Lá số, sự luân hồi và luật nhân quả

Xem, hỏi đáp, luận giải về tử vi
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục dành cho việc xem lá số tử vi. Các bài mang tính trao đổi học thuật xin vui lòng đăng trong mục Kiến thức tử vi.
Không được đính kèm lá số của trang web khác. Các bài không liên quan sẽ bị chuyển khỏi chuyên mục này.
thangmyden
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1587
Tham gia: 15:52, 05/04/11

TL: Lá số, sự luân hồi và luật nhân quả

Gửi bài gửi bởi thangmyden »

Tây Đô đạo sĩ đã viết:Khà...khà...ngày xưa chính đức Phật cũng có lúc không trả lời. Có khi không trả lời lại hay hơn. Khà...khà...
Khà khà :-j :-j :D

Hình đại diện của thành viên
cloudstrife
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 4206
Tham gia: 20:34, 24/11/10

TL: Lá số, sự luân hồi và luật nhân quả

Gửi bài gửi bởi cloudstrife »

Hiểu Niết Bàn cho đúng và dứt nghi ngờ


Trong kinh Udana [7], Phật dạy:

"Cũng như, nầy chư Tỳ khưu, mặc dầu bao nhiêu nước từ sông ngòi kênh rạch và các trận mưa to từ trên trời đổ xuống chảy dồn về biển cả, nhưng không vì thế mà mực nước biển dâng nên quá cao hay xuống quá thấp. Cũng dường thế ấy, không vì lẽ có nhiều vị Tỳ khưu nhập Đại Niết Bàn mà Niết Bàn quá đông đúc hay quá thưa thớt."

Do đó Niết Bàn không phải một cảnh trời nào đó dành riêng cho một cá thể xuất chúng mà là một pháp, một sự thành tựu, mà mọi chúng sanh đều có thể đạt đến.

"Cũng như lửa, không phải được tích trữ ở một nơi đặc biệt nào, nhưng khi hợp đủ điều kiện thì lửa phát sanh. Cùng thế ấy ta không thể nói Niết Bàn ở đâu, nhưng khi Đạo đủ duyên đầy, thì Quả Niết Bàn được thành tựu."











KINH TÌ KHEO NA TIÊN


39. Niết Bàn ở đâu?

Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, thật có Niết Bàn không?

-- Tâu Ðại vương, có.

-- Ðại đức có thể cho biết hiện Ðức Phật đang an trú ở chỗ nào trong cõi Niết Bàn ấy không?

-- Phật đã vào Niết Bàn, mà Niết Bàn là tịch diệt thì làm sao chỉ được!

-- Xin cho ví dụ.

-- Ví như có người đốt lên một đám lửa lớn. Sau khi lữa tắt, có thể chỉ ngọn lửa ấy hiện đương ở chỗ nào không?

-- Thưa không, vì ngọn lửa đã dứt.

-- Cũng như thế đó, làm sao chỉ được Ðức Phật hiện đang an trú ở chỗ nầy hay ở chỗ kia trong Niết Bàn. Duy chỉ có pháp thân của Ngài, tức giáo pháp do Ngài truyền lại là có thể chỉ được mà thôi.





Nguồn : thegioivohinh.com
Được cảm ơn bởi: Tây Đô đạo sĩ, Veronica07031

Hình đại diện của thành viên
Tung_Prua
Mới gia nhập
Mới gia nhập
Bài viết: 19
Tham gia: 20:45, 22/07/11

TL: Lá số, sự luân hồi và luật nhân quả

Gửi bài gửi bởi Tung_Prua »

rock'roll đã viết:@ maxspeed: linh hồn cũng tiến hóa tiến lui mà bác. trước chưa có người thì có linh hồn các loài động vật. sau tiến hóa đầu thai làm người :D
cái này bác cứ đọc sách phật nhiều vào hay tìm vị cao tăng nào đó mà hỏi. còn nhiều câu hỏi hóc búa nữa cứ hỏi nhau kiểu này đến tết tây cũng chả hết được. :D mà vốn dĩ còn nhiều cái thuộc thế giới vô hình / không gian/ thời gian con người chưa kết luận được nên vẫn đang đi tìm câu trả lời -> chưa thể xác định đúng / sai -> làm sao câu trả lời tuyệt đối đúng / sai?

Lý thuyết cung phúc mà sai thì lý thuyết về mấy cung kia cũng sai nốt -> lý thuyết tử vi cũng sai =)) =)) =))

Bạn nhận thức,hiểu biết đươc như thế thì quá tốt,hơn hẳn mọi người trên diễn đàn.
Vậy xin hỏi " vây thì bạn còn giành thời gian lên diễn đàn làm gì cho mệt nữa ?"
Nếu rảnh thì đi làm việc khác.
Chào bạn !

Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

TL: Lá số, sự luân hồi và luật nhân quả

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »

MỘT SỐ SỰ TÍCH VÃNG SANH Ở NƯỚC TÀU VÀ VIỆT

Từ xưa tới nay, muôn ngàn người ăn ở hiền lành, phần đông trước khi chết đều bị mê muội, không ai biết trước ngày giờ chết để tắm gội sạch sẽ, tỉnh táo niệm Phật hoặc biết có mùi thơm hay nghe tiếng nhạc trên không. Duy chỉ có những người tu Tịnh độ khi mãn phần có những điều dị thường như trên thì biết chắc hồn về Cực lạc.

Nay tôi xin kể lại sơ lược một vài sự tích vãng sanh xưa và nay tại nước Tàu và Việt Nam ta để quí vị Đạo Tâm rộng đường suy xét hầu tu theo Tịnh độ. Chẳng những người tu có kết quả mà loài thú biết niệm Phật cũng đặng vãng sanh nữa.

