Những sai lầm trong học thuật trong phán đoán cường - nhược của can ngày

Hỏi đáp, luận giải, trao đổi về tử bình (tứ trụ, bát tự)
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục dành cho việc xem lá số tứ trụ (tử bình, bát tự). Các bài mang tính trao đổi học thuật xin vui lòng đăng trong mục Kiến thức tứ trụ.
Các bài không liên quan sẽ bị chuyển khỏi chuyên mục này.
yesterday2016
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 3853
Tham gia: 18:29, 08/07/16

TL: Những sai lầm trong học thuật trong phán đoán cường - nhược của can ngày

Gửi bài gửi bởi yesterday2016 »

Các bạn mới nghiên cứu Tử Bình rất dễ bị mụ mị theo sách Thiệu Vĩ Hoa về xác định cường nhược cho can Ngày.
Sách Thiệu Vĩ Hoa rất hay ở các mục khác, nhưng về sự xác định cường nhược cho can ngày là điểm yếu chí tử của cuốn sách này.

Ngày Nhâm sinh tháng Tuất, nếu chỉ để thế này thì chưa thể khẳng định cường nhược gì cả, nhưng nếu tra bảng "sinh vượng tử tuyệt" thì thấy Nhâm quan đới lệnh tháng Tuất, thì người học sẽ dễ dàng có xu hướng Nhâm đắc lệnh tháng, và chỉ cần có thêm chút trợ giúp của các can chi còn lại thì sẽ dễ quy là Nhâm là thân mạnh, cần hao tiết hoặc khắc chế.

Nhưng đúng lí ra theo bảng "vượng tướng hưu tù", thì Nhâm phải Tử ở tháng Tuất, tức là rất yếu. Nếu muốn Nhâm trở thành Thân mạnh thì phải có sự trợ giúp rất lớn của các can chi khác còn lại trong tứ trụ, thì Nhâm mới có cơ hội được đánh giá là trở thành mạnh được.

Ý của tác giả cuốn sách trên là vậy. Bảng sinh vượng tử tuyệt dễ dẫn đến sai lầm.
Đầu trang

imfine
Chính thức
Chính thức
Bài viết: 98
Tham gia: 11:07, 26/07/17

TL: Những sai lầm trong học thuật trong phán đoán cường - nhược của can ngày

Gửi bài gửi bởi imfine »

cái cách dùng từ cũng chưa chuẩn là thế nào?
chia ra vượng suy và cường nhược.
Vượng suy là xác định theo vượng tướng hưu tù tử,
vượng tướng là vượng
Hưu tù tử là suy
Mùa xuân mộc vượng hỏa tướng, thủy hưu, kim tù, thổ tử
...
tứ quý, thổ vượng kim tướng, hỏa hưu, mộc tù, thủy tử.
Còn Cường nhược là tổng hợp sinh, trợ giúp, lệnh tháng như cụ thiệu vỹ hoa. Có điều thuận miệng thì gọi luôn là thân vượng và thân nhược.
Chính vì thế có trường hợp thân vượng mà không cường, thân suy mà không nhược.
Đây chỉ là cái cách gọi thôi, chứ có gì mà phải cãi nhau
Đầu trang

yesterday2016
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 3853
Tham gia: 18:29, 08/07/16

TL: Những sai lầm trong học thuật trong phán đoán cường - nhược của can ngày

Gửi bài gửi bởi yesterday2016 »

imfine đã viết: 12:20, 18/09/17 cái cách dùng từ cũng chưa chuẩn là thế nào?
chia ra vượng suy và cường nhược.
Vượng suy là xác định theo vượng tướng hưu tù tử,
vượng tướng là vượng
Hưu tù tử là suy
Mùa xuân mộc vượng hỏa tướng, thủy hưu, kim tù, thổ tử
...
tứ quý, thổ vượng kim tướng, hỏa hưu, mộc tù, thủy tử.
Còn Cường nhược là tổng hợp sinh, trợ giúp, lệnh tháng như cụ thiệu vỹ hoa. Có điều thuận miệng thì gọi luôn là thân vượng và thân nhược.
Chính vì thế có trường hợp thân vượng mà không cường, thân suy mà không nhược.
Đây chỉ là cái cách gọi thôi, chứ có gì mà phải cãi nhau
Thôi, dùng từ Mạnh yếu cho nó dễ.
Mấu chốt là vấn đề đắc lệnh tháng.
Nếu Thân đắc lệnh tháng thì được coi là có xu hướng Thân mạnh.
Nếu Thân không đắc lệnh tháng thì được coi là có xu hướng Thân yếu.

Theo ông Thiệu Vỹ Hoa, nếu Nhâm sinh tháng Tuất, thì dễ có xu hương Thân mạnh lắm, vì quan đới mà, chỉ cần thêm chút ấn hoặc chút tỷ kiếp thì Thân trở nên mạnh ngay.

Theo tác giả Lý Nhuận Cường, Nhâm sinh tháng Tuất thì có xu hướng là Thân yếu rồi, có thêm ấn hoặc tỷ phải rất nhiều may ra mới kéo lại thành Thân mạnh.

Hai thứ khác nhau hoàn toàn.
Đầu trang

yesterday2016
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 3853
Tham gia: 18:29, 08/07/16

TL: Những sai lầm trong học thuật trong phán đoán cường - nhược của can ngày

Gửi bài gửi bởi yesterday2016 »

Đắc lệnh tháng thì chưa đủ chắc chắn là Thân mạnh.
Thất lệnh tháng chưa đủ chắc chắn là Thân yếu. Vì còn tính cả 6 chữ còn lại hợp xung sinh khắc.... thì mới kết luận đc.

Nhưng dù gì, Thân đắc lệnh tháng cũng giống như đá bóng hết hiệp 1 dẫn 5-0, coi như đã chạm tay 50% vào chiến thắng rồi.
Do đó, Thân đắc lệnh tháng thì coi như chạm 1 tay vào cái tiêu chuẩn là "Thân mạnh" rồi. Nhưng theo sách ông Thiệu, Can ngày Nhâm sinh tháng Tuất là coi như chạm 50% vào "Thân mạnh", mà đáng lí ra đây phải là xu hướng Thân yếu, là trạng thái Tử.

