Cảm ơn ThienKhanh bài viết rõ ràng mạch lạc, hữu dụng.NeBoTat đã viết: 16:07, 20/09/17 Trời hỡi. Mình không phải tác giả quyển này. Cũng không đủ trình độ để viết sách.
Đọc đoạn trích coi chừng hiểu nhầm!
"Tác dụng giữa can (dương) và chi (âm) là tác dụng cơ bản nhất, ngay cả trong can chi khác trụ, chỉ cần thiên địa thông khí thì tác dụng giữa chúng rất lớn. Khoảng cách không phải là vấn đề cản trở tác dụng tương hỗ giữa chúng."
Đọc ngược lại: Chúng = chúng = can chi thiên địa thông khí (thiên can thấu ra gặp căn tại địa chi tứ trụ) = tác dụng giữa can (dương) và chi (âm).
Như vậy câu "khoảng cách không phải là vấn đề cản trở tác dụng tương hỗ giữa chúng" chỉ áp dụng cho vấn đề thiên địa thông khí, tức căn khí. Ví dụ nhật chủ Giáp sinh niên Hợi là thiên địa thông khí, tức thiên khí Giáp đắc căn tại địa khí Hợi, tức thiên khí nối liền địa khí. Dù có có cách xa nhau vẫn luận là thiên địa thông khí, tức can Giáp có căn. Chứ không phải áp dụng cho tất cả mọi trường hợp sinh khắc chế hoá hình xung hại hội hợp trong Tử Bình.
Thêm nữa, căn vẫn tính xa gần. Ví dụ nhật chủ can Giáp sinh ngày Dần là toạ lộc địa, còn gọi là tự vượng. Còn nhật chủ Giáp nếu sinh năm Dần thì không gọi là tự vượng. Khái niệm "tự vượng" chứng tỏ căn khí cũng cần phải tính xa gần.
Ngoài ra còn thấy tính xa gần của căn khí qua khái niệm thê tòng phu hoá trong một số sách.
Bây giờ giả sử nhật trụ Giáp Dần sinh tháng Kỷ Mão (Giáp đắc căn Dần, Mão). Tức bát tự có dạng: XX XX - Kỷ Mão - Giáp Dần - XX XX. Giáp - Kỷ - Dần Mão, Kỷ tòng Giáp hoá mộc cục.
Bây giờ giả sử nhật trụ Giáp Ngọ sinh tháng Kỷ Mão, năm Ngọ, giờ Bính Dần (Giáp vẫn đắc căn Dần Mão). Tức bát tự có dạng: XX Ngọ - Kỷ Mão - Giáp Ngọ - Bính Dần. Trong trường hợp này Kỷ Mão - Giáp Ngọ không luận Kỷ tòng Giáp hoá.
Như vậy, qua hai khái niệm Tự Vượng và Thê Tòng Phu Hoá cho thấy sự xa gần của căn khí cũng có tác dụng chứ không thể phụ định hoàn toàn như tác giả sách này.
Tóm lại, tác giả viết như vầy có đúng, có sai. Đúng ở chỗ luận căn khí để tính tinh khí bản nguyên và đi đến kết luận vượng nhược thì thường ít (chứ không phải không bao giờ) nhìn đến căn khí xa gần. Như vậy sẽ đơn giản hoá quá trình luận vượng nhược 1 chút, dễ dàng nhập môn. Sai ở chỗ bỏ qua xa gần của căn khí là thiếu sót về mặt luận khí thế của bát tự.
Đồng thời tác giả cũng lẫn lộn giữa Lý và Tượng. Bát tự niên Giáp Tuất, thời Canh Tuất; khi luận vượng nhược thì không luận Canh khắc Giáp vì là cách khắc. Tuy nhiên khi luận xuất thân thì mới luận Canh khắc Giáp, tức là do Tuất phục ngâm nên Canh có ý khắc Giáp, từ đó mà luận cha mẹ, tổ tiên như thế này, như thế kia chẳng hạn. Luận vượng nhược là Lý, luận cha mẹ, tổ tiên (xuất thân) là Tượng, Số.
Thêm nữa luận Tuất thổ không sinh Thân kim do Tuất toạ Không Vong là không chính xác. Không Vong chỉ là 1 thần sát, nó không có tác dụng vô hiệu hoá ngũ hành. Ví dụ sinh ngày Giáp Tý (Tuất, Hợi Không Vong), tháng Hợi. Rõ là bắt buộc phải luận Giáp trát căn tại nguyệt lệnh Hợi, đồng thời thuỷ vượng. Ai dám luận nguyệt lệnh Hợi lâm Không Vong nên Giáp bị bạt căn, thuỷ không vượng? Một lần nữa, luận ngũ hành vượng nhược thuộc phạm trù Lý. Không Vong là Thần Sát, nó thuộc phạm trù Tượng, không phải Lý. Nếu Không Vong là Lý, bắt buộc phải luận tháng Hợi lâm Không Vong, thì trong tháng đó toàn bộ thuỷ khí đều bị vô hiệu hoá. Nhưng luận như vậy hoàn toàn không chính xác. Cho nên phải hiểu đâu là Lý, đâu là Khí, đâu là Tượng, đâu là Số. Không nên lẫn lộn giữa Lý và Tượng như vậy.
Tôi vốn rất nhiều năm hành tẩu chốn giang hồ Tử Bình nhưng thú thật là đọc nhiều lần vẫn ko hiểu thấu đâu là Lý, Khí, Đâu là Tượng, Số. Mong ThienKhanh có bài viết
giảng giải vấn nạn này ( đối với tôi), rất cám ơn bạn.
