Mẹ cũng làm chủ 4 cung bên ngoài, con cả và con út, mỗi đứa đều được làm chủ một cung, vậy còn hai con Khảm Ly thì giao cho chúng làm chủ cung nào đây ? Nay Dịch lại viết: "chí vu bát nguyệt hữu hung" là nghĩa làm sao ?
Hào Sơ quẻ Càn thì "tiềm" thì "ẩn", hào Tứ quẻ Khôn thì "thắt" thì "khóa". Học trò Kinh Phòng hỏi thầy Tiêu Diên Thọ: "Vây thì Lục hư theo với Lục Giáp như thế nào ?"
Thầy Tiêu Diên Thọ giảng rằng: "Lấy Sơ - Tứ định lệ cho Lục tử mà ứng Lục hư.
- Theo đó thì Giáp Tý - Giáp Ngọ phối Sơ - Tứ hai quẻ Chấn - Tốn,
- Giáp Thìn - Giáp Tuất phối Sơ - Tứ hai quẻ Khảm - Ly.
- Giáp Thân - Giáp Dần phối Sơ - Tứ hai quẻ Cấn - Đoài."
Kinh Phòng sáng ý về lời giảng của Thầy, quẻ càn làm chủ 4 cung Tị - Ngọ - Mùi - Thân, tại cung Ngọ thì phối với quái Tốn bên trong mà được quẻ Thiên Phong Cấu. Dịch lại nói: 8 tháng thì khởi hung, có nghĩa rằng từ cung Ngọ khởi can Giáp, tới cung Sửu là cung thứ 8, thì ứng với can Tân mà phối với Đất thì được Tân Sửu. Cho nên Kinh thị dịch truyện - Kinh Phòng nói: "Sửu Ngọ hại, Tân phối Tốn cung".
Như vậy, ta hiểu được cung Tốn mà có quẻ Thuần Tốn làm chủ, được phối với can Tân:
Kinh Phòng lại tự vấn rằng: "Chí của ta quyết không theo, thì điềm hung họa theo Dịch nói, liệu rằng 8 tháng nữa vẫn đến chăng ? Khi hung họa đến thì đến ở phương nào ? Hung họa nặng hay nhẹ ? ...
Dương tại ngoại, đó là biểu hiện của sự vận động vật chất nội tại, cho nên nói Dương là "Âm chi sứ". Âm tại nội, là cơ sở vật chất của cơ năng, cho nên nói Âm là "Dương chi sứ".
Âm Dương giả,
Thiên Địa chi đạo dã.
Vạn vật chi cương kỷ,
Biến hóa chi phụ mẫu,
Sinh sát chi bản thủy.
Hơn 1000 năm sau, thời Bắc Tống ngài Thiệu Ung khi nghiên cứu 12 quẻ Bích của Tiêu Diên Thọ và Mạnh Hỷ đã xây dựng nên, Ông nói:
- Con trai út theo Mẹ mà phối với Thái âm, con gái út theo Cha mà phối với Thái dương, Con trai cả theo với Trung nữ mà phối với Thiếu dương, Con gái cả theo với Trung nam mà phối với Thái âm.
Và ngài Thiệu Ung đã đặt nền móng xây dựng trường phái Tiên thiên học, Ông đã để lại cho đời những học thuyết bất hủ Hoàng cực Kinh thế, Thiết bản thần số, Mai hoa dịch số.
Nay ta theo đó để khảo tập vậy.
Được cảm ơn bởi: vo_danh_00, mysterious, Mộng Hoa Trắng
Lấy bề ngoài quan sát Thiên thì nói: Càn nên kiện, tự nhiên cao như thế. Lấy số mà quan sát Thiên thì nói: tác dụng của Thiên có 49, Thiên quả là hữu hình nhưng không thoát khỏi Số, làm ra hình tượng để làm cái vỏ, người xưa nói Thần tạo vật không phải là lời nói suông, viết thành sự biến hóa.
[Dĩ mạo khuy Thiên giả viết: Càn nhiên kiện, đơn vu nhiên nhi cao. Dĩ số ngưỡng Thiên giả viết: kỳ dụng tứ thập hữu cửu. Thiên quả dĩ hữu hình nhi bất năng thoát hồ số, lập tượng dĩ suy Giáp, ký thành nhi di chi, cổ sở vị thần giao tạo vật giả, phi không ngôn nhĩ, thư thành hóa khứ.]
Dùng cái vỏ Càn Khôn, Số của mười kỳ, tập trung chỗ thần diệu vận dụng đường hướng, trên cảm với mọi tầng lớp chồng chất. Xem tích tụ của huyền hoàng, không đầu mối mà có thường hằng, hiểu biết cặn kẽ, riêng dùng thần thể hội, Số bắt đầu từ hào dương thứ nhất quẻ Phục, âm sinh từ Cung của ống sáo, tích tụ ẩn tàng, nói về hóa hợp số của Thiên - Nhân, cùng cực thì bao hàm biến, biến thì thông tất cả, thần hầu quỷ đuổi không đủ sợ.