Bạn nào mới nghiên cứu tứ trụ cứ thận trọng với cái này thôi.
Đầu trang

NeBoTat
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 450
Tham gia: 23:03, 01/07/15

TL: Những sai lầm trong học thuật trong phán đoán cường - nhược của can ngày

Gửi bài gửi bởi NeBoTat »

Về vấn đề vòng trường sinh tôi có trình bày ở nơi khác. Nay tôi sao chép lại sang đây cho mọi người tham khảo. Vì muốn tiết kiệm thời gian và cung cấp 1 cái nhìn tổng thể để mọi người dễ hiểu, tôi sẽ sao chép nguyên văn và toàn văn. Tôi chỉ chỉnh màu xanh những phần tôi cho là quan trọng.

Câu 3: 建禄生提月,财官喜透天,不宜身再旺,惟喜茂财源。

Kiến lộc sinh đề nguyệt, tài quan hỷ thấu thiên, bất nghi thân tái vượng, duy hỷ mậu tài nguyên
(Kiến lộc tại đề cương nguyệt lệnh, Tài Quan hỷ thấu lộ, không thích hợp thân lại vượng thêm, chỉ hỷ nguồn Tài mạnh)

-----

“Kiến lộc sinh đề nguyệt”: Trong phần này Ngũ Ngôn Độc Bộ vẫn dùng nhật nguyên mộc làm ví dụ. Mệnh Giáp sinh tháng Dần, hoặc mệnh Ất sinh tháng Mão là kiến lộc tại trụ tháng. Trụ tháng còn gọi là nguyệt lệnh hoặc đề cương. Đây chính là phác thảo mệnh cục dùng làm ví dụ cho câu này.

Ở câu này có hai vấn đề cần lưu ý. Thứ nhất là kiến lộc; thứ hai là nguyệt lệnh đề cương.

Ở hai câu trước tác giả đề cập đến các yếu tố cơ bản nhất của mệnh lý Tử Bình là triết lý Nhân đạo, và mệnh vận của một người là sự tổng hợp của mệnh (bát tự) và vận (hành vận; chủ yếu bao gồm đại vận và lưu niên); đồng thời nói rõ vai trò quan trọng của căn khí. Đến phần này, tác giả đề cập đến một trường hợp đặc biệt của căn khí là kiến lộc.

Tại sao kiến lộc lại quan trọng như vậy? Kiến lộc là khi mệnh Giáp gặp Dần, Ất gặp Mão, Bính gặp Tỵ, Đinh gặp Ngọ, Canh gặp Thân, Tân gặp Dậu, Nhâm gặp hợi và Quý gặp Tý. Trường hợp đặc biệt, có pha tạp là Mậu gặp Tỵ và Kỷ gặp Ngọ. Khi thiên can gặp đất lộc, đó là thời cơ vững mạnh nhất của thiên can. Có hai lý do như sau:

Lí do thứ nhất theo thuyết Thiên – Nhân hợp nhất. Lấy Giáp gặp Dần làm ví dụ. Bản khí của Dần cũng là Giáp (Dần tàng Giáp bản khí, Bính trung khí, Mậu dư khí). Như vậy thiên khí (thiên can) là dương mộc, gặp địa khí (địa chi) cũng là dương mộc, thì thiên địa đồng khí liên chi, thiên – địa hợp nhất ở mức độ hoàn hảo nhất, bền vững nhất vì nó cùng một hành khí làm chủ. Thiên – địa hợp nhất, hoặc thiên – nhân hợp nhất, hoặc thiên – địa – nhân hợp nhất đều là những cách nói khác nhau của Tam Tài hợp nhất (Tam Tài gồm thiên, địa, nhân). Tam Tài hợp nhất là sự tốt lành to lớn nhất, chính vì thế mà các môn huyền học luôn hướng đến điều này.

Ví dụ như Dịch lý có quẻ Địa Thiên Thái là thể hiện rõ tư tưởng thiên nhân hợp nhất. Địa ở trên là khí âm ở trên, khí âm trọc thì nặng, nặng thì hướng xuống dưới. Thiên ở dưới là khí dương ở dưới, khí dương thanh thì nhẹ, nhẹ thì hướng lên trên. Ở trên thì hướng xuống dưới, ở dưới thì hướng lên trên là tượng giao hoà lẫn nhau. Thiên địa giao hoà, âm dương giao hoà thì vạn vật hoá sinh. Do đó được chữ Thái.

Hoặc như phong thuỷ huyền không phi tinh dùng đường lượng thiên xích để xác định khí tốt ở đâu, khí xấu chỗ nào. Sau đó cải tạo lại địa hình xung quanh hoặc nội thất trong nhà sao cho đón và giữ được khí tốt, xa lánh hoặc hoá giải khí xấu. Khí tốt, khí xấu chính là nguyên khí của trời đất, là Thiên Địa. Nhà cửa, con người chính là Nhân. Cải tạo địa hình, nội thất sao cho phù hợp với khí tốt, khí xấu chính là cố gắng để Nhân được hài hoà với Thiên Địa.

Có thể nói xét về mặt Tam Tài, tức Thiên – Địa – Nhân hợp nhất thì kiến lộc chính là vị trí tốt nhất của thiên can.

Ngoài ra, còn một lý do để cho rằng lộc là vị trí tốt lành nhất là sử dụng vòng trường sinh để biện luận. Trong mười hai vị trí của vòng trường sinh, vị trí đế vượng là lớn mạnh nhất. Nhưng đạo trên đời, vật cùng tất phản. Khi hành khí đạt đến điểm vượng nhất là đế vượng, thì bên trong bản thân nó đã tàng chứa cái mầm suy vi, đi xuống. Do đó, mặc dù đế vượng là vị trí vượng thịnh nhất, nhưng không phải tốt nhất vì trước mặt nó không còn tương lai. Vị trí tốt nhất là lộc, đủ vượng để đảm đương, nhưng không đến cùng cực mà vẫn còn vị trí để tiến lên, tức vẫn còn tương lai tươi sáng phía trước.

Vấn đề thứ hai mà câu này đề cập đến chính là đề cương hay còn gọi là nguyệt lệnh.

