Đây là 1 số ls về thướng quan trong bài viết của bác phokhong trên
www.nhantrachoc.net.vn
1- Khang Hữu Vi
Khang Hữu Vi cũng biết xem Tử Bình, chẳng biết số mình phát quý ở chỗ nào mà cuộc đời gặp toàn là thất vọng, cứ thở vắn than dài mãi.
Cái lầm của Khang là : số mình tốt đúng là quý cách, chẳng lẽ lại không thể toại nguyện trên đường công danh. Số mình phải là số nắm chính quyền, ấy thế mà lại không được thì phi lý lắm!
Đấy là cái lầm của Khang Hữu Vi, nhưng vẫn không làm sao tìm được một lời gải thích rõ ràng. Cho đến khi về quê gặp được Thiều Vân Đại Sư tại ngôi chùa cổ kim Sơn.
Dưới đây là giải đoán của Thiều Vân đại sư tại chùa Kim Sơn.
-Thủy Hỏa thừa vượng, chân Thương Quan cách! Đúng là cái số được thừa hưởng tiếng thơm để đời… điều đáng tiếc là ở chỗ “ niên can thấu Thất Sát, bị Thương Quan ức chế, khiến Thất Sát bị ức chế, không thể phát triển uy lực, cho nên không thể chấp chưởng chính quyền được!
-Năm Dân quốc thứ 17 Mậu Thìn, khang Hữu Vi mất thọ 71 tuổi., đó là đại hạn Nhâm Tuất tương xung mà ra.
-Sau cuộc thoát hiểm chính biến năm Mậu Tuất. Khang Hữu Vi không còn có cơ hội tốt trên hoạn lộ nữa.
Nữ sĩ Trần Tiểu Thúy phê là : Thân nhược có Ấn, tuyệt đỉnh thông minh, phi thiên lộc mã Tuế Đinh Mão, hồng lô hỏa, rất kỵ với Tân Hợi. chết, lại phê là nhu kim sợ mộc.
Như trụ của Tiền Thanh Bành Cương Trực Công Ngọc Lân,
6- Năm Bính Tý,tháng Tân Sửu, ngày Mậu Tý, giờ Qúy Sửu.
Quý Tân trong Sửu lộ lên
( Thương Quan ) là quý,
nhưng mùa đông Thổ đông cứng, không có Bính Hỏa sưởi ấm, thì dụng chẳng hiển lộ.
Mừng được trụ năm Bính Hỏa hợp mà không hóa
( tháng Sửu Bính Tân không hóa Thủy, nên nói hợp mà không hóa ),
đến đại vận hành phương nam, Bính Hỏa đắc địa, mà Mậu Thổ Tân Quý, đều được hiển dụng, cũng là điều hoà khí hậu vậy.
( Trụ trên “ Mệnh Giám “ phê rằng, dễ lầm với đảo xung cách, nếu như hiểu được, thì nhân đó mà hiểu cách cục kỳ dị xưa nay, phần nhiều như thế. Biết thêm như vậy, đến cả cái lỗi của mình ).
Thương Quan gặp Quan, là họa trăm mối (Thương Quan kiến Quan, vi họa bá đoan ) mà Kim Thủy gặp được, trái lại là thành tốt đẹp.
Không có Quan nào mà không sợ Thương, nhưng Điều Hậu là điều cần gấp, phải tạm dùng vậy.
Thương Quan đới Sát, tùy thời có thể dùng, mà Kim mùa đông dùng nó
(Sát), thì đẹp gấp trăm lần. Ấy là nói Kim Thủy Thương Quan vậy.
Nguyệt lệnh Thương Quan, vốn lấy Quan Sát làm kỵ,
Chỉ có Kim Thủy Thương Quan, sanh mùa đông, kim lạnh Thủy đông cứng, lấy Hỏa làm đẹp, chẳng luận Quan Sát vậy.
Càng nên có thêm
thân Ấn cả hai đều vượng, Tài Quan thông căn (có gốc), mới thành quý cách.