[Dĩ Càn Khôn chi Giáp, đương thập kỳ chi số, ngưng thần vận chỉ, thượng cảm triền thứ. Thị huyền hoàng minh chỉ, vô nghê hữu thường, tuyệt cơ mẫn chi, độc dĩ thần hội, số khởi ư Phục chi Sơ cửu, âm sinh hồ hoàng chung chi cung, tích trưng tốt ẩn, ngôn dữ hóa hợp hồ Thiên Nhân chi số, cực nhi hàm biến, biến nhi mị bất thông, thần xu quỷ nhiếp, bất túc hãi dã.]
Khi chỉ quan sát hiện tượng bên ngoài của Thiên, mà thấy "Thiên hành kiện", nhưng khi đi sâu vào khảo sát mối quan hệ giữa "độ" và "lượng" của Thiên, từ hình và tượng của sự - vật, tiến sâu vào nội bộ của sự - vật, không thể chỉ nói đại khái khơi khơi bên ngoài rằng: "Thiên hành kiện", mà phải thâm nhậm sâu vào cái bản chất của tạo hóa, thậm chí phải nắm bắt được cái thần bí của nó vậy.
Ký tế "chung chỉ" vậy, là ngừng, là dừng, là kết thúc vậy. Nhưng Đạo của Dịch quý ở chỗ biến - thông, không ngừng không nghỉ. Nếu dừng lại mà kết thúc ở đây, thì Đạo của Dịch đã đến cùng chăng ?
Quẻ có trong ngoài, vị có trên dưới. Trên dưới trong ngoài phản nhau.
Nói rằng: "Trời 5 Đất 6 - Trời Mậu Đất Kỷ - Thủy dữ Hỏa - Vật bất khả cùng dã".
Trong 64 quẻ của Kinh, thì quẻ Ký tế tượng trưng "việc đã thành".
Nhưng sự phát triển của sự - vật là vô cùng tận, công việc sau khi đã hoàn thành lại mang theo những nhân tố chưa hoàn thành mới.
Sự - vật phát triển là không có tận cùng. Câu nói này bao hàm ý nghĩa trong quá trình sự vật phát triển, không thể vì sự đã thành mà dẫn tới sự "mãn", mà phải dừng lại không thể tiến.
Sự vật đã phát triển đến cùng, thì sẽ sinh ra bất tương hợp, đó chính là cái "tan" mà không "tụ" của Ngũ hợp - Lục hợp vậy; đã thành công đạt đến cực điểm thì sẽ nảy sinh rối loạn, như thế thì liệu có thể coi là hoàn thành được chăng ?
Người đời sau, Trình Di nói: "Đã hoàn thành, như vậy là sự vật đã tới chỗ cùng. Vật cùng mà không biến thì sẽ không có cái lý không dừng. Dịch là biến dịch vô cùng vô tận, vì vậy sau quẻ Ký tế (đã hoàn thành) lại có quẻ Vị tế (chưa hoàn thành) để làm chung cục. Vị tế có nghĩa là chưa tới chỗ cùng cực, chưa tới chỗ cùng cực thì tất sẽ có sự sinh sôi nảy nở tiếp theo".
Ký tế - Đại tượng nói: "Quân tử dĩ tư hoạn nhi dự phòng chi" = Người quân tử thấy việc đã thành, lại cần phải suy nghĩ tới những tai họa có thể xẩy ra để mà phòng bị trước. Vậy thì trong quẻ Ký tế, những yếu tố nào là nguyên nhân dẫn tới tai họa ?
Nay ta theo quẻ Ký tế khảo sát về lời Đại tượng đã nhắc nhủ vậy.
Hà Uyên đã viết:Nói rằng: "Trời 5 Đất 6 - Trời Mậu Đất Kỷ - Thủy dữ Hỏa - Vật bất khả cùng dã".
Trong 64 quẻ của Kinh, thì quẻ Ký tế tượng trưng "việc đã thành".
Nhưng sự phát triển của sự - vật là vô cùng tận, công việc sau khi đã hoàn thành lại mang theo những nhân tố chưa hoàn thành mới.
Sự - vật phát triển là không có tận cùng. Câu nói này bao hàm ý nghĩa trong quá trình sự vật phát triển, không thể vì sự đã thành mà dẫn tới sự "mãn", mà phải dừng lại không thể tiến.
Sự vật đã phát triển đến cùng, thì sẽ sinh ra bất tương hợp, đó chính là cái "tan" mà không "tụ" của Ngũ hợp - Lục hợp vậy; đã thành công đạt đến cực điểm thì sẽ nảy sinh rối loạn, như thế thì liệu có thể coi là hoàn thành được chăng ?
