Luận giải cho Hải Trung Kim

Xem, hỏi đáp, luận giải về tử vi
Nội qui chuyên mục
Đây là chuyên mục dành cho việc xem lá số tử vi. Các bài mang tính trao đổi học thuật xin vui lòng đăng trong mục Kiến thức tử vi.
Không được đính kèm lá số của trang web khác. Các bài không liên quan sẽ bị chuyển khỏi chuyên mục này.
victories_2008
Chính thức
Chính thức
Bài viết: 76
Tham gia: 10:49, 01/04/09

TL: Luận giải cho Hải Trung Kim

Gửi bài gửi bởi victories_2008 »

III. Duyên tình Tuổi Giáp Tý

1. Giáp Tý là tuổi của hoạt-động xã-hội, sống cho danh-vọng, sự-nghiệp hơn là cho gia-đình. Con người Giáp-Tý là con người thiên về lý-trí, lấy lý-trí giải quyết mọi vấn-đề.

1.1. Trước khi hành-xử, họ cân nhắc, đắn đo, tính toán lợi hại, kể cả trong tình yêu. Các tuổi khác giải quyết vấn đề thường dựa trên hai căn-bản là tình-cảm, lý-trí.

Giáp Tý chỉ có một lý-trí. Giáp Tý sinh ra để chạy theo ảo-ảnh công-danh. Họ dành tất cả nỗ lực, để đi đến thành công, họ hơi khô khan. Có những tuổi Giáp Tý được sao "tình cảm" thủ mệnh như: Thiên-lương, Thiên-đồng, Văn-Xương, Văn-khúc, bản chất họ là người tình cảm. Nhưng khi giải-quyết sự việc vẫn thiên về lý-trí nhiều hơn.

Nhiều người thiên về lý-trí quá, họ thành cố-chấp, buộc mình trong những nguyên tắc, đôi khi thành máy móc.

1.2. Xét các sao chủ duyên tình của Giáp Tý:

1.2.1. Đào-hoa, đệ nhất chính tinh chủ tình, duyên đóng tại Dậu. Đào-hoa thuộc mộc. Dậu thuộc kim, kim khắc mộc, cây hoa đào bị chặt cành, cắt rễ, duyên tình kém các tuổi khác. Nếu Đào-hoa cư Dậu không thôi, thì cây Đào cũng chưa đến nỗi tan tác, khô héo. Tuổi Giáp-Tý còn bị Triệt đóng ở Thân-Dậu. Tử-vi kinh nói: "Triệt đáo kim cung" (5) , hỉ bị cung kim phá, bị Triệt chặt, mệnh Giáp-Tý thuộc kim, thêm một phần khắc nữa.

1.2.2. Thiên-hỉ, chủ may mắn, kỳ-ngộ trong tình yêu đóng chung với Đào-hoa thành ra chịu cùng một nghiệp. Bản chất tình-duyên là Đào-Hoa, kỳ-ngộ tình yêu là Thiên-hỉ bị cung kim phá, bị Triệt chặt, mệnh Giáp-Tý thuộc kim, thêm một phần khắc nữa... cái khắc ở đây không do ngoại cảnh, mà do chính con người Giáp Tý khô khan, coi tình yêu như mây nổi, nhìn tình yêu là thứ xa-xỉ, không cần thiết cho đời sống.

1.2.3. Hồng-loan cũng chủ hỉ-sự, kỳ-ngộ trong tình yêu như Thiên-hỉ đóng ở Mão. Mão thuộc mộc, Giáp Tý thuộc kim, kim khắc mộc. Giáp-Tý khắc trú-địa của Hồng-loan, khiến cho Hồng-loan trở thành thứ tình yêu tạm thời, không căn-bản.

1.3. Bàn chung Giáp Tý là người quá thiên về kiến-tạo sự-nghiệp, không chú ý đến tình yêu. Họ méo mó nghề nghiệp, dù trong tình yêu họ cũng đặt ra nguyên tắc, rồi trói buộc mình vào nguyên tắc đó.

Đúng ra họ ít gặp may mắn trong tình yêu, nhưng hầu hết họ có địa-vị, có tiền bạc, lại khôn khéo, nên họ lôi kéo được nhiều người khác phái vào quỹ-đạo của họ. Người khác phái thường bị hào quang chói lòa của họ mà đến, hơn là vì tính nhu-nhã, lãng-mạn của họ.

Kinh-nghiệm thấy tuổi Giáp Tý thành-công nhiều về hôn nhân hơn là tình yêu. Khi Giáp Tý cùng một tuổi khác đến với người khác phái, thì tuổi khác sẽ đạt được tình yêu trước Giáp Tý. Nhưng nếu đặt vấn đề hôn nhân, thì Giáp Tý thành-công vì địa-vị, vì tiền bạc.

IV. Duyên tình nam mạng Giáp Tý

1. Giáp Tý là tuổi của xã-hội, không phải là tuổi của gia đình. Ngoài tính chất chung của tuổi Giáp Tý, nam mạng còn có nhiều dị biệt. Nam mạng thiên về lý-trí hơn nữ mạng rất nhiều. Họ say mê làm việc, dồn nỗ lực để tạo công danh địa vị. Họ lấy sự thành công của hoạt động nghề-nghiệp làm hạnh-phúc. Người yêu, vợ của họ chỉ là một thứ gì phụ thuộc trong đời.

2. Có những tuổi Giáp Tý sợ vợ như sợ cọp. Nhưng họ không sợ vợ theo kiểu lãng-mạn, săn sóc chiều vợ. Họ nhịn nhục vợ chỉ với mục đích yên thân, cho qua cơn sóng gió.

Hãy xét các sao duyên tình của nam Giáp Tý.

2.1. Đào-hoa, Thiên-hỉ đóng ở Dậu là cung kim bị khắc, ngộ Triệt, thêm vào bản mệnh thuộc kim, khắc nữa, họ còn mất đi sao Hỉ-thần. Hỉ-thần là sao chủ về diễm-phúc, cảm-giác, hạnh-phúc được hưởng. Cả ba sao kết lại thành ra Giáp Tý thiếu tất cả, mất tất cả.

2.2. Hồng-loan đóng tại Mão ngộ Kình-dương. Kình-dương chủ khô khan, thô bạo. Trong tình yêu hóa hình là dương-vật. Hồng-loan chủ may mắn, kỳ-ngộ trong tình yêu, đóng chung với Kình-dương, thì những gì xảy ra? Giáp Tý có nhiều kỳ-ngộ. Những kỳ-ngộ đó không phải là tình yêu, mà là những chuyện thỏa mãn cảm giác thân xác. Giáp Tý đến với phụ-nữ như người đói tìm đến quán ăn. Chứ thực sự họ không yêu say đắm, và họ cũng không biết yêu.

2.3. Thanh-long đóng ở cung Thìn ngộ Thiên-la là cái lưới nhà trời và Long-trì, Hoa-cái, Quan-phù. Thanh-long chủ những mối tình thoáng qua trong cuộc đời, hoặc những "nét đẹp" trong tình yêu, như măng non mới mọc, chưa cành, chưa lá. Thanh-long, ngộ Long-trì là sao chủ về cao sang. Hoa-cái là cái lọng che. Quan-phù chủ điều tiếng, kiện cáo.

Nếu là người ở địa vị thấp, hay trung bình họ sẽ được một vài phụ-nữ cao sang quyền-quí cảm tình, trong những vụ "cảm tình" đó có một vài vụ vỡ lỡ, khiến cho Giáp Tý gặp nguy hiểm.

Nếu Giáp Tý là người ở địa vị cao, thì họ sẽ là người dùng địa vị, dùng cường lực để nài ép ái-tình với những phụ-nữ dưới tay họ. Tệ hơn nữa họ hay "Xử dụng" vợ cấp dưới.

Họ ở địa vị cao, không thiếu gì phụ nữ đến với họ. Nhưng tại sao họ lại "mượn" vợ người, để gây nguy hiểm, để đi đến tan nát sự nghiệp? Không ai hiểu cả. Chính họ cũng không hiểu được họ.

Thanh-long ngộ Long-trì là hai con rồng. Nhưng hai con rồng bị lưới Thiên-la bó chặt, đó là lý-tính của những vụ "ăn vụng" bất chính.

3. Tóm lại Giáp Tý là tuổi:

- Khô khan trong tình yêu.

- Họ không để ai trọn vẹn trong tâm cả.

- Họ lại nhậy cảm, dễ rung động.

- Nhưng họ thành công trong tình yêu. Một là vì họ có địa vị lớn, nhiều phụ-nữ lóa mắt vì hào quang của họ, đến với họ vì địa vị, chứ không phải vì yêu thương.

- Họ dễ chiến thắng trong tình yêu, và họ hay dùng ưu điểm địa vị chinh-phục phụ-nữ.

- Họ chinh-phục chỉ vì hiếu-thắng, sau khi đạt được, họ bỏ rơi. Họ như con bò mộng, thấy mầu đỏ là húc, chứ khômg cần biết kết quả.

- Trong đời họ, họ có nhiều mối tình bất-chính, họ bất chấp đau khổ của người dâng hiến tình yêu cho họ.

- Họ say sưa khi chiếm được tình yêu của người khác.

Nếu họ không có tính xấu này, thì đời họ phải chôn hay bỏ vợ một hai lần. Những vị nào tuổi Giáp Tý mà chỉ biết có một bà vợ, chưa từng đi ngang về tắt với người đàn bà có chồng, hãy tự hào rằng mình là người thánh-thiện ít có trên đời; không có căn bản luân lý Phật-giáo, Khổng-giáo hay Thiên-chúa-giáo, thì cũng ở trong một gia đình có truyền thống giáo dục.

4. Giáp Tý nên lấy vợ tuổi nào, để gia đình êm ấm? Sự thực thì gần như tuổi nào họ cũng chinh-phục được để làm vợ, để sống trong hào quang của họ, và yên phận làm vợ hiền.

4.1. Mạng thổ. Thổ sinh kim. Giáp Tý mạng kim, được mạng của vợ sinh ra. Giáp Tý không mấy lo chuyện nhà, lấy vợ mạng thổ, họ sẽ được một người vợ tề gia nội-trợ, hầu yên thân kiến-tạo sự-nghiệp. Với người vợ mạng thổ, biết giữ gìn tiền bạc, tiết kiệm dành dụm cho chồng. Nhưng tuy được vợ hiền, họ vẫn không chú ý đến tình yêu. Vợ chỉ là đối tượng tình dục mà thôi. Con cái được hưởng cảnh đầm ấm gia đình.