Lí do tháng sinh được gọi là “đề”, là “lệnh” bởi vì nó chi phối sự mạnh yếu của ngũ hành trong mệnh cục, tạm gọi là tinh khí. Về cách đo lường tinh khí, chủ yếu có hai thuyết.

Thuyết thứ nhất thường được sử dụng nhất là vòng trường sinh. Vòng trường sinh có 12 vị trí, được sắp xếp theo thứ tự như sau: trường sinh, mộc dục, quan đới, lâm quan, đế vượng, suy, bệnh, tử, mộ, tuyệt, thai, dưỡng. Lấy can Giáp làm ví dụ. Giáp trường sinh ở Hợi, mộc dục ở Tý, quan đới ở Sửu, tương tự tính thuận chiều kim đồng hồ cho đến hết vòng trường sinh. Lấy can Ất làm ví dụ. Ất trường sinh ở Ngọ, mộc dục ở Tỵ, quan đới ở Thìn, tương tự tính nghịch chiều kim đồng hồ cho đến hết vòng trường sinh.

Trong 12 vị trí của vòng trường sinh, thì 6 vị trí từ dưỡng cho đến đới vượng là tiến khí, vì lúc đó hành khí lớn mạnh dần lên, đến đới vượng là khi hành khí lớn mạnh nhất. Còn lại 6 vị trí từ suy đến thai là thoái khí, vì lúc đó hành khí yếu dần đi.

Về vòng trường sinh lại có quan điểm ứng dựng. Quan điểm thứ nhất là thiên can phân âm dương, can dương tính thuận, can âm tính nghịch như đã nói ở trên. Với quan điểm này thì chủ yếu dựa trên tôn chỉ dương sinh âm tử, âm tử âm sinh. Ví dụ Giáp mộc sinh tại Hợi mà tử tại Ngọ, thì Ất mộc sinh tại Ngọ mà tử tại Hợi. Quan điểm này có hai cách tính. (1) Nếu thiên can sinh ở tháng trường sinh, mộc dục, quan đới, lâm quan, đế vượng thì tính là đắc lệnh hoặc đắc khí, tức bản thân nó có tinh khí mãnh mẽ. Nếu thiên can rơi vào các trường hợp còn lại là thất lệnh hoặc thất khí, tức bản thân nó tinh khí suy kiệt. (2) Nếu thiên can sinh vào các tháng tiến khí thì tinh khí no đủ, còn sinh vào các tháng thoái khí thì sinh khí không đủ. Như vậy cả hai cách tính này chỉ khác nhau ở một vị trí là dưỡng. Với cách tính thứ nhất thì dưỡng là vị trí bất lợi; còn với cách tính số hai thì dưỡng là vị trí có lợi.

Quan điểm ứng dụng thứ hai của vòng trường sinh là hành khí không phân âm dương. Tức là không có dương mộc hay âm mộc, mà âm dương là một thể thống nhất, đồng sinh cộng tử. Tức là vòng trường sinh chỉ có một chiều thuận, trùng với chiều của thiên can dương theo quan điểm ứng dụng thứ nhất. Ví dụ, Giáp và Ất đều là mộc, mộc sinh tại Hợi, tử tại Ngọ, mộ tại Tuất. Luận điểm chủ yếu của quan điểm này là vòng trường sinh của âm can là không hợp lí. Đại khái lấy Ất làm ví dụ. Ất sinh tại Ngọ, nhưng Ngọ là hoả. Tại Ngọ Ất bị tiết khí. Ất khi mới sinh vốn tinh khí non nớt, mà lại còn bị tiết khí thì không phải là cát tường. Tương tự lập luận sinh khắc chế hoá tương tự cho các âm can còn lại.

Thuyết thứ hai áp dụng tháng sinh để tính tinh khí bản nguyên của thiên can là sử dụng tứ thời, kèm theo cái nhìn âm dương đồng sinh cộng tử. Tứ thời là bốn mùa xuân hạ thu đông. Lấy mùa xuân làm ví dụ. Mùa xuân mộc đương lệnh; mộc như ông vua cầm lệnh chỉ huy: mộc vượng. Mộc sinh hoả, hoả được ông vua ưu ái thì như được phong tướng: hoả tướng. Mộc được thuỷ sinh; thuỷ như cha mẹ sinh cho mộc. Mùa xuân mộc vượng như đứa con đã lớn, con lớn thì cha mẹ đã đến hồi suy yếu: thuỷ hưu. Mộc khắc thổ; thổ bị ông vua khắc: thổ tử. Kim khắc mộc, tức là khắc vua, là phạm thượng (phạm vượng): kim tù. Trong 5 trạng thái vượng, tướng, hưu, tù, tử, trạng thái tốt nhất là tướng, tốt nhì là vượng, kế đến là tử, sau đó đến hưu tù. Tuy nhiên, chỉ có hai trạng thái được cho là có tinh khí no đủ là vượng và tướng. Thuật ngữ cho vượng tướng là đắc tiết, cho hưu tù tử là thất tiết.

Tóm lại, việc tính toán tinh khí bản nguyên của ngũ hành trong một bát tự chủ yếu dựa vào nguyệt lệnh. Sau khi có tinh khí bản nguyên mạnh yếu, no đủ hay khuyết thiếu, thì mới tính đến tác động qua lại giữa ngũ hành để đi đến quyết định cuối cùng về độ vượng tinh khí của một hành. Tác động qua lại giữa ngũ hành được thể hiện bằng các mối quan hệ, tương tác can – can, chi – chi, và can – chi.

Như vậy, “kiến lộc sinh đề nguyệt”, không chỉ đơn thuần nói Giáp sinh tháng Dần, Ất sinh tháng Mão; mà nó giới thiệu hai khái niệm quan trọng của môn bát tự là lộc và nguyệt lệnh.


-----

“Tài Quan hỷ thấu thiên”: đối với một bát tự có nhật chủ kiến lộc tại nguyệt lệnh, cần có Tài và Quan thấu lộ ra thiên can thì mới quý. Câu này lại nói đến khái niệm thấu lộ và ẩn tàng, cũng chính là nói sự khác biệt về mặt công năng của thiên can và địa chi.