Người đời sau, Trình Di nói: "Đã hoàn thành, như vậy là sự vật đã tới chỗ cùng. Vật cùng mà không biến thì sẽ không có cái lý không dừng. Dịch là biến dịch vô cùng vô tận, vì vậy sau quẻ Ký tế (đã hoàn thành) lại có quẻ Vị tế (chưa hoàn thành) để làm chung cục. Vị tế có nghĩa là chưa tới chỗ cùng cực, chưa tới chỗ cùng cực thì tất sẽ có sự sinh sôi nảy nở tiếp theo".
Ký tế - Đại tượng nói: "Quân tử dĩ tư hoạn nhi dự phòng chi" = Người quân tử thấy việc đã thành, lại cần phải suy nghĩ tới những tai họa có thể xẩy ra để mà phòng bị trước. Vậy thì trong quẻ Ký tế, những yếu tố nào là nguyên nhân dẫn tới tai họa ?
Nay ta theo quẻ Ký tế khảo sát về lời Đại tượng đã nhắc nhủ vậy.
Đề nghị bạn mysterious không viết bài tại trang Khảo tập này.
Tiêu Diên-Thọ 焦延壽, tự Cống, là sư phụ của Kinh Phòng, đã truyền lại cho Kinh Phòng nguyên lý Hào thần. Sách có chép "Bát-quái Lục-Vị-Đồ 八卦六位圖", lấy ngũ-hành, 10 can, 12 chi phối vào các hào của bát-quái. Đó chính là một thuật của Kinh Phòng. Phép Hào thần sau này đã được Trịnh Huyền sử dụng lấy làm hào âm dương để giải thích Dịch, được ghi lại trong sách Dịch Hán Học 易漢學 của Huệ-Đống, có chép Đồ này.
Số Ngũ hành được xuất hiện sớm nhất ở Thượng thư - Hồng phạm viết: "Đầu tiên là ngũ hành. Thủy nhuận hạ, hỏa viêm thượng, mộc khúc trực, kim tùng cách, thổ viên giá sắc" (Nước thấm xuống làm nên vị mặn, lửa bốc lên làm ra vị đắng, gỗ cong thẳng làm nên vị chua, kim theo thay đổi làm nên vị cay, đất để gieo cấy làm nên vị ngọt). Thông qua đây, Trịnh Huyền lấy số Ngũ hành để chú giải về số trời đất trong Dịch, viết: "Khí của trời đất mỗi thứ có 5. Theo thứ tự ngũ hành, 1 là thủy đó là số trời, 2 là hỏa đó là số đất; 3 là mộc đó là số trời; 4 là kim đó là số đất; 5 là thổ đó là số trời". Ông lại nói: "Số trời đất là 55, với ngũ hành khí thông. Phàm ngũ hành giảm 5, đại diễn lại giảm 1 cho nên thành 4".
Trịnh Huyền chú thích Dịch vĩ rất rõ ràng khúc triết, ông phát triển "Hào thần thuyết" của Dịch vĩ lấy 6 hào của quẻ, tương phối với 12 thần trong 1 năm. Cứ 2 quẻ Dịch đối, ứng trực cho 1 năm, 64 quẻ ứng trực cho một vòng 32 năm, khởi đầu từ hai quẻ Càn Khôn, kết thúc ở hai quẻ Ký tế và Vị tế.
Mục địch của Trịnh Huyền là cho quái và hào tương ứng với nội hàm của Thời gian, dẫn tới hiệu quả Thời gian tương ứng với Tiết khí. Hào Thần phối ứng tương tự như với phương pháp Nạp giáp vào quẻ và hào, với vận trình thời gian cho từng năm. Tức là: đối với quẻ dương thì đi theo chiều thuận, đối với quẻ âm thì đi theo chiều nghịch. Ta lấy quẻ Càn Khôn làm ví dụ:
Càn vận hành theo chiều trái:
- Hào Thượng: tháng Chín - kiến Tuất
- Hào Ngũ: tháng Bảy - kiến Thân.
- Hào Tứ: tháng Năm - kiến Ngọ
- Hào Tam: tháng Ba - kiến Thìn
- Hào Nhị: tháng Giêng - kiến Dần
- Hào Sơ: tháng Một - kiến Tý.