1.- Đời Đường bên Tàu, Cư sĩ Minh Chiêm tuổi già mới tu Tịnh độ. Ông rất tinh tấn ngày đêm niệm Phật chẳng dứt. Có kẻ nói: ỏõÔng tu muộn quá e không kịp vãng sanhõõ. Ông Minh Chiêm nói: Niệm Phật từ một tới mười câu còn thấy Di Đà, ta lo chi không đặng vãng sanh. Sau vì bị bệnh nên ông vào chùa Hưng Thiên, lúc quá Ngọ, ông ngồi chắp tay xây mặt qua hướng Tây mà niệm Phật. Giây lâu ông nói rằng: Phật với Quan Âm, Thế Chí đều đến rước ta. Nói xong bái rồi hết thở.

2.- Đời Tống, ba cha con của Ngụy thế Tử với một quận chúa đều tu theo Tịnh độ, trừ ra phu nhân là ăn mặn. Sau quận chúa chết yểu: sau khi liệm xong, quàn lại bảy ngày bổng nghe tiếng la từ trong quan tài ỏõNgộp lắmõõ nội nhà mừng quá cạy nắp quan tài ra, cùng lúc ấy tiếng nhạc trên không trung trổi lên. Quận chúa bước ra thưa với mẹ rằng: Thưa mẹ, nước Cực lạc rất vui, trong ao Thất Bửu có nhiều bông sen búp lớn gần bằng bánh xe, ngoài cánh sen, cái thì nêu tên cha, hai bông nọ còn có tên hai anh nữa, con kiếm cùng không có tên mẹ nên con xin phép Đức Phật Di Đà về đây báo tin và khuyên mẹ mau tu Tịnh độ thì sẽ có một bông sen mọc ra dành cho mẹ cũng như của cha, của hai anh và của con vậy. Phật sẽ đem tòa sen ấy rước mẹ về cho Liên hoa hóa thân, ở cung đền rất cao. Muốn mặc y phục gì thời có hiện tới.

Muốn ăn vật chi đều có món đó, đựng trong bát thất bảo hiện tới trước mặt, dùng xong bát biến mất khỏi rửa. muốn nghe nhạc chi thì nhạc ấy vào tai, bằng không muốn nghe thì nhạc liền dứt. Mỗi người đều có hào quang, muốn dùng một hương nào có mùi hương nấy. Được dạo xem trăm thứ hoa thơm. Muốn ăn trái cây chi liền hiện tới khỏi hái, Ngự tửu. Phong cảnh xinh đẹp hơn thế gian trăm bề. Vả lại không có Nhật Nguyệt Tinh Tú, chỉ có hào quang sáng hơn ban ngày thập bội. Có bảy thứ chim tốt lạ; có năm sắc lông, tiếng kêu êm ái như tiếng kệ kinh. Lại mát mẻ như mùa xuân, không có mùa nực và mùa lạnh. Học đặng Lục thông, thành bậc La Hán, đi dạo trên khắp thế gian.

Tòa sen bay lẹ như nháy mắt nên con đi về đây mau tợ khảy móng tay đã tới. Việc ở Cực lạc khoái lạc mười phần kể sao cho xiết. Xin mẹ ráng tu, sau lâm chung Phật rước về đó mà thấy đủ điều. Con không dám trễ phép, cúi xin bái tạ cha mẹ con lên tòa sen về nước Cực lạc. Quận chúa tạ xong rồi bước vô quan tài mà nhắm mắt. Mùi sen thơm ngát, hào quang chiếu sáng xẹt về hướng Tây, tiếng nhạc trên không cũng trỗi lần về hướng ấy.

Từ đấy phu nhân mới tinh tấn trường chay, tu theo Tịnh độ niệm Phật hơn chồng con. Sau mỗi người lâm chung đều biết ngày giờ trước. Đến ngày Liễu đạo, phu nhân ngồi day mặt về hướng Tây, niệm Phật chưa đủ mười câu đã nghe tiếng nhạc trên không, thấy Phật rước mình đông lắm. liền khi ấy, bà xuất hồn về cùng chư Phật. Bốn người lâm chung như vậy thiệt cả nhà có phước, sống hưởng lộc, thác được vãng sanh.

3.- Đời Tống, Dương Kiệt ở Châu Vô Vi, xưng hiệu Vô Vi Tử, thi đỗ sớm làm quan. Đi điểm tội nhân ở tỉnh Chiết Giang, vì mộ đạo Phật nên học kỹ phép tham thiền, xem kinh nhiều lắm. Ông nói với bạn rằng: ỏõChúng sanh nhiều người tối dạ, tham thiền không đúng uổng công. Trừ ra tu Tịnh độ dễ hiểu, dễ tu. Dầu bao nhiêu kẻ dốt, tu cũng được vãng sanh.õõ Người có viết Thiên Thai Thập Nghị Luận và Tịnh Độ Quyết Nghi Tập; giảng rõ phép tu tịnh độ. Tuổi già, ông vẽ tượng Di Đà cao 16 thước mộc thờ lạy. Đến lâm chung, Phật định ngày rước hồn, ngài ngồi mà viên tịch.

4.- Đời Tùy, có ông Tống Mãn ở Phủ Thường Châu, niệm Phật một câu; để một hạt đău đen vô hộc. Lâu năm lường được cỡ 15 giạ. Khai Hoàng niên hiệu thứ tám, tháng chín đãi trai tăng, các sãi ăn rồi ngồi niệm Phật đến hết thở. Người ta thấy trên trời sa xuống mùi hương thơm một cách lạ lùng. Có tiếng nhạc trời trên không lần qua hướng Tây hồi lâu mới dứt.