4.2. Mạng kim. Giáp Tý mạng kim, hai vợ chồng đồng mạng. Vợ chồng hòa-hợp truyện chăn gối hứa hẹn hạnh-phúc. Với người vợ mạng kim, Giáp Tý đỡ phiêu lưu hơn. Họ khó có thể kiếm được người hợp gu trong phòng the bằng vợ. Dù họ phiêu lưu, rồi cũng nhận ra rằng chỉ có "cơm nhà" là ngon hơn cả. Với người vợ mạng kim, họ còn được vợ hòa hợp trong công ăn việc làm, thông-cảm, chia sẻ khó khăn với họ. Con cái được hưởng hạnh-phúc của cả hai người ban cho.

4.3. Mạng thủy. Kim sinh thủy. Giáp Tý mạng kim, như vậy mạng họ sinh ra mạng vợ. Vợ đến với họ bằng câu "Thân thượng thành thân", tức chồng ở vai cao hơn rồi đến với vợ. Vợ họ có thể là em bạn, con bạn, người dưới quyền v.v... Nhưng vợ đến với họ vì công-danh, tiền bạc hơn là vì tình yêu.

4.4. Mạng mộc. Kim khắc mộc. Giáp Tý mạng kim, chồng khắc vợ, thắng vợ là cặp vợ chồng lý-tưởng Đông-phương thời xưa. Thời mà chồng như ông vua, vợ như nữ-tỳ, chỉ biết vâng, dạ. Giáp Tý lấy vợ mạng mộc, thì vợ hoàn toàn bị họ khống-chế, nói sao nghe vậy. Thông thường đây là những người vợ nhỏ tuổi hơn họ rất nhiều. Khi Giáp Tý chẳng may lỗi nhịp cầu duyên: vợ chết, hoặc đứt gánh, thì chắp mối tơ duyên với người mạng mộc rất tốt. Nghĩa là họ chắp nối mối tơ duyên khi tuổi đã đứng, địa vị lên đã cao, họ chinh-phục bằng tiến bạc danh vọng. Con cái trung bình.

4.5. Mạng hỏa. Hỏa khắc kim. Giáp Tý mạng kim, bị mạng vợ khắc. Có khá nhiều cặp vợ chồng Hỏa-Kim như trên. Nhưng chỉ được ít lâu, vợ phản chồng, ngoại tình, dùng phương tiện, hào quang của chồng phục-vụ người yêu, giúp đỡ người yêu để phá sự nghiệp của chồng. Chúng tôi có khoảng gần trăm lá số vợ hỏa chồng Giáp Tý trong trường hợp này.

Có hai trường hợp vợ giúp tình địch giết chồng, hoặc làm cho chồng phải lâm vào vòng lao-lý. Giáp Tý có vợ mạng hỏa coi chừng mọc sừng đầy đầu. Con cái sống trong hỏa ngục thế gian.

5. Tóm lại Giáp Tý là người nhạy cảm, nhưng không thiết tha đến tình yêu, mà chỉ chú ý đến tình dục. Họ chiến thắng tình địch bằng địa vị, tiền bạc, uy-quyền. Đời họ ít nhất một lần đổ vỡ, hoặc điều tiếng về tình yêu. Họ hay phiêu lưu vào đường bất chính, thích "xài" vợ người, kể cả vợ của người tùy thuộc. Đời họ có một vài mối tình với những phụ nữ quyền quý, những mối tình này mang lại cho họ nhiều cay đắng.

V. Duyên tình nữ mạng Giáp Tý

1. Nữ mạng Giáp Tý ngoài những tính chất chung ở trên, họ có rất nhiều khác biệt với nam mạng. Họ không phải là người khô khan, coi thường tình-cảm, cũng không phải là người vô duyên.

Hãy xét những sao duyên tình của họ.

1.1. Đào-hoa, Thiên-hỉ, đóng ở Dậu bị khắc, bị Triệt, thì họ ít hấp dẫn, duyên may. Đào, Hỉ trong đời không còn, thì hoa tình yêu không nở trong lòng họ, họ thực tế. Đối với xã-hội Đông-phương, họ là người kém may mắn về duyên tình, muộn màng về chồng con, vì xã-hội Đông-phương, người phụ nữ thụ động trong hôn nhân. Họ phải chờ nam phái tới, rồi tùy nghi lựa chọn. Còn trong xã-hội Tây-phương, người phụ nữ đi tìm chồng là chuyện thường, nên họ ít bị cô độc, cũng vẫn lập gia đình sớm. Tuy nhiên họ tìm thì nhiều, mà kết quả lại ít và khó thành tựu.

1.2. Hồng-loan là sao thứ nhì chủ kỳ-ngộ, hỉ-sự trong tình yêu đóng ở Mão, ngộ Đà-la. Đà-la là sao chủ thị phi, lắm điều, trong tình yêu chủ tình dục. Vì vậy nữ mạng Giáp Tý không có tình yêu lý tưởng. Những gặp gỡ của họ hỗn-hợp cả "tình lẫn dục". Họ ít chịu khép mình, nhịn nhục. Khi gặp đối tượng, họ mở cửa lòng đón tiếp dễ dàng, hoặc có khi họ đi bước trước. Đối với người tình, họ mở rộng cửa và "cho" hết. Nữ mạng Giáp-Tý có đời sống tình dục rất dai, họ "khoẻ" và kéo dài cho tới 70 tuổi vẫn... còn được.

Lịch sử Trung-Quốc có một bà hoàng thái hậu cầm quyền, khi đi vào tuổi 70, mỗi đêm bà còn có thể giao-hoan với hai, ba thanh niên trẻ, thế mà bà vẫn ứng phó đầy đủ như hồi còn xuân.

1.3. Thanh-long đóng ở Tý với Nguyệt-đức, Thái-tuế. Thanh-long là con rồng xanh, chủ những tin vui, những gặp gỡ thoáng qua trong cuộc đời, những mối tình chớm nở, như măng mới mọc, như hoa còn nụ. Nguyệt-đức trong tình yêu là bà mai, đóng chung với Thanh-long, thì nữ mạng Giáp Tý luôn gặp người mai mối, cho nên họ có nhiều mối tình thoáng qua rất đẹp, hay nói khác đi họ được nhiều người cảm tình, phải lòng mặt.

1.4. Hỉ-thần là sao chủ về cảm-giác, diễm-phúc, rung-động trong tình-trường. Hỉ-thần đóng chung với Lưu-hà, Thiên-việt tại Mùi. Lưu-hà là giòng sông, trong tình yêu chủ bền vững, vô-tận. Thiên-việt là cái búa, trong tình yêu chủ được sủng ái. Cả ba kết lại nữ mạng Giáp Tý được hưởng những khoái-cảm tột đỉnh, vô-song. Chính vì vậy, khi giao-hoan với ai họ cũng buông thả, cũng "cho" hết. Người nào đã gần họ, khó mà xa được họ, đôi khi trở thành "ghiền họ".

2.Giáp Tý nữ được người yêu sủng ái đã đành, khi đi học họ được thầy (chứ không phải cô) thương. Đi làm họ được cấp trên cảm tình đặc biệt. Đối với xã-hội Đông-phương thời cổ, họ là thứ đàn bà trắc nết, hư thân, dâm đãng. Nhưng đối với xã-hội ngày nay, họ chẳng có gì đáng chê trách cả. Họ là người biết tìm phương thức hưởng thụ khoái cảm, nên họ thăng bằng, ít quạu cọ. Khi lớn tuổi, khoảng từ 60 trở đi, tuổi khác thì tình dục xuống, đôi khi khô cạn. Còn Giáp Tý thì hạnh-phúc hơn. Họ vẫn có nhiều người sủng ái họ. Họ hưởng thụ chuyện phòng the như hồi còn xuân.

3. Nữ mạng Giáp Tý không được may mắn trong duyên tình, họ không hấp dẫn, thu hút nam phái. Họ là người nhiều dương tính, thông minh, có địa vị, ngoại-giao rộng. Nếu họ ở xã-hội Đông-phương thì bị thiệt thòi, duyên nợ ba sinh muộn màng. Nếu ở xã-hội Tây-phương, họ tự đi tìm tình yêu, không bị muộn màng. Họ không có tình yêu lý-tưởng, tình yêu của họ là thứ tình yêu thực tế, yêu đi với dục. Họ dễ dàng chấp nhận tất cả những ai đến với họ. Khi họ gần đàn ông, họ cho hết, để cùng nhau lên đến đỉnh Vu-sơn.

4.Tình vợ chồng đối với nữ Giáp Tý, là chuyện phòng the. Người chồng cần phải cho họ "no đủ", để họ thiếu thốn, họ kiếm ăn ở chỗ khác. Họ được nhiều bạn hữu, người thân giúp đỡ họ, do đó họ có nhiều mối tình thoáng qua rất đẹp, được nhiều người yêu vụng nhớ thầm, phải lòng mặt.

5.Nữ Giáp Tý được hưởng tất cả những rung động mãnh liệt nhất của chuyện phòng the. Thành ra trong cuộc đời họ, họ coi chuyện phòng the là lẽ sống, không có không được. Họ chẳng chung tình với ai, kể cả chồng họ. Ai cho họ "ăn" thì họ đón nhận, khó có người đàn ông nào đủ khả năng cho họ "no đủ". Lịch sử, văn-học Trung-Quốc không ngớt nói đến người đẹp Dương-quí-Phi, cô tuổi Giáp Tý tháng giêng ngày 7 giờ Mùi. Cô được Đường Minh-Hoàng sủng ái cùng cực. Cả họ cô đều được hưởng ân-sủng. Anh cô là Dương-quốc-Trung làm đến tể-tướng, thế mà cô lại đi ngang về tắt với tướng An-lộc-Sơn, gây nên cuộc nổi loạn khiến mấy triệu người chết, kết quả cô bị thắt cổ ở Mã-ngôi. (6)

6. Tuổi Giáp Tý nữ cần chọn người yêu, chọn chồng tuổi nào để đời sống đỡ sóng gió, để "hợp gu":

6.1. Mạng thổ. Thổ sinh kim. Giáp-Tý mạng kim, được mạng chồng sinh ra. Giáp Tý là người thích tự lập, không muốn nhờ vả chồng. Nhưng nếu họ lấy chồng mạng thổ, người chồng cũng giúp đỡ họ trong việc làm ăn. Người chồng mạng thổ, tính tình nhu thuận, sẵn sàng chiều theo ý muốn của vợ, thì Giáp Tý có thể "đòi hỏi" tự do, có thể chủ động chuyện phòng the. Con cái tốt.

6.2. Mạng kim. Giáp-Tý mạng kim, vợ chồng hợp nhau về công ăn việc làm cũng như về đời sống tình cảm. Với người chồng, người yêu mạng kim, Giáp Tý không cần đòi cũng được "ăn". Kinh nghiệm thì người chồng mạng kim cung cấp cho Giáp Tý những khoái-cảm tuyệt đỉnh trong phòng the. Nhưng chỉ được một thời gian sau, trở thành yếu, Giáp Tý phải "kiếm ăn" chỗ khác. Con cái được hưởng hạnh phúc đầm ấm.