7- Như Giáp Thân,Bính Tý, Canh Thìn, Giáp Thân,
Mộc Hỏa không có gốc
( Giáp Mộc tại Thân đều là Thai địa, Bính Hỏa tại Tý là Thai địa, không có Nhận hay Lộc nên gọi là không có gốc ),
Tuy tiểu phú nhưng mà chẳng quý,
( Như trên đã nói thân Ấn cả hai đều vượng, Tài Quan thông căn, mới thành quý cách, nên ở đây mới nói tiểu phú nhưng mà chẳng quý là vậy
) vả lại không thể dùng Tài Quan,
Thân vượng lấy Thương Quan tiết khí làm dung thần,
riêng Bính Hỏa
(là Sát ) Điều hậu, giúp phối hợp không thể thiếu được, như không có thì là trụ nghèo hèn vậy.
( Theo cụ Lâm Thế Đức thì cách Thương Quan là cách khó coi nhất cụ đã lấy 5 thí dụ về Thương Quan cách trong sách Tử Bình Nhập Môn quý vị cũng nên tham khảo thêm. )
Có khi tuy được Điều Hậu mà thân nhược như:
9- Như Canh Thìn, Nhâm Ngọ, Giáp Thìn, Đinh Mão.
Mộc mùa hạ Đinh Hỏa như nở hoa,
ngày Thìn giờ Mão, thân không phải là nhược, nên mừng Nhâm Thủy
(Ấn ) thấm nhuần tươi mát,
thêm được Canh Kim sanh Ấn
(Sát là Nguyên thần của Ấn, là Nguồn của Ấn Dụng Thần )( chỗ này nói vô lý quá,thân không phải nhược tức là thân vượng, mà thân vượng thì mừng gặp Ấn làm gì? Đã vượng mà gặp Ấn tức là kỵ thần rồi.ở đây ý nói là vượng nhờ Ấn được một mạch tương sinh. Xem tiếp bên dưới. trụ này rõ ràng là thân nhược. dù vượng hay nhược đều phải dùng Nhâm Ấn để điều Hậu) ,
2 Thìn
(Thổ ) tiết cái khô của Hỏa,
sanh kim nuôi thủy , phối trí trung hòa , làm thanh trong sạch quan sát vậy.
( Thương ) (2 Thìn Tiết cái khô của Hỏa sanh Kim Thủy nuôi thủy nghĩa là Hỏa sanh Thổ, Thổ sanh Kim, Kim sanh Thủy. nói cách khác là: Đinh Thương sanh Thìn Mậu Tài, Mậu Tài sanh Canh Kim là Sát, Sát sanh Ấn là nuôi Thủy ) ,
Nhưng mà Mão, Giáp Dần tọa Lộc, giờ gặp Mão Mộc
(Nhận), nên
Nhật Nguyên đã vượng, không thể đeo Ấn, nên chỉ quý ít, mà chẳng đẹp bằng đeo Ấn.
Không như ngày là Kim Thủy thì tất nên gặp Hỏa vậy.
( nghĩa là ngày Kim sinh tháng Thủy mùa đông là Kim lạnh Thủy đông cứng,mừng gặp Hỏa là Điều Hậu vậy )
Thương Quan dùng Tài, vốn là quý cách,
mà dùng Thủy mùa đông, dù được tiểu phú, cũng phần nhiều chẳng quý, vì nước đá
( nước đông cứng ) không thể sanh mộc vậy.
25-Như trụ này Giáp Dần, Canh Ngọ, Ất Mão, Bính Tý.
( Ngày Ất không có Đinh mà có Bính lộ lên là Thương Quan cách)
Thực Thần khinh (nhẹ) bị Ấn xung,
(Tý xung Ngọ)
Quan khinh không có Tài,
( Quan Canh tại Ngọ là Mộc Dục nên nói là Quan đã không có gốc mà Quan lại không có Nguyên thần Tài sinh vì Tài là Nguồn của Quan. Nếu có Tài sinh thì Quan mới vượng trở lại)
lại bị Bính
( Thương Quan ) khắc, là số mệnh ăn mày vậy.
(nghĩa là Quan yếu không có gốc, hay Quan gặp Thương Khắc mà không có Tài lộ lên để Thông Quan hóa giải)
Những loại như thế rất nhiều , không cần kể hết, học giả coi nhiều, sẽ tự nhiên hiểu mà thôi.