5.- Đời Đường, có ông Trịnh mục Khanh, và cả nhà đều niệm Phật. Niên hiệu Khai ngươn, ông bị bệnh nặng, có người khuyên trở đũa (ăn mặn), ông không chịu. Tay bưng lư hương niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh độ. Xảy ngửi mùi thấy hương thơm nức. Người ông liền xuất hồn. Cậu là Tô Đỉnh, làm chức thượng thư, chiêm bao thấy ông ngồi trên bông sen lớn.

6.- Đời Minh Liên, Hoa thái Công là người nước Việt, thiệt thà ngày đêm niệm Phật chẳng ngớt. Đến lúc mãn phần liệm vô quan tài chưa kịp đem chôn, bổng nhiên một cánh bông sen mọc trên quan tài, xóm giềng khen ngợi, mới tin ông không biết chữ mà tu tịnh độ cũng được vãng sanh.

7.- Ông Trịnh Sanh là bà con bên vợ của ông Châu an Sĩ (Tác giả quyển Tây Qui Trực Chỉ), tuổi nhỏ học hay, thói quen hay kiêu ngạo, không tin Phật cho lắm. Ngày kia có bệnh, thấy quỉ đến, cao lớn dị thường, xưng là oan cừu đời trước. Trịnh Sanh sợ điếng mới niệm Phật hẳn hòi, cầu vãng sanh cực lạc. Hễ niệm Phật thường thì thôi, nếu hở ra thấy quỉ nên Trịnh Sanh ráng niệm tới mòn hơi. Người nhà thấy không biết cái gì mà mờ mờ như mây khói bay lần qua hướng Tây. Tuy không thấy điềm biết trước và không có mùi hương cùng Thiên nhạc, song cứ lý chắc đặng vãng sanh bởi vì ông ít khi niệm Phật nên không đặng linh hiển đó thôi.

8.- Tô kỳ Sơn tự Khởi Phụng, ở Côn Sơn, tuổi thơ quyết chí tham thiền, tìm nhiều thầy thông thái, nên nghe rành Tịnh độ không dám sát sanh. Tuổi già tu tịnh độ theo bốn thời Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu tụng nhựt khóa không lơi. Mùa đông trời lạnh ôm mền mà ngồi.

Khương Hy năm Kỷ Mão, ngày 26 tháng 11 giờ Ngọ, ông nói vớI cháu tên Điện Phương rằng: ỏõÔng tu Tịnh độ đã thành công, Phật mach bảo giờ vãng sanh đã ba bữa trước, ông không muốn khoe cho chúng biết đêm nay tới giờ Tý ông sẽ được vãng sanh.õõ Lúc canh hai ông mặc áo dài ngồi trước bàn hương án bảo người nhà niệm Phật tiếp với mình, qua canh ba tiếng ông niệm Phật nhỏ dần cho tới hết thở.

9.- Ngô kính Sơn ở cùng xóm với Tô kỳ Sơn. Tuổi ông đã bảy mươi nhưng ông lại muốn học thêm phép tham thiền. Tô Điện Phương nói với ông: ỏõTuổi ông đã già rồi ông nên tu tịnh độ cho mau mà chắc vãng sanh hơn tham thiềnõõ. Ông vâng lời niệm Phật ngày đêm chẳng dứt. Thời gian chưa đầy một năm, bà con ông Ngô kính Sơn đến nói với ông Tô điện Phương hay rằng: ỏõHồi sớm mai này Ngô kính Sơn thấy ông hộ pháp hiện hình, tiếp dẫn vãng sanh nên dặn tôi coi chừng ông tắt hơi rồi thì qua cho ông hay mà tạ ơn khi trước đã khuyên ông tu tịnh độ. Dặn rồi ông ngồi day mặt qua hướng Tây niệm Phật đến hết thở.õõ

10.- Đời Đường, thầy Duy Ngạn tu Tịnh độ rất siêng năng. Thấy Quan Âm, Thế Chí hiện trên không thầy mừng muốn họa chân dung hai vị Bồ Tát, liền khi ấy hai vị hiện đến xin vẽ rồi biến mất.

Thầy Duy Ngạn nói với các đệ tử rằng: ỏõ Ta bữa nay được vãng sanh, đứa nào muốn theo ta cho có bạn?õõ Có một trò nhỏ xin theo, thầy bảo về cho cha mẹ hay, nếu bằng lòng thì lạy tạ rồi đi cho mau. Cha mẹ đồng tử tưởng nó nói chơi nên cười mà bảo rằng: ỏõTự ý con theo thầy về Tây phương đặng thì cha mẹ cầu lắm.õõ Đồng tử tắm gội thay áo lại ngồi gần thầy niệm Phật mới có mười câu rồi hết thở, chết ngồi. Cha mẹ sững sờ hết nói chi được. Thầy Duy Ngạn cũng lấy làm lạ, đặt bài kệ khen đồng tử rồi ngồi tịch theo.