6.3. Mạng thủy. Kim sinh thủy. Giáp Tý mạng kim, mạng vợ sinh ra mạng chồng. Người chồng được vợ giúp đỡ, cuộc sống yên vui. Người chồng thủy của Giáp Tý bị thụ động trong phòng the, còn Giáp Tý lại đóng vai chủ động. Phỏng-vấn cả trăm người Giáp Tý có chồng mạng thủy, đều thỏa mãn công nhận rằng người chồng tử tế với họ. Hơn nữa nghe lời họ. Đôi khi chịu cho họ khống chế. Con cái đầm ấm, hạnh phúc.

6.4. Mạng mộc. Kim khắc mộc. Giáp Tý mạng kim, khắc chồng. Người chồng trở thành một thứ tùy thuộc của vợ, từ công ăn việc làm cho đến chuyện gia đình, vợ quyết định hết. Trong phòng the, vợ chủ động, chồng tuân theo. Thông thường đây là một thứ "nô bộc phòng the" của Giáp Tý. Người chồng mạng mộc, chỉ mang cái tên cho có danh nghĩa, còn họ luôn đi "ăn" ở ngoài. Kinh nghiệm thấy hằng trăm bà Giáp Tý ở tuổi 60, bỏ chồng, đi bao những người tình trẻ, người tình loại "nô bộc phòng the" đa số mạng mộc.

6.5. Mạng hỏa . Hoả khắc kim. Giáp Tý mạng kim, mạng chồng khắc vợ. Giáp-tý bị chồng chinh phục, bị cai trị. Nếu người chồng thuộc loại khỏe mạnh, đủ cho Giáp Tý hưởng thụ phòng the, thì thực là hạnh-phúc vô bờ bến. Còn trường hợp yếu đuối, không theo kịp vợ, tan vỡ mau chóng. Hoặc không thì Giáp Tý cũng vụng trộm với người khác. Con cái sống trong hỏa ngục.

7.Giáp Tý ở lớp sinh năm 1924, hiện (1983) đã đi vào tuổi 60, nam cũng như nữ còn mạnh về tình dục. Họ sống khá buông thả. Các nhà luân-lý kết tội họ. Họ là người ưu-thời, mẫn thế, họ bất cần, họ trả lời rằng: Luân-lý người đặt ra, thì họ cũng đặt ra luân-lý vậy: Luân-lý của họ là trở lại với con người mình, tìm kiếm hạnh phúc trong tình yêu, vừa lợi cho sức khỏe, vừa được hưởng những rung cảm mãnh liệt. Tội gì phải kiềm chế, bó buộc thân xác. Đời người như ngựa câu qua cửa sổ, chết đi là hết.
Đầu trang

victories_2008
Chính thức
Chính thức
Bài viết: 76
Tham gia: 10:49, 01/04/09

TL: Luận giải cho Hải Trung Kim

Gửi bài gửi bởi victories_2008 »

VI. Người cộng tác

1. Giáp Tý là tuổi có thiên-tư, có năng-khiếu nhận-xét biến chuyển, cho nên bất cứ người nào đến với họ, dưới hình-thức cấp trên, bạn-hữu, tùy thuộc, kẻ thù, họ đều nhận chân được bản-chất. Biết bản-chất thực sự về một người, họ định được thái-độ sáng-suốt về cách đối-xử, xử-dụng, phản ứng đối phó, cùng diễn biến những gì sẽ xảy ra.

2.Những người muốn được lọt mắt xanh Giáp Tý, được Giáp Tý coi là tri-kỷ, khi đến với họ nên tỏ ra chân thực. Người trên Giáp Tý không nên có thái độ coi thường họ. Hãy xét họ có khả-năng, đức-độ đến bực nào, thì dùng đến bậc đó. Không nên đặt họ vào địa vị quá cao, quá thấp.

3.Người dưới cần tỏ ra tuyệt-đối phục-tùng họ.

4. Giáp Tý có khả-năng nhìn thấu tâm-tư con người, phân biệt được kẻ trung người nịnh, kẻ tốt người xấu. Hãy đối xử với Giáp Tý bằng sự chân thật, đừng lợi-dụng, đừng qua mặt họ, họ nhận biết ngay.

5. Giáp Tý có thiên-tư trời cho để biết những gì xung quanh sắp xẩy ra, phản bội họ là rước lấy nguy hại cho mình. Giáp Tý cũng có tính dấu kín tâm tư như những tuổi Tý khác. Khi họ biết người nào phản họ, họ cho đó là điều xỉ-nhục, họ dấu kín không lộ cho người ngoài biết. Họ tự tìm đường lối phản-ứng. Khi Giáp Tý phản ứng một mình, không có người cố-vấn, thường rất khốc liệt.

6. Nếu Giáp Tý phản ứng qua những cố-vấn xung quanh, thường sáng suốt, minh-bạch dễ thành công. Khi họ quyết định một mình, thường sai lầm. Bởi vậy người phản bội Giáp Tý bị lãnh hậu-quả tai hại nhất.

7. Nhiều tuổi Giáp Tý ở địa vị cao như hoàng-đế, tổng-thống, thủ-tướng, bộ-trưởng, họ có nhiều tùy-thuộc trung-thành lâu năm. Nhưng rồi một ngày nào đó bất mãn, quay ra phản bội họ, họ phản ứng lại rất tàn bạo, thường là mất mạng, hoặc thân bại danh liệt. Người ngoại cuộc hoặc hậu thế phê-bình khắt khe Giáp Tý rằng sao không nghĩ đến trước mà có quyết định nặng tay như thế?

Sự thực đó là chỗ yếu điểm của Giáp Tý. Khi Giáp Tý nhận biết người nào trung-thành với họ, dù xấu xa, dù bất tài cũng được trọng-dụng. Những người Giáp Tý đã trọng dụng, dù người khác dèm pha, áp-lực nói xấu, họ vẫn tin tưởng và ban ân huệ.

8. Trong đời Giáp Tý họ thích những người trung thành. Họ quan niệm thà được con chó trung thành, còn hơn được con sư-tử mà họ không tin tưởng được.

- Giáp-Tý chỉ tin tưởng những người nào, mà họ có thể nắm được trong tay. Nhiều người không hiểu, cho rằng tại sao họ thích dùng những người tư cách hạnh kiểm, đức-độ không đủ?

- Cũng không hiểu rằng tại sao họ lại dùng những người mà không ai thèm dùng? Đặt vấn đề như thế là không hiểu Giáp Tý. Giáp Tý cần những người có thể sống chết với họ.

- Ngược lại có những người là bạn hữu tri-kỷ từ nhỏ, nhưng tỏ ra không giúp đỡ họ, không cùng đường lối với họ. Họ cũng không dùng.

- Giáp Tý là người biết ơn. Những ai giúp đỡ, ban ơn cho họ vào thời thơ ấu, hoặc thủa hàn vi, lúc thành danh, họ sẽ báo đáp đầy đủ. Họ không những báo đáp bản thân, mà còn báo đáp con cháu nữa.

-Giáp Tý ít coi trọng tình yêu. Nhưng những ai giúp đỡ họ trong lãnh vực tình yêu, hôn nhân, họ cũng coi là một mối ân huệ. Họ đền ơn xứng đáng.

8.1. Loại người trên.

Loại người trên gồm có thầy, cấp-trên, chủ-nhân. Người trên của Giáp Tý phải tự-hào rằng họ có một thuộc cấp tinh-minh, mẫn-cán, đáng tin cậy.

Ai là thầy của Giáp Tý thực sung sướng. Giáp Tý là người biết ơn thầy, biết nhận chân giá trị tinh thần, coi thầy là người làm ơn cho họ về mặt kiến thức. Họ biết ơn thầy khi đang học. Khi họ thành danh, họ tìm thầy để trả ơn, nếu thầy không còn, họ trả ơn vợ con thầy.

Giáp Tý có nhiều sáng kiến, vì vậy thầy của Giáp Tý chỉ việc giảng đại-cương, không cần đi vào chi tiết. Họ sẽ tự diễn-giải rộng theo sáng kiến của họ. Họ không phải là người kiêu-căng, họ chấp nhận tất cả những ai hơn họ là thầy họ. Họ sẵn sàng nghe người khác cố-vấn cho họ.

Ai cố-vấn cho Giáp Tý đừng hy-vọng họ chấp nhận ngay. Họ nghe lời khuyên, rồi so sánh với những lời khuyên khác, cuối cùng suy tư, đưa ra một quyết định. Quyết định đó bao giờ cũng sáng suốt, và đi đến thành công nhất.

Là cấp trên Giáp Tý phải biết tôn trọng họ, khai thác thiên tính biết những sự vật xung quanh họ, quyết định sáng suốt của họ, cho nên chỉ cần đưa ra đường lối đại-cương, rồi tùy họ làm việc. Họ trình bày nhận xét, đề nghị quyết định cùng diễn biến sẽ đến. Bấy giờ chỉ việc "đồng ý" hay "không" là đủ. Nếu ra lệnh cho họ, đi vào chi tiết, sáng kiến của họ bị chôn vùi, họ sẽ chẳng giúp ích gì hơn một người thường.

Tỷ dụ họ là một sĩ-quan cấp tướng, cấp trên chỉ việc ban lệnh "Nhu cầu trước mắt là đánh chiếm vùng X, rồi Y trước ngày N". Họ sẽ nghiên-cứu lực-lượng bạn, lực lượng địch, thời-tiết, địa-thế, rồi đưa ra đường lối tiến đánh và ước-lượng kết quả hai bên. Bấy giờ cấp trên của họ chỉ việc chấp nhận hay không.

Nếu họ là người thợ máy sửa xe hơi, ông chủ chỉ cho họ chiếc xe bị tai nạn nằm đó, yêu cầu họ sửa. Họ sẽ nghiên-cứu chiếc xe hư những gì, phải thay những gì, sửa như thế nào, thời gian sửa, tốn phí bao nhiêu.

Cấp trên Giáp Tý cần nhớ một điều quan trọng, họ biết uyển chuyển theo hoàn-cảnh để đưa ra quyết-định hành-động, nên họ không tuyệt đối tuân hành chỉ-thị của thượng cấp. Thông thường họ trung-thành với thượng cấp, với chủ. Nhưng họ biết nhận thức được thời cuộc, mà không tuyệt đối trung-thành với thượng cấp.

Giáp Tý khác với Bính Tý. Với Bính Tý dù thượng cấp, chủ nhân thế nào chăng nữa, là tri-kỷ của họ, thì sống chết có nhau, họ không đổi lòng. Giáp Tý thì không thế, thường ngày họ trung-thành, nhưng khi thấy thượng cấp sai lầm, họ không phò tá nữa.