Khôn vận hành theo chiều phải:
- Hào Thượng: tháng Tư - kiến Tị
- Hào Ngũ: tháng Hai - kiến Mão
- Hào Tứ: tháng Chạp - kiến Sửu
- Hào Tam: tháng Mười - kiến Hợi
- Hào Nhị: tháng Tám - kiến Dậu
- Hào Sơ: tháng Sáu - kiến Mùi
Khứ Ngũ Hành sanh khắc luận (Liên Sơn quy tàng) Thiết bản tá chứng kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, Trung Quốc cổ đại đích tư tưởng gia bả giá ngũ chủng vật chất tác vi cấu thành vạn vật đích nguyên tố, đãn nguyên khởi vu xuân thu thì đích Ngũ Hành tương sanh tương thắng đích tư tưởng, tại tây hán bị kinh phòng đích (Kinh thị dịch truyện) Tại Bát Quái trung quán dĩ thế, ứng, phục, phi đẳng giải thuyết hào, quái đích thuật sổ lí luận xuyên tạc Ngũ Hành sanh khắc chế hóa thống ngự Bát Quái hình thành liễu tân đích" phác tố triết học", " duy vật luận". Kì thật giá chủng lí luận bằng cư thật tại bất khả tại Bát Quái trung thôi xao, dĩ trí Trung Quốc đích thuật sĩ ứng dụng" Ngũ Hành" 2000 đa niên chi cửu, kì gian cạnh vô nhân đề xuất thái đa nghi vấn, chí kim tại Trung Quốc cửu gia dịch lí duy vật phác tố triết học thể hệ trung diệc vô nhân trí nghi tha. Ngũ Hành giả, bổn chu vũ dã. Tần Thủy Hoàng nhị thập lục niên canh danh viết: Ngũ Hành kì vũ nhân quan miện y phục pháp Ngũ Hành sắc. Tại thương chu thì hựu hữu ngũ hình chi pháp tức: "Cổ đại Ngũ Hành hình pháp". Nhi trung y học lí luận đích (Hoàng đế nội kinh) Đích Ngũ Hành biện chứng ( chứng) lí luận thể hệ thị tồn lập đích, nhân hoàng đế nội kinh luận: "Phế" chúc kim, " can" chúc mộc, " vị" chúc thổ, " tâm" chúc hỏa, " thận" chúc thủy, giá ngũ chủng vật thể đích đại biểu đô thị tồn tại vu nhất cá nhân thể chi nội đích thật vật, giả như phế nhiệt hữu hỏa, tựu khả dụng thang dược lương tính chi vật dĩ chế chi, hoặc tây dược giai khả, giá thị nhất chủng thật vật đối thật vật tại đồng nhất cơ thể nội đích khách quan biện chứng ( chứng), như thận hư bất tể, tâm thận bất giao, tắc khả dĩ thông quá dụng bổ thận ôn thông chi pháp lai dụng dược dã thị thật vật đối thật vật, tựu thị thuyết tại (Hoàng Đế Nội kinh) Đích Ngũ Hành lí luận đô thị khách quan tồn tại đích thật vật tương thắng tương sanh luận, giá chủng lí luận khả tồn tại vu nhất cá hữu hiệu đích khách quan thật vật phạm trù nội. Nhi đương hạ đích Ngũ Hành lí luận dã thị nhất chủng "phác tố" "duy vật" luận, tại tứ quý trung tảo hữu định tính Ngũ Hành hoa phân đích xuân chúc mộc, thu chúc kim, hạ chúc hỏa, đông chúc thủy, trung ương mậu kỷ chúc thổ, bả tha môn hỗn khởi lai sanh khắc chế hóa ngã môn khán khán kết quả chẩm dạng: dụng thu thiên đích kim khứ khắc xuân thiên đích mộc, nhất niên tứ quý trung thu tại xuân chi hậu, xuân tại thu chi tiền, tảo dĩ thị thì quá cảnh thiên đích lưỡng cá khái niệm, chẩm yêu bả xuân thu nhị quý cảo tại nhất khởi bỉ cao hạ, giá thị cá khái niệm vấn đề, hữu nhân thuyết ngã khả dĩ nã phủ tử ( chúc kim) khứ khảm mộc đầu, bất tựu kim khắc mộc liễu mạ? Cổ nhân dã hảo, kim thiên dã hảo, ngã môn luận đích giá Ngũ Hành thị khách quan tự nhiên trạng thái hạ đích phác tố triết học quan, tựu thị thuyết tồn tại vu nhất định không gian thì gian trạng huống hạ đích tự nhiên vật chất vĩnh viễn thị tự nhiên đích, phủ tử thị nhân vi đích đông tây, nhĩ dụng nhân vi khứ nhất sương tình nguyện đích chế tạo xuất nhất chủng " phi khách quan" lí luận, tựu thành