11.- Họ Ngô ở tỉnh Chiết Giang, ông cha đều là tú tài dưới triều Thanh, Thuận Trị năm đầu. Binh tới vây thành, cha mẹ ông bà đều chạy trốn hết. Ông họ Ngô ấy bị bắt sống dâng cho Trương tướng quân thâu làm lính hầu mới mười ba tuổi. Nghĩ rằng mình con nhà học trò, nay làm hèn hạ cũng tội báo tiền căn. Ông liền giác ngộ xin vào chùa lạy Phật ăn chay trường. Mỗi đêm ông tụng một cuốn kinh Kim Cang và niệm Phật. đến năm 16 tuổi, Trương tướng quân đem bạc phát lương cho lính, họ Ngô nhín tiền lương của mình mà thỉnh tượng Đức Phật Di Đà rồi mua đèn hương về cúng lạy niệm Phật và tụng kinh Di Đà. đến năm Đinh Dậu ngày 22 tháng 10, họ Ngô bẩm với Trương tướng quân rằng: ỏõTôi muốn về Tây phươngõõ. Tướng quân mắng rằng nói láo. Bữa sau họ Ngô đến dinh quan đề đốc xin nghỉ phép, Đề đốc giận giao cho tướng quân đánh đòn 15 roi mà ông không hề than; lại từ giã các quan đinh rằng: ỏõMùng 1 tháng 11 tôi sẽ về Tây phương.õõ Đến ngày ấy ông tắm gội sạch sẽ, lúc canh năm mặc đồ xong thắp hương đèn lạy Phật rồi tạ Trương tướng quân trong thuyền đặng về theo Phật. Trương tướng quân tức giận sai lính đi tới chỗ chất củi làm giàn thiêu. Họ Ngô lạy hướng Tây ba lạy rồi lên ngồi trên đống chà bổi niệm Phật rồi ngâm một bài kệ, liền hả miệng ra phun lửa thiêu mình. Quân lính báo tin, quan tướng các dinh đều tựu lại đưa. Trương tướng quân kính phục, từ đấy nội nhà ăn chay, tu Tịnh độ theo cách họ Ngô giảng khi trước.

12.- Ông Thẩm thừa Tiên ở Côn Sơn, tại chợ Tuyên Hóa làm nghề thợ mộc. trên bảy mươi tuổi ăn trường chay niệm Phật tu tịnh độ. Tuy tay không hở đục và rìu búa mà niệm Phật chẳng ngừng. Đến năm Khương Hy thứ mười, tháng ba ông biết ngày Phật rước. Trước ba bữa giã từ bà con bạn hữu và nói ngày giờ mình vãng sanh. Từ giã rồi sao không thấy rước khác nữa. Ông nói với con dâu rằng: ỏõMai là rằm cha sẽ vãng sanh Tây phươngõõ. Rạng ngày gội tắm thay áo, ngồi xây mặt về hướng Tây, trước mặt để ghế thắp hương rồi niệm Phật. Ban đầu niệm lớn, dần dần nhỏ đến khi mòn hơi.

13.- Đời Đường, vợ của ông Ôn tịnh Văn ở Tinh Châu, bệnh nằm liệt giường đã lâu. Chồng khuyên niệm Phật, vợ vâng lời nằm niệm cả năm. Ngày kia chiêm bao tỉnh giấc thưa với chồng rằng: ỏõ thiếp thấy Phật mach bảo tháng sau sẽ vãng sanhõõ, và dặn cha mẹ chồng ráng niệm Phật sau chắc vãng sanh như mình. Tới kỳ ngồi dậy niệm Phật bỏ xác.

14.- Đời Tống có Cung Thị ở huyện Tiền Đường, ngày đêm niệm Phật tụng kinh Di Đà. Sau có bịnh rước thầy giảng kinh. Giảng chưa rồi, bà ngồi chắp tay hết thở. Có người thiếp già cũng niệm Phật không ngớt. Đêm nọ Cung Thị về báo mộng, mach bảo rằng: ỏõ Ta đã về Tây phương Cực lạc, bảy ngày nữa người cũng vãng sanhõõ. Đến ngày ấy, bà thiếp đang mạnh mà chết ngồi.

15.- Đời Tống, có bà Trương thị Nữ ở quận Phần Dương, bệnh đui cặp mắt. gặp người ta khuyên niệm Phật bà liền nghe theo. Ba năm sau mắt bà sáng lại như cũ. Sau thấy Phật và Bồ Tát đem phướng và Bảo Cái đến rước, liền ngồi mà mãn phần.

16.- Trào Thanh có bà Hạo Thi ở huyện Ty Lăng, là vợ của ông Phan hướng Cao, cũng là cư sĩ. Vợ chồng đồng tu Tịnh độ, tụng kinh Kim Cang. Hôm mai tụng nhật khóa niệm Phật y phép.. .Khương Hy năm Canh Thân tháng 7 có bệnh, biết trước ngày 27 giờ Ngọ tạ thế. Bà nói trước cho con cháu hay. Đến kỳ, con đến mời các đạo hữu đến niệm Phật tiếp và ngồi niệm Phật đến mãn phần.

Những Kẻ Dữ Cũng Được Vãng Sanh

17.- Đời Đường, Trương thiện Hòa làm hang bò, trâu. Lúc lâm chung thấy trâu bò đến cả bầy nói tiếng người đòi thường mạng. Ông sợ hối vợ rước sãi đến tụng kinh sám hối. Sãi nói: ỏõKinh Thập Lục Quán có nói: ỏõLâm chung thấy quỷ dữ, nếu lòng thành niệm Phật cũng đặng vãng sanhõõ. Trương thiện Hòa nói: ỏõMa quỉ tới nhiều lắm, đợi lấy lư hương chắc không kịpõõ. Tay mặt cầm đèn, tay trái thắp hương, xây mặt về hướng Tây rồi niệm Phật, chưa đủ mười câu vùng nói lớn: ỏõPhật đến rước ta rồiõõ, nói rồi ông tắt thở chết ngồi.

18.- Đời Đường, Trương chung Quỳ hay làm thịt gà và bán. Ngày kia bịnh nặng thấy người mặc áo đỏ lùa bầy gà đến mổ thịt và mổ cặp mắt ông chảy máu, mang bịnh rên la. Người nhà liền rước sãi đến tụng kinh Di Đà, sãi bảo y niệm Phật mãi. Tới chừng nghe mùi thơm một cách lạ, Trương chung Quỳ hết la nhức và chết một cách êm nhẹ.