Giáp-Tý cũng không ích kỷ như Mậu Tý cũng không hời hợt thiếu trung-thành như Canh Tý, cũng không thâm trầm như Nhâm Tý. Họ nhìn sự vật với năng-khiếu nhận xét biến-chuyển rồi quyết đoán sáng suốt. Khi thượng cấp, chủ nhân có khuynh-hướng vắt chanh bỏ vỏ, hoặc hại họ, thì họ trở mặt ngay, họ đang là người trung-thành, biến thành kẻ thù ghê gớm.

8.2. Loại ngang hàng.

Giáp Tý là tuổi thích hoạt động, sành ăn, thích đời sống bạn hữu, nên họ có nhiều bạn. Khi đi học, họ là học sinh thông-minh, nhưng họ lười học thành ra họ không phải là học sinh ưu tú nhất. Họ ham hoạt động nên những tổ chức sinh hoạt học đường họ đều tham dự. Dù tham dự tổ chức nào họ cũng sáng chói hơn các bạn. Họ biết trọng bạn, nên họ không bị ghen tị.

Giáp Tý thành công sớm về sự nghiệp. Họ có đủ thứ bạn. Bạn đồng học, đồng nghiệp, bạn tâm-giao, bạn du-hí và bạn... qua đường.

Họ tử tế với tất cả bạn hữu. Ai có mắt tinh đời, biết làm ơn cho họ, biết giúp đỡ họ, hiểu họ, họ cho lọt mắt xanh, thế là trong đời, sống, chết, ngọt, bùi có nhau. Họ biết dùng người, biết rõ khả năng từng người. Nhưng họ ưu tiên cho những người trung-thành với họ, chỉ biết có họ.

Bạn hữu giúp đỡ họ khi còn niên thiếu, lúc chưa gặp thời, hoặc giúp đỡ cho họ về duyên tình. Khi thành danh, họ trả ơn đầy đủ. Nếu họ ở vào địa vị lớn, cần đề cử những chức vụ cao, người đầu tiên họ nghĩ tới là bạn hữu. Trong bạn hữu thì người nào làm ơn cho họ sẽ được hưởng trước.

Bạn hữu cần biết rõ Giáp Tý là người linh-mẫn, hiểu được những gì biến đổi quanh mình. Vậy nên đối xử với họ thực tình, nhất là trung-thành với họ. Đừng dại dột đâm sau lưng họ, hay phản bội họ, nhất là mang ơn trả oán, dù làm bí mật, họ cũng biết, họ sẽ phản ứng khốc liệt.

Họ là người thích ban ơn cho bạn hữu. Bạn hữu đã giúp đỡ họ, được họ trả ơn đã đành. Còn những người chưa từng giúp họ, họ cũng ban ơn, để thu phục nhân tâm.

8.3. Loại người dưới.

Giáp Tý thích hoạt động xã-hội, chính-trị, nên họ cần có nhiều người tùy thuộc. Họ dùng đủ mọi phương thức, tiền bạc, danh vọng, cảm tình để thu phục nhân tâm. Những người có tài, có đức họ thu phục đã đành họ còn thu phục cả những người vô-tài, bất-đức.

Giáp Tý quan niệm xã-hội có muôn vạn hình trạng khác nhau, họ cần có nhiều loại người để xử-dụng. Nhiều người tuổi Giáp Tý làm nghề dạy học. Họ thương yêu học trò, dùng hết khả năng giúp đỡ hậu thế. Khi thành đại-nghiệp, họ dùng học trò vào chức vụ tín cẩn. Trong những người là học trò, bạn hữu, họ dùng tất cả, không loại bỏ một ai. Những ai tỏ ra trung-thành họ dùng trước, không cần căn cứ vào tài ba, đức hạnh.

Giáp Tý khác với Bính Tý. Bính Tý dùng người đầu tiên là đức-độ, tài ba rồi mới đến trung-thành. Còn Giáp Tý thì trung-thành trước rồi đến ân-nghĩa cũ, sau mới đến đức độ và tài ba. Thành ra trong những người dưới quyền Giáp Tý, người bất tài chỉ huy người tài. Người vô hạnh ở trên người đức hạnh. Đó chính là cái nguy của Giáp Tý. Lúc vận tốt thì không sao, khi gặp vận xấu thì dễ sụp đổ toàn vẹn.

Ngay những người được Giáp Tý tin tưởng, nếu tỏ ra không trung-thành, họ sẵn sàng vứt ra ngoài quỹ-đạo của họ, không cần nhớ đến những công lao đã từng lập được trong quá khứ.

Giáp Tý có thể tha thứ cho những người dưới tất cả những lỗi lầm, nhưng lỗi lầm về lòng trung-thành thì không bao giờ họ tha thứ cả.

9.Tuổi Giáp Tý nên chọn những loại người nào, để tránh bị phản bội, để dễ thành công?

9.1. Mạng thổ. Thổ sinh kim. Giáp Tý mạng kim, được mạng người cộng-tác sinh ra. Loại người này nên là bạn, là cấp trên của Giáp Tý, sẽ giúp đỡ, làm lợi cho Giáp Tý rất nhiều. Giáp Tý có duyên gặp sư-phụ, chủ-nhân, cấp trên mạng thổ họ sẽ được tin cậy, được xử dụng tài ba đúng chỗ, nhất là giữa hai người có sự tương hợp trong công việc. Những người là cố-vấn cho Giáp Tý thì cần mạng thổ, để Giáp Tý nghe lời. Nếu là người ngang hàng thì không mấy được Giáp Tý vui lòng. Người dưới thì càng không tốt, vì Giáp Tý tính thích ra lệnh cho người dưới hơn là nghe lời người dưới.

9.2. Mạng kim. Giáp Tý mạng kim. Người cộng-tác dù là cấp trên, ngang hàng, thuộc cấp đều có lợi cho họ. Cả hai sẽ cộng-tác với nhau được lâu dài. Nhưng nếu là bạn đồng-nghiệp, hoặc bạn hữu thì hợp nhau hơn. Giáp Tý là người thích quyết đoán, thích ra lệnh, mà người dưới mạng kim, thì không mấy hợp với tính họ. Nếu là người mạng kim, thì cần phải biết yên lặng, nghe và thi hành nhiều hơn là phát biểu ý kiến. Còn người trên Giáp Tý mạng kim, thì cần đối xử với họ như bạn hữu thì mới dễ hòa hợp công việc.

9.3. Mạng thủy. Kim sinh thủy. Giáp Tý mạng kim, sinh ra mạng người cộng-tác. Những người cộng-tác với Giáp Tý dù là người trên, dưới, ngang hàng đều được Giáp Tý ban ơn, làm lợi cho cả hai bên. Giáp Tý được người cộng-tác trung-thành, ngược lại người cộng-tác được Giáp Tý trả ơn, ban ơn huệ rất nhiều.

9.4. Mạng mộc. Kim khắc mộc. Giáp-Tý mạng kim, khắc mạng người cộng-tác. Người cộng-tác thuộc loại ngang hàng, người trên thì không được bền vững. Giáp Tý là tuổi thích lãnh-đạo, thích chỉ-huy, mà gặp bạn, người trên bị khắc, thì bị Giáp Tý lấn áp. Nếu là bạn, luôn luôn phải ở tư thế địa-vị kém họ mới được. Ngược lại người dưới Giáp Tý thì tốt. Những người này gặp Giáp Tý là bị chinh phục ngay, luôn luôn tuân hành lệnh Giáp Tý. Như vậy mới làm cho Giáp Tý vui lòng.

9.5. Mạng hỏa. Hỏa khắc kim. Giáp Tý mạng kim, bị khắc. Người cộng-tác không nên là cấp dưới, bạn hữu, sẽ làm hại cho Giáp Tý. Họ chỉ có thể là cấp trên, là thầy Giáp-Tý để Giáp Tý quy phục. Nhưng khi nào địa-vị Giáp Tý kém họ mà thôi. Khi địa-vị Giáp Tý lớn hơn rồi, thì lại trở thành xấu.

9.6. Tuổi Giáp Tý là tuổi lãnh-đạo, nên họ cần nhiều bạn, nhiều người cộng-tác. Họ biết ơn những ai đã giúp đỡ họ trong thời thơ ấu, thời hàn vi. Khi thành danh, họ trả ơn đầy đủ. Họ thích thu phục người, trong những người họ xử dụng, thì họ ưu tiên cho những người trung-thành, ơn nghĩa rồi mới đến tài năng và đức độ. Họ đa nghi, và thường tiêu diệt ngay những người nào phản bội họ. Người dưới quyền của họ hay có sự lục đục, vì người dở trên kẻ hay, người vô hạnh trên người đức độ. Nhưng đó là bản chất và cũng là khuyết điểm của Giáp Tý.

VII. Xe cộ, y phục

Trong khoa Tử-vi thì sao Thiên-mã tượng-trưng cho năng-lực cuộc đời, hóa hình là chiếc xe. Thiên-mã của tuổi Giáp Tý đóng tại cung Dần. Giáp Tý Thiên-mã tại Dần cùng với những sao khác:

1. Lộc-tồn chủ tài sản, chủ của chìm. Trong Tử-vi, Thiên-mã ngộ Lộc-tồn là xe chở vàng, chủ giàu có, thịnh vượng. Tuổi Giáp Tý suốt đời có xe đi, tậu được xe sớm hơn tất cả những tuổi Tý khác. Họ không tậu xe thì cũng được đi xe của sở làm việc.

2. Tang-môn chủ tan vỡ, hư hỏng. Giáp Tý đi xe hay bị đụng, bị hư, nhất là hay bị trầy sơn.

3. Hỏa-tinh, ngộ Mã thì xe hay bị hỏng điện, có thể bị cháy. Đèn bị bể, bị hư hại.

4. Cô-thần, chủ ít thay đổi. Giáp Tý trung-thành với loại xe mình đi.

5. Những năm Dần, Ngọ, Tuất, lưu niên Thiên-mã đóng ở Thân ngộ Triệt là ngựa què, xe hay bị hỏng, bị tai nạn. Nội cung còn Bạch-hổ là sao chủ bị đau đớn xương thịt, thì dễ bị thương do tai nạn xe.

6. Giáp Tý mạng kim, thuộc màu trắng. Giáp thuộc màu xanh. Tý thuộc màu đen, thế thì Giáp Tý đi xe màu gì thì hợp, để không bị tai nạn, để dễ làm ăn?

6.1. Màu trắng. Hợp với bổn mạng, sinh ra Chi Tý màu đen. Chi chủ thay đổi, hay chủ con đường. Đi xe màu trắng, Giáp Tý không bị lạc đường, dễ tìm đường. Làm ăn thuận lợi.

6.2. Màu đen. Bổn mệnh thuộc kim. Kim sinh thủy, tức màu đen, bổn mạng sinh ra cái xe, xe hút hết năng lực cuộc đời, tai nạn dễ xảy ra, chủ nhân hay bị thương, sức khoẻ yếu kém, làm ăn bế tắc, có khi chết vì tai nạn xe cộ.