liễu" duy tâm luận". Giá tựu thị Trung Quốc đích dịch học đa thiểu niên lai trích bất điệu mê tín mạo tử đích ẩn ưu. Kim khắc mộc, kim nguyên bổn bất tồn tại, địa cầu nhân tòng công nguyên tiền 3000 đa niên tài hữu liễu dã luyện kĩ thuật, thanh đồng xuất hiện, na thì thượng bất năng nhiễu khai thạch khí đích sử dụng, dã tựu thị thuyết kim đích tự nhiên hình thức thị" thạch", nguyên ứng dĩ thạch, mộc, thủy, hỏa, thổ luận Ngũ Hành ngũ chủng tự nhiên vật chất tài đối, kì thật kim bổn thị nhân vi đích đông tây liễu, kim đích tồn tại thị phi tự nhiên giới nguyên sanh thái đích đông tây, na hà khả luận" phác tố" triết học. Tái thuyết liễu, trung quốc hữu tân cựu thạch khí thì đại, thị ngận mạn trường đích thì kì, trung quốc đích hữu văn tự khả khảo đích văn hóa ứng cai canh tảo thượng tố đáo thất, bát thiên niên tiền, phác tố nhi duy vật đích tự nhiên khoa học thể hệ tảo tại hạ đại thì dĩ kinh hình thành, na thì hình thành đích lịch pháp tức" hạ lịch" ngã môn kim thiên nhưng tại duyên dụng, giá thị cổ đại thiên văn học đích đại biểu tác, khả chứng minh kì tại Tây Hán 2000 đa niên tiền Ngũ Hành lí luận hình thức chi tiên, trung quốc ứng cai hữu nhất sáo phi thường hoàn thiện đích duy vật triết học lai chỉ đạo tiên dân đích khách quan hành vi, na tựu thị tảo dĩ thất truyện đích (Liên Sơn Kinh Dịch). (Liên Sơn Kinh Dịch) Bất luận Ngũ Hành luận lục khí tức: ôn, nhiệt, hàn, lương, thự, táo, phong vi môi giới ( tái thể) thôi động lục khí tại tự nhiên giới vận hành vạn vật sanh tức. (Liên Sơn Kinh Dịch) Bả nhất niên trung dĩ chánh Nguyệt Kiến dần lập xuân vi nhất dương sơ phát, bả lập thu định vi âm tiêu dương chi thế, giá dữ đương hạ dịch thư trung dĩ tử ngọ định Âm Dương đích lí luận đại bất tương đồng, tức (Liên Sơn Kinh Dịch) Thị luận nhất niên tứ quý trung dần thân định Âm Dương đích. Lánh (Liên Sơn Kinh Dịch) Đích dương quái vi kiền hệ: cấn, li, tốn, âm quái khôn hệ: chấn, khảm, đoái. Cụ thể hoàn thiện đích (Liên Sơn Kinh Dịch) Trứ dĩ hoành không xuất thế, giá thị kí2200 niên tiền tần phần thư hậu, (Liên Sơn Kinh Dịch) Đích truyện nhân bả giá sáo bổn chúc vu toàn dân tộc đích nhân loại phác tố duy vật quan triết học thể hệ hoàn kì bổn lai diện mục, dĩ chánh đương hạ dịch học chi loạn tượng, dĩ phi thường cụ thể đích khách quan thật vật luận, mạc khán luận, sổ lí luận chứng minh (Liên Sơn Kinh Dịch) Tịnh mùi thất truyện. Ngã môn tái luận thạch ( kim) khắc mộc, tự nhiên giới đích thạch chẩm yêu năng tại tự nhiên điều kiện hạ khắc mộc ni? Hiển nhiên bất năng, đảo thị" giảo định thanh sơn bất phóng tùng" đích thụ mộc căn hệ bất đoán đích sanh trường trát căn nhi hội sử thạch liệt băng hóa, giá diệc năng khiếu mộc khắc kim. Mộc khắc thổ. Mộc y thổ sanh, thổ dĩ bồi mộc, tương hỗ y tồn, mộc đích bổn tính thị trường, thân, duyên, triển, tẫn khả năng đích y thổ nhi thân hòa, tố đáo ngã tại nhĩ trung, tịnh bất hội sử thổ hữu bán điểm tổn háo, phản nhi do vu mộc đích tồn tại thổ bất hội bị thủy xung xoát lưu thất, chẩm năng thuyết thị mộc khắc thổ ni? Thổ khắc thủy. Thổ thủy tương y, thủy trung hữu thổ, thổ trung hữu thủy, thủy tính hạ lưu nhi thổ đáng tụ chi đổ sử chi bất phiếm lạm, tòng mỗ chủng ý nghĩa thượng giảng thổ thị khả dĩ trì thủy, đãn bất năng luận khắc, đệ nhất: thổ thị thủy chi căn, nhược vô thổ hàm thủy, thủy