Chung Quỳ và Thiện Hòa đang bị oan hồn theo đòi nợ, nhờ chí thành niệm Phật, Đức A Di Đà cảm động cho các oan hồn trâu bò kia đầu thai hưởng phước, chúng nó mới buông tha. Xem hai sự tích này, các ông già bà cả có lỡ sát sanh trâu bò gà vịt rồi thì đừng lo sợ tu không kịp. Quý vị còn trẻ sợ không tin. Nhớ tin theo phương pháp đây thì tu chắc chắn có quả vị. Hai người làm hàng thuở nay không biết sợ tội chút nào, đến lâm chung thấy oan hồn địa ngục trước mắt kinh hãi. May có phước gặp sãi giải rành niệm Phật trối chết. Giây phút địa ngục hóa ra bông sen. Bởi Đức Phật Di Đà có nguyện: ỏõ Ai lâm chung, niệm Phật mười câu ngài sẽ rước về Tây phươngõõ. Huống chi quí vị gặp kinh này hãy mau ăn năn, lập nguyện, tụng niệm nhiều ngày, lo chi Phật không rước.

29.- Sãi Huýnh Kha đã xuất gia mà còn ăn mặn, nhậu rượu. sau khi ăn năn nghĩ rằng mình đã làm sãi mà như vậy, lúc lâm chung đọa địa ngục làm sao. Ông liền cậy các sãi đem chuyện vãng sanh đọc cho mà nghe. Ông ngồi xây mặt về hướng Tây nghe đọc hết các sự tích rồi đứng dậy lạy một lạy và niệm Phật. Khi đọc hết, Huýnh Kha liền niệm Phật suốt ba ngày đêm, bỏ cơm, ngủ gục chiêm bao thấy Phật bảo rằng: ỏõSố ngươi còn sống mười năm nữa phải ráng mà tuõõ. Vía ông lạy Phật bạch rằng: ỏõCõi thế gian độc ác con tu sao nổi mười năm, xin Phật rước con về Cực lạc rồi tu và hầu hạ các Bồ Tátõõ. Phật nói ỏõNgươi tình nguyện như vậy, thời niệm Phật ba ngày nữa ta sẽ qua rước hồnõõ. Huýnh Kha nhịn ăn luôn, niệm Phật cho đủ ba ngày đêm và cậy các sãi tụng kinh Di Đà đưa mình. Một lát nói lớn rằng: ỏõPhật với các Bồ Tát đã đến rước taõõ. Nói rồi quỳ lạy xong xây mặt về hướng Tây niệm Phật mà chết.

20.- Đời Tống, có Trọng Minh ở huyện Sơn Âm chùa Báo Ân, không giữ ngũ giới, lúc bịnh nói với bạn tu là Đạo Ninh rằng: ỏõ Nay ta loạn tâm, thuốc chi trị được?õõ Đạo Ninh nói: ỏõCứ niệm Phật mãiõõ. Trọng Minh y lời niệm Phật ròng bảy ngày hơi đã đuối quá, Đạo Ninh bảo hãy tưởng tượng Đức Phật Di Đà trong tâm. Trọng Minh y lời tưởng tượng mãi thấy hai vị Bồ Tát và Phật Di Đà rồi nhắm mắt mà chết ngồi.

Người dữ cầu vãng sanh niệm Phật phải bằng trăm phần người hiền. Nếu lo ra xao lãng, tưởng việc khác, Phật không rước ắt sa địa ngục. Xin quý vị Hòa thượng, Yết ma, Giáo thọ, Thủ tọa và bổn đạo, ráng trường chay niệm Phật, tinh tấn tụng kinh Di Đà ít năm hoặc ít tháng cho tới lâm chung, lo chi Đức Phật A Di Đà không rước về Tây phương, ngồi chín phẩm sen vàng. (Niệm 30 vạn biến vãng sanh, chắc chắn thấy Phật).

Nhứt là những vị trường chay, những vị tu lâu năm thường niệm Phật tụng kinh nhựt khóa thì công quả càng lớn lo chi không được về Cực lạc, liên hoa hóa thân, ngồi trên chín phẩm tòa sen.

Nguồn:http://www.phapgioi.com/tangthan/index. ... -sinh.html
Được cảm ơn bởi: pccd, Sầu riêng, cloudstrife, ngoctrantran, phoenix18, Veronica07031, cunconhamchoi, mitmitnana, tuankietxm, scorpio.passion

Hình đại diện của thành viên
Sầu riêng
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 574
Tham gia: 19:23, 05/05/10

TL: Lá số, sự luân hồi và luật nhân quả

Gửi bài gửi bởi Sầu riêng »

Thanh thản nẻo đi về

Nghiệp có thể thay đổi bằng sự thực tập, chứ ta không thể nào chịu chết với nó. “Nghiệp tôi như vậy nên phải chịu quả báo.” Không phải vậy đâu, bởi không có cái gì cứng ngắt hết. Các hạt giống trong tàng thức trôi chảy liên tục (hằng) và thay đổi mãi như một dòng sông (chuyển). Nhất là vào giây phút sắp chết thì các dòng sông tâm ý chảy ào ạt. Con nước nào mạnh thì nó lôi ta đi theo. Niệm định tuệ có công năng nhận diện được mặt mũi của tâm ý, có khả năng thanh lọc và chuyển hóa phiền não. Khi nỗi buồn biểu hiện trên mặt phẳng ý thức và chạm vào vùng ánh sáng chánh niệm thì ta thấy được, do đó nó không có khả năng chi phối ta. Biết hút thuốc làm cho ta ho nên ta không hút. Biết cờ bạc sẽ thua tiền nên ta không chơi… Cơn giận xuất hiện thì chánh niệm nhận diện: ta sắp chết rồi mà còn giận hờn con cháu để làm gì nữa. Ngay đây, ta có thể bẻ gãy nghiệp lực.