6.3. Màu xanh. Giáp Tý mạng kim thuộc màu trắng. Kim khắc mộc thuộc màu xanh, xe bị bổn mạng khắc, đi xe hay bị hỏng, chính bổn mạng hay sinh tai nạn.

6.4. Màu đỏ. Thuộc hỏa. Khắc kim là bổn mạng Giáp Tý, xe khắc người, đi xe hay bị tai nạn, ông cò hỏi thăm liên miên.

6.5. Màu vàng: Thuộc thổ, sinh kim là bổn mạng. Đi xe ít tai nạn, sức khỏe tốt, ăn nên làm ra.

7. Màu sắc, đồ dùng, quần áo: Cũng như màu xe
Đầu trang

victories_2008
Chính thức
Chính thức
Bài viết: 76
Tham gia: 10:49, 01/04/09

TL: Luận giải cho Hải Trung Kim

Gửi bài gửi bởi victories_2008 »

VIII. Nhà của tuổi Giáp Tý

1. Lộc-tồn là sao chủ bất động sản của Giáp Tý đóng ở Dần, ngộ Thiên-mã. Tử-vi kinh gọi cách Lộc-Mã đồng cung là xe chở vàng tức cách tốt cho nhà cửa. Nhưng tuổi Giáp Tý, Lộc-tồn còn ngộ thêm Tang-môn là sao chủ hư-tán, thì Giáp-Tý có nhiều bất động sản. Có bất động sản sớm là khác. Nhưng không nên mua nhà mới, hoặc làm nhà. Chỉ nên mua nhà cũ thì hay hơn. Giáp Tý thích nhà kiểu cổ, không thích nhà mới. Khi Lộc-Mã ngộ Hỏa thì hay đổi nhà, dọn nhà.

2. Tuổi Tý, Ngọ thường bị cái vạ Khốc, Hư đồng cung đóng ở Ngọ, Tý, khiến thời thơ ấu, thời trẻ họ gặp gian nan, nghèo khó. Từ 30 tuổi trở đi mới khá. Tuổi Giáp Tý không bị cái vạ đó, bởi Khốc, Hư ở Ngọ, được Lộc-tồn, Thiên-mã ở Dần chiếu lên, giải cái vạ nghèo khó trong 30 năm đầu cuộc đời. Tuy nhiên phần đông tuổi Giáp Tý có tài sản trước 52 tuổi, e khi nhập hạn 52-53 tuổi thường bị trắng tay, phải lập lại cuộc đời, bấy giờ mới yên.
IX. Bệnh tật tuổi Giáp-Tý

1. Tuổi Giáp Tý thuộc mạng kim, kim trong học thuyết Âm-dương, Ngũ-hành liên hợp với:

- Ngũ khí. Thuộc táo (Khô).

- Ngũ hóa. Thuộc thu (Co vào).

- Ngũ tạng. Thuộc phế, đại-trường. Liên hợp với thủ Thái-âm phế-kinh, thủ Dương-minh đại trường kinh.

- Ngũ quan. Thuộc tị (Mũi).

- Hình thể. Thuộc bì mao (Lông da).

2. Bản mệnh là con người thuộc kim, thuộc phế, đại-trường. Phế, đại-trường là hai tạng phủ tương thông biểu-lý. Phế thuộc tạng thuộc âm, thuộc lý, Đại-trường thuộc phủ, thuộc Dương thuộc biểu. Khi bệnh cập phế thì ảnh hưởng sang đại trường và ngược lại.

- Phế chủ khí, chủ hô hấp. Khi công năng của phế không điều hòa, thì hô hấp vô-lực, âm thanh nhỏ, toàn thân mê mệt. Nếu công năng gián đoạn, hô hấp đoạn tuyệt, thiên mệnh chấm dứt tức... chết.

- Phế chủ tuyên giáng, ngoại hợp với bì mao. Khi phế có bệnh thì ảnh hưởng tới bì mao. Ngược lại bì, mao có bệnh, thì ảnh hưởng tới phế.

- Phế chủ thông với thủy đạo, bởi vậy khi phế bị bệnh, cơ thể con người sinh ra phù thủng.

- Mũi là quan của phế, khi phế có bệnh ảnh hưởng tới mũi, ngược lại mũi có bệnh thì biết phế cũng có bệnh. (7)

3. Bệnh của phế có thể phân làm hai

3.1. Một là ngoại tà xâm nhập sinh ra các bệnh:

Nghẹt-mũi, đau cổ hầu, nghẹt thở, ho suyễn. Tương đương với Tây-y (Rhinites, Rhino-pharyngites, Corryza, Bronchites, Broncho- Asthmatiques), và một phần của các bệnh cảm, cúm (État grippal). Tất cả chia làm ba loại:

- Hàn tà phạm phế. Ho, suyễn, đàm trắng, miệng không khát, mũi nghẹt chảy nước trong, hoặc ác-hàn phát nhiệt, đầu, thân đau. Theo Tây-y là nhiễm trùng đường hô hấp. (Loại siêu vi trùng). (8)

- Nhiệt tà phạm phế, ho suyễn, đờm vàng, hầu đau, miệng khát, phát nhiệt, ác phong hàn, hoặc lồng ngực đau, thổ huyết. Đại tiện kết bón, tiểu tiện vàng đỏ. Theo Tây-y là nhiễm trùng đường hô hấp. (Loại vi trùng).

- Táo tà phạm phế, ho khan không đàm, đàm khò khè, khạc không ra, mũi khô, hầu khô, ho nặng thì đau ngực. Tây-y qui vào nhiễm trùng đường hô hấp. (9)

3.2. Hai là công-năng của phế suy yếu:

- Phế khí hư. Người mệt, suy nhược, ho suyễn vô lực, hoạt động càng thêm nặng, âm thanh vô lực, mồ hôi xuất, sợ lạnh, sắc mặt trắng nhợt. Tây-y qui vào phế viêm kinh niên. (10)

- Phế âm hư. Ho khô, hơi thở ngắn, đàm ít, hoặc đàm có huyết, miệng, hầu khô, âm thanh yếu, hình thể gầy gò, mồ hôi trộm, sau 12 giờ trưa sốt. Tây-y qui vào chứng ho lao. (11)

4. Bản chất cơ thể là kim, khi sinh bệnh thì diễn ra những chứng trên hoặc bệnh ngoài da.

Nếu bản chất cơ thể mạnh, thì phế không bệnh. Phế thuộc kim, kim khắc mộc. Can Giáp thuộc mộc bị bản mệnh khắc. Trong học thuyết Âm-Dương, Ngũ-hành, nếu tương-khắc thái quá gọi là tương-thừa. Tương-thừa là thừa cơ suy nhược mà xâm lấn. Phế mạnh thừa Can. Can chủ huyết, chủ âm. Khi phế khắc can huyết thì sinh ra huyết hư, chứng trạng như sau:

- Sắc mặt trắng nhợt, hoặc vàng úa.

- Mắt hoa đầu váng.

- Trong lòng hồi hộp lo sợ, mất ngủ.

- Chân tay tê dại.

- Phụ nữ kinh kỳ lượng ít, hoặc mất kinh.

Tây-y là chứng mệt mỏi (Asthénie), mất ngủ (Insomnie) hay thần kinh suy nhược (Neurathénie) (12)

5. Nếu tương-thừa mạnh quá, can âm đưa đến "Can dương thượng thăng", chứng trạng như sau:

- Huyết áp cao (Hypertention artérielle).

- Chóng mặt.

- Tai kêu.

- Nhức đầu.

-Dễ nổi giận.

- Mất ngủ.

- Mộng nhiều.

- Trí nhớ giảm thoái.

- Đau ngang lưng.

- Nặng quá sinh não xuất huyết (Hémorragies cérébralles) rồi sinh bán thân bất toại (Hémiplégies). (13)

6. Can là tác dụng của ngoại vật vào cơ thể, trong bệnh-lý là ngoại tà. Can Giáp thuộc gan. Thông thường phế khắc gan. Nhưng khi phế hư nhược, thì gan thừa cơ hư nhược mà uy hiếp. Học thuyết ngũ hành gọi là tương-vũ, tức cậy mạnh hiếp yếu. Khi gan-dương mạnh, uy hiếp phế, khiến phế âm hư, sinh ho, suyễn.

7. Nếu bản chất con người là phế hư nhược, không sinh ra được thận-thủy, đưa đến thận hư. Kinh-nghiệm cho thấy tuổi Giáp-Tý thường làm việc quá độ khiến phế hư sinh thận hư chứng trạng là:

- Mất trí nhớ.

- Đầu sớm bạc.

- Tuổi Giáp Tý thường vì phòng-sự quá độ sinh ra mất trí nhớ.

- Họ cần phải bồi bổ trí nhớ luôn luôn. Tuy họ không coi tình yêu là trọng, nhưng họ ham chuyện phòng the.

Leo núi Vu-sơn là lạc thú tuyệt đỉnh của Giáp Tý. Họ cần bổ thận đều đặn. Đừng đợi đến khi yếu rồi mới bổ thì đã trễ.

8. Những người tuổi Giáp Tý làm chính-trị, bị huyết áp cao. Khi bệnh khởi đầu, phải điều trị ngay. Để lâu sinh não xuất huyết, rồi đưa đến bán thân bất toại, mất hết linh-mẫn trời cho, lạc thú phòng the cũng mất theo.

9. Tuổi Giáp Tý Thiên-mã ngộ Tang-môn. Lộc-tồn, thì bệnh hay tai nạn thường dẫn đến chân tay đau đớn. Họ có thể bị phong thấp, khiến đi đứng khó khăn. Những người tuổi Giáp Tý có địa vị cao, họ phải thù tiếp nhiều, nhưng không bị bệnh bao-tử, mà bị hạc tất phong (Hyper-acides uriques).

9.1. Nếu cung tật ách của họ tại Tỵ, họ còn bị Đới đường (Diabètes). Phần đông tuổi Giáp Tý là người có xương, có thịt, dù họ thích ăn cá hơn ăn thịt.

9.2. Tóm lại tuổi Giáp Tý bản mệnh là phế. Bệnh tật sinh ra khởi nguồn từ phế. Khi lớn tuổi họ bị chứng huyết-áp cao, Đới-đường, hoặc bị chứng hạc-tất-phong. Họ thích chuyện phòng the, thì phải chú ý bồi bổ thận luôn luôn, đừng để tới khi... hết rồi mới lo bồi bổ thì đã trễ. Một số lớn tuổi này hay bị mập, dù họ thích ăn cá.

3. Giáp Tý mạng kim, thuộc phương Tây. Chi Tý thuộc phương Bắc. Can Giáp thuộc phương Đông. Vậy Giáp Tý phải ở nhà hướng nào thì lợi cho sức khỏe, thuận cho công việc làm ăn.