Môn Tử Bình quan niệm can – chi là hai mặt đối lập nhưng thống nhất với nhau. Đối lập ở chỗ can là động, chi là tĩnh; can là ngoài, chi là trong; can là hiện, chi là ẩn tàng; can là thuần, chi là tạp; can là cành, là ngọn; chi là thân, là gốc, là rễ. Bát tự kiến lộc đề nguyệt thường là thân vượng, thân vượng thì hỷ có Quan đến chế cho bớt vượng, có Tài đến tổn thân cũng góp phần đưa bát tự về trạng thái cân bằng hơn. Đồng thời Tài còn sinh Quan, giúp Quan chế thân được hiểu quả hơn; Tài cũng khắc Ấn, làm Ấn không sinh được thân nên bát tự không bị thiên lệch nhiều hơn.

Cần Tài Quan, nhưng cũng nhấn mạnh là “thấu thiên”, tức là phải thấu lộ ra thiên can. Mệnh Giáp chẳng hạn. Bát tự cần thấy can Canh, Tân, Mậu, Kỷ. Tại sao cần phải “thấu thiên”? Bởi vì thiên can là động, là hiện. Tác dụng của thiên can rõ ràng hơn, mạnh mẽ hơn, tức thời hơn địa chi. Cho nên Giáp gặp Canh, Tân, Mậu, Kỷ là lập tức phát động khắc chế lẫn nhau. Nếu Giáp mộc tháng Dần vượng, không gặp bốn chữ trên, mà giả sử chỉ gặp địa chi như Dậu, Tuất, Sửu thì vẫn là gặp Tài Quan ở địa chi, nhưng tác dụng khắc chế không rõ ràng, không mạnh mẽ vì thiên can rất dễ phát động, còn địa chi không dễ phát động. Như vậy giữa một mệnh thấu Tài Quan (có Tài Quan ở thiên can) và toạ Tài Quan (có Tài Quan ở địa chi) thì mệnh trước được khắc chế mạnh mẽ và hiệu quả hơn.

Có lợi thì cũng có hại. Ví dụ mệnh Giáp sinh tháng Dần, thiên can lại có hai Ất như vậy là mộc quá động, quá hoành hành. Lúc đó không nên lại thấy Tài (Mậu, Kỷ) tại thiên can. Vì Tài xuất can là lộ, là phát động, dễ dàng sinh khắc chế hoá cái khác, nhưng tự bản thân nó cũng dễ dàng bị khắc chế. Trong trường hợp này nếu Tài thổ thấu xuất mà không có cứu giúp sẽ bị mộc thổ khắc phạt rất nặng, vốn là mệnh nghèo hèn. Tốt nhất lúc này là Tài dày trọng và ẩn tàng tại địa chi.

Ngoài khái niệm thấu xuất, phần này còn giới thiệu khái niệm Tài Quan, tức là thập thần. Thập thần bao gồm có Ấn, Kiêu, Tỷ, Kiếp, Thực, Thương, Chính Tài, Thiên Tài, Quan, Sát. Những khái niệm này đơn giản, không phân tích thêm.

Ở đây chỉ có một lưu ý, tại sao chỉ nhắc đến Tài Quan trước, mà không nhắc đến những thần còn lại? Đó là vì con người (Nhân đạo) vốn quan trọng phú quý, tức là tiền tài, danh vọng. Tài đại diện cho thông tin tiền tài, Quan Sát đại diện cho danh vọng, công danh. Cho nên Tài Quan là hai thông tin được chú trọng nhất trong Tử Bình.

-----

“Bất nghi thân tái vượng”: đến đây cần nhắc lại bài bố của bát tự được đem ra làm ví dụ. Đó là bát tự mệnh mộc, kiến lộc tại nguyệt lệnh, đồng thời thấu Tài và/hoặc Quan tại thiên can. Trong trường hợp bát tự như vậy cần nhìn hành vận. Hành vận không nên giúp cho thân mộc vượng thêm lên, tức là không nên gặp thuỷ mộc, vì thuỷ sinh mộc, mộc trợ mộc; lúc đó mộc trong nguyên cục quá vượng, sẽ khắc Tài thổ nặng hơn, hoặc khắc ngược trở lại Quan kim. Như vậy là phá tài, công danh bất toại.

-----

“Duy hỷ mậu tài nguyên”: trong trường hợp bát tự có bố cục như vậy, thích hành vận trợ cho Tài, tức là gặp nơi có nhiều thổ. Vì thổ sẽ trợ Tài thổ trong mệnh, giúp Tài không bị khắc mà còn hao tổn mộc, giúp cho bát tự cân bằng hơn. Hoặc Tài thổ có thể sinh Quan kim tiết chế mộc.

“Tài nguyên” ở đây không nên chỉ hiểu là đất Tài vượng, mà “nguyên” còn có thể hiểu là nguyên thần, tức là thần sinh ra Tài: Thực Thương. Đặc biệt, nếu mệnh cục kiến lộc đề nguyệt, chỉ có Tài thấu mà không có Quan thấu thì tốt nhất là gặp Thực Thương hoả. Mộc sinh hoả, hoả sinh thổ, như vậy nhờ hoả thông quan mà mộc thay vì khắc thổ (xấu) lại quay ra giúp thổ (tốt), đồng thời tự bản thân cũng bị tiết khí bớt vượng đi, vậy là mệnh phát tài.

-----

Tóm lại câu thứ 3: “Kiến lộc sinh đề nguyệt, tài quan hỷ thấu thiên, bất nghi thân tái vượng, duy hỷ mậu tài nguyên” đề cập đến một loại hình căn khí đặc biệt là lộc, giới thiệu các khái niệm đề cương nguyệt lệnh, Tài, Quan, nguyên thần, thấu lộ; đồng thời trình bày cơ bản ngũ hành sinh khắc chế hoá khi áp dụng vào một bát tự.

-----

Ví dụ bát tự thực tế:

Khôn: Mậu Thìn – Giáp Dần – Giáp Ngọ - Giáp Tuất

Đây là mệnh nữ tôi xem số đã lâu. Hiện nay không còn nhớ là ai để xin phép đăng bát tự. Nếu đương số có phật ý, tôi xin được lượng thứ.