chi bất bảo, đệ nhị: chiêm địa cầu diện tích thất thành đích hải dương bất khả bất vị thủy chi hạo miểu, dĩ thổ lai trì, hà khả vi dã? Đệ tam: thổ nhược vô thủy tư nhuận tất táo, trần ai đãng đãng, nan vi bổn tính, sở dĩ thủy thổ bổn thị cộng tồn nhất thể đích bỉ hòa quan hệ, như lục thập tứ quái" Thủy Địa Tỷ" khả thuyết minh giá nhất điểm. Thủy khắc hỏa canh thị bất khả lí dụ, thái dương vi hỏa, vi chân hỏa, nhất cá thị hằng tinh chiếu diệu thiên quang, hàn lãnh đích băng thủy kháo thái dương chi hỏa lai dong hóa noãn chi tài năng sử kì hoạt tính tự như, ôn độ tái cao thì thủy khả thăng đằng khí hóa thành vân trí vũ, tuần hoàn vu tự nhiên giới trung, hà khả thủy năng khắc hỏa, thối nhất bộ thuyết: địa xác chi hạ địa hạch nội bộ đích nham tương ôn độ cao đạt kỉ thiên nhiếp thị độ, thí vấn địa cầu thượng na tọa hải dương trung đích hoạt hỏa sơn bị hải thủy kiêu tức quá. Chứng minh thủy bất năng khắc hỏa. Hỏa khắc kim. Tảo tiên giảng địa cầu khách quan" tự nhiên phác tố", cha môn tựu luận" phác tố tự nhiên", bất năng nhân vi tham gia thập yêu cải tạo tự nhiên đích tưởng pháp ( như phong điện, thủy điện đẳng chích thị lợi dụng) . Kim bổn thị chỉ thạch, địa cầu hình thành chi sơ thạch chi biến bố địa biểu, tòng hữu liễu lãnh nhiệt khí lưu đích đối lưu phong tài hình thành, tái kinh quá kỉ thập ức niên đích phong hóa bác lạc, thổ nhưỡng dã hình thành liễu. Như quả thuyết thạch ( kim) tối hậu bác lạc thành thổ thị phong hóa đích năng lượng sử chi nhiên dã, giá dữ hỏa khắc thạch ( kim) hữu thập yêu quan hệ ni? Kim sanh thủy. Nguyên lai thị thuyết cổ nhân khán đáo đích thủy tự sơn thạch trung xuất, trung quốc đích tam giang nguyên xuất vu tây sơn, xuyên tàng, thanh hải chi địa ( đoái vi thạch, thạch vi kim, kim trung xuất thủy) , nhi thủy đích bổn nguyên tại đại hải chi trung, do thai phong, quý phong tái bả thấp nhiệt đích dương lưu Đới hướng đại lục, ngộ lãnh không khí thành sương tuyết vũ vụ nhi tư dưỡng vạn vật hoặc sấm tồn vu địa hạ, chẩm yêu luận dã khán bất xuất thạch ( kim) sanh thủy la tập, chích năng thị thuyết thủy tựu thị thủy, thủy đích lưu động vi phong năng nhi khởi, diệc giảng" phong sanh thủy khởi". Thủy sanh mộc bán thành lập, đãn tế thuyết thị thủy tư dưỡng vạn vật, tịnh bất năng độc sanh, thủ tiên tựu luận thực vật chi sanh trường, tất nhiên hữu thổ bồi, dương quang, ôn độ tái gia thích đương đích thủy xưng thấp độ, đan thị nhất cá thủy năng độc sanh vạn vật hồ? Diệc chích khả luận tư dưỡng. Mộc sanh hỏa. Thái dương chi hỏa kinh khoa học nghiệm chứng thị hạch năng, thị bất đoán hạch tụ biến sở sản sanh dữ mộc sanh hỏa tịnh vô quan hệ, địa xác hạ đích xích nhiệt nham tương diệc bất thị mộc năng sanh đích. Phi đắc thuyết tự nhiên trung đích sâm lâm đại hỏa, na dã thị yếu khán đệ nhất: tự nhiên trung Thiên Can vật táo tự nhiên hành vi, đệ nhị: lôi điện sử chi nhiên dã, phao khai nhân vi đích điểm nhiên, mộc tại tự nhiên giới trung sanh liễu hỏa chi thuyết dã thái cục hạn, tái thuyết vạn vật sanh trường kháo thái dương, thái dương nhiệt năng kinh quang hợp tác dụng chuyển hóa thành thụ mộc thực vật, giá thuyết minh địa cầu thượng kỉ hồ nhất thiết đích sanh vật động vật đô thị thái dương chi tử, mộc chủ nhân, nhân đồng nhân. Thị hỏa sanh liễu mộc, diệc khả luận hỏa thành tựu liễu mộc, mộc hà năng hà