3.1. Thứ nhất nhà hướng Tây

Hợp với bản mệnh. Bản mệnh sinh ra Chi Tý thuộc phương Bắc. Chi chủ thay đổi. Nếu Giáp Tý làm chính-trị, quân-sự, hoặc làm các nghề như bác-sĩ, nha-sĩ, dược-sĩ, luật-sư, nghĩa là nghề cần đến bản mệnh tốt, nên ở nhà hướng Tây. Mọi sự hanh thông. Muồn dung hòa thì ở nhà hướng Tây-Bắc.

3.2. Thứ nhì nhà hướng Bắc

Được bản mệnh là kim sinh ra, hợp với Chi là Tý. Chi chủ thay đổi, vậy nếu gia chủ làm nghề thương mại, viết-văn, viết-báo, kỹ-sư v.v... nghĩa là những nghề không cần bản mệnh hiền lành nên ở nhà phương Bắc. Lợi cho tiền bạc, sức khỏe, con cái yên vui. Muốn thực phát tài thì ở nhà hướng Đông-Bắc, tiền vào như nước, nhưng phải tranh dành mà miệng tiếng cũng nhiều.

3.3. Thứ ba nhà hướng Đông

Thuộc mộc, bổn mệnh thuộc kim, khắc nhà ở, thì sức khỏe gia chủ tốt, bất lợi cho vợ con.

3.4. Thứ tư nhà hướng Nam.

Thuộc hỏa, khắc bản mệnh thuộc kim, làm ăn lụn bại, gia chủ bệnh tật liên miên
Đầu trang

victories_2008
Chính thức
Chính thức
Bài viết: 76
Tham gia: 10:49, 01/04/09

TL: Luận giải cho Hải Trung Kim

Gửi bài gửi bởi victories_2008 »

IX. Bệnh tật tuổi Giáp-Tý

1. Tuổi Giáp Tý thuộc mạng kim, kim trong học thuyết Âm-dương, Ngũ-hành liên hợp với:

- Ngũ khí. Thuộc táo (Khô).

- Ngũ hóa. Thuộc thu (Co vào).

- Ngũ tạng. Thuộc phế, đại-trường. Liên hợp với thủ Thái-âm phế-kinh, thủ Dương-minh đại trường kinh.

- Ngũ quan. Thuộc tị (Mũi).

- Hình thể. Thuộc bì mao (Lông da).

2. Bản mệnh là con người thuộc kim, thuộc phế, đại-trường. Phế, đại-trường là hai tạng phủ tương thông biểu-lý. Phế thuộc tạng thuộc âm, thuộc lý, Đại-trường thuộc phủ, thuộc Dương thuộc biểu. Khi bệnh cập phế thì ảnh hưởng sang đại trường và ngược lại.

- Phế chủ khí, chủ hô hấp. Khi công năng của phế không điều hòa, thì hô hấp vô-lực, âm thanh nhỏ, toàn thân mê mệt. Nếu công năng gián đoạn, hô hấp đoạn tuyệt, thiên mệnh chấm dứt tức... chết.

- Phế chủ tuyên giáng, ngoại hợp với bì mao. Khi phế có bệnh thì ảnh hưởng tới bì mao. Ngược lại bì, mao có bệnh, thì ảnh hưởng tới phế.

- Phế chủ thông với thủy đạo, bởi vậy khi phế bị bệnh, cơ thể con người sinh ra phù thủng.

- Mũi là quan của phế, khi phế có bệnh ảnh hưởng tới mũi, ngược lại mũi có bệnh thì biết phế cũng có bệnh. (7)

3. Bệnh của phế có thể phân làm hai

3.1. Một là ngoại tà xâm nhập sinh ra các bệnh:

Nghẹt-mũi, đau cổ hầu, nghẹt thở, ho suyễn. Tương đương với Tây-y (Rhinites, Rhino-pharyngites, Corryza, Bronchites, Broncho- Asthmatiques), và một phần của các bệnh cảm, cúm (État grippal). Tất cả chia làm ba loại:

- Hàn tà phạm phế. Ho, suyễn, đàm trắng, miệng không khát, mũi nghẹt chảy nước trong, hoặc ác-hàn phát nhiệt, đầu, thân đau. Theo Tây-y là nhiễm trùng đường hô hấp. (Loại siêu vi trùng). (8)

- Nhiệt tà phạm phế, ho suyễn, đờm vàng, hầu đau, miệng khát, phát nhiệt, ác phong hàn, hoặc lồng ngực đau, thổ huyết. Đại tiện kết bón, tiểu tiện vàng đỏ. Theo Tây-y là nhiễm trùng đường hô hấp. (Loại vi trùng).

- Táo tà phạm phế, ho khan không đàm, đàm khò khè, khạc không ra, mũi khô, hầu khô, ho nặng thì đau ngực. Tây-y qui vào nhiễm trùng đường hô hấp. (9)

3.2. Hai là công-năng của phế suy yếu:

- Phế khí hư. Người mệt, suy nhược, ho suyễn vô lực, hoạt động càng thêm nặng, âm thanh vô lực, mồ hôi xuất, sợ lạnh, sắc mặt trắng nhợt. Tây-y qui vào phế viêm kinh niên. (10)

- Phế âm hư. Ho khô, hơi thở ngắn, đàm ít, hoặc đàm có huyết, miệng, hầu khô, âm thanh yếu, hình thể gầy gò, mồ hôi trộm, sau 12 giờ trưa sốt. Tây-y qui vào chứng ho lao. (11)

4. Bản chất cơ thể là kim, khi sinh bệnh thì diễn ra những chứng trên hoặc bệnh ngoài da.

Nếu bản chất cơ thể mạnh, thì phế không bệnh. Phế thuộc kim, kim khắc mộc. Can Giáp thuộc mộc bị bản mệnh khắc. Trong học thuyết Âm-Dương, Ngũ-hành, nếu tương-khắc thái quá gọi là tương-thừa. Tương-thừa là thừa cơ suy nhược mà xâm lấn. Phế mạnh thừa Can. Can chủ huyết, chủ âm. Khi phế khắc can huyết thì sinh ra huyết hư, chứng trạng như sau:

- Sắc mặt trắng nhợt, hoặc vàng úa.

- Mắt hoa đầu váng.

- Trong lòng hồi hộp lo sợ, mất ngủ.

- Chân tay tê dại.

- Phụ nữ kinh kỳ lượng ít, hoặc mất kinh.

Tây-y là chứng mệt mỏi (Asthénie), mất ngủ (Insomnie) hay thần kinh suy nhược (Neurathénie) (12)

5. Nếu tương-thừa mạnh quá, can âm đưa đến "Can dương thượng thăng", chứng trạng như sau:

- Huyết áp cao (Hypertention artérielle).

- Chóng mặt.

- Tai kêu.

- Nhức đầu.

-Dễ nổi giận.

- Mất ngủ.

- Mộng nhiều.

- Trí nhớ giảm thoái.

- Đau ngang lưng.

- Nặng quá sinh não xuất huyết (Hémorragies cérébralles) rồi sinh bán thân bất toại (Hémiplégies). (13)

6. Can là tác dụng của ngoại vật vào cơ thể, trong bệnh-lý là ngoại tà. Can Giáp thuộc gan. Thông thường phế khắc gan. Nhưng khi phế hư nhược, thì gan thừa cơ hư nhược mà uy hiếp. Học thuyết ngũ hành gọi là tương-vũ, tức cậy mạnh hiếp yếu. Khi gan-dương mạnh, uy hiếp phế, khiến phế âm hư, sinh ho, suyễn.

7. Nếu bản chất con người là phế hư nhược, không sinh ra được thận-thủy, đưa đến thận hư. Kinh-nghiệm cho thấy tuổi Giáp-Tý thường làm việc quá độ khiến phế hư sinh thận hư chứng trạng là:

- Mất trí nhớ.

- Đầu sớm bạc.

- Tuổi Giáp Tý thường vì phòng-sự quá độ sinh ra mất trí nhớ.

- Họ cần phải bồi bổ trí nhớ luôn luôn. Tuy họ không coi tình yêu là trọng, nhưng họ ham chuyện phòng the.

Leo núi Vu-sơn là lạc thú tuyệt đỉnh của Giáp Tý. Họ cần bổ thận đều đặn. Đừng đợi đến khi yếu rồi mới bổ thì đã trễ.

8. Những người tuổi Giáp Tý làm chính-trị, bị huyết áp cao. Khi bệnh khởi đầu, phải điều trị ngay. Để lâu sinh não xuất huyết, rồi đưa đến bán thân bất toại, mất hết linh-mẫn trời cho, lạc thú phòng the cũng mất theo.

9. Tuổi Giáp Tý Thiên-mã ngộ Tang-môn. Lộc-tồn, thì bệnh hay tai nạn thường dẫn đến chân tay đau đớn. Họ có thể bị phong thấp, khiến đi đứng khó khăn. Những người tuổi Giáp Tý có địa vị cao, họ phải thù tiếp nhiều, nhưng không bị bệnh bao-tử, mà bị hạc tất phong (Hyper-acides uriques).

9.1. Nếu cung tật ách của họ tại Tỵ, họ còn bị Đới đường (Diabètes). Phần đông tuổi Giáp Tý là người có xương, có thịt, dù họ thích ăn cá hơn ăn thịt.

9.2. Tóm lại tuổi Giáp Tý bản mệnh là phế. Bệnh tật sinh ra khởi nguồn từ phế. Khi lớn tuổi họ bị chứng huyết-áp cao, Đới-đường, hoặc bị chứng hạc-tất-phong. Họ thích chuyện phòng the, thì phải chú ý bồi bổ thận luôn luôn, đừng để tới khi... hết rồi mới lo bồi bổ thì đã trễ. Một số lớn tuổi này hay bị mập, dù họ thích ăn cá.
Đầu trang

victories_2008
Chính thức
Chính thức
Bài viết: 76
Tham gia: 10:49, 01/04/09

TL: Luận giải cho Hải Trung Kim

Gửi bài gửi bởi victories_2008 »

X. VẬN HẠN TUỔI GIÁP TÝ

1. Vận hạn theo tháng

1.1. Tháng 1, 2 thuộc mộc. Mệnh Giáp Tý thuộc kim, khắc mộc, thời gian lý-tưởng để tranh đấu. Thương-gia Giáp Tý nên khởi sự vào thời gian này. Tháng 1 gặp Lộc-tồn, Thiên-mã là tháng tốt nhất về tiền tài cũng như về danh-vọng, coi chừng đau yếu vì có Tang-môn. Tháng hai thêm Hồng-loan, nam ngộ Kình, nữ ngộ Đà nếu tranh dành thì thắng lợi. Có người khác phái giúp đỡ.