Ta có thể thay đổi nghiệp lực trong đời sống hàng ngày, chứ không cần phải chờ đợi đến lúc gần chết. Trước kia giận nhiều, bây giờ ta giận ít lại. Lúc trước phản ứng mạnh, bây giờ ta thở cho khỏe. Hồi đó hấp tập, bây giờ ta sống thảnh thơi. Tuy nhiên, cơn giận chỉ chuyển hóa thôi, chứ không thể nào tiêu diệt được. Nếu có điều kiện thì cơn giận có thể biểu hiện trở lại, nhưng khi đi ngang qua vùng ánh sáng chánh niệm thì nó bị mòn mỏi đi từ từ. Đây là phương pháp duy nhất để chuyển nghiệp.

Tâm thức có hai tầng lớp, phần trên là ý thức và phần dưới là tàng thức cách nhau bằng cánh cửa “mạt na”, có thể tạm gọi là “cánh cửa tâm hồn.” Tàng thức là chiều sâu của tâm thức, ảnh hưởng sâu đậm tới đời sống của ta. Ta không thể thấy sự vận hành của tàng thức, nhưng mỗi khi những hạt giống biểu hiện lên vùng ý thức thì ta có thể thấy được sự suy nghĩ, nỗi lo âu, cơn hồi hộp… Đồng thời, ta biết luôn sự tác động của tâm hành ấy tới lời nói, ánh mắt, cơ thể. Tự nhiên, con mắt hừng hực lên, ánh mắt dữ dằn hơn, thân thể nóng bức hơn, vì lúc ấy tâm thức đang có lửa sân hận.

Mỗi khi ngọn đèn chánh niệm mạnh đủ thì “cánh cửa tâm hồn” được mở toang ra để chiếu ánh sáng lên vùng ý thức. Khi giận thì biết ta đang giận, lúc buồn thì biết ta đang buồn, khi bất an thì biết ta đang bất an, nhờ đó, ta mới có thể đưa cơn giận trở về trạng thái hạt giống, tức là nó không có quyền biểu hiện một cách tự do. Ta thở với cơn giận. Ta ôm ấp rồi quán chiếu để cơn giận biến thành tình thương. Chính ta tiếp độ cho ta; thầy bạn, tăng thân và môi trường chỉ nâng đỡ và yểm trợ mà thôi. Cho nên ánh sáng chánh niệm chính là năng lượng chuyển hóa.

Đời sống của ta có thể ví như là cây. Cây lớn lên hút nước, dinh dưỡng để nuôi thân, kết thành hoa trái. Một ngày nào đó, cây sẽ già nua rồi phải chết, tức là trở về cội nguồn của nó. Chờ cơ hội nào đó có đủ duyên và đẹp trời, hạt giống nằm sẵn trong lòng đất sẽ nẩy mầm, và cây sẽ đơm lá kết hoa trở lại để vui chơi trong mùa xuân. Tới mùa đông, nó héo mòn rồi tàn rụi cho nên ta tưởng cây chết, nhưng thật sự, cây đang làm ra những hạt giống nơi từng nhụy hoa.

Cũng vậy, ta sinh ra lớn lên, vui buồn, thương yêu, lập gia đình rồi tới ngày già, bệnh. Ta cứ tưởng đâu tới ngày kia thì ta sẽ chết như một bông hoa. Không phải như vậy! Thật sự, ta đang làm ra những hạt giống của thân, khẩu và ý. Chờ điều kiện thuận tiện và đầy đủ, chúng sẽ biểu hiện thành sự sống đẹp hoặc xấu trong tương lai. Bông hoa làm đẹp và dâng cho cuộc đời hương sắc, quyến rủ ong bướm tới chơi để nhụy hoa có thể kết tụ thành hạt hoa. Con người cũng thế!

Giá trị một đời người là ở sự tu học, chứ không phải là tiền bạc, giàu sang hay địa vị. Ta mang theo hết tất cả những hành động trong đời sống của ta và của những người thương. Tùy ở công phu tu tập mà ta mang theo hành lý nhẹ hay nặng, ra đi khỏe khoắn hoặc nhọc nhằn. Ta còn truyền lại sự sống của ta cho con cháu và họ sẽ mang ta đi về tương lai. Cho nên nghiệp ảnh hưởng qua lại như một màn nhện, từ đó nó đưa tới cái thấy sâu sắc là “ta không đi về đâu hết”. Ta chỉ ẩn hiện mà thôi.

Khoa học khám phá: Sự sống là một khối điện tử, có khi ẩn có khi hiện. Cái máy electromagniticism có thể đo được đường đi của nó. Con người là điện tử. Ổ bánh mì là điện tử. Tất cả đều làm bằng điện tử và nguyên tử. Năng lượng hiện ra hoặc ẩn tàng, đi theo đường sóng nhẹ hoặc sóng mạnh, sóng lớn hoặc sóng nhỏ. Nhưng tất cả đều đi hết. Chúng ảnh hưởng lẫn nhau. Thỉnh thoảng nó chớp lên hoặc có một đường xẹt dài. Tất cả nghiệp lực cũng đi theo kiểu của điện tử. Vui buồn, thương ghét đi theo đường sóng của nghiệp lực, không bao giờ ta có thể chết được. Đi sâu vào thế giới của nguyên tử, ta thấy ta là tất cả và tất cả là ta. Ta không còn là một thực thể riêng biệt. Thế thì, ai sẽ lên đường để ra đi? Chết nghĩa là hình hài này tan rã. Sau một mùa xuân, bông hoa đơm hoa kết hạt, rồi tàn rụi đi, nhưng nó không thật sự biến mất mà đang làm ra hạt giống, làm ra năng lượng, làm ra nghiệp để tiếp tục cơ hội xuất hiện trở lại.