đức khả sanh hỏa dã? Chích năng thuyết mộc cụ hữu khả nhiên tính. Hỏa sanh thổ, địa cầu tại vũ trụ đại bạo tạc chi thủy vi hỗn độn chi trần ai trạng, mục tiền khoa học giới nhưng bất năng định luận hằng tinh hỏa sanh liễu hành tinh thổ, sở dĩ giá hỏa sanh thổ dã bất năng thành lập, chí vu mộc nhiên hóa hôi thành thổ chi thuyết chích thị tự nhiên giới đích cục hạn hiện tượng thành nhân chi nhất. Thổ sanh kim. Thổ dữ quáng vật thị kinh quá mạn trường đích địa xác địa lí khách quan biến hóa nhi cơ bổn cố định hạ lai đích trữ tàng hình thái, nhất tọa sơn lí diện, nhất khối địa cai thị kim quáng kí thị kim, cai thị thiết quáng kí thị thiết, tựu thị vạn vạn niên dã bất năng tái sanh tân quý, " thổ sanh kim" chích năng thuyết thị kim tự thổ xuất nhi tịnh bất năng sanh, dã bất hội trường. Tái khán trung quốc đương hạ đích Bát Quái, kiền, khảm, cấn, chấn, tứ nam quái, gia tốn, li, khôn, đoái tứ nữ quái, bát đích tồn tại thị chứng minh hữu cửu đích thành lập, nhân vi Bát Quái vi nhân phát minh sở tạo thiết, Bát Quái nhược bất vi mậu kỷ ( vô kỷ) phục vụ, kỷ thị ngã môn tự kỷ, trung ương" mậu kỷ thổ", phát minh Bát Quái đích cổ nhân khai thủy định thị dĩ nhân vi bổn đích lợi kỷ quan, Bát Quái cửu cung dã tựu hữu tồn tại đích ý nghĩa, kí nhiên thị Bát Quái gia trung ương" mậu kỷ thổ" cửu cá khái niệm, khước bị gia thượng Ngũ Hành hựu biến thành ngũ cá khái niệm, nhất hạ tử do cửu chủng lí luận thối hồi lai biến tác ngũ chủng khái niệm. Giá thuyết minh tòng tây hán thì, dĩ kinh phòng vi đại biểu đích dịch học hoặc hữu ý vô ý đích chế tạo liễu nhất chủng" ngụy phác tố triết học" Ngũ Hành sanh khắc luận, nhân na thì thứ nhân thị bất khả luận thiên văn đích, nhất trực đáo tam quốc đích tào ngụy thì đại, diễn thiên văn giả đô thị trọng tội. Tha môn dĩ Ngũ Hành thống Bát Quái, bả trung quốc dịch học đích cửu cá khái niệm lộng thành ngũ cá, giá dạng nhất trực truyện liễu hạ lai đáo kim thiên, trừ (Bạch thoại dịch kinh) Trung một hữu Ngũ Hành lí luận ngoại, kì dư kỉ hồ sở hữu dịch trứ đô dụng Ngũ Hành sanh khắc. Bát Quái thị luận đích thiên hạ thì không, tứ quý, nguyên vận đích biến hóa khái niệm, thì quang nhất khứ vĩnh bất hồi, nhĩ dụng hạ thiên đích hỏa khứ khắc thu thiên đích kim giá chẩm yêu khả dĩ truy đắc thượng khứ khắc? Giá thị khái niệm vấn đề, quyết phi thật vật đích tương hỗ luận chứng, ấn chứng khả giải thích, tại (Liên Sơn Kinh Dịch) Trung tựu bả lục khí đích khái niệm vấn đề đàm đích phi thường minh bạch, " thiên hạ kiền khôn nhi thống lục khí, cát hung họa phúc tùy tứ thì nhi phát, tuy thiên hạ vạn vật nhi phân vân, mạc quá hồ lục khí nhi vượng suy, vạn vật nhi sanh tức, bất quá lục khí nhi vận thông." nhượng ngã môn thí mục dĩ đãi (Liên Sơn dịch) Giá bổn cự trứ hoành không xuất thế hậu chi kiến chân khứ ngụy. Ngũ Hành lí luận trung bả Bát Quái dĩ nhân vi bổn đích triết học khái niệm cảo đích phi thường hỗn loạn nhi khả tiếu, khôn quái hậu thiên Bát Quái vị cư tây nam đại biểu lão thái thái, cấn quái hậu thiên Bát Quái trung vị cư đông bắc đại biểu thiểu nam, khán khán Ngũ Hành thị như hà tha hợp vi nhất cá " thổ" tự đại biểu, lưỡng quái bả cấn khôn đô đương tác thổ lai hoa vi nhất loại, thí tưởng Bát Quái vi cổ đại nhân bổn xã hội canh hảo đích sanh tồn triết học quan khả thiết, nhĩ bả nhất cá lão nãi nãi hòa nhất