Mệnh này Giáp kiến Dần lộc tại nguyệt lệnh (1). Bát tự thấu Tài Mậu có căn khí tại Thìn, Dần, Tuất là vững mạnh (2,4). Đáng tiếc bát tự thấu 3 Giáp, lại là chính khắc nên phá Tài rất dữ. Mệnh cục có tam hợp Dần Ngọ Tuất giúp thông quan mộc – thổ (4). Vận Nhâm Tý xung nhật trụ Giáp Ngọ, phá mất tam hợp hoả là phản cục, bát tự không còn thông quan. Mộc lập tức phá Thổ. Lại thêm Nhâm thuỷ sinh Giáp mộc (3), phá lại càng phá. Ấn Tý là mẹ, Mậu Tài là cha nên vận này cha mẹ li dị. Vì Tý đến xung mà Mậu bị phá thành ra là tượng cha mẹ hại nhau vậy.

Ví dụ phía trên minh hoạ Tài tinh thấu xuất tuy có công dụng rõ ràng, nhưng cũng dễ gặp khắc hại nếu thân cường vượng. Tốt nhất nếu thân vượng lại có quá nhiều Tỷ Kiếp, Tài thấu thì cần có thêm nguyên thần Tài là Nhi (Thực Thương) hoặc vệ thần Tài là Quan Sát để bảo vệ Tài.

Chú thích:

(1) "Kiến lộc sinh đề nguyệt"
(2) "Tài Quan hỷ thấu thiên"
(3) "Bất nghi thân tái vượng"
(4) "Duy hỷ mậu Tài nguyên"


-----------------------------------------------


Câu 6: 火忌西方西,金沉怕水乡;木神休见午,水到卯宫伤。

Hoả kỵ Tây phương Dậu, kim trầm phạ thuỷ hương; mộc thần hưu kiến Ngọ, thuỷ đáo Mão cung thương.
(Hoả kỵ đến Dậu phương Tây, kim bị chìm sợ nơi thuỷ vượng; mộc thần thì không nên thấy Ngọ, thuỷ đến cung Mão bị thương)

Trước khi tiến hành bình chú cho câu 6 này, tôi nhắc lại một chút về vòng trường sinh đã đề cập ở câu 3.

Vòng trường sinh gồm có mười hai vị trí: Trường Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đới Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng. Có nhiều quan điểm nhìn nhận cách ứng dụng vòng trường sinh. Quan điểm thứ nhất và phổ biến nhất là áp dụng âm dương, âm tử dương sinh, dương tử âm sinh. Quan điểm thứ hai là áp dụng âm dương hợp nhất, đồng sinh cộng tử, sử dụng tiến khí, thoái khí. Đối với quan điểm thứ nhất, vị trí Dưỡng được tính là vị trí xấu. Ngược lại với cách nhìn tiến khí, thoái khí, thì vị trí Dưỡng là tốt, tiến khí.

Ngoài việc áp dụng vòng trường sinh để tính tinh khí bẩm sinh (tiên thiên) của thiên can, còn có một quan điểm khác là áp dụng tứ thời với năm khái niệm vượng, tướng, hưu, tù, tử để tính tinh khí. Việc áp dụng tứ thời này cũng theo quan điểm âm dương đồng sinh cộng tử.

Đến câu thứ 6 này của Ngũ Ngôn Độc Bộ, chúng ta lại thấy rõ ràng tác giả theo quan điểm âm dương đồng sinh cộng tử. Lấy mộc làm ví dụ, Giáp mộc và Ất mộc ở đây sẽ sử dụng cùng một vòng trường sinh, đó là cách tính vòng trường sinh của dương can (tính thuận).

Quan điểm âm dương đồng sinh cộng tử trong cách tính tinh khí tiên thiên của thiên can được nhiều người áp dụng, trong đó phải kể đến một tác giả rất quen thuộc đối với giới hậu học Tử Bình tại Việt Nam là Thiệu Vỹ Hoa. Trong những cuốn sách viết thời kì đầu, Thiệu Vỹ Hoa sử dụng vòng trường sinh với quan điểm âm tử dương sinh, nhưng ở những quyển sách viết sau này, ông Thiệu đã đổi lại, sử dụng quan điểm âm dương đồng sinh cộng tử.

Vòng trường sinh ngoài việc được dùng để tính tinh khí thụ bẩm thiên can, còn được dùng như một hệ thống Thần Sát. Mười hai vị trí trong vòng trường sinh chính là vị trí của mười hai vị Thần Sát. Nổi bật trong đó là các vị trí Trường Sinh, Lâm Quan, Đế Vượng, Tử, Mộ, và Tuyệt. Ví dụ, Trường Sinh thuỳ tượng là sự bắt đầu mới; là cội nguồn; là sự sinh sôi liên không dứt; là êm đềm, dịu dàng. Chính vì vậy mà có câu nói Tài gặp trường sinh, ruộng điền vạn mẫu. Tuy không phải lúc nào Tài gặp Trường Sinh cũng ruộng điền thẳng cánh cò bay, nhưng qua đó chúng ta thấy được tính thuỳ tượng, tức việc sử dụng mười hai vị trí vòng trường sinh như mười hai Thần Sát.

Tôi lấy ví dụ vị trí Mộc Dục. Nó là sự tẩy rửa, lớn lên, tức nó ám chỉ sự thay đổi, cái mới lạ. Đồng thời khi xem tình duyên đôi lứa, nó là quan hệ tính dục nam nữ, là ham muốn xác thịt. Vậy tại sao Mộc Dục lại là quan hệ tính dục, ham muốn xác thịt, sự thay đổi, cái mới lạ và tâm lí thích cái mới lạ? Mộc mộc dục tại Tý, hoả thổ tại Mão, kim tại Ngọ, thuỷ tại Dậu. Tý Ngọ Mão Dậu là bốn vị trí của sao Đào Hoa.


Lý luận vòng trường sinh tôi chỉ phân tích đến đây, vì đã đủ để làm tiền đề phân tích câu số 6 này.