Một số người không biết rõ bản chất của nghiệp. Họ cứ tưởng một trăm năm dài lắm. Sau khi chết, họ sẽ không còn gì nữa. Đó là một nhận thức sai lầm, tạo ra nhiều lo âu và sợ hãi. Bụt nói: “không sinh cũng không diệt”. Đó là một tiếng hét lớn, là tiếng sấm sét, là niềm tin yêu. Do đó, ta hãy vui lên. Chết là đi ngang qua một sự thay đổi lớn, có thể đẹp đẽ hay xấu xa đều tùy thuộc vào phẩm chất đời sống của ta trong hiện tại. Ta có thể trở lại trong cuộc đời này đẹp đẽ, tươi vui và thanh thoát hơn.

Tóm lại, ta hãy gieo trồng thật nhiều đức tính tốt đẹp như bố thí, cứu người, thương yêu, tha thứ, giúp đỡ bạn bè, chăm sóc gia đình... Sống được như thế, ta sẽ đến đi thong dong trên mọi nẻo đường.


Nguon http://www.daophatngaynay.com/vn/phat-p ... ruyen.html
Được cảm ơn bởi: pccd, Tây Đô đạo sĩ, cloudstrife, Veronica07031

Hình đại diện của thành viên
Sầu riêng
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 574
Tham gia: 19:23, 05/05/10

TL: Lá số, sự luân hồi và luật nhân quả

Gửi bài gửi bởi Sầu riêng »

Dụng công mãnh liệt

Cư sĩ Tiền Dực Sơn tự Vạn Dật đời Thanh, người huyện Thường Thục, làm nghề nấu rượu, thích chè chén. Ít lâu sau, ông tu Tịnh nghiệp, tận lực sửa đổi lề thói cũ, tránh sát sanh, dứt rượu thịt, khuyên mẹ ăn chay trường niệm Phật.

Một người con của ông bịnh lao, niệm Phật qua đời, mọi người phỉ báng, ông vẫn thờ Phật như cũ. Vợ mất, ông vẫn điềm nhiên, cự tuyệt người khuyên tục huyền:

- Có con nhưng nó đã mất rồi, tôi cưới vợ nữa để làm gì? Chí tôi xuất thế, lẽ nào còn thèm thuồng có người nối dõi ư?

Nhà cửa bị lửa cháy, ông hướng lên không, nguyện:

- Nghiệp của tôi đáng bị lửa cháy, chỉ xin đừng làm tổn hại đến nhà hàng xóm.

Lửa tắt, quả nhiên nhà hàng xóm vô hại. Ông chợt mắc bịnh thổ huyết, tâm sanh tử càng thiết tha, niệm Phật càng mạnh mẽ. Ðến lúc bịnh nguy kịch, ăn vào là ói ra ngay. Người chú là Tạ Phượng Ngô kể chuyện cổ đức nhịn ăn để thấy Phật, ông vui vẻ bảo:

- Có phương cách tiện lợi lớn như vậy, tôi phải dũng mãnh làm theo!

Ông liền tắm gội, đến trước bàn Phật, thắp hương, phát thệ: giữ trai giới bảy ngày, bỏ tiền phóng sanh cầu sanh Tịnh Ðộ. Ðêm ngày niệm Phật chẳng sót, có khát chỉ ăn dưa mà thôi. Có người hỏi: “Cả đêm chẳng ngủ, chẳng mệt mỏi hay sao?” Ông nói:

- Chẳng ngủ có lợi là niệm Phật được nhiều. Lúc tôi chưa bịnh chẳng được an nhàn; nay do bịnh mới được nhàn, đúng là lúc phải dốc sức, làm sao còn mệt nhọc được?

Hết kỳ hạn, thần thức hôn loạn, ông cả sợ, chắp tay đặt trên gối, ra lệnh đốt ngón tay. Ông Tạ nói:

- Lúc này, ngươi phát nguyện ấy thì cũng giống như đã đốt ngón tay rồi, chẳng bằng nhất ý cầu về Tây Phương thì hơn.

Ông liền nhắm mắt niệm Phật, lúc đầu còn miễn cưỡng, sau do dụng công mạnh mẽ, dần dần thần chí an định. Lại được mười mấy người trợ duyên, tiếng niệm Phật liên tục suốt ngày đêm. Ông chợt thấy Tây Phương Tam Thánh hiện tiền, quang minh, tướng hảo, toan cất thân lên kim đài; chợt nghe trên không có tiếng nói:

- Thân ông chưa sạch!

Ông liền sai lấy nước thơm tắm gội xong, Tam Thánh hiện như cũ, liền bảo người nhà rằng:

- Tôi đã đến được Tịnh Ðộ, thấy vô số hoa sen, tôi ngồi trên đó, sướng chẳng thể nói nổi!

Ông chỉ vào thân mình bảo:

- Ðây chẳng phải là thân ta!

Một lát, lại bảo:

- Phật đông nghẹt cả nhà!

Ngồi hướng về Tây, qua đời, thọ ba mươi tám tuổi.

(theo Tục Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục)

Nhận định:

Ðoạn được rượu thịt là tham độc đã hết. Bị cười chê chẳng đoái hoài là sân độc đã hết. Con chết, vợ mất vẫn điềm nhiên là ái căn đã đoạn. Cự tuyệt lời khuyên lấy vợ lần nữa, chẳng mong có người nối dõi là si độc đã hết.

