Tomahawk1101 đã viết:nguyenlam đã viết:Bác không có thời gian trả lời riêng cho từng người . Vì vậy bác nói chung là những lá số của ai có Cục Hỏa ( Hỏa lục Cục ) hay Thủy ( Thủy nhị Cục ) thì nên điều chỉnh lá số Hỏa <===> Thủy . Và những ai thuộc tuổi có Thiên Can : Giáp , Ất , Đinh , Mậu , Kỷ , Canh , Nhâm và Quí thì nên sửa vị trí của Triệt trong lá số ( chỉ có tuổi Bính , Tân không sửa ) trước khi nhờ người xem lá số .
NL .
Theo cách an Triệt của bác thì mấy tuổi trên an Triệt ở đâu vậy?
Trả lời cho cháu bác copy bài viết bác đã trả lời cho taymonxuytuyet để cháu đọc , vì bác không có thời gian viết lại , hy vọng cháu tìm được sự hữu ích trong đó .
Trả lời cháu taymonxuytuyet :
Hic lúc ôn lại bài mới thầy đệ tử học hành thật vớ vẩn, toàn nhớ sai.
@ Tại sao lại đổi lá số: thấy sự phụ bảo đổi cục nên nghĩ ngay tử vi lạc việt nhưng nhìn kỹ lại hóa ra là đổi tính chất cục chứ không phải độ số. Như vậy là không phải dựa theo tử vi lạc việt mà là theo kinh nghiệm của sư phụ.
Độ số theo TV Lạc Việt dựa vào Hà Đồ không hợp lý . Nếu theo hoàn toàn biểu đồ này ta sẽ có Thuỷ nhất Cục , Hoả nhị Cục , Mộc tam Cục , Kim tứ Cục và Thổ ngũ Cục . Thế mà TV Lạc Việt lại cho Thuỷ số 6 ( Thuỷ lục Cục ) .
Bác vẫn áp dụng độ số các Cục theo truyền thống vì bác nghĩ nó đúng cho đến khi chúng ta có thể chứng minh được nó sai .
- Mệnh an tại tý, sinh năm kỷ nên tháng đầu tiên là bính dần => can chi của tháng 7 là Bính Tý (theo lục thập hoa giáp là giản hạ thủy) nhưng theo lạc thư hoa giáp là lư trung hỏa
Cháu đã đếm lầm , hay viết lầm : thay vì nói can chi của tháng 11 là ......... Cháu lại nói can chi của tháng 7 ........
- Mệnh an tại Tý (dương cung), nhưng Kỷ là âm nên là âm dương nghịch lý.
Theo cụ Thiên Lương cách an tràng sinh theo cục, mộ luôn nằm tại tứ mộ (thìn tuất sửu mùi). Nhưng ở đây vì cục đã bị thay đổi nên cách an sao tràng sinh cũng thay đổi theo => tràng sinh khởi tại Ngọ mộ vào Tuất (vấn đề là ở chỗ này: sư phụ lại an tràng sinh khởi tại Dậu). Như trường hợp chị greenfield13 cũng thay đổi cục và vòng tràng sinh(khởi tại Mão trong khi theo bình thường là ở Tý) . Và Mộ ở vòng tràng sinh của chị greenfield cũng ở Tứ Mộ (Mùi). => sư phụ an vòng tràng sinh theo tứ mộ và dựa theo cục ban đầu của đương số. Kết hợp 2 cái này để điều chỉnh.
Theo truyền thống , tuổi Dương Nam + Âm Nữ và Âm Nam + Dương Nữ có vị trí Tràng Sinh cùng một cung cho mỗi Cục , chỉ khác nhau một bên an theo chiều thuận , bên kia an theo chiều nghịch . Một số nhà nghiên cứu TV chấp nhận điều này với không thắc mắc . Nhưng một số khác hồ nghi sự hợp lý của nó , và tự tra vấn : Mộ phải đóng ở Thìn , Tuất , Sửu hay Mùi mới đúng lý chứ , sao lại ở Tí , Ngọ , Mão hay Dậu như truyền thống định ?
