Đinh Mùi - Đinh Mùi - Kỷ Hợi - Đinh Mão
Sách viết:
Phần dịch đại ý là:Thử mệnh Kỷ Hợi nhật, Kỷ lâm Hợi thượng, thân nhược vu Hợi, gia dĩ Hợi Mão Mùi cục khắc thân, niên nguyệt thời thấu xuất tam Đinh Đảo thực, ấu niên hành Nam phương vận, lại Hỏa sinh Thổ thân do vượng. Tài giao Ất Tỵ vận, vi Kỷ chi Thất sát, dẫn xuất Hợi Mão Mùi Mộc cục, tuế phùng Quý Hợi, sở dĩ tử hỹ. Thử mệnh phi đán Đảo thực Thất sát chi họa, nhi Quý Hợi niên dữ sinh Sát hoại Ấn chi thuyết đồng nghĩa dã.
Em/cháu có vài băn khoăn như sau:Can ngày Kỷ đứng trên đất Hợi là nhược, lại gặp Hợi Mão Mùi tam hợp Mộc cục khắc thân, có 3 thiên can Kiêu thần. Thời niên thiếu, hành vận phương Nam, Hỏa sinh Thổ trợ thân. Đến vận Ất Tỵ, Ất là Sát, dẫn Mộc khí từ Mộc cục ra, gặp năm Quý Hợi thì người này qua đời. Không chỉ là do mệnh có Đảo thực, Thất sát là hung họa, mà còn gặp năm Quý Hợi sinh Sát hoại Ấn.
1. Trong Tử Bình Chân Thuyên có nói đến việc "hợp một giữ một". Địa chi có 2 Mùi, vậy sẽ hợp một Mùi giữ một Mùi. Vậy thì Mùi nào trong hai Mùi sẽ bị hợp?
2. Ở đây, tác giả xét thân nhược dựa trên mối quan hệ với nhật chi nhưng chưa xét đến mối quan hệ của nhật can với các thiên can và địa chi khác. Mặc dù Hợi và Mộc cục đều công thân, nhưng Kỷ sinh vào tháng Mùi là quan đới, lại thông căn với lệnh tháng. Đinh được Mộc cục sinh nên vượng, mà Hoả sinh Thổ, vậy thì Kỷ Thổ ở đây phải rất vượng chứ? Vậy thì cách nhìn nào sẽ được chấp nhận?
3. Trong này nói rằng mệnh có Kiêu Sát là hung hoạ, thế nhưng cũng trong Uyên Hải Tử Bình, và trong Tử Bình Chân Thuyên có nói rằng "Kiêu Sát là kị thần, cũng có thể là hỉ thần". Cháu có mấy băn khoăn thế này:
- Nếu thân là nhược, thì Kiêu thần sẽ đóng vai trò dụng thần sinh thân. Tử Bình Chân Thuyên nói "Ấn không phân Chính/Thiên, đều có thể tiết khí Quan Sát sinh trợ cho thân". Vậy sao có thể nói Kiêu Sát ở đây là hung hoạ được?
- Nếu thân là quá vượng, thì ở đây Kiêu Sát là kị thần vì sinh thân thái quá. Như thế, làm sao thuở nhỏ vận hành phương Nam có thể tốt được?
Ở đây cháu sử dụng hoàn toàn lí luận về ngũ hành và sinh khắc của thập thần, chưa nói đến tính chất Kiêu đoạt Thực.
4. Cũng là vấn đề với sinh vượng của ngũ hành. Ngũ hành cũng phân theo âm dương. Đối với dương can, cháu cảm thấy lí luận có vẻ rất thuận, nhưng đối với âm can, có rất nhiều vấn đề.
Chẳng hạn như Bính Hoả gặp Mộc cục ở địa chi thì sẽ được trợ giúp, vậy Đinh Hoả có như thế không? Hay Đinh Hoả thì có sinh Kỷ Thổ không, hay phải Bính Hoả mới sinh Kỷ Thổ?
Về thể cách, người ta hay nói đến Mộc mùa đông, Hoả mùa thu ... nhưng tính chất này sẽ áp dụng cho cả dương can và âm can, hay chỉ cho dương can thôi? Vì trong sách cũng có nói "Dương sinh thì Âm tử". Vậy Mộc cuối mùa đông, khí bắt đầu lớn dần lên là chỉ đúng với Dương Mộc thôi, chứ Âm Mộc thì lúc đó đang chết dần đi?
5. Khi có hợp ở địa chi, giả sử hợp lệnh tháng (ví dụ Mùi là lệnh tháng, hợp Mộc cục), khí của lệnh tháng có còn không, có dùng khí của lệnh tháng để luận không? Hay lúc này cả ba địa chi Hợi Mão Mùi sẽ chỉ luận là Mộc thôi? Những can tàng trong địa chi có dùng để luận nữa không?
Cháu xin cảm ơn và rất mong nhận được sự thảo luận chi tiết của các bậc tiền bối về những vấn đề này.