Trong câu 6 này, tác giả sử dụng cả hai chức năng của vòng trường sinh: tính tinh khí tiên thiên đồng thời sử dụng thuỳ tượng Thần Sát. Vị trí của vòng trường sinh được đề cập là vị trí Tử. Hoả kỵ Tây phương Dậu: âm hoả dương hoả trường sinh tại Dần, đến Dậu là Tử. Kim trầm phạ thuỷ hương: “thuỷ hương” là vị trí thuỷ đắc địa, vượng nhất, cũng là cung Tý. Âm kim dương kim trường sinh tại Tỵ đến Tý là Tử. Mộc thần hưu kiến Ngọ: âm mộc dương mộc trường sinh tại Hợi, đến cung Ngọ là Tử. Thuỷ đáo Mão cung thương: âm thuỷ dương thuỷ trường sinh tại Thân, đến Mão là Tử.

Lấy mộc làm ví dụ. Mộc tại cung Dậu là đến vị trí Tử, là thất lệnh (không được nguyệt lệnh), tức tinh khí của nó yếu kém, bạc nhược, như người đã chết, không còn sinh khí mà chỉ còn thể xác; đồng thời gặp Tử (thần sát), như gặp tử thần, có nhiều nguy nan, tai nạn, khốn khó.

Manh Phái có một “bí quyết” phổ biến đó là kim trầm gặp thuỷ hương thì vào tù. Đó cũng bắt nguồn từ chữ Tử của vòng trường sinh. Ở đây tôi lặp lại một ý phía trên đã đề cập, đó là không phải cứ kim trầm gặp thuỷ hương thì vào tù, mà nó chỉ là cái tượng nguy hiểm, kiếp nạn thương thân. Còn nó ứng vào việc gì, ứng vào ai, phải xem bố cục bát tự, tổ hợp niên vận, cũng như áp dụng nhiều kĩ thuật luận đoán khác nhau.

Tại sao vị trí Tử lại là tai nạn thương thân, hung hiểm. Vì nó chính là vị trí Tai Sát. Ở đây cần nhấn mạnh, chữ "Tử" chỉ là thuỳ tượng, tức là nó mang tính ước lệ. Điều này không có nghĩa là gặp nguyệt lệnh đất Tử thì nhật chủ tinh khí suy kiệt, đồng thời không có khả năng tiếp nhận tinh khí phù trợ, tức là mệnh cực nhược rất xấu. Quan điểm này chưa nhìn đến vấn đề bố cục bát tự và căn khí, như ví dụ thực tế tôi sẽ phân tích bên dưới.

Như vậy trong câu thứ 6 này, tác giả Ngũ Ngôn Độc Bộ đề cập đến một vị trí quan trọng và nổi bật trong vòng trường sinh: Tử. Đồng thời, qua đó cũng cho thấy quan điểm sử dụng vòng trường sinh của tác giả là âm dương đồng sinh cộng tử. Ngoài việc sử dụng vòng trường sinh để tính tinh khí tiên thiên, tác giả còn dùng nó như một hệ thống mười hai Thần Sát để luận cát hung.

-----

Ví dụ thực tế:

Càn: Tân Mùi – Giáp Ngọ - Ất Mão – Quý Mùi
Hai tuổi khởi vận

Đây là mệnh nam tôi xem số đã lâu. Hiện nay không còn nhớ là ai để xin phép đăng bát tự. Nếu đương số có phật ý, tôi xin được lượng thứ.

Mệnh Ất sinh tháng Ngọ là Tử, thất lệnh. Mừng Ất toạ lộc tự vượng, lại gặp căn khí tại niên chi, thời chi: mộc cường. Hai bên trái phải thấu Giáp sinh Quý trợ. Theo bố cục bát tự, Ngọ hoả ở vị trí thuận lợi, tiết khí thái quá mộc, lại thấu Tân tổn Giáp. Tân tại tháng Ngọ tuy thất tiết (hoả khắc kim, kim tử) nhưng toạ Mùi ám hoả là địa tái (địa tái: được địa chi chở thì có lợi; thiên phúc: được thiên can che thì có lợi), lại thêm kim khí có chút đặc biệt, nó sinh tháng Ngọ tuy bị khắc là thất tiết, nhưng cũng là nơi tiến khí (kim cần hoả rèn mới thành khí), thành ra nó vẫn có sức lực mà đi khắc Giáp. Bây giờ nhìn lại, Ất được Quý sinh, mà Quý vô căn, toạ Mùi là hư phù. Ất được Giáp trợ, mà Giáp bị Ngọ tiết, lại bị Tân khắc. Cuối cùng kết luận mệnh này tuy cường, nhưng tinh khí nó suy. (Chú ý khái niệm cường – nhược, vượng – suy tôi đã giải thích và phân biệt rõ ở câu 2.)

Người này trước năm 12 tuổi, tức vào đại vận đầu tiên Quý Tỵ, sức khoẻ kém, kinh tế gia đình kém, nhưng học giỏi.

Ở phần này tôi chỉ sử dụng đơn thuần luận vượng suy ngũ hành, cung tinh, cùng các thần sát thường thấy để luận, không dùng các kĩ thuật khác như phi cung, hay phi tinh. Tức tôi chỉ luận trên thực bàn bát tự, không luận trên hư bàn phi cung Manh Phái.

Học giỏi: Ất toạ Mão là Lộc thần. Lộc thần là văn chương. Nguyệt lệnh Ngọ là Xương Khúc nhị văn thần, niên chi Mùi là đất Mộ. Ngọ hợp đến Mùi là văn thần khoa bảng nhập mộ hoặc nhập trạch. Tức người này có mộ tổ phát thư hương hoặc ngôi nhà của tổ tiên hoặc nhà cha mẹ phát thư hương. Đây là một phần kỉ thuật luận trạch mộ qua bát tự. Cách xác định cụ thể là tổ mộ, tổ trạch hay lão gia phát thư hương tôi không đề cập ở đây, vì phần này tôi vẫn đang nghiệm lý; tuy có thấy nhiều trường hợp ứng nghiệm, nhưng vẫn chưa thu thập đủ nhiều lá số nghiệm lý nên tôi vẫn chưa dám khẳng định kỉ thuật này là đúng.