Để tìm ra vị trí cho sao Mộ ở Thìn , Tuất , Sửu hay Mùi đối với người tuổi Âm Nam + Dương Nữ , có hai phái :
1/ Vị trí Đế Vượng của vòng Tràng Sinh đối với tuổi Dương Nam chính là vị trí khởi Tràng Sinh nghịch cho tuổi Âm Nam ( phái này có quan niệm khi Dương lên đến Đế Vượng thì bắt đầu suy để cho Âm sinh ra ) . An vòng Tràng Sinh theo phái này chỉ thoả mãn được sao Mộ đóng đúng ở tứ Mộ .
2/ Vị trí Tử của vòng Tràng Sinh đối với tuổi Dương Nam chính là vị trí khởi Tràng Sinh nghịch cho tuổi Âm Nam ( phái này có quan niệm khi Dương đến đất Tử thì Âm mới sinh ra được ) . An vòng Tràng Sinh theo phái này , chúng ta thoả mãn được 2 vấn đề : thứ nhất là trả sao Mộ về đúng vị trí của tứ Mộ ; thứ hai là vị trí Lâm Quan của vòng Tràng Sinh luôn đóng cùng chỗ với sao Lộc Tồn cho các tuổi .
Bác nói thêm , nếu chúng ta không điều chỉnh lại cách an vòng Tràng Sinh cho tuổi Âm Nam + Dương Nữ , mà cứ giữ cách an theo truyền thống thì chúng ta có thêm một điều không hợp lý nữa là tuổi Âm Nam + Dương Nữ không có ai được hưởng cách Mộ chung Thai , Toạ tại tứ Mộ như tuổi Dương Nam + Âm Nữ . Rõ ràng là thiếu công bằng đối với Âm Nam + Dương Nữ , phải không cháu ?
Theo ý kiến của đệ tử thì mộ luôn nằm ở tứ mộ và vì 1 điều khá hay đệ tử có chị cùng cha khác mẹ (thai dưỡng hoặc đế vượng ở cung bào) => vòng tràng sinh của lá số đệ tử khởi tại Dậu (mặc dù nếu theo cục thì đây là kim tứ cục).
Bác hy vọng với cách giải thích ở trên , cháu đã hiểu được lý do tại sao lá số của cháu có Tràng Sinh an tại Dậu rồi .
Bác tạm ngưng ở đây nhá . Sẽ nói chuyện tiếp theo sau .
Bác NL .
*******
Cháu taymonxuytuyet , bác nói chuyện tiếp đây .
@ Còn về sao Triệt. Đệ tử thấy khá băn khoăn vì Triệt an theo can, và Giáp Kỷ thì triệt ở Thân Dậu, nhưng theo lời sư phụ thì Triệt ở Tý Sửu thì hợp với khả năng ăn nói yếu kém của đệ tử. Đệ tử khá băn khoăn ở chỗ này, lúc đầu tưởng đúng nhưng mệnh đệ tử có Hóa kỵ bị hãm gặp triệt sẽ sáng lên và Cự Môn vượng địa, lưu hà xung chiếu => đệ tử nghĩ khả năng ăn nói sẽ tốt (ít nhất là không cập rập và rõ ràng hơn đệ tử). Ở đây tiện thể con hỏi luôn ở cung Ngọ đệ tử có lộc tồn miếu địa và cự môn vượng địa có phải đây là cách "thạch trung ẩn ngọc" ko ạ? (mặc dù chỉ là thứ cách)
Bác đưa Triệt đến Tý + Sửu không phài để giải thích cho khả năng ăn nói yếu kém của cháu . Mà theo bác suy luận Triệt "đại diện " cho tuổi Giáp Kỷ ở vị trí này mới hợp tình hợp lý . Hoá Kị của cháu bị tác động bởi ý nghia của Triệt chỉ là chuyện tiếp theo thôi. Cháu đừng nghĩ có Hoá Kị hãm thì ăn nói không tốt . Lúc nào đó cháu sẽ gặp người có lá số Hoá Kị hãm toạ Mệnh mà làm hướng dẫn viên Du Lịch , hay giáo viên môn Văn , thậm chí cả dạy Ngoại Ngữ nữa .
Khi Hoá Kị được ví như đám mây thì thường người ta có lúc bồng bột , nông nổi , phiêu bồng , nay lúc này mai thế khác , thiếu thực tế ....... Hoá Kị thuộc Thuỷ , biểu tượng cho cơ thể là cái lưỡi thì ăn nói như nước chảy mây trôi . Giáp Kỷ hợp hoá Thổ ( khắc Thuỷ ) ở Tý Sửu hút Thuỷ , ngăn chận Thuỷ , cản trở cái lưỡi nên phần ăn nói của cháu có kém đi . Đây là một cách giải thích hợp lý trong trường hợp của cháu cho đến khi cháu có lý giải tốt hơn .