1.2. Tháng 3, 5, 9, 12 thuộc thổ. Thổ sinh kim là bản mệnh. Thời gian thuận lợi như nước thủy triều cuồn cuộn đổ. Tháng 3 có Long-trì, được quí-nhân giúp đỡ. Nam mệnh được 3 con rồng: Thanh-long, Long-trì và cung Thìn. Mọi sự toại ý, không gì mà không thành.

1.3. Tháng 4, 5 thuộc hỏa, hỏa khắc kim là bổn mệnh. Phải cẩn thận, nhất là tháng 4 dễ gặp tai nạn, vì ngộ Hao, cẩn thận xe cộ.

1.4. Tháng 7, 8 thuộc kim, hợp với bổn mệnh, tốt đẹp. Ngặt ngộ Triệt thành ra chỉ bình hòa. Đào-Hỉ ngộ Triệt, có sự buồn lòng về tình duyên.

1.5. Tháng 10, 11 thuộc thủy. Bản mệnh thuộc kim sinh thủy, thời cơ tốt, những quyết định sẽ hợp thời, thành-công.

Ở đây chỉ đưa ra những nét đại cương, cần xét đến tiểu-hạn, đại-hạn mới quyết định được.

2. Vận hạn theo đại, tiểu hạn.

2.1. Đại hạn đến cung Mão, hoặc tiểu hạn nam năm Tý, nữ mạng năm Mùi qua cung Mão thuộc mộc. Bổn mạng thuộc kim khắc mộc, thì công việc làm ăn có tính chất tranh dành, sẽ đạt thắng lợi. Nội cung còn có Kình-dương (Nam) Đà-la (Nữ) nếu tranh thương dưới hình thức nào cũng thắng. Hồng-loan ngộ Kình, Đà sẽ được người khác phái trợ giúp. Cẩn thận tránh bị cảm cúm, nhức đầu, sổ mũi. Người sinh tháng 1, 7, hay giờ Thìn, Thân gia đạo bất an, duyên tình tan vỡ.

2.2. Đại hạn đến cung Tỵ. Hoặc nam mạng tiểu hạn năm Mùi. Nữ mạng tiểu hạn năm Tỵ đều qua cung Tỵ. Cung Tỵ thuộc hỏa, bản mệnh thuộc kim bị khắc. Nội cung ngộ Kiếp-sát, Phá-toái, Đại (Tiểu) Hao, phải cẩn thận. Chớ nên mưu đồ việc lớn, nhất là đừng bỏ vốn làm ăn chung, dễ bị tán tài, bị lừa đảo. Sức khỏe đáng ngại. Người sinh tháng 3, 9 kiện cáo, mổ xẻ, hao tán. Ngược lại sinh giờ Tý, Ngọ hoạnh phát tài danh.

2.3. Đại hạn tới cung Dậu, hoặc nam mạng tiểu hạn năm Hợi, nữ mạng tiểu hạn năm Sửu đều qua cung Dậu. Cung Dậu thuộc kim, bổn mạng cũng thuộc kim, có sự tương hợp. Tiếc rằng cung Dậu ngộ Đào, Hỉ, gặp Triệt, mọi sự bế tắc, phải cẩn thận, duyên tình, gia đạo có những điều làm buồn phiền. Người sinh tháng 1, 7 hoặc giờ Dần, Tuất kiện cáo khó tránh. Gia đạo bất toàn, duyên tình tan vỡ.

2.4. Đại hạn tới cung Hợi thuộc thủy. Bổn mạng thuộc kim sinh ra cung nhập hạn, việc làm, tranh thương tốt đẹp. Nội cung có Hao-tinh, nhưng đã có Tuần ngăn cản, không đáng lo ngại. Thời gian này bỏ vốn buôn bán thuận lợi. Nếu mua nhà thì tốt. Người sinh tháng 3, 9 kiện cáo, mổ xẻ đến sạt nghiệp. Ngược lại sinh giờ Tý, Ngọ, hoạnh phát tài danh.

2.5. Đại hạn tới cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, nam nữ tiểu hạn năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu cũng qua những cung trên. Bổn mệnh thuộc kim, cung nhập hạn thuộc thổ. Thổ sinh kim: Thời gian thuận lợi, làm việc được quí nhân giúp đỡ, mọi quyết định hanh thông. Nhất là hạn qua cung Thìn ngộ Long-trì, hạn qua cung Sửu, Mùi ngộ Khôi, Việt, những người làm chính-trị, quân-sự, chắc chắn thành công. Trừ trường hợp sinh giờ Dần, Tuất, hoặc Thân, Thìn ngộ Kiếp, Không tai vạ không nhỏ. Đại hạn tới cung Thìn, Tuất, mà sinh tháng 2, 8 càng đáng lo ngại vì đau đớn xác thịt hay hình sự. Đại hạn tới cung Sửu, Mùi mà sinh tháng 5, 11 bệnh tật, kiện tụng.

2.6. Đại hạn qua cung Tý, Ngọ, Dần, Thân, tiểu hạn năm Tý, Ngọ Dần, Thân phải rất cẩn thận:

- Nếu đại tiểu hạn qua một trong các cung trên, mà bản cung không ngộ Hình, Kị, Kiếp, Không, chỉ gặp khó khăn mà thôi. Nếu hạn qua cung Tý, Ngọ, sinh tháng 4, 10. Hoặc hạn qua cung Tý, sinh giờ Sửu, Hợi. Hạn qua cung Ngọ sinh giờ Tỵ, Mùi tai vạ thực không nhỏ. Hạn qua cung Dần, Thân, sinh tháng 6, 12 không đáng lo. Nhưng hạn qua cung Dần, Thân sinh giờ Mão, Dậu, tai vạ trùng điệp. Nhẹ thì đau yếu.

- Nếu đại hạn qua các cung trên, tiểu hạn cũng qua các cung trên, tai vạ không nhỏ. Ít ra là gia đình ly tán, kiện cáo, mất nghiệp.

- Nếu đại hạn qua một trong các cung trên. Tiểu hạn cũng qua một trong các cung trên, thêm vào các sao Kiếp, Không, Hình, Kị thì tai vạ càng nặng thêm lên.

- Nếu đại, tiểu hạn ở Tý, Ngọ hoặc Dần, Thân tương xung, đại bất hạnh. Nếu thêm sát tinh thì phải hiểu là chết.

Tuy nhiên đại hạn qua cung Dần. Hoặc tiểu hạn nam năm Thìn, nữ năm Thân ngộ Lộc-tồn, Thiên-mã làm ăn tương đối thịnh vượng, giải được tai ách. Thường thì mua nhà, mua xe. Nhưng hay bị đau yếu do ngộ Tang-môn.

3. Trên đây là đại cương về vận hạn Giáp Tý. Chúng tôi chỉ đưa ra những nét đại cương, để cho các vị nghiên cứu Tử-vi lấy đó làm mô-thức hầu giải đoán vận hạn. Chứ đừng coi những điều ghi trên là tuyệt đối.
Được cảm ơn bởi: Heart_tour
Đầu trang

victories_2008
Chính thức
Chính thức
Bài viết: 76
Tham gia: 10:49, 01/04/09

TL: Luận giải cho Hải Trung Kim

Gửi bài gửi bởi victories_2008 »

XI. Kết Luận

1. Giáp Tý là tuổi dễ thành danh trên đường danh vọng so với 4 tuổi Tý khác. Họ có tính linh-mẫn, hiểu được những biến chuyển xẩy ra xung quanh, lại có khả năng quyết đoán sáng suốt và điều khiển được tình thế.

2. Về duyên tình, họ không thiết tha với gia đình, thích chạy theo công danh. Có nhiều vị hoàng-đế sáng nghiệp tuổi Giáp Tý. Cũng có nhiều minh-quân, bạo chúa tuổi này.

4. Khi họ đi vào đại-vận xấu, thường vì quá tự đắc mà sụp đổ.
Chú giải

(1) Trần-Đoàn, Tử-vi chính-nghĩa, chương "Can, Chi luận", cổ bản trang 23.

(2) Hồ-quí-Ly, nhân vật lịch-sử Việt-Nam. Trước họ Lê sau đổi ra họ Hồ. Có hai người cô lấy Trần-nghệ-Tông (1370-1371), tính gian xảo, nhờ địa vị hai bà cô, nắm được quyền bính triều Trần, cướp ngôi nhà Trần năm 1400. Dân chúng không phục. Năm 1407, tướng nhà Minh là Trương-Phụ sang đánh. Bại trận, bị bắt giải về kinh đô nhà Minh ở Kim-lăng.

(3) Tống Triều (960-1279), Triệu-thị minh thuyết Tử-vi kinh, quyển 2, chương "Đại vận minh nghĩa". Cẩm-chướng thư cục xuất bản năm 1921. Trang 89.

Phú, thọ, quí, vinh, yểu, bần, ai khổ, Do ư phúc trạch cát hung.
Thương, tang, hình, khổn, hạnh, lạc, hỉ, hoan, Thị tại vận hành cung cát.

Nghĩa : giầu có, sống lâu, quí hiển, vinh hoa, chết non, nghèo khó, đáng thương, khổ sở, do cung phúc tốt hay xấu. Đau đớn, tang chế, tù tội, cùng cực, gặp may, sung sướng, vui vẻ, vừa lòng do vận hạn tốt hay xấu. Hai câu trên dùng để giúp các Tử-vi gia phân biệt các vấn đề hầu giải đoán.

(4) Trần-nguyên-Hãn là cháu nội của Trần-nguyên-Đán, tể tướng cuối đời Trần. Trần-quang-Từ thuộc giòng dõi Hưng-nhượng-vương Trần-quốc-Tảng (1252-1313). Nguyễn-Trãi cháu ngoại Trần-nguyên-Đán. Năm 1418 cả ba rủ nhau vào Lam-sơn theo Lê-Lợi, mưu đồ chống quân Minh. Khi đi Trần-quang-Từ nói trước: Tôi xem tướng Lê-Lợi là tướng "Trường cảnh, điểu uế" tức cổ dài, miệng như mỏ chim. Đó là tướng hay giết những người có công với mình. Chỉ ở với nhau lúc hoạn nạn, mà không thể ở với nhau lúc sung sướng. Khi Lê-Lợi vây Đông-đô (Hà-nội). Quang-Từ biết sự nghiệp Lê-Lợi sắp thành. Xin cáo từ đi tu, pháp danh Quang-từ thiền-sư. Còn Trần-nguyên-Hãn mê muội ở lại. Sau bỏ quan về quê qui ẩn. Lúc sự nghiệp thành, vua Lê-thái-Tổ nghi nhờ ông, sai 42 vệ-sĩ xá nhân về ấp của ông bắt ông. Tịch thu tài sản. Vợ, người hầu, con gái chia cho các quan làm đầy tớ. Con trai thì bắt sung quân. Khi đi giữa đường, ông được Trần-quang-Từ giết vệ sĩ cứu thoát, tu ở Hoa-yên tự (Xin xem Anh hùng Lam-sơn cùng tác giả).