Sau khi nhìn thần sát, còn có một phần rất quan trọng là phải xem đương số có hưởng được hay không. Tức phúc nhà, phúc bản thân thì có mà mình có số hưởng hay không có số hưởng. Đương số có thể hưởng được Lộc Thần và Xương Khúc này nên người này học giỏi.

Kinh tế gia đình kém: Ngọ đất Tử lại là Thực Thần, là cái miệng ăn tai hại. Ngọ đến hợp Mùi là đất Tài kỵ thần, trợ Tân khắc Giáp: hao tài. Đều là tượng kinh tế gia đình kém. Tuy nhiên Tài Mùi cũng chính là mộc kho, là tài khố. Vì sao là tài khố? Mùi thổ là Tài là kỵ thần, thì Tỷ Kiếp chế Tài chính là thần phát tài. Mùi chính là Tỷ Kiếp khố, được xem như một loại tài khố thứ cấp. Có khố rồi lại xem khố đầy hay khố vơi. Giáp theo Ngọ nhập khố chính là khố này có tiềm lực. Chứng tỏ trạch hoặc mộ chủ phát thư hương, thứ phát tài lộc, tuy nhiên Ngọ Mùi vẫn là kỵ thần tiết khí, thâu khí, chứng tỏ trạch hoặc mộ cách cục có chỗ bị phá, khó mà phát lớn.

Đó là luận mệnh. Bây giờ luận vận. Vận Quý Tỵ, Tỵ - Ngọ - Mùi hoả phương may nhờ thấu Quý, hoả một đường tương sinh đến Giáp mộc. Tuy nhiên Quý hư phù, nôm na xem như mười phần hung giải được hai, ba phần. Tuy nhiên ngũ hành không có điểm dừng, phong không tàng thì khí không tụ, thành ra cầu được chữ bình an đã là may mắn phúc dày.

Trong phần luận mệnh này tôi đã trình bày một số thần sát hay dùng, phương pháp dùng vòng trường sinh như hệ thống mười hai thần sát, một phần kĩ thuật xem trạch mộ, một phần kĩ thuật xem tài lộc, một phần kĩ thuật cung tinh, một phần kĩ thuật loan đầu trong bát tự. Đặc biệt có nhắc đến vấn đề xem thần sát ứng hay không ứng, mặc dù tôi không muốn nói sâu phần này. Đúng sai chưa bàn đến vì chắc chắn sẽ có người không hài lòng, kĩ thuật luận Tử Bình đến phần luận xuất thân, vận hạn sắc nét thì thiên biến vạn hoá, vô cùng thú vị nhưng cũng cực kì phức tạp. Tuy nhiên tôi hi vọng những phần kiến thức này có tác dụng gợi mở một chút linh quang, đối với anh chị em đồng đạo có trợ giúp.

Cuối cùng tuy không liên quan đến câu 6 của Ngũ Ngôn Độc Bộ, nhưng tôi cũng xin nói ở đây: do các kĩ thuật luận xuất thân, phú quý bần tiện, vận hạn sắc nét vô cùng phong phú và phức tạp, mong các anh chị em, đặc biệt là các anh chị em nào mới nghiên cứu nên lấy chính lí ngũ hành, âm dương, hỷ kỵ làm nền tảng quan trọng nhất để đánh giá các kĩ thuật mà mình có cơ duyên gặp được, để xem nó đúng hay nó có khuyết điểm. Đừng tham cái cao xa, huyền bí mà đi lầm, rời xa chính lí ngũ hành, âm dương, hỷ kỵ thì tai hại vô cùng, sẽ khó lòng luận Tử Bình được nữa.
Đầu trang

VULONG
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1081
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: Những sai lầm trong học thuật trong phán đoán cường - nhược của can ngày

Gửi bài gửi bởi VULONG »

NeBoTat đã viết: 15:16, 18/09/17 Về vấn đề vòng trường sinh tôi có trình bày ở nơi khác. Nay tôi sao chép lại sang đây cho mọi người tham khảo. Vì muốn tiết kiệm thời gian và cung cấp 1 cái nhìn tổng thể để mọi người dễ hiểu, tôi sẽ sao chép nguyên văn và toàn văn. Tôi chỉ chỉnh màu xanh những phần tôi cho là quan trọng.

Câu 3: 建禄生提月,财官喜透天,不宜身再旺,惟喜茂财源。

Kiến lộc sinh đề nguyệt, tài quan hỷ thấu thiên, bất nghi thân tái vượng, duy hỷ mậu tài nguyên
(Kiến lộc tại đề cương nguyệt lệnh, Tài Quan hỷ thấu lộ, không thích hợp thân lại vượng thêm, chỉ hỷ nguồn Tài mạnh)

-----
...........................
...............................
...............................

Trong phần luận mệnh này tôi đã trình bày một số thần sát hay dùng, phương pháp dùng vòng trường sinh như hệ thống mười hai thần sát, một phần kĩ thuật xem trạch mộ, một phần kĩ thuật xem tài lộc, một phần kĩ thuật cung tinh, một phần kĩ thuật loan đầu trong bát tự. Đặc biệt có nhắc đến vấn đề xem thần sát ứng hay không ứng, mặc dù tôi không muốn nói sâu phần này. Đúng sai chưa bàn đến vì chắc chắn sẽ có người không hài lòng, kĩ thuật luận Tử Bình đến phần luận xuất thân, vận hạn sắc nét thì thiên biến vạn hoá, vô cùng thú vị nhưng cũng cực kì phức tạp. Tuy nhiên tôi hi vọng những phần kiến thức này có tác dụng gợi mở một chút linh quang, đối với anh chị em đồng đạo có trợ giúp.

Cuối cùng tuy không liên quan đến câu 6 của Ngũ Ngôn Độc Bộ, nhưng tôi cũng xin nói ở đây: do các kĩ thuật luận xuất thân, phú quý bần tiện, vận hạn sắc nét vô cùng phong phú và phức tạp, mong các anh chị em, đặc biệt là các anh chị em nào mới nghiên cứu nên lấy chính lí ngũ hành, âm dương, hỷ kỵ làm nền tảng quan trọng nhất để đánh giá các kĩ thuật mà mình có cơ duyên gặp được, để xem nó đúng hay nó có khuyết điểm. Đừng tham cái cao xa, huyền bí mà đi lầm, rời xa chính lí ngũ hành, âm dương, hỷ kỵ thì tai hại vô cùng, sẽ khó lòng luận Tử Bình được nữa.
Lần đầu tiên tôi được đọc một bài luận (hay bình chú) về Tử Bình uyên thâm và súc tích đến như vậy, điều này cho biết người viết bài này là một cao thủ Tử Bình thực thụ, thật sự khâm phục.