Theo tài liệu thì chỉ có cách Thạch - trung ẩn ngọc khi Mệnh hay Quan ở Tý Ngọ có Cự Môn và Khoa Quyền Lộc hội họp . Đằng này cung Di cháu có Cự Môn + Lộc Tồn ở Ngọ thỉ không phải .
Thêm nữa là khi đang "trả bài" cho sư phụ đệ tử có nhớ đọc 1 câu là tuần triệt ở mệnh thiếu niên gian khổ. Đệ tử thấy tuổi thơ mình ko quá gian khổ hay là vì bé quá mà ko nhớ rõ. Vì thuở nhở đệ tử đi học là chính ngay từ lớp cấp 1 đã đi học thêm (cả sáng lẫn chiều cả chủ nhật).hic. Và được mẹ rất chiều, mặc dù vẫn bị bố đánh nhưng đệ tử nghĩ đó là chuyện bình thường. Thầy cô bạn bè rất quý vì khá hiền lành, học hành tốt. Hồi bé đệ tử vẫn nhớ bố mẹ thỉnh thoảng có cãi nhau về việc chị của đệ tử, mà càng lớn thì lại càng ít thấy bố mẹ xích mích . Thật là tốt.
Bác gặp nhiều lá số Mệnh không gặp Tuần Triệt , khổ quá trời luôn . Dĩ nhiên cũng có lá số Mệnh gặp Tuần Triệt đúng với ý nghĩa " thiếu niên gian khổ " , nhưng cũng có nhiều lá số như vậy mà cuộc đời lại sung sướng , thoải mái . Chính vì vậy bác mới suy luận ra vị trí Triệt không đúng cho các tuổi , đồng thời các cách lý giải cho TT , theo bác có phần đơn giản. Bác đã nói sẽ có bài viết vế Tuần Triệt , và phân tích những gì tiền nhân giải thích về chúng . Nhưng chưa có thời gian thuận tiện . Cho nên cháu cứ tạm chấp nhận điều bác nói về Triệt trong lá số của cháu . Đến khi nào đó cháu không đồng ý với điều bác nói , và chứng minh được sự vô lý của nó , lúc đó cháu lại đưa Triệt về vị trí Thân Dậu như cũ cũng không muộn .
@ taymonxuytuyet : Các vị trí của Lộc Tồn thể hiện trong lá số được an theo can năm sanh là cố định , không được thay đổi . Còn nói Lâm Quan ở cùng vị trí với Lộc Tồn là để xác định vòng Tràng Sinh cho người tuổi Âm Nam + Dương Nữ .
Theo truyền thống vòng tràng Sinh an cho tuổi Dương Nam + Âm Nữ thì đúng vì sao Mộ luôn đóng ở tứ Mộ . Đồng thời vị trí Lâm Quan ở cùng cung có Lộc Tồn : Mộc Cục có Lâm Quan ở Dần = vị trí Lộc Tồn của Giáp Mộc ; Hoả Cục có Lâm Quan ở Tị = vị trí Lộc Tồn của Bính Hoả ( Thổ giống Hoả ) ; Kim Cục có Lâm Quan ở Thân = vị trí Lộc Tồn của Canh Kim ...... Con có thể suy ra tiếp cho Cục còn lại .
Nhưng vòng Tràng Sinh an cho tuổi Âm Nam + Dương Nữ theo truyền thống thì Mộ không ở đúng tứ Mộ . Và tất nhiên Lâm Quan sẽ không ở đúng vị trí của Lộc Tồn cho các Cục nữa . Sau này có những nhà nghiên cứu Tử Vi nhận ra sự vô lý của cách an vòng TS cho tuổi Âm Nam + Dương Nữ nên đã đưa ra 2 cách an vòng TS khác để đưa sao Mộ về đúng vị trí của tứ Mộ . Cho nên chúng ta mới đưa ra " một phép thử " , vòng TS nào có Lâm Quan ở đúng vị trí của Lộc Tồn thì cách an đó đúng . Bác liệt kê rõ cho con hiểu luôn , đỡ mất công suy nghĩ nhá .