(5) Sách đã dẫn (3) , chương "Phú giải". Quyển 9 trang 65.

Triệt đáo kim cung,
Tuần lâm hỏa địa,
Bất kị sát tinh, bại diệu, tai ương sở tác.

Nghĩa: khi Triệt đóng ở cung kim, Tuần đóng ở cung hỏa, thì không sợ sát tinh, bại điệu gây tai vạ.

Triệu-thị chú như sau: Khi Triệt đóng ở Thân-Dậu Tuần đóng ở Ngọ-Mùi, Thìn-Tỵ thì không sợ sát tinh trong cung như Kiếp, Không, Hình, Kị, Tang, Hổ, Kình, Đà tác hại, những sao trên chiếu thì cũng vô sự. Trong cung có những sao xấu, không đáng lo, tỷ như Liêm, Tham tại Tỵ ngộ Tuần. Ngược lại những cát tinh trong cung ngộ Tuần, Triệt thì vô lực.

(6) Dương-quí-Phi, sinh ngày 6 tháng 2 năm 724 sau Tây-lịch tức ngày 7 tháng 1 năm Giáp Tý, giờ Mùi tên là Thái-Trân, người đất Vĩnh-lạc, tự là Ngọc-Trân. Nhan sắc diễm lệ, giỏi ca, vũ. Làm cơ-thiếp của con thứ 18 Đường-huyền-Tông là Thọ-Vương. Lệnh tiến cung làm nữ-quan, sau Huyền-Tông chiếm làm quí-phi. Được sủng ái cùng cực. Cả họ lĩnh ân sủng. Anh là Dương-quốc-Trung giữ quyền tể-tướng. Ngọc-Trân dan díu với con nuôi là An-lộc-Sơn. Truyện bại lộ, An-lộc-Sơn làm loạn, vây Trường-An. Đường-huyền-Tông cùng các quan phải chạy vào Thục (Nay là Tứ-xuyên). Dọc đường quân sĩ không chịu tiến, cho rằng vì Ngọc-Trân mà sinh loạn. Huyền-Tông lệnh cho Ngọc-Trân thắt cổ chết ở Mã-ngôi.

(7) Trung Y Học Viện Bắc Kinh, Trung-y-học cơ sở, Viện khoa-học kỹ-thuật Thượng-hải xuất bản tháng 6-1978. Chương thứ 2 "Tạng-phủ" trang 11.

(8) Ác hàn là danh từ y học Á-châu. Khi thấy người lạnh, mặc thêm quần áo, đắp chăn thấy ấm , bệnh thuộc dương hư, cần bổ dương. Trường hợp trùm căn, mặc nhiều quần áo, cũng vẫn lạnh, bệnh thuộc cảm hàn. Y khoa có tên là ác hàn.

(9) Trần-đại Sỹ, Pneumologie par la médecine Asiatique, ARMA Paris 1978, chap. 2.

(10) Sách đã dẫn (7) chương thứ (6) "Biện chứng" trang 115.

(11) Sách đã dẫn (7) chương thứ (6) "Biện chứng" trang 114.

(12) Trần-đại-Sỹ, Hématologie par la médecine Asiatique ARMA Paris 1982, chap. 2.

(13) Trần-đại-Sỹ, Trần-mạnh-Cường, Pathologies d'hypertention artérielle par la médecine Asiatique, ARMA Paris 1985, chap. 3.
Đầu trang

victories_2008
Chính thức
Chính thức
Bài viết: 76
Tham gia: 10:49, 01/04/09

TL: Luận giải cho Hải Trung Kim

Gửi bài gửi bởi victories_2008 »

Danh Nhân Tuổi Giáp Tý

Trước hết tuổi Giáp-Tý, tôi chấm 23 trên tổng số 550 người.

Đặng-thi-Sách (4 - 39) chồng vua Trưng, nhà cách mạng Đại-Việt.
Trần-nguyên-Đán (1324 - 1390) thân vương triều Trần, thi sĩ, văn sĩ
Galilée (1564 - 1642) vật lý gia Ý.
Shakespeare William (1564 - 1616) thi sĩ Anh.
Watteau (1684 - 1721) Họa sĩ Pháp.
Bùi-huy-Bích (1744 - 1818), tiến sĩ, văn sĩ, tham tụng (thủ tướng).
Monge Gaspard (1744 - 1818) sáng lập trường Polytechnique Pháp.
Vũ-tông-Phan (1804 - 1862) tiến sĩ, danh sĩ triều Nguyễn.
Disraeli Benjamin (1804 - 1881) tiểu thuyết gia Anh.
Sue Eugène (1804 - 1857) văn sĩ Pháp.
Sainte-Beuve Charles Augustin (1804 - 1864) văn sĩ Pháp.
Vũ-phạm-Hàm (1864 - 1906) hoàng giáp tiến sĩ (tam nguyên).
Renard Jules (1864 - 1910) văn sĩ Pháp.
Unamuno Miguel de ( 1864 - 1936) văn sĩ Tây-ban-nha.
Carter Jimmy (1924 - ?) tổng thống Hoa-kỳ 1977 - 1981).
Barre Raymond (1924 - ?) thủ tướng Pháp (1976 - 1978).
Nguyễn-văn-Thiệu (1924 - ) tổng thống Việt-Nam (1967 - 1975).
Nguyễn-Khánh (1924 - ? ) quốc trưởng Việt-Nam (1964 - 1965).
Trần-văn-Trung (1924 - ?) trung tướng, tổng tham mưu phó quân đội Việt-Nam (1968 - 1975).
Nguyễn-thị-Vinh (1924 - ?) nhà văn .
Người Thăng-Long (Lê-văn-Duyện) (1924 - ?) nhà văn.
Thanh-Lãng (1924 - 1990?) linh mục.
Nguyễn-thị-Trừ tức ni sư Huỳnh-Liên (1924 - 1987) ni sư làm chính trị.

Trong số 550 đó có tới bốn hoàng đế sáng nghiệp; chín anh hùng thảo khấu mưu đại sự, nhưng thất bại; mười một tể tướng xuất tướng nhập tướng (1) . Còn danh nhân cận đại có sáu tổng thống, mười một thủ tướng và 22 bộ trưởng.

Với 23 người chấm theo lối may rủi, có đến bốn người, mà công danh lên đến tột đỉnh. Một là Đặng-thi-Sách, anh hùng lãnh đạo khởi nghĩa thời Lĩnh-Nam (2) . Hai là các ông Carter, Nguyễn-Khánh, Nguyễn-văn-Thiệu làm quốc trưởng. Cả ba quốc trưởng đều bị người đương thời chê trách, nặng lời. Các ông Trần-nguyên-Đán, Bùi-huy-Bích, Raymond Barre là thủ tướng. Cả ba ông đều đỗ đại khoa, kiến thức uyên bác, lại kiêm văn sĩ hay thi sĩ nữa. Các ông Vũ-tông-Phan, Vũ-phạm-Hàm, Trần-văn-Trung kẻ làm tổng đốc, thượng thư, người là tướng văn danh tiếng, tất cả đều giữ được tiếng tốt, hiền hậu. Hai nhà tu làm chính trị Thanh-Lãng (3) , Huỳnh-Liên bị điều tiếng, bị chê trách không ít rằng ở ngôi chính đạo, mà lại đi đường tà, bị kết tội gian xảo. Còn lại đều là những văn, thi, nhạc sĩ hoặc kỹ sư, nhưng họ nổi tiếng đương thời, cho đến nay, hậu thế vẫn kính trọng họ qua các tác phẩm để lại.

Chú giải

(1) Thành ngữ Hán-Việt cổ, xuất tướng, nhập tướng để chỉ trước làm tướng võ, sau làm tể tướng.

(2) Xin đọc Anh-hùng Lĩnh-Nam, Động-đình hồ ngoại sử, Cẩm-khê di hận, cùng tác giả, do Nam-á Paris xuất bản.

(3) Linh-mục Thanh-Lãng đỗ tiến sĩ văn-chương Việt-Nam tại đại học Louvain, vương quốc Bỉ. Trở về nước làm giáo sư văn chương tại đại học văn-khoa. Với lớp áo linh-mục, lăng xăng chống Cộng, làm chủ tịch Văn-bút Việt-Nam ... không ai nghi ngờ gì về ông cả. Nhưng ông bí mật liên lạc, làm việc với ngoài bưng từ năm 1962. Bấy giờ nhân có một người học trò của giáo sư Nguyễn-đăng-Thục khoa trưởng đại học Văn-khoa Sai-gòn, ghi đại tên sư phụ vào danh sách một đoàn thể thân Cộng. Chính giáo sư đã phủ nhận, nhưng ông Thanh-Lãng to mồm kết tội, lập kiến nghị lật đổ người về tội Cộng-sản. Người ta nói ông Lãng có nhiều tình nhân, nhưng tôi chỉ biết mặt có một người, người đó là con gái nhà văn B.N. L. (sinh năm 1941?)
Đầu trang

victories_2008
Chính thức
Chính thức
Bài viết: 76
Tham gia: 10:49, 01/04/09

TL: Luận giải cho Hải Trung Kim

Gửi bài gửi bởi victories_2008 »

hihi trên đây là "Tử Vi Tuổi Tý" của tác giả "Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ", được viết năm 1993.
xin dc chia xẻ với ai mệnh hải trung kim tuổi giáp tý. tôi cũng tuổi giáp tý lên đọc cũng thấy đúng lên post lên cho mọi người tham khảo.
Đầu trang

giang.fet
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 171
Tham gia: 12:22, 28/12/09

TL: Luận giải cho Hải Trung Kim

Gửi bài gửi bởi giang.fet »

Em cũng là Hải Trung Kim, thấy cái chủ đề này có vẻ hay, vào xem nhưng không thấy bác Lao Nong nói j cả ngoài chuyện không post được lá số lên

Có lá số của em là ví dụ, nhờ các anh chị cô chú luận cho em cái.

Hình ảnh
Đầu trang

datvietnam
Mới gia nhập
Mới gia nhập
Bài viết: 4
Tham gia: 22:50, 28/12/09

TL: Luận giải cho Hải Trung Kim

Gửi bài gửi bởi datvietnam »

victories_2008 đã viết:hihi trên đây là "Tử Vi Tuổi Tý" của tác giả "Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ", được viết năm 1993.
xin dc chia xẻ với ai mệnh hải trung kim tuổi giáp tý. tôi cũng tuổi giáp tý lên đọc cũng thấy đúng lên post lên cho mọi người tham khảo.
Bác victories_2008
có "Tử Vi Tuổi Sửu" không ạ, cháu cũng mệnh là Hải Trung Kim.
Đầu trang

Trả lời bài viết