cá sanh mệnh lực cực cường đích thiểu nam phóng tại nhất khởi giá như hà năng thành lập? Ngũ Hành khẩu khẩu thanh thanh thị phác tố triết học, chẩm yêu đáo giá tựu giảng bất thông lí liễu, giá thị phác tố triết học mạ? Tái khán lánh nhất cá bất năng nhượng nhân giải thích đích Ngũ Hành" khách quan" bằng cư, hậu thiên Bát Quái kiền vi lão đầu cư tây bắc, đoái vi thiểu nữ cư chánh tây, nhất cá lão đầu hòa nhất cá thiểu nữ đồng hoa vi kim, thậm chí liên tính biệt đô bất cố hồ loạn niết tác, chân đích thái khả khí nhân; tốn vi mộc vi trường nữ, chấn vi mộc vi trường nam, nhị cá dị tính nam nữ hiện tại chích báo nhất cá nhân đích hộ khẩu, thùy khả dĩ giải thích giá Ngũ Hành chi phụ chẩm yêu sanh xuất giá dạng ngũ cá ngũ bất tượng đích sản vật? Bát Quái diễn biến chi thủy, nguyên bổn thị yếu tiên cảo thanh sở nhất niên tứ quý dữ Âm Dương biến hóa đích quy luật định nghĩa, tái tiến hành hoàn thiện tự nhiên khái niệm đích lí luận khuông giá, giá thị trung quốc nông bổn xã hội tại dĩ nông canh vi chủ yếu xã hội nhâm vụ hạ sang kiến đích khoa học chủng điền quan. Thị đương thì xã hội cấp nhu đích nhất cá cụ hữu thật dụng tính cương lĩnh tính đích chỉ đạo học thuyết, (Liên Sơn Kinh Dịch) Trung đích Bát Quái lí luận thể hệ chủ yếu thị giảng chánh gia pháp gia như hà ngự dân, binh gia như hà chinh chiến, nông gia như hà thích thì canh chủng thu hoạch, giáo dục gia như hà giáo nhân thành tài, Âm Dương gia như hà giáo nhân thuận ứng thiên đạo dữ thì giai hành, thiên văn học gia như hà dự tri cát hung họa phúc, tự gia như hà diễn phồn sanh tức, y gia như hà biện chứng thi trì, đạo gia, dưỡng sanh gia như hà duyên thọ thiên niên đẳng. (Liên Sơn Kinh Dịch) Bất luận Ngũ Hành sanh khắc chế hóa, tha đích quái từ trừ kiền quái nhất quái hữu đồng (Bạch thoại dịch kinh) Kì dư 63 cá quái đích quái từ, huấn từ, hào từ dữ (Bạch thoại dịch kinh) Vô nhất tương đồng, dĩ cung biến, tượng biến vi diễn quái đích cơ bổn thôi lí bộ sậu, bả tam dịch chi quan (Chu dịch), (Liên Sơn dịch), (Quy tàng dịch) Chi thủ (Liên Sơn dịch) Thành trứ dĩ kì thế nhân. Bả 2200 niên dĩ lai khẩu khẩu tương truyện mật nhi bất tuyên đích giang hồ phái lí luận tuyệt bí văn hiến công chư vu thế, giá bộ (Liên Sơn dịch) Tương hội đối đương kim lưu hành đích cửu gia dịch, dĩ Ngũ Hành sanh khắc chế hóa vi đại biểu đích lí luận thể hệ tiến hành nhất thứ đại biến cách. Tự hán dĩ lai truyện thuyết thất truyện độn ẩn vu giang hồ chân chánh đích duy vật phác tố triết học đại biểu tác (Liên Sơn dịch) Hiện dĩ công bố vu thiên hạ. Chánh phùng tổ quốc lục thập hoa đản, vận hành cấn bát bạch vận đệ thất niên 2009 - 2010 niên vi sửu dần cấn quái sở chủ. Vi Liên Sơn duyên miên, (Liên Sơn dịch) Trọng xuất diện thế tất tương đối trung quốc kim hậu kỉ thiên niên đích văn hóa tư tưởng hữu trứ phi thường cự đại đích thôi động hòa ảnh hưởng, sử lịch kinh22 cá thế kỉ dĩ lai Liên Sơn truyện nhân tư tư bất hối trung thật nguyên trứ, bảo tồn trung hoa văn minh sử côi lệ thiên chương đích tiên sư môn anh linh đắc dĩ cáo úy, tha môn tương vĩnh thùy thanh sử. Liên Sơn cận đại tiên tổ sư " bạch thắng ngọc" tằng lưu thi sấm cấp đương đại tông sư hàn nghệ tiên sanh viết: Liên Sơn quy tàng bổn ứng tàng, chân ngôn bất tàng khủng dư ương; thập nhị cửu cung Liên Sơn tuế, ứng thị Liên Sơn hoán tân trang.