Xem cách biến hóa ở trên có thể biết dụng thần cho đến thần trợ giúp (phụ tá) , quan trọng nhất là nhật chủ có cần hợp hay không?
Như nhu cầu cần hợp, thì gặp Thương Quan chẳng
(hại) ngại;
Nếu không cần hợp, Tài Quan đều là vật có hại.
( nghĩa là Quan gặp Thương là Kỵ Thần thì Thường cần phải hợp thì Quan gặp Thương chẳng ngại. nếu cách cục chính bị hợp đi là bị phá cục phá cách dù gặp Tài Quan cũng là có hại )
Còn có 2 thần thành tượng
*, như Thủy Hỏa đối nhau,
không thể không lấy Mộc để Điều hòa,
như tứ trụ không Mộc, thì cũng phải đợi vận Mộc, bù đắp chỗ thiếu (khuyết), thì mới có thể lập được sự nghiệp.
Do nhu cầu cần Mộc như vậy, nên gọi là Thông Quan vậy.
LƯỠNG THẦN THÀNH TƯỢNG LÀ GÌ?:
Sách Tân Mệnh Lý Thám Nguyên trang 215 giải thích như sau: hai thần thành tượng là Bát Tự từng đôi, hai hành lại tương đình như tương sinh tức là:
kim Thủy phân đôi không gặp Hỏa Thổ lẫn vào. Thí dụ: kim Hỏa Thủy Thổ
Mộc Hỏa phân đôi không gặp Kim Thủy lẫn vào. Mộc Kim Hỏa Thủy
Hỏa Kim chia đôi không gặp Thủy lẫn vào. Hỏa Thủy Kim
Chỉ là hai thần trong sáng, nhân đó có thể lấy.
Nếu có một chữ chẳng quân bình tức là nghiêng về một mà chẳng nhập cách.
Như vậy trong tứ trụ không thiếu gì lối nghiêng về một phía, nên phải tường tận xét cái không nghiêng về bên nào, vô hỗn phương thủ.
Lại còn theo tình lý vô hình xung, hành vận cùng được nhất loạt trong sáng mới là diệu. chớ thấy trụ có hai thần mà đã cho là thượng cách.
như vậy 2 THẦN THÀNH TƯỢNG LÀ 2 hành hợp lại thành tương sinh không có hành khắc xen vào.
Nếu 2 hành tương khắc thì dùng 1 hành để hóa giải cái khắc của 2 bên hay còn gọi là Thông Quan.
Lưỡng Thần thành tượng
Xin trích dẫn thêm theo sách Dự báo Tử Bình của Trần Khang Ninh giải thích như sau:
Gọi là Lưỡng Thần Thành Tượng, là 2 hành đều chiếm 2 can chi, lại có tương sinh và tương thành.
Thí dụ:
Ngũ hành của Mệnh đều chiếm 2 can chi, thuần thanh không tạp, tương sinh cho nhau, như Thủy Mộc, gọi là Thủy Mộc tương sinh cách,
Nếu trong Tứ Trụ mệnh cục mà ngũ hành ở hai trụ lại tương khắc thì gọi là Tương thành.
Thí dụ:
Do tứ trụ Thổ Mộc đều chiếm hai Can chi tương khắc mà lại Tương thành, cho nên gọi là Thổ Mộc Tương Thành cách. v.v… các cách tương khắc khác cũng như vậy.
Chọn dụng thần ở bên ngoài Tứ trụ, lại rất là kỳ lạ.
Phàm Bát tự tất lấy trung hòa làm quý, một bên nghiêng về vượng, mà không có thần nào
Điều tiết , tuy thành cách cục, cũng không được tốt đẹp.
Bính Tân tương hợp , mà Quan vượng thông căn
( Quan có gốc tại Dậu ).
Đây là nhiều Quan cùng với Sát , lấy Bính Hỏa chế Quan làm dụng thần.
( ví dụ này Nhật Nguyên nhược có nhiều Quan Sát khắc thân. Nhưng Quan Tân có gốc tại Dậu dù bị Bính Thực hợp mà Quan vẫn không bị Hóa mất Quan, mà Quan vẫn khắc Nhật Nguyên, nên phải dùng Bính Thực để khắc chế )
10-
http://www.nhantrachoc.net.vn/forum/sho ... php?t=5407