* Mộc cục có Lâm Quan ở Mão = vị trí Lộc Tồn của tuổi Ất Mộc .
* Hoả + Thổ cục có Lâm Quan ở Ngọ = vị trí Lộc Tồn của Đinh Hoả + Kỷ Thổ .
* Kim cục có Lâm Quan ở Dậu = vị trí Lộc Tồn của Tân Kim .
* Thuỷ cục có Lâm Quan ở Tí = vị trí Lộc Tồn của Quý Thuỷ .
Trường hợp dễ thấy nhất là Can năm sanh với Cục lá số có cùng Hành . Lúc đó Lâm Quan và Lộc Tồn cùng xuất hiện cùng một cung trên lá số . Thí dụ lá số tuổi Giáp Mộc , có Cục Mộc thì Lâm Quan và Lộc Tồn đều có mặt cùng cung Dần ( tuổi Dương ) ; lá số tuổi Ất Mộc , có Cục Mộc thì Lâm Quan và Lộc Tồn đều có mặt cùng cung Mão ( tuổi Âm ) .
BillGates6688 đã viết:
Bác ơi cháu xin có một số câu hỏi ạ :
1. Cháu chưa hiểu rõ ý Bác lắm về cách an triệt tại 2 cung Dần, Mão bác ạ và an Trường Sinh tại mệnh
Vì cháu có đọc qua một số tài liệu thì họ an theo trình lyso bác ạ ví dụ cháu có đọc tử vi hoàn toàn khoa học, tử vi đẩu số tân biên
Bác lý giải cho cháu hiểu tại sao lá số Thổ Cục của cháu Trường Sinh được an tại cung Dần ( Mệnh ) nghe .
- Đối với tuổi Dương Nam + Âm Nữ :
*** Thuỷ Cục : Trường Sinh an tại Thân => Lâm Quan tại Hợi = vị trí Lộc Tồn của tuổi Nhâm Thuỷ .
*** Mộc Cục : ....................an tại Hợi => Lâm Quan tại Dần = vị trí Lộc Tồn của Giáp Mộc .
*** Hoả Cục : .....................an tại Dần => Lâm Quan tại Tị = vị trí Lộc Tồn của Bính Hoả .
*** Kim Cục : ................... an tại Tị => Lâm Quan tại Thân = vị trí Lộc Tồn của tuổi Canh Kim .
Từ 4 Cục trên ta có thể suy luận : vị trí Lộc Tồn của tuổi Mậu Thổ ở cung Tị , cũng là vị trí Lâm Quan của Thổ Cục => Trường Sinh của Thổ an tại cung Dần .
Có một cách lý giải khác :
*** Vị trí Trường Sinh của Thuỷ Cục = vị trí Lâm Quan của Kim Cục . Tương tự cho các Cục còn lại . Như vậy vị trí Trường Sinh của Kim Cục cũng chính là vị trí Lâm Quan của Thổ Cục =>
Trường Sinh của Thổ Cục an tại Dần .
Hy vọng cháu thoả mãn với những điều đã viết ở trên . Cho bác tạm ngưng nhá , bác hết " pin " . Hẹn cháu ngày mai .
Cháu BiliGates6868 , đúng là " mai dài hơn thuổng " . Mấy cái mai rồi , bây giờ bác mới nói chuyện tiếp với cháu về
Triệt .
Bỏ qua lời dẫn nhập như thường lệ , và những lý do tại sao lúc trước bác từng an Triệt theo tài liệu , về sau lại không . Bác đi thẳng vào để không dài dòng .
Không như Tuần có 6 vị trí trên bản đồ lá số ( địa bàn ) vì có 6 Giáp cho 60 năm . Triệt có 5 vị trí trên địa bàn tương ứng cho 5 cặp Thiên Can . Vị trí không được đặt Triệt vào là cung Tuất + Hợi thuộc Thiên ( Trời ) , vì không có gì khắc ( Triệt ) được Thiên . Quan sát 5 vị trí Triệt được an theo truyền thống ta thấy như sau :
1/ Giáp Kỷ hợp hoá Thổ , Triệt ở Thân Dậu Kim => Hành hợp hoá sanh cho Hành Cung ( Thổ => Kim ) .