Vì vậy, gặp phải nghịch cảnh, ông vẫn có thể chẳng thối thất cái tâm ban đầu; dù bịnh tật khổ sở vẫn giữ vững chánh niệm. Dù vì nghiệp chướng hiện tiền khiến thần thức hôn loạn, ông vẫn có thể dụng công mạnh mẽ, lại được trợ duyên nên nhanh chóng cảm được tướng tốt lành là đài vàng, thần hồn ngao du cõi Sen, thật đáng làm gương vậy!

Nguon http://www.duongvecoitinh.com/index.php ... h-cuc-lac/" target="_blank
Được cảm ơn bởi: pccd, Tây Đô đạo sĩ, cloudstrife, phoenix18, cunconhamchoi, mitmitnana, tuankietxm

Maxspeed
Đang bị cấm
Đang bị cấm
Bài viết: 288
Tham gia: 13:37, 25/07/11

TL: Lá số, sự luân hồi và luật nhân quả

Gửi bài gửi bởi Maxspeed »

Nói đi nói lại tôi không đả kích phật, thánh hay chúa. Cái đó là tôn trọng tín ngưỡng.
Tôi cũng vẫn khẳng định con người dù theo đạo nào thì cũng là huớng thiện.
Nghe thấy có người tin rằng Tất cả chúng ta đều đã là Phật. Trời ah. Mấy cái đó đều là những khái niệm mà thôi.
Chuyện chết sống thế nào nặng nhẹ không phải gặp được Phật là nhẹ vì làm gì có mà gặp. Đó là con người tưởng tượng ra thôi.
Toàn nói những cái gì tưởng là cao sang huyền bí mà chẳng hiểu gì và làm chẳng nổi. Ngyaf nào cũng ngồi đọc kinh phật rồi bỏ lại bố mẹ anh em, dũ áo ra đi tìm về cái mông mênh trìu tượng và dựa vào đó mà lý do là về với đức anh minh.
Các bạn mà giỏi về kinh phật rồi thuyết nhà phật nhà thánh thì các bạn lôi kéo anh em họ hàng đi tu hành hết cho đắc đạo xem nào. Các bạn thuyết phuc được họ thì cả xã hội này cũng theo các bạn và lý thuyết là đúng. Còn các bạn mà nói họ không tỉnh ngộ được nên không thể thuyết phục thì chính các bạn mới là người phải tỉnh ngộ. CŨng đừng nói là họ chưa có duyên với cửa phật nhé. Trên đây thấy nói con người là Phật hết nhưng chưa được vàng 100%, vậy lúc nào mà chẳng có duyên.
Nói lại chuyện sống chết. Thấy nói là mây người tu hành cuối đời trước khi chết nhìn thấy Phật hay Bồ tát ah. Đó là tưởng tượng của con người, và đó chỉ là khái niệm và là Phật ở Tâm. 6 tỷ người không ai mô tả được Phật như thế nào. Ai chứng minh được các vị kia nhìn thấy Phật. Dẫn chứng hàm hồ.
Ai đó nói tôi lên đây ra vẻ tài giỏi?
Bạn thấy tôi chỉ hỏi mà không ai trả lời được. CHỉ mang những bài viết xa lắc xa lơ không có trọng tâm trả lời và lại miễn cưỡng như thế.
Rồi ông chủ Topic cười Kha Kha và nói rằng: Phật có lúc trả lời, co lúc không trả lời ... Kha KHa. Đúng là Lực cười quá. Cười gượng thế. Nhạt như nước vậy.
Đã là thảo luận thì phải trả lời qua lại xem đúng sai thế nào.
Tôi viết từng ấy bài chưa bao giờ phỉ báng hay coi thường 1 đức tối thượng nào đó mà con người tôn sùng, đó là tín ngưỡng.
Chủ topic đưa ra nhân quả tôi không phản đối, nhưng nó là của ai thì tôi đã chứng minh ở trên rồi.
Còn bạn kia viết là đời người như 1 cái cây nở hoa kết trá rụng xuống rồi chết , một lúc nào đó lại mọc và nở hoa kết trái. Đấy chỉ là vòng chuyển hóa của vật chất. CHứ không có chuyện chết đi rồi thế kỷ nào đó là ra đời. Hãy chứng minh. Nói suông đừng nói.
Tóm lại tranh luận là hỏi và trả lời. Các bạn trả lời được thì các bạn hiểu rõ và giải thích để tôi nghe.
Con các bạn hãy hỏi tôi để tôi trả lời chứ không phải lôi những bài viết ở đâu ra đay để nản tránh.
Ok.
Không kích bác, đả kích và làm ảnh hưởng đến nhân phẩm của nhau!
Và đặc biết những người không biết ko nên tham gia, những người tham gia thì nói phải chắc, phải dẫn chứng và giải thích.

Hình đại diện của thành viên
cloudstrife
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 4206
Tham gia: 20:34, 24/11/10

TL: Lá số, sự luân hồi và luật nhân quả

Gửi bài gửi bởi cloudstrife »

@ Anh maxspeed : cho hỏi hằng ngày anh hít thở cái gì để sống ạ ?

Maxspeed
Đang bị cấm
Đang bị cấm
Bài viết: 288
Tham gia: 13:37, 25/07/11

TL: Lá số, sự luân hồi và luật nhân quả

Gửi bài gửi bởi Maxspeed »

Bạn ăn được gì tui ăn được lấy!

Hình đại diện của thành viên
cloudstrife
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 4206
Tham gia: 20:34, 24/11/10

TL: Lá số, sự luân hồi và luật nhân quả

Gửi bài gửi bởi cloudstrife »

Em hỏi nghiêm túc , a trả lời em đi !

Đã khóa