Và cũng qua bài viết này tôi mới biết vì sao có nhiều người theo quan niệm của tác giả cũng như người bình chú cuốn "Trích Thiên Tủy" cho rằng "Âm Dương Đồng Sinh Đồng Tử".

Nhưng tôi có thể khẳng định rằng những ai sử dụng tính chất "Âm Dương Đồng Sinh Đồng Tử" này vào xác định Thân vượng hay nhược thì chắc chắn là sai. Bởi vì số ví dụ Nhật can Dương và Nhật can Âm mỗi cái là 50% cũng như số can chi Âm và Dương cũng là 50% nên nếu áp dụng tính chất "Âm Dương không Đồng Sinh Đồng Tử" thì dĩ nhiên phương pháp xác định Thân vượng hay nhược của tôi sử dụng sẽ phải sai 50% nhưng thực tế lại đúng tới gần như 100% (trừ ngoại cách).

Còn phần sử dụng tính chất "Âm Dương Đồng Sinh Đồng Tử" vào luận Tài Quan Ấn thì không cần phải trình bầy ở đây vì đã xác định sai Thân vượng hay nhược rồi thì dĩ nhiên dụng thần xác định được sẽ sai thì nói chi đến luận đúng (với những người theo "Vượng Suy Pháp" - lấy dụng thần thăng bằng).
Sửa lần cuối bởi VULONG vào lúc 21:01, 18/09/17 với 1 lần sửa.
Đầu trang

imfine
Chính thức
Chính thức
Bài viết: 98
Tham gia: 11:07, 26/07/17

TL: Những sai lầm trong học thuật trong phán đoán cường - nhược của can ngày

Gửi bài gửi bởi imfine »

Người viết bài đấy là thiên khanh đấy, cái người mà ông từng xúc phạm người ta đấy VuLong ạ.
Đầu trang

VULONG
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1081
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: Những sai lầm trong học thuật trong phán đoán cường - nhược của can ngày

Gửi bài gửi bởi VULONG »

imfine đã viết: 21:01, 18/09/17 Người viết bài đấy là thiên khanh đấy, cái người mà ông từng xúc phạm người ta đấy VuLong ạ.
Nói chung đây chủ yếu chỉ đề cập đến lý thuyết, viết như vậy là quá chuẩn rồi nhưng cái quan trọng là có biết ứng dụng nó vào các ví dụ trong thực tế đúng hay không mà thôi.

Tôi làm gì phải xúc phạm tới những người dưới trướng tôi, bằng chứng là khi tôi trở lại đây viết bài thì một lũ khốn nạn hùa nhau vào chửi bới tôi không từ một câu bẩn thỉu nào cả. Tôi đã cố gắng, thận trọng đáp trả nhẹ nhàng sao cho không bị vi phạm nội quy diễn đàn mà vẫn bị xóa bài rồi khóa nick còn lũ khốn nạn kia có thằng nào bị nhắc nhở hay bị khóa nick, một số tên khốn nạn còn cho tôi đã xúc phạm trước tới chúng mà tin được sao ?
Đầu trang

NeBoTat
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 450
Tham gia: 23:03, 01/07/15

TL: Những sai lầm trong học thuật trong phán đoán cường - nhược của can ngày

Gửi bài gửi bởi NeBoTat »

Tôi luận chuẩn hay không, ứng dụng dụng vòng trường sinh như thế nào thì cứ nhìn kết quả nhan nhản trên các diễn đàn là thấy.

Mời Vulong ra luận lá số của thành viên trong diễn đàn. Nếu không dám luận lá số thành viên mà chỉ dám luận lá số ma, lá số trong sách không ai biết đúng sai, thì im miệng giùm.

Ở đó mà dưới trướng với trên trướng. Chỉ giỏi tự phong danh hiệu. Tôi không có bất kì 1 sự tôn trọng nào dành cho Vulong.
Đầu trang

yesterday2016
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 3853
Tham gia: 18:29, 08/07/16

TL: Những sai lầm trong học thuật trong phán đoán cường - nhược của can ngày

Gửi bài gửi bởi yesterday2016 »

VULONG đã viết: 21:08, 18/09/17
imfine đã viết: 21:01, 18/09/17 Người viết bài đấy là thiên khanh đấy, cái người mà ông từng xúc phạm người ta đấy VuLong ạ.
Nói chung đây chủ yếu chỉ đề cập đến lý thuyết, viết như vậy là quá chuẩn rồi nhưng cái quan trọng là có biết ứng dụng nó vào các ví dụ trong thực tế đúng hay không mà thôi.

Tôi làm gì phải xúc phạm tới những người dưới trướng tôi, bằng chứng là khi tôi trở lại đây viết bài thì một lũ khốn nạn hùa nhau vào chửi bới tôi không từ một câu bẩn thỉu nào cả. Tôi đã cố gắng, thận trọng đáp trả nhẹ nhàng sao cho không bị vi phạm nội quy diễn đàn mà vẫn bị xóa bài rồi khóa nick còn lũ khốn nạn kia có thằng nào bị nhắc nhở hay bị khóa nick, một số tên khốn nạn còn cho tôi đã xúc phạm trước tới chúng mà tin được sao ?
Topic tôi lập, tôi đề nghị ông đừng comment trong này, ok? Tôi cũng làm thế với topic mà ông lập, ok?
Nếu thích thì tự lập topic riêng mà viết lách comment, ok?
Người có tự trọng không bao giờ phải để "chủ nhà lên tiếng đuổi, mà hãy ra đi đừng bao giờ vào nhà người khác trước khi bị xua như xua đuổi ruồi nhặng".

Khỏi tiễn .
Đầu trang

Trả lời bài viết