2/ Ất Canh hợp hoá Kim , Triệt ở Ngọ Mùi Thổ => Hành Cung sanh cho Hành hợp hoá ( Kim <= Thổ ) .
3/ Bính Tân hợp hoá Thuỷ , Triệt ở Thìn Tị Hoả => Hành hợp hoá khắc Hành Cung ( Thuỷ =# Hoả ) .
4/ Đinh Nhâm hợp hoá Mộc , Triệt ở Dần Mão Mộc => Hành hợp hoá tương hoà Hành Cung ( Mộc = Mộc ) .
5/ Mậu Quí hợp hoá Hoả , Triệt ở Tí Sửu Thuỷ => Hành Cung khắc Hành hợp hoá ( Hoả #= Thuỷ ) .
Kết luận : Vị trí của Triệt tương ứng cho 5 cặp T. Can đã không theo một qui luật đồng nhất giữa Hành hợp hoá với Hành Cung . Cái sanh thuận , cái sanh nghịch , cái khắc thuận , cái khắc nghịch , thậm chí có cái tương hoà = mỗi một vị trí một kiểu .
Bây giờ nhìn vào 5 cặp Thiên Can được sắp xếp theo số thứ tự từ 1- 5 ở trên , ta thấy Hành hợp hoá có chiều tương sanh theo chiều nghịch trên địa bàn ( Thổ => Kim => Thuỷ => Mộc => Hoả tương ứng với Cung Dậu Thân => Mùi Ngọ => Tị Thìn => Mão Dần => Sửu Tí ) . Trong khi ta được biết , theo thông thường thì nói đến tương sanh là nghĩ đến sanh theo chiều thuận , hầu như không có sanh theo chiều nghịch như các vị trí vừa nêu .
Ta có thể nhìn vào biểu đồ Tiên Thiên và Hậu Thiên bát quái để thấy các Hành tương sanh theo chiều thuận , và ta băt chước nó nhằm sắp xếp lại 5 vị trí Triệt của 5 cặp Thiên Can trên bản đồ lá số .
Triệt của Bính Tân Thuỷ ( Thìn Tị ) hầu như khớp với vị trí Thuỷ của Tiên va Hậu Thiên bát quái . Ta có thể coi vị trí Thuỷ này làm tiêu chuẩn để định ra các vị trí còn lại .
Theo bác , các vị trí Triệt được bố trí lại theo số thứ tự từ 1 - 5 ( tương sanh theo chiều thuận ) .
1/ Giáp Kỷ Thổ , Triệt ở Tí Sửu Thuỷ = Thổ khắc Thuỷ .
2/ Ất Canh Kim , Triệt ở Dần Mão = Kim khắc Mộc .
3/ Bính Tân Thuỷ , Triệt ở Thìn Tị Hoả = Thuỷ Khắc Hoả ( vị trí của Triệt này theo truyền thống hợp lý với Tiên và Hậu Thiên bát quái ) .
4/ Nhâm Đinh Mộc , Triệt ở Ngọ Mùi Thổ = Mộc khắc Thổ .
5/ Mậu Quí Hoả , Triệt ở Thân Dậu Kim = Hoả khắc Kim .
Với sự điều chỉnh như trên , nó thoả mãn được hai vấn đề . Thứ nhất ta có sự tương sanh theo chiều thuận , thứ hai vị trí của Triệt đi theo một qui luật đồng nhất . Đó là Hành hợp hoá luôn luôn khắc Hành của Cung ( nhìn sự tương khắc từ 1 - 5 ) .
Nếu ta chấp nhận điều vừa nói thì Triệt là một danh từ , một biển báo hiệu , hay đại diện cho các cặp Thiên Can làm chủ nơi nó ngự . Thí dụ : Triệt của Ất Canh Kim ở Dần Mão Mộc = Kim khắc Mộc ( Triệt ở đây là Kim làm chủ , Mộc coi như mất ngôi chủ ) .
Bác viết đến đây coi như tạm đủ . Hy vọng cháu hiểu được cái gì bác đã có công tìm hiểu . Nhân đây , bác xin lỗi cháu Psy , Thaihoa16 , Vothuong236 , vì bác đã không trả lời ngay điều các cháu muốn biết , để đến bây giờ bác trả lời cho bạn Billgates6868 . Các cháu hãy coi như là bác đang trả lời cho các cháu nhé .
Chào thân